Quyền an tử đã được quy định tại Việt Nam chưa? Xúi giục người khác kết thúc sự sống có bị phạt không ?

160

          Chắc hẳn bạn đã từng nghe qua về thuật ngữ quyền an tử trên thế giới. Vậy liệu quyền an tử đã được quy định tại Việt Nam chưa? Xúi giục người khác kết thúc sự sống có bị phạt không ?... Bài viết dưới đây sẽ giúp bạn đọc giải đáp những thắc mắc xoay quanh quyền an tử.

Quyền an tử đã được quy định tại Việt Nam chưa? Xúi giục người khác kết thúc sự sống có bị phạt không ?

1. Quyền an tử là gì ?

      Quyền được chết hay còn được gọi là an tử chỉ cái chết nhân đạo đã được một số quốc gia trên thế giới như Hà Lan, Bỉ, Luxembourg, Albania và Thuỵ Sỹ, Đức, Mỹ( ở 4 bang Oregon, Washington, Montana, và Vermont), và Canada (tỉnh Quebec) áp dụng để “giải thoát” cho những người không may bị bệnh hiểm nghèo hay bệnh nan y mà họ phải chịu sự đau đớn đến tột cùng về thể xác và tinh thần mà không thể cứu chữa được. Các quốc gia, lãnh thổ áp dụng cái chết nhân đạo đều có quy định pháp lý về điều kiện, trình tự, thủ tục áp dụng chặt chẽ đối với mỗi hình thức như sau:

      Đối với hình thức chết chủ động thì cần hội tụ đủ bốn điều kiện:

- Một là người bệnh mắc bệnh nan y và không thể chịu đựng được nỗi đau thể xác.

- Hai là qua kiểm tra, hội đồng y khoa xác định cái chết của người ấy là không thể tránh khỏi trong một tương lai gần.

- Ba là bệnh nhân đồng ý chết trong tình trạng tỉnh táo.

- Bốn là các bác sĩ trực tiếp điều trị xác định không còn khả năng điều trị giảm đau. Khi đáp ứng các điều kiện này thì bệnh nhân được “chết” bằng thuốc an thần, rồi sau đó là thuốc làm ngừng tim, ngừng phổi.

       Với hình thức chết thụ động, người bệnh phải đáp ứng ba điều kiện: bệnh nan y giai đoạn cuối, không thể hồi phục và đồng ý ngừng điều trị (sự đồng ý lập thành văn bản bởi người bệnh khi còn tỉnh táo hoặc dựa vào yêu cầu của tất cả thành viên gia đình nếu người bệnh không còn tỉnh táo, sống thực vật).

Còn tại Việt Nam hiện nayquyền được chết” là một vấn đề vô cùng nhạy cảm và còn nhiều rào cản chưa được luật hoá.

      Hiến pháp hiện nay không có quy định đề cập đến quyền được chết, mà chỉ nêu rõ về quyền được sống theo Điều 19 Hiến pháp 2013 như sau:

“Mọi người có quyền sống. Tính mạng con người được pháp luật bảo hộ. Không ai bị tước đoạt tính mạng trái luật”

     Do đó, tính mạng con người được pháp luật bảo hộ và không ai có quyền tước đoạt tính mạng người khác, trừ trường hợp tội phạm chịu hình phạt tử hình, phòng vệ chính đáng, tình thế cấp thiết,... theo quy định tại Bộ luật Hình sự 2015.

     Có thể thấy, quyền an tử hiện tại chưa được công nhận trên lãnh thổ Việt Nam, mọi hành vi an tử đều bị coi là hành vi xâm phạm tính mạng người khác trái pháp luật và có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

2. An tử và trợ tử khác nhau thế nào ?

    Thuật ngữ “an tử” nghĩa là “cái chết dễ dàng” hoặc “cái chết êm ái ”  Xuyên suốt nhiều thế kỷ, thuật ngữ này chỉ hành vi làm cho người nào đó chết một cách không đau đớn, để tránh đi những đớn đau thêm nữa do bệnh tật gây ra, đặc biệt là những căn bệnh vô phương cứu chữa, hoặc làm chấm dứt tình trạng hôn mê không thể phục hồi được ý thức. An tử hiểu theo nghĩa như vậy thường được gọi là “giết chết vì thương xót” hay “cái chết phẩm giá”.

Ngày nay, an tử được dùng để nói đến cái chết của người bị bệnh nan y vô phương cứu chữa; thuật ngữ này ám chỉ và giả định hai điều. Một là, người kết liễu mạng sống của chính mình hay mạng sống của người khác có ý nhắm đến cái chết như mục tiêu của hành vi. Hai là, mạng sống bị kết liễu là “mạng sống của người vô tội.” Cụm từ “mạng sống của người vô tội” cần phân biệt an tử với tước đoạt mạng sống của một người nào đó, khi cách thức hành xử của họ là nguyên nhân gây ra sự việc hoặc nó là lý lẽ biện minh cho việc dùng vũ lực để kết liễu mạng sống của họ. Chẳng hạn như, không phải là an tử khi tự vệ chống lại kẻ gây hấn. Cũng không phải là an tử khi tử tù bị đem ra hành quyết. Mà trong trường hợp an tử thì nạn nhân bị giết là người vô tội không làm điều gì đáng phải bị giết chết. Do đó, an tử chỉ hành vi chấm dứt mạng sống của người bệnh đã đến giai đoạn vô phương cứu chữa và hành vi này được thực hiện vì những lý do nhân đạo.

3. Việt Nam đã quy định về quyền an tử chưa ?

      Như đã phân tích bên trên thì hiện nay Việt Nam chưa có quy định về quyền an tử, mà chỉ có quy định về quyền được sống theo quy định tại Hiến pháp năm 2013 mà thôi. Khi xây dựng Bộ luật dân sự 2005, đã có ý kiến về việc đưa cái chết nhân đạo vào quy định luật nhưng không được sự đồng thuận.

Tại kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa 13, dự thảo sửa đổi Luật dân số do Bộ Y tế chủ trì soạn thảo thì vấn đề cái chết nhân đạo hay quyền an tử cũng được các chuyên gia đưa ra tuy nhiên vẫn còn một số ý kiến trái chiều và còn nhiều rào cản trên thực tiễn thực hiện nên quyền an tử vẫn chưa được luật hoá.

4. Người nhà hay bác sĩ hỗ trợ cho bệnh nhân an tử có được không?

                                                            Người nhà hay bác sĩ hỗ trợ cho bệnh nhân an tử có được không ?

Do hiện nay quyền được chết chưa được công nhận tại Việt Nam do vậy bệnh nhân dù đang trong giai đoạn cuối, vô phương cứu chữa, hay dù đang bị bệnh tật dày vò gây đau đớn thì cũng không có bất kỳ ai có quyền được quyền hỗ trợ chết cho bệnh nhân.

     Đối với bác sĩ - người hành nghề khám chữa bệnh có trách nhiệm khám chữa bệnh, cứu người và không có quyền tước đoạt đi tính mạng của bệnh nhân, cụ thể Điều 36 Luật Khám bệnh, chữa bệnh 2009 có quy định như sau:

Nghĩa vụ đối với người bệnh

1. Kịp thời sơ cứu, cấp cứu, khám bệnh, chữa bệnh cho người bệnh, trừ trường hợp quy định tại Điều 32 của Luật này.

2. Tôn trọng các quyền của người bệnh, có thái độ ân cần, hòa nhã với người bệnh.

3. Tư vấn, cung cấp thông tin theo quy định tại khoản 1 Điều 7 và khoản 1 Điều 11 của Luật này.

4. Đối xử bình đẳng với người bệnh, không để lợi ích cá nhân hay sự phân biệt đối xử ảnh hưởng đến quyết định chuyên môn của mình.

         5. Chỉ được yêu cầu người bệnh thanh toán các chi phí khám bệnh, chữa bệnh đã niêm yết công khai theo quy định của pháp luật.

      Còn đối với trường hợp người nhà bệnh nhân tự ý thực hiện hành vi an tử theo mong muốn của bệnh nhân thì đây vẫn bị coi là hành vi xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ người khác trái pháp luật.

      Như vậy, dù là bác sĩ hay người nhà bệnh nhân thực hiện hành vi an tử hoặc trợ tử cho bệnh nhân thì đều có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội Giết người. Điều 123 Bộ luật Hình sự 2015 quy định về hình phạt của Tội Giết người như sau:

Tội giết người

1. Người nào giết người thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình:

a) Giết 02 người trở lên;

b) Giết người dưới 16 tuổi;

c) Giết phụ nữ mà biết là có thai;

d) Giết người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân;

đ) Giết ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình;

e) Giết người mà liền trước đó hoặc ngay sau đó lại thực hiện một tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;

g) Để thực hiện hoặc che giấu tội phạm khác;

h) Để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân;

i) Thực hiện tội phạm một cách man rợ;

k) Bằng cách lợi dụng nghề nghiệp;

l) Bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người;

m) Thuê giết người hoặc giết người thuê;

n) Có tính chất côn đồ;

o) Có tổ chức;

p) Tái phạm nguy hiểm;

q) Vì động cơ đê hèn.

2. Phạm tội không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm.

3. Người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

4. Người phạm tội còn có thể bị cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ 01 năm đến 05 năm.

5. Xúi giục người bệnh sớm kết thúc sự sống có bị phạt không?

      Việc xúi giục hoặc giúp bệnh nhân hoặc người bệnh tự kết thúc sự sống có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự với Tội xúi giục hoặc giúp người khác tự sát được quy định hình phạt tại Điều 131 Bộ luật Hình sự 2015 như sau:

Tội xúi giục hoặc giúp người khác tự sát

1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

a) Kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác tự tước đoạt tính mạng của họ;

b) Tạo điều kiện vật chất hoặc tinh thần cho người khác tự tước đoạt tính mạng của họ.

2. Phạm tội làm 02 người trở lên tự sát, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

Do đó, tuỳ thuộc vào mức độ, tính chất của hành vi và hậu quả của hành vi gây ra sẽ có mức hình phạt thích đáng. Người có hành vi vi phạm có thể đối mặt với hình phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.  Riêng hành vi phạm tội làm 02 người trở nên tự sát, thì có thể bị đối mặt với mức phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

Đánh giá

0

0 đánh giá