Tài liệu tác giả tác phẩm Nhìn về vốn văn hóa dân tộc Ngữ văn lớp 12 Kết nối tri thức gồm đầy đủ những nét chính về văn bản như: tóm tắt, nội dung chính, bố cục, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật, hoàn cảnh sáng tác, ra đời của tác phẩm, dàn ý từ đó giúp học sinh dễ dàng nắm được nội dung bài Nhìn về vốn văn hóa dân tộc lớp 12.
Tác giả tác phẩm: Nhìn về vốn văn hóa dân tộc - Ngữ văn 12
I. Tác giả Trần Đình Hượu
1. Tiểu sử
- Trần Đình Hượu (1927 – 1995), quê ở Thanh Chương, Nghệ An.
- Năm 1945, ông tham gia thanh niên cứu Quốc và Uỷ ban khởi nghĩa ở quê nhà.
- Năm 1959 – 1963, ông là nghiên cứu sinh ở Đại học tổng hợp Lô-mô-nô-sôp
- Năm 1963 – 1993, ông là giảng viên môn Ngữ văn tại Đại học tổng hợp Hà Nội.
- Năm 1994, ông giảng dạy tại Đại học Prô - văng - xơ thuộc Cộng hòa Pháp.
2. Sự nghiệp văn học
- Ông chuyên nghiên cứu các vấn đề lịch sử tư tưởng và văn học Việt Nam trung, cận đại.
- Các công trình chính: “Văn học Việt Nam gia đoạn giao thời 1900 – 1930” (1988), “Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại” (1995), “Đến hiện đại từ truyền thống” (1996), “Các bài giảng về tư tưởng phương Đống” (2001), …
3. Vị trí và tầm ảnh hưởng
Ông được tặng Giải thưởng Nhà nước về khoa học và công nghệ năm 2000.
Sơ đồ tư duy tác giả Trần Đình Hượu
II. Tìm hiểu tác phẩm Nhìn về vốn văn hóa dân tộc
1. Thể loại
- Tác phẩm Nhìn về vốn văn hóa dân tộc thuộc thể loại: tiểu luận.
2. Xuất xứ
- Trần Đình Hượu, Đến hiện đại từ truyền thống, NXB Văn Hóa, Hà Nội, 1996, in trong Ngữ văn 12 Nâng cao, tập một, Sđd, tr.194 - 196.
3. Hoàn cảnh sáng tác
- Văn bản được trích từ phần II, bài Về vấn đề tìm đặc sắc văn hóa dân tộc, in trong cuốn Đến hiện đại từ truyền thống (1996).
4. Phương thức biểu đạt
- Phương thức biểu đạt: nghị luận.
5. Tóm tắt nhìn về vốn văn hóa dân tộc
“Nhìn về vốn văn hóa dân tộc” tác giả Trần Đình Hựu - nhà khoa học chuyên nghiên cứu về vấn đề lịch sử tư tưởng và văn hóa Việt Nam trung cận đại. Đoạn trích trong sách giáo khoa thuộc phần II của bài viết “Về vấn đề đặc sắc văn hóa dân tộc” với những nhận định mang tính bao quát, một cái nhìn khách quan trong việc phân tích, đánh giá khoa học về giá trị, bản sắc văn hóa của nước ta lúc bấy giờ. Trước hết để người đọc hiểu sâu sắc bài viết của mình tác giả đưa ra khái niệm văn hóa và chỉ ra các phương diện chủ yếu văn hóa được biểu hiện ra bên ngoài như: tôn giáo, nghệ thuật, kiến trúc, hội họa, văn học, ứng xử, sinh hoạt. Ở mỗi một khía cạnh đó Trần Đình Hựu chỉ ra các điểm tích cực và hạn chế cùng với những nguyên nhân, yếu tố tạo nên bản sắc văn hóa (nội lực, ngoại lực) để tìm cách khắc phục. Nhưng nhìn chung đặc điểm nổi bật của văn hóa Việt Nam là giàu tính nhân bản, tinh tế, hướng tới sự phát triển hài hòa trên tất cả các phương diện với tinh thần chung “thiết thực, linh hoạt và dung hòa”. Ta không thấy trong bài viết có sự khen hay chê hoàn toàn mà tất cả đều hướng tới một mục đích duy nhất là làm cho văn hóa Việt Nam ngày càng phát triển, hội nhập với sự tiến bộ của thế giới nhưng vẫn giữ được nét đẹp truyền thống của dân tộc Việt.
6. Bố cục Nhìn về vốn văn hóa dân tộc
- Phần 1: Từ đầu đến “nhưng chắc chắn có liên quan gần gũi với nó”: Lời nhân xét về nền văn hóa dân tộc.
- Phần 2. Tiếp theo đến “để lại dấu vết khá rõ trong văn học”: Đặc điểm của nền văn hóa Việt Nam.
- Phần 3. Còn lại: Con đường hình thành văn hóa.
7. Ý nghĩa nhan đề Nhìn về vốn văn hóa dân tộc
Nhan đề do người biên soạn đặt
8. Giá trị nội dung
- Từ vốn hiểu biết sâu sắc về văn hóa dân tộc, tác giả đã phân tích rõ những mặt tích cực và một số hạn chế của văn hóa truyền thống.
- Bài học cho bản thân: mỗi người cần ý thức được vai trò, trách nhiệm của bản hân trong việc giữ gìn và phát huy truyền thống, bản sắc văn hóa dân tộc, cần có những hành động đúng đắn, phù hợp….
9. Giá trị nghệ thuật
- Văn phong khoa học, chính xác, mạch lạc.
- Bố cục rõ ràng, rành mạch.
- Lập luận xác đáng, dẫn chứng xác thực, lí lẽ sắc bén.
III. Tìm hiểu chi tiết văn bản Nhìn về vốn văn hóa dân tộc
1. Một số nhận xét về nền văn hóa dân tộc
- Cách nêu vấn đề ngắn gọn, khiêm tốn, khách quan, khôn khéo của tác giả
- Đưa ra nhận xét trên một số mặt của vấn đề nghị luận.
2. Đặc điểm của văn hóa Việt Nam
a. Hạn chế
- Văn hóa Việt Nam chưa có tầm vóc lớn lao, chưa có vị trí quan trọng, chưa nổi bật và chưa có ảnh hưởng tới các nền văn hóa khác.
- Hạn chế trên các phương diện:
+ Thần thoại không phong phú.
+ Tôn giáo, triết học không phát triển, ít quan tâm đến giáo lí.
+ Khoa học kí thuật không phát triển thành truyền thống.
+ Âm nhạc, hội họa, kiến trúc không phát triển đến tuyệt kĩ.
+ Thơ ca chưa tác giả nào có tầm vóc lớn lao.
b. Thế mạnh
- Thế mạnh của văn hóa Việt Nam: thiết thực, linh hoạt, dung hòa, lành mạnh với những vẻ đẹp dịu dàng, thanh lịch, con người hiền lành, tình nghĩa.
+ Việt Nam có nhiều tôn giáo nhưng không xảy ra xung đột.
+ Con người sống tình nghĩa: tốt gỗ hơn tốt nước sơn, cái nết đánh chết cái đẹp,…
+ Các công trình kiến trúc quy mô vừa và nhỏ, hài hào với thiên nhiên.
c. Đặc điểm của văn hóa Việt Nam
- Về tôn giáo: không cuồng tín, cực đoan mà dung hòa các tôn giáo khác nhau tạo nên sự hài hòa, không tìm sự siêu thoát tinh thần bằng tôn giáo, coi trọng cuộc sống trần tục hơn thế giới bên kia.
- Nghệ thuật: sáng tạo những tác phẩm tinh tế nhưng không có quy mô lớn, không mang vẻ đẹp kì vĩ, tráng lệ, phi thường.
- Ứng xử: trọng tình nghĩa nhưng không chú ý nhiều đến trí, dũng, chuộng sự khéo léo, không kì thị, cực đoan, thích sự yên ổn.
- Sinh hoạt: thích chừng mực vừa phải, mong ước thái bình, an cư lạc nghiệp để làm ăn no đủ, sống thanh nhàn, thong thả, có đông con, nhiều cháu, không mong gì cao xa, khác thường,…
- Quan niệm về cái đẹp: cái đẹp vừa ý là xinh, là khéo, hướng vào cái đẹp dịu dàng, thanh lịch, duyên dáng, quy mô vừa phải.
- Kiến trúc: tuy nhỏ nhưng điểm nhấn lại là sự hài hòa, tinh tế với thiên nhiên
- Lối sống: ghét phô trương, thích kín đáo, trọng tình nghĩa,…
=> Văn hóa của người Việt Nam giàu tính nhân bản, luôn hướng đến sự tinh tế, hài hòa trên nhiều phương diện. Đó chính là bản sắc văn hóa Việt Nam.
3. Con đường hình thành bản sắc văn hóa dân tộc
- Sự tạo tác của chính dân tộc.
- Khả năng chiếm lĩnh, đồng hóa những giá trị văn hóa bên ngoài.
IV. Đọc tác phẩm: Nhìn về vốn văn hóa dân tộc
Trong lúc chờ đợi kết luận khoa học của các ngành chuyên môn, chúng tôi xin đưa ra một số nhận xét về vài Cách nêu vấn đề nghị luận, ba mặt của cái vốn văn hoá dân tộc; không phải cái hình thành vào thời kì định hình mà là cái ổn định dần, lại cho đến trước thời cận – hiện đại. Chúng tôi không nghĩ đó là đặc sắc văn hoá dân tộc nhưng chắc chắn có liên quan gần gũi với nó. [..]
Giữa các dân tộc, chúng ta không thể tự hào là nền văn hoá của ta đồ sộ, có những cống hiến lớn lao cho nhân loại, hay có những đặc sắc nổi bật. Ở một số dân tộc hoặc là một tôn giáo, hoặc là một trường phái triết học, một ngành khoa học, một nền âm nhạc, hội hoạ... phát triển rất cao, ảnh hưởng phổ biến và lâu dài đến toàn bộ văn hoá, thành đặc sắc văn hoá của dân tộc đó, thành thiên hướng văn hoá của dân tộc đó. Ở ta, thần thoại không phong phú – hay là có nhưng một thời gian nào đó đã mất hứng thú lưu truyền? Tôn giáo hay triết học cũng đều không phát triển. Người Việt Nam không có tâm lí kiến thành, cuồng tín lớn giáo, mà cũng không say mê tranh biện triết học. Các tôn giáo đều có mặt, nhưng thường là biến thành một lối thờ cúng ít ai quan tâm đến giáo lí. Không có một ngành khoa học, kĩ thuật, giả khoa học” nào phát triển đến thành có truyền thống. Âm nhạc, hội hoạ, kiến trúc đều không phát triển đến tuyệt kĩ. Trong các ngành nghệ thuật, cái phát triển nhất là thơ ca. Hầu như người nào cũng có thể, cũng có dịp làm dăm ba câu thơ. Nhưng số nhà thơ để lại nhiều tác phẩm thì không có. Xã hội có trọng văn chương, nhưng […] bản thân các nhà thơ cũng không ai nghĩ cuộc đời, sự nghiệp của mình là ở thơ ca. Chưa bao giờ trong lịch sử dân tộc, một ngành văn hoá nào đó trở thành dài danh dự, thu hút, quy tụ cả nền văn hoá.
Thực tế đó cho ta biết khuynh hướng hứng thú, sự ưa thích, nhưng hơn thế, còn cho ta biết sự hạn chế của trình độ sản xuất, của đời sống xã hội. Do là văn hoá của dân nông nghiệp định cư, không có nhu cầu lưu chuyển, trao đổi, không có sự kích thích của đô thị. [...]
Người Việt Nam có thể coi là ít tinh thần tôn giáo. Họ coi trọng hiện thể trần tục hơn thế giới bên kia. Không phải người Việt Nam không mê tín, họ Lin nội dung được bàn luận. có linh hồn, ma quỷ, thần Phật. Nhiều người thực hành cầu cúng. Nhưng về tương lai, họ lo cho con cháu hơn là linh hồn của mình. Tuy là coi trọng hiện thể nhưng cũng không bám lấy hiện thể, không quá sợ hãi cái chết (sống gửi thác về). Trong cuộc sống, ý thức về cá nhân và sở hữu không phát triển cao. Của cải vẫn được quan niệm là của chung, giàu sang chỉ là tạm thời, tham lam giành giật cho nhiều cũng không giữ mãi mà hưởng được. Người ta mong ước thái bình, an cư lạc nghiệp để làm ăn cho no đủ, sống thanh nhân, thong thả, có đông con nhiều cháu, ước mong về hạnh phúc nói chung là thiết thực, yên phận thủ thường, không mong gì cao xa, khác thường hơn người. Con người được ưa chuộng là con người hiền lành, tình nghĩa. Không chuộng trí mà cũng không chuộng dùng. Dân tộc chống ngoại xâm liên tục nhưng không thượng võ[…] Trọng tâm trí nhân dân thường có Thần và Bụt mà không có Tiên. Thần uy linh bảo quốc hộ dân và Bụt hay cứu giúp mọi người; còn Tiên nhiều phép lạ, ngao du ngoài thế giới thì xa lạ. Không ca tụng trí tuệ mà ca tụng sự khôn khéo. Khôn khéo là ăn đi trước, lội nước theo sau, biết thủ thế, giữ mình, gỡ được tình thể khó khăn. Đối với cái dị kỉ, cái mới, không dễ hoà hợp nhưng cũng không cự tuyệt đến cùng chấp nhận cái gì vừa phải, hợp với mình nhưng cũng chân chủ, đề đặt, giữ mình.
Cái đẹp vừa ý là xinh, là khéo. Ta không háo hức cải tráng lệ, huy hoàng không say mê cái huyền ảo, kì vĩ. Màu sắc chuộng cái dịu dàng, thanh nhã, ghét sặc sỡ. Quy mô chuộng sự vừa khéo, vừa xinh, phải khoảng". Giao tiếp, ứng xử chuộng hợp tình, hợp lí, áo quần, trang sức, món ăn đều không chuộng sự cầu kì. Tất cả đều hướng vào cái đẹp dịu dàng, thanh lịch, duyên dáng và có quy mô vừa phải.
Không có công trình kiến trúc nào, kể cả của vua chúa, nhằm vào sự vĩnh viễn. Hình như La coi trọng Thế hơn Lục, quý sự kín đáo hơn sự phô trương, sự hoà đồng hơn rạch ròi trắng đen. Phải chăng đó là kết quả của ý thức lâu dời về sự nhỏ yếu, về thực tế nhiều khó khăn, nhiều bất trắc?
Nhìn vào lối sống, quan niệm sống, ta có thể nói người Việt Nam sống có văn hoá, người Việt Nam có nền văn hoá của mình. Những cái thỏ dã, những cái hung bạo đã bị xoá bỏ để có cái nền nhân bản. Tinh thần chung của văn hoá Việt Nam là thiết thực, linh hoạt, dung hoà. Không có khát vọng để hưởng đến những sáng tạo lớn mà nhạy cảm, tinh nhanh, khôn khéo gỡ các khó khăn, tìm được sự bình ổn.
Những cái vừa nội là cái đã lắng đọng, đã ổn định, chắc chắn là kết quả của sự dung hợp của cái vốn có, của văn hoá Phật giáo, văn hoa Nho giáo, cái được dân tộc sàng lọc, tinh luyện để thành bản sắc của mình. Phật giáo, Nho giáo tuy từ ngoài du nhập vào nhưng đều để lại dấu ấn sâu sắc trong bản sắc dân tộc. Có điều, để thích ứng với cái vốn có, Phật giáo không được tiếp nhận ở khía cạnh trí tuệ, cầu giải thoát, mà Nho giáo cũng không được tiếp nhận ở khía cạnh nghi lễ tủn mủn, giáo điều khắc nghiệt. Đạo giáo hình như không có nhiều ảnh hưởng trong văn hoá nhưng tư tưởng Lão –Trang thì lại ảnh hưởng nhiều đến lớp trí thức cao cấp, để lại dấu vết khá rõ trong văn học.
Con đường hình thành bản sắc dân Lộc của văn hoá không chỉ trông cậy vào sự tạo tác của chính dân tộc đó mà còn trông cậy vào khả năng chiếm lĩnh, khả năng đồng hoá những giá trị văn hoá bên ngoài. Về mặt đó, lịch sử chứng minh là dân tộc Việt Nam có bản lĩnh.
(Trần Đình Hượu, Đến hiện đại từ truyền thống, NXB Văn hoá, Hà Nội, 1996, in trong Ngữ văn 12 Nâng cao, tập một, 5dd, tr. 194 – 196)
V. Văn mẫu
Đề: Từ câu chủ đề “Trong quá trình hiện đại hóa đất nước, việc tìm hiểu truyền thống văn hóa dân tộc là rất cần thiết’, hãy viết tiếp để hoàn thành đoạn văn diễn dịch (khoảng 150 chữ)
Trong quá trình hiện đại hóa đất nước, việc tìm hiểu truyền thống văn hóa dân tộc là rất cần thiết. Truyền thống văn hóa dân tộc là kho tàng vô giá chứa đựng những giá trị tinh thần, đạo đức, lối sống tốt đẹp được hun đúc qua hàng ngàn năm lịch sử. Hiểu biết về văn hóa truyền thống giúp mỗi người Việt Nam ý thức được bản sắc dân tộc của mình, từ đó có ý thức giữ gìn và phát huy những giá trị tốt đẹp, tránh bị đồng hóa bởi các nền văn hóa khác.Hơn nữa, tìm hiểu truyền thống văn hóa dân tộc còn giúp chúng ta hiểu được nguồn gốc, lịch sử của dân tộc, từ đó có ý thức gìn giữ và phát huy những giá trị tốt đẹp. Truyền thống văn hóa dân tộc là nền tảng tinh thần cho sự phát triển của xã hội. Giữ gìn và phát huy truyền thống văn hóa dân tộc góp phần xây dựng đất nước ngày càng giàu đẹp, văn minh.Mỗi người cần ý thức được trách nhiệm của bản thân trong việc giữ gìn và phát huy truyền thống văn hóa dân tộc. Chúng ta cần học tập, nghiên cứu, sưu tầm, bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống. Đồng thời, cần tuyên truyền, giáo dục cho thế hệ trẻ về tầm quan trọng của văn hóa truyền thống. Tóm lại, trong quá trình hiện đại hóa đất nước, việc tìm hiểu truyền thống văn hóa dân tộc là rất cần thiết. Mỗi người cần ý thức được trách nhiệm của bản thân trong việc giữ gìn và phát huy những giá trị tốt đẹp của dân tộc.