Lời giải Tiếng Việt lớp 5 Bài 4: Bến sông tuổi thơ sách Kết nối tri thức gồm đầy đủ các phần Đọc, Nói và nghe, Viết giúp học sinh dễ dàng làm bài tập Tiếng Việt lớp 5 Tập 1. Mời các bạn theo dõi:
Tiếng Việt lớp 5 Tập 1 Bài 4: Bến sông tuổi thơ
Đọc: Bến sông tuổi thơ trang 23, 24
Nội dung chính Bến sông tuổi thơ:
Bến sông tuổi thơ với kỉ niệm khó quên thời đã qua. Những hình ảnh, những hàng cây, con sông hiện lên vương vấn, làm nao lòng những người yêu quê hương cù lao.
* Khởi động
Trả lời:
Em yêu thích và tự hào ở quê hương mình về truyền thống đấu tranh dựng nước và giữ nước, có rất nhiều những di tích lịch sử còn sót lại về chiến tranh, nhà tù, chiến công hiển hách của ông cha, các tượng đài và mộ anh hùng liệt sĩ,…
Văn bản: Bến sông tuổi thơ
Từ khi sinh ra và lớn lên, tôi đã thấy trước nhà có một dòng sông êm đềm lững lờ con nước, có hàng bần xanh soi bóng nghiêng nghiêng...
Mỗi chiều, bọn trẻ chúng tôi tụ năm tụ bảy ở bến sông, vui đùa đủ các trò của tuổi con nít. Chúng tôi thường lấy chén muối ớt hoặc chén mắm đồng rồi rủ nhau hái những trái bần để ăn. Hôm nào lỡ tay cho nhiều ớt quá thì cả bọn vừa ăn vừa hít hà vì cay.
Những ngày nước ròng nước lớn, con sông mang phù sa bồi đắp cho cây bần ngày một lấn ra sông. Chiều chiều, gió từ phía sông thổi về man mác, những bông hoa bần tim tím nở xoè, từng cánh hoa thi nhau rơi xuống rồi cuốn trôi theo dòng nước. Thỉnh thoảng lại nghe những trái bần chín rớt tỏm xuống sông, âm thanh rất đỗi quen thuộc và gần gũi với bọn trẻ sống ở xứ cù lao này.
Trái bần chua cũng là một đặc sản của quê tôi. Vì trái bần mà đem nấu canh chua cá bống sao hay cá bông lau thì khó có món nào ngon hơn được. Cá bông lau là thứ cá ngon quý hiếm, chỉ có theo mùa, còn cá bống sao thì ngược lại, có quanh năm. Khi rảnh rỗi, chúng tôi chỉ cần xuống bãi sông lội một lát là kiếm được cá, lượm vài ba trái bần là nấu được nồi canh chua. Ai đến cù lao quê tôi mà chưa từng thưởng thức món canh này thì cũng xem như chưa đến.
Mỗi lần đi đâu xa nhà, tôi lại nhớ bến sông quê có hàng bần nở hoa tím chờ gió thổi qua. Khi đó, tôi tưởng đâu như có hương thơm của những trái bần chín và mùi vị của canh cá bống sao nấu với trái bần chua. Những cây bần con bên sông vẫn cứ tiếp tục mọc lên để duy trì màu xanh bờ bãi cù lao quê hương tôi.
(Theo Lê Văn Trường)
* Trả lời câu hỏi
Trả lời:
Từ khi sinh ra, những hình ảnh của quê hương đã trở nên thân thuộc với bạn nhỏ là: dòng sông êm đềm lững lờ con nước, có hàng bần xanh soi bóng nghiêng nghiêng.
Trả lời:
Bạn nhỏ đã có những kỉ niệm cùng bạn bè trên bến sông tuổi thơ: tụ năm tụ bảy ở bến sông, vui đùa đủ các trò của tuổi con nít. Thường lấy chén muối ớt hoặc chén mắm đồng rồi rủ nhau hái những trái bần để ăn. Hôm nào lỡ tay cho nhiều ớt quá thì cả bọn vừa ăn vừa hít hà vì cay.
Trả lời:
Trong cảm nhận của bạn nhỏ, vẻ đẹp của quê hương hiện lên quen thuộc, gần gũi.
Trả lời:
Bạn nhỏ nhắc đến đặc sản của quê hương là trái bần.
Chi tiết cho thấy bạn nhỏ rất tự hào về đặc sản trái bần của quê mình là: trái bần mà đem nấu canh chua cá bống sao hay cá bông lau thì khó có món nào ngon hơn được.
Trả lời:
Qua bài đọc, em yêu thích hình ảnh của vùng đất cù lao là: hàng bần soi bóng nghiêng nghiêng. Vì khung cảnh này cho em thấy không gian làng quê yên bình, có những rặng lá đung đưa theo gió, những mùi thơm, ảnh đẹp của hoa bần, trái bần và vị ngon ngọt của trái bần làm quê hương thật ấn tượng.
* Luyện tập theo văn bản đọc
Trả lời:
Từ tôi và chúng tôi ở hai đoạn đầu của bài đọc được dùng để chỉ tác giả và những người bạn của tác giả. Trong đó, từ tôi chỉ một người, từ chúng tôi chỉ nhiều người.
Câu 2 trang 24 sgk Tiếng Việt lớp 5 Tập 1: a. Tìm từ có nghĩa giống với từ in đậm trong các câu sau:
Thỉnh thoảng lại nghe những trái bần chín rớt tôm xuống sông, âm thanh rất đỗi quen thuộc và gắn gũi với bọn trẻ sống ở xứ cù lao này. |
Mỗi chiều, bọn trẻ chúng tôi tụ năm tụ bảy ở bển sông, vui đùa dủ các trò của tuổi con nít. |
Trái bần chua cũng là một "đặc sản" của quê tôi. |
b. Qua những từ in đậm ở trên, em có nhận xét gì về cách dùng từ ngữ của nhà văn trong bài Bến sông tuổi thơ? Chọn đáp án đúng.
A. Nhà văn sử dụng từ ngữ gần gũi với trẻ em.
B. Nhà văn dùng từ ngữ phổ biến với nhiều người.
C. Nhà văn sử dụng từ ngữ đậm màu sắc Nam Bộ.
D. Nhà văn dùng những từ ngữ trừu tượng, mơ hồ.
Trả lời:
a. Từ có nghĩa giống với rớt: rơi, rụng.
Từ có nghĩa giống với cù lao: đảo, hòn đảo.
Từ có nghĩa giống với con nít: trẻ con, tụi nhỏ.
Từ có nghĩa giống với trái: quả.
b. Qua những từ in đậm ở trên, em nhận xét về cách dùng từ ngữ của nhà văn trong bài Bến sông tuổi thơ: C. Nhà văn sử dụng từ ngữ đậm màu sắc Nam Bộ.
Viết: Viết bài văn kể chuyện sáng tạo trang 25, 26
Chọn 1 trong 2 đề dưới đây: Đề 1: Viết bài văn kể sáng tạo câu chuyện Thanh âm của gió hoặc Cánh đồng hoa. Đề 2: Viết bài văn kể sáng tạo một câu chuyện có nhân vật chính là con vật hoặc đồ vật. |
Lưu ý:
– Khi thêm lời kể, tả, thêm lời thoại hoặc thay đổi cách kết thúc của câu chuyện, cần lựa chọn chi tiết sáng tạo hấp dẫn, thú vị và phù hợp với nội dung câu chuyện.
– Khi đóng vai kể chuyện, cần chọn cách xưng hô phù hợp và kể, tả sự việc theo đúng cảm xúc của nhân vật mà em đóng vai.
Một số đoạn văn tham khảo:
– Sáng tạo thêm chi tiết (lời kể, lời tả, hội thoại,...) cho câu chuyện.
Cánh đồng hoa
Ngồi tựa vào gốc cây, các bạn nhỏ ngước nhìn bầu trời. Trên bầu trời xanh biếc, muôn vàn đám mây như đang đùa giỡn, trông thật vui nhộn. Một cụm mây bỗng tách ra, nhìn giống bông cúc trắng khổng lồ. Rồi một cụm mây nữa, trông giống đoá quỳnh tinh khôi. Những “bông hoa mây” cứ bồng bềnh, bồng bềnh, khiến Mư Hoa phải bật dậy reo lên: “Các cậu có thấy bầu trời như một vườn hoa không?”
– Thay đổi cách kết thúc của câu chuyện.
Thanh âm của gió
Bố bảo mới nghe chúng tôi kể thôi mà bố đã thích trò chơi ấy rồi. Bố hẹn chúng tôi ngày mai dậy sớm chạy ra bờ suối nghe xem gió nói điều gì. Thế là chúng tôi tưởng tượng ra bao nhiêu tiếng gió mà bố có thể nghe được. Tiếng gió cứ lao xao, lao xao đưa chúng tôi vào giấc ngủ lúc nào không hay.
– Đóng vai nhân vật để kể lại câu chuyện.
Ông lão đánh cá và con cá vàng
Đang bơi lội tung tăng trong làn nước xanh mát, bỗng nhiên tôi bị cuốn phẳng đi. Tôi hốt hoảng nhận ra mình đã mắc vào một tấm lưới và bị nhấc bổng lên khỏi mặt nước. Trước mắt tôi là một ông lão có nét mặt khắc khổ. Ông nhìn tôi với vẻ thất vọng, có lẽ vì trong lưới chỉ có mỗi mình tôi.
Trả lời:
Ở đầu làng, có một đồng cỏ khá rộng. Ja Ka, Mư Hoa, Ja Prok và Mư Nhơ thường rủ nhau tới đó vui chơi. Ja Ka luôn mang theo chiếc trống nhỏ. Cậu vỗ trống rất hay. Mỗi lần Ja Ka vỗ trống, các bạn lại cùng múa hát tưng bừng. Những điệu trống cứ thật chắc nịch, cuốn hút những người bạn nhảy múa không ngừng.
Thế nhưng gần đây, trên đồng cỏ, một bãi rác xuất hiện và cứ lớn dần lên, bốc mùi khó chịu. Dù có đứng cách xa hàng cây số, vẫn có người có thể ngửi thấy một mùi khó chịu từ bãi rác này. Phải vậy mà không còn nhiều người dân, nhiều loài động vật, chim bướm bay lại đồng cỏ như trước nữa. Các bạn nhỏ chẳng nô đùa, hò hét như mọi ngày.
– Cứ thế này, đồng cỏ sẽ thành bãi rác mất thôi! – Mư Nhơ thở dài.
Mư Hoa quay mặt đi, giấu những giọt nước mắt:
– Bọn mình còn đâu chỗ mà vui chơi!
Ja Ka, Ja Prok thì rầu rĩ:
– Biết làm thế nào bây giờ?
Bỗng Mư Hoa hỏi:
– Các cậu có thấy bầu trời như một vườn hoa không?
Mư Nhơ gật đầu:
– Cánh diều giống hoa ngũ sắc, đám mây giống hoa cúc trắng,...
Mư Hoa bật dậy:
– Chúng ta sẽ biến nơi đây thành cánh đồng hoa. Mọi người không nỡ lấy cánh đồng đẹp làm chỗ đổ rác đâu.
Các bạn nhỏ chụm đầu bàn tính và quyết tâm cải tạo đồng cỏ. Biết ý tưởng đó, nhiều cô bác trong làng đã hưởng ứng. Họ hồ hởi cùng các bạn bắt tay vào dọn rác, xới đất, gieo hạt, trồng cây; ngày ngày tưới nước, nhỏ cỏ, bắt sâu. Cây đâm chồi, nảy lộc, rồi nhú nở những bông hoa đầu tiên. Ba tháng sau, hoa đã đua nhau khoe sắc: cúc bách nhật tím lịm, cúc vạn thọ vàng tươi, mào gà đỏ thắm,... Quả nhiên, không thấy ai đến đây đổ rác nữa. Nhóm bạn vui mừng nhảy múa, ca hát giữa muôn hoa rực rỡ, trong tiếng trống rộn ràng.
Với cánh đồng hoa xinh đẹp, ngôi làng trở nên nổi tiếng, đón nhiều khách tới tham quan. Các bạn nhỏ và dân làng cười vui. Cánh đồng hoa cũng như đang vui cười hạnh phúc. Được làm những việc tốt ngay tại nơi mình sống, làm cho môi trường thêm sạch đẹp, các bạn nhỏ hạnh phúc và vui sướng hơn bao giờ hết.
Câu 2 trang 26 sgk Tiếng Việt lớp 5 Tập 1: Đọc soát và chỉnh sửa.
– Giới thiệu được câu chuyện một cách hấp dẫn, thu hút sự chú ý của người đọc.
– Kể chuyện với chi tiết sáng tạo độc đáo nhưng không làm thay đổi nội dung chính, ý nghĩa của câu chuyện gốc.
Trả lời:
Em đọc soát và chỉnh sửa bài văn viết ở trên.
Nói và nghe: Những câu chuyện thú vị trang 26, 27
Yêu cầu: Thảo luận về những chi tiết thú vị trong câu chuyện em yêu thích.
Câu 1 trang 26 sgk Tiếng Việt lớp 5 Tập 1: Chuẩn bị.
– Nhớ lại câu chuyện mà em yêu thích.
G:
– Liệt kê các chi tiết thú vị trong câu chuyện.
G:
– Ghi chép những ý kiến dự định phát biểu.
Trả lời:
– Em nhớ lại câu chuyện mà em yêu thích: Câu chuyện Cánh đồng hoa, tác giả Lê Anh Vinh – Bùi Thị Diển, nội dung chính của câu chuyện là tình yêu môi trường, cảnh quan quê hương và quyết tâm gìn giữ vẻ trong xanh, sạch đẹp vốn có mà người dân và các bạn nhỏ đã làm.
– Các chi tiết thú vị trong câu chuyện: tình huống xuất hiện một bãi rác đã làm nảy ra ý tưởng độc đáo, biến đồng cỏ thành đồng hoa. Kết cục câu chuyện tốt đẹp, giúp đồng hoa không còn là nơi để đổ rác nữa.
– Em ghi chép thêm những ý kiến dự định phát biểu.
Câu 2 trang 27 sgk Tiếng Việt lớp 5 Tập 1: Thảo luận.
– Người điều hành nêu nội dung thảo luận.
– Từng thành viên nêu ý kiến đã chuẩn bị.
Trả lời:
Dựa vào kết quả ghi chép, em cùng thảo luận với nhóm bạn của mình.
Câu 3 trang 27 sgk Tiếng Việt lớp 5 Tập 1: Đánh giá.
Trả lời:
Em và các bạn trong nhóm đánh giá hiệu quả thảo luận của các thành viên trong nhóm.
* Vận dụng
Trả lời:
Em chia sẻ với người thân về điều thú vị trong một câu chuyện em đã đọc, đã nghe: câu chuyện Ông lão đánh cá và con cá vàng: Chi tiết thú vị con cá vàng sở hữu năng lực ma thuật có thể biến điều ước thành sự thật. Không những vậy, con cá vàng còn trừng phạt được kẻ tham lam thông qua sức mạnh của nó.
Xem thêm các bài giải bài tập Tiếng Việt lớp 5 Kết nối tri thức hay, chi tiết khác: