Bài thơ Hoàng Hạc lâu - Thôi Hiệu - Nội dung, tác giả, tác phẩm

3.1 K

Tài liệu tác giả tác phẩm Hoàng Hạc lâu Ngữ văn lớp 12 Chân trời sáng tạo gồm đầy đủ những nét chính về văn bản như: tóm tắt, nội dung chính, bố cục, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật, hoàn cảnh sáng tác, ra đời của tác phẩm, dàn ý từ đó giúp học sinh dễ dàng nắm được nội dung bài Hoàng Hạc lâu lớp 12.

Tác giả tác phẩm: Hoàng Hạc lâu - Ngữ văn 12

I. Tác giả Thôi Hiệu

Hoàng Hạc lâu - Tác giả tác phẩm (mới 2024) | Ngữ văn lớp 12 Chân trời sáng tạo

- Thôi Hiệu (704 ? - 754 ?) là nhà thơ đời Đường, người Biện Châu (nay là Khai Phong), tỉnh Hà Nam, Trung Quốc.

- Hiện nay, thơ của Thôi Hiệu chỉ còn lại hơn 40 bài, trong đó Hoàng Hạc lâu được coi là bài thơ hay nhất của ông và cũng là một trong những bài thơ hay nhất đời Đường.

II. Tìm hiểu tác phẩm Hoàng Hạc lâu

1. Thể loại Hoàng Hạc lâu

- Tác phẩm Hoàng Hạc lâu thuộc thể loại: thất ngôn bát cú Đường luật.

2. Xuất xứ Hoàng Hạc lâu

- In trong Tự học Hán văn, Nguyễn Khuê, NXB Thành phố Hồ Chí Minh, 1995, tr99 – 101)

3. Phương thức biểu đạt Hoàng Hạc lâu

- Phương thức biểu đạt: biểu cảm.

4. Bố cục đoạn trích Hoàng Hạc lâu

- Phần 1 (Bốn câu đầu): sự tiếc nuối quá khứ với hạc vàng đã bay đi mất, với mây trắng nghìn năm.

- Phần 2 (Bốn câu cuối): nỗi niềm hiện tại, trước cảnh đẹp của lầu Hoàng Hạc, lòng chạnh buồn nhớ đến quê hương.

5. Tóm tắt Hoàng Hạc lâu

Bài thơ là nơi tác giả tìm đến lầu Hoàng Hạc. Người thì đã đi mất để lại cảnh và nỗi sầu tư cho người đặt chân đến. Mây trắng thuộc về thiên nhiên vẫn tồn tại theo năm tháng còn huyền thoại rút cục chỉ là huyền thại, là hư ảo. Tác giả nhận thức được thiên nhiên là cái vĩnh cửu, trường tồn còn đời người hữu hạn, dù huy hoàng đến mấy rồi cũng lui vào quá khứ. Cảnh vật là hàng cây ở đất Hán Dương, dòng sông Trường Giang, cỏ thơm trên bãi Anh Vũ. Là cảnh thực tại, gắn với đời thường, có địa danh cụ thể. Thiên nhiên với vẻ đẹp thanh khiết, tràn đầy sức sống. Cảnh vắng lặng, yên tĩnh, không một âm thanh. Tác giả hướng về quá khứ với cảm hứng hoài cổ song quá khứ dù đẹp nhưng không thể quay lại. Nỗi cô đơn dâng lên trong lòng người lữ khách khi phải đối diện vơi chiều tàn. Không gian: sông nước, khói sóng gợi nỗi lòng “chiều hôm nhớ nhà”. Nỗi buồn nhớ quê hương là tình cảm gắn bó, tình yêu quê hương tha thiết.

6. Giá trị nội dung Hoàng Hạc lâu

- Với những phá cách độc đáo và thủ pháp đối lập được sử dụng hiệu quả, bài thơ miêu tả lầu Hoàng Hạc nhưng lại thể hiện được sâu sắc nỗi hoài vọng về thời xa xưa cùng nỗi nhớ quê hương của nhà thơ.

7. Giá trị nghệ thuật Hoàng Hạc lâu

- Sự dụng phép đối.

III. Tìm hiểu chi tiết tác phẩm Hoàng Hạc lâu

Hoàng Hạc lâu - Tác giả tác phẩm (mới 2024) | Ngữ văn lớp 12 Chân trời sáng tạo

1. Bốn câu thơ đầu

- Chim hạc vàng (linh thiêng, cao quý): cõi tiên, huyền ảo (bay mất)

- Lầu Hoàng Hạc: cõi trần (còn lại)

Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ

Thử địa không dư Hoàng Hạc lâu.

- Ở cặp câu này có sự đối nhau rất chỉnh, đó là:

+ Đối lập giữa quá khứ với hiện tại (tích nhân – thử địa, hoàng hạc khứ - Hoàng Hạc lâu).

+ Đối lập xưa và nay

+ Đối lập còn và mất

+ Đối lập giữa thực và hư

+ Đối thanh

=> Với sự đối ngẫu trong một “liên” này, câu thơ đã truyền tải được tâm trạng của nhân vật trữ tình, đó là sự hẫng hụt – nuối tiếc. Nuối tiếc một điều quý giá đã qua và không bao giờ trở lại nữa.

Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản

Bạch vân thiên tải không du du

- Vẫn nói chuyện hạc vàng bay đi không trở lại nhưng ở đây không chỉ có sự đối lập giữa cõi tiên và cõi tục. Hạc vàng đã bay về cõi tiên nên nơi đây, dưới còn trơ lại lầu Hoàng Hạc, trên trời mây trắng bay chơi vơi, dường như còn mong nhớ tiếc nuối điều gì đó.

- 4 câu thơ đầu tập trung tả cảnh và giải thích lầu Hoàng Hạc. Bàn chuyện xưa và nay để thể hiện suy nghĩ mang tính triết lí nhân sinh sâu sắc, triết lí về sự còn – mất, về sự vô hạn và hữu hạn của trời đất và nhân sinh.

- Nghệ thuật:

+ Trong 3 câu thơ đầu, tác giả lặp đi lặp lại tới 3 từ hoàng hạc

=> Hạc vàng là biểu tượng cho những điều quý giá và đẹp đẽ nhưng không trở lại nữa. Việc nhắc lại nhiều lần như vậy làm nổi bật tâm trạng của con người đối với những điều quý giá đã qua.

+ Câu thơ thứ 4 sử dụng tới 5/7 thanh bằng đã gợi tả rất thành công cảm giác hẫng hụt và tiếc nuối; thể hiện vẻ ngưng trệ như không muốn trôi đi của những đám mây.

2. Bốn câu cuối

Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ

Phương thảo thê thê Anh Vũ châu

- Không gian đẹp:

+ Ánh nắng soi xuống dòng sông.

+ Hàng cây tươi tốt.

+ Màu xanh tươi của cỏ cây mùa xuân.

(bức họa lầu Hoàng Hạc soi bóng dòng Trường Giang)

- 2 câu luận nhưng lại tả thực và có sự đối ngẫu:

+ Câu thơ mở ra một không gian rộng và sáng trong. Một cảnh cõi trần thật đẹp, có ánh nắng soi xuống dòng sông như một tấm gương khổng lồ với hàng cây tươi tốt soi bóng.

+ Giữa mặt sông sáng trong ấy là màu xanh tươi mơn mởn của cỏ cây mùa xuân.

=> Sau những phút giây đắm chìm cùng huyền thoại, nhân vật trữ tình lại trở về với hiện thực. Một bức họa thật đẹp được dựng lên: bức họa về một lầu Hoàng Hạc soi bóng dòng Trường Giang và cùng với hình ảnh của cây cối, của cỏ xanh.

Nhật mộ hương quan hà xứ thị?

Yên ba giang thượng sử nhân sầu.

- 2 câu kết tạo ra sự đối lập với 2 câu luận:

+ Đối lập giữa không gian thực – không gian tâm tưởng.

+ Có sự chuyển động về thời gian, từ khi ánh nắng còn chan hòa đã chuyển sang buổi hoàng hôn mờ khói.

=> Trong thơ ca cổ, các nhà thơ Đường có thói quen sử dụng các hình ảnh ước lệ, tượng trưng, nhất là hay dùng thiên nhiên để gợi tả tâm trạng mà “hoàng hôn nhớ nhà” là một tứ thơ quen thuộc của Đường thi.

- Ngoài nỗi nhớ quê hương, nếu nối với mạch cảm xúc toàn bài thơ có thể hiểu thêm rằng "hương quan hà xứ thị" không chỉ là câu hỏi quê hương ở nơi nào mà còn có thể hiểu rộng là: Nơi nào để dừng chân? Nơi nào là nơi có thể là bình yên để sống? => Đây là vấn đề có ý nghĩa triết lí.

=> 4 câu thơ cuối cùng với ba mảng cảm xúc dồn nén (cõi tiên, cảnh thực và nỗi sầu nhớ), bài thơ nói về một di tích xưa mà vẫn gắn bó với cuộc đời, con người, khơi lên những tình cảm nhân bản đẹp đẽ, hàm chứa quan niệm nhân sinh tích cực, tiến bộ.

IV. Đọc tác phẩm: Hoàng Hạc lâu

Hoàng Hạc lâu

Thôi Hiệu

Phiên âm:

Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ,

Thủ địa không dư Hoàng Hạc lâu.

Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản,

Bạch vân thiên tải không du du.

Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ,

Phương thảo thể thê Anh Vũ châu.

Nhật mộ hưởng quan hà xứ thị?

Yên ba giang thượng sử nhân sầu.

Dịch nghĩa:

Người xưa đã cưỡi hạc vàng bay đi,

Nơi đây chỉ còn trơ lại lầu Hoàng Hạc.

Hạc vàng đã bay đi mất không trở lại,

Mây trắng nghìn năm vẫn lững lờ bay.

Dòng sông trong vắt soi bóng cây Hán Dương,

Cỏ thơm xanh rì trên bãi Anh Vũ

Hoàng hôn xuống, quê hương ở đâu?

Khói sóng trên sông khiến lòng người buồn bã.

Dịch thơ:

Bản dịch của Tản Đà.

Hạc vàng ai cưỡi đi đâu?

Mà nay Hoàng Hạc riêng lầu còn trợ.

Hạc vàng đi mất từ xưa,

Nghìn năm mây trắng bây giờ còn bay.

Hán Dương sông tạnh cây bày,

Bãi xưa Anh Vũ xanh dày cỏ non.

Quê hương khuất bóng hoàng hôn.

Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai?

Bản dịch của Nguyễn Khuê:

Cưỡi hạc người xưa đi đã lâu,

Còn đây Hoàng Hạc chỉ tro lầu.

Hạc vàng biền biệt từ xưa ấy,

Mây trắng lững lờ đến mãi sau.

Sông tạnh Hán Dương cây lắng bóng,

Bãi thơm Anh Vũ có tươi màu.

Chiều hôm quê cũ nơi nào nhỉ

Khói sóng trên sông giục khách sầu.

(In trong Tự học Hán văn, Nguyễn Khuê, NXB Thành phố Hồ Chí Minh, 1995, tr. 99 – 101)

Đánh giá

0

0 đánh giá