Tài liệu tóm tắt Lí ngựa ô ở hai vùng đất môn Ngữ văn lớp 10 bộ Chân trời sáng tạo với cuộc sống ngắn gọn, chi tiết gồm có 10 bài tóm tắt tác phẩm Lí ngựa ô ở hai vùng đất hay nhất từ đó giúp học sinh nắm được những nét chính về nội dung của văn bản để học tốt môn Ngữ văn lớp 10.
Mời các quý thầy cô và các em học sinh cùng tham khảo và tải về chi tiết tài liệu dưới đây:
Tóm tắt Lí ngựa ô ở hai vùng đất
Bài giảng: Lí ngựa ô ở hai vùng đất - Chân trời sáng tạo
Tóm tắt bài Lí ngựa ô ở hai vùng đất - Mẫu 1
Bài thơ kể về cuộc chiến tranh đã qua đan xen với tình yêu đôi lứa được thể hiện một cách dung dị đan xen với những nét đẹp văn hóa.
Tóm tắt bài Lí ngựa ô ở hai vùng đất - Mẫu 2
Bài thơ Lý Ngựa ô ở hai vùng đất thuộc thể loại thơ tự do của tác giả Phạm Ngọc Cảnh, nằm ở trong tập Đêm Quảng Trị. Hoàn cảnh ra đời của bài thơ vô cùng đặc biệt đó chính là trong mạch văn hào sảng khí thế của người lính ra trận. Bài Lý ngựa ô ở hai vùng đất đã kể lại cuộc chiến tranh đã qua của nước ta, xen lẫn vào đó chính là tình yêu đôi lứa được thể hiện thông qua làn điệu dân gian quen thuộc. Điều đầu tiên, những làn điệu Lý ngựa ô được hát ở bên anh trong phần đầu của bài thơ. Câu hát như là tiếp thêm sức mạnh cho anh khi hành quân đánh giặc như em vẫn luôn đợi anh về và cũng đại diện cho cả quê hương đang cần anh bảo vệ. Ở đoạn tiếp theo, tác giả đã sử dụng nghệ thuật điệp ngữ để làm tăng thêm tính tự hào của nhân vật anh về làn điệu Lý ngựa ô đã được truyền lại từ thời cha ông. Đến với vùng đất thứ hai cũng yêu làn điệu Lý ngựa ô không kém đó chính là bên nhân vật em. Có thể thấy, nếu như quê anh gắn với truyền thuyết Thánh Gióng ở miền Bắc Bộ thì ở quê em lại ở miền Trung, nơi móng ngựa “gõ mê say” để băng qua phá “rộng duềnh doàng lên dợn sóng” hay là qua cả “truông rậm”. Đây là hai vùng địa hình đặc trưng của dải đất miền Trung nước ta, phá chính là vùng nước mặn có một dải đất và cát ngăn với biển, được nối thông ra ngoài biển bằng một dòng nước hẹp. Còn truông chính là chỉ một vùng đất hoang, có cây cối rậm rạp. Rồi làn điệu lý ngựa ô ở hai vùng đất bên anh và bên em được gặp gỡ và được giao lưu với nhau. Tuy cùng làn điệu lý ngựa ô, nhưng câu hát ở mỗi vùng lại được thêm vào đó các đặc trưng riêng của quê hương mình. Ở bên anh câu hát lý ngựa ô gắn với truyền thuyết về Thánh Gióng. Ở nơi em thì lại gắn với truông dài phá rộng của miền Trung. Hay miền Nam, lý ngựa ô lại có âm điệu “như giục như mời”, các câu hát gắn với hình ảnh ngựa bay qua vựa lúa bát ngát, ngựa chạy ở nơi sông Cửu Long “sông xòe chín cửa” để được vươn ra biển lớn, cất tiếng hí vang “chào xa khơi”.
Tóm tắt bài Lí ngựa ô ở hai vùng đất - Mẫu 3
Tác phẩm Lý Ngựa Ô Ở Hai Vùng Đất cho thấy sự đặc sắc của làn điệu lí ngựa ô khi được thể hiện ở hai nơi khác nhau là “làng anh” và “làng em”. Qua làn điệu lí ngựa ô, kín đáo bộc lộ tâm tư của chàng trai, cô gái với nỗi nhớ nhung khắc khoải và mong chờ trong tình yêu. Cho thấy những làn điệu, câu hò là nơi gửi gắm tâm tư, tình cảm, ước mơ và khát vọng của con người. Phần nào thể hiện văn hóa truyền thống của dân tộc qua những câu hát giao duyên, điệu hò, điệu lí và cho thấy nét giao lưu văn hóa cộng đồng của thế hệ xưa, tuy ở hai vùng đất khác nhau nhưng không ngăn cản sự gặp gỡ, hòa hợp văn hóa của họ.
Tóm tắt bài Lí ngựa ô ở hai vùng đất - Mẫu 4
“Lý ngựa ô ở hai vùng đất” là thi phẩm thường hay được nhắc tới của Phạm Ngọc Cảnh. Bài thơ cũng là cơ duyên gắn bó ông với người phụ nữ có cái tên đẹp: Giáng Hương. Bài thơ “Lý ngựa ô ở hai vùng đất” đã ra đời trong một mạch văn hào sảng khí thế của người lính trận. Bài thơ cũng đã gieo vào lòng những độc giả cùng thế hệ ông niềm vui và niềm tin chiến thắng. Làng anh nằm ở ven sông, “quen hát Lí ngựa ô rồi”, hát vào tháng tư khi Hội Gióng. Câu hát Lí ngựa ô ở “làng anh” hát theo đường đánh giặc khiến ai nghe cũng ngỡ mình đang đi trong mây, chẳng ai tin mình đang giong ngựa sắt. Có thể thấy thời điểm “làng anh” là đang đi lính, ra trận, câu hát như một khúc ca vang lên khi họ đi hành quân. Bên em thì “móng ngựa gõ mê say’, “qua phá rộng duềnh doàng lên đợt sóng”. Ở bên em, câu hát Lí ngựa ô như một lời mời gọi, mang những cảm xúc mộc mạc nhất của làng quê, sông nước miền Trung. Bài thơ đã cho thấy nét độc đáo của điệu lý ngựa ô khi nó được diễn xướng ở hai địa điểm khác nhau là “làng anh” và “làng em”. Qua điệu hò ngựa ô, tác giả đã lồng ghép thể hiện tình cảm của chàng trai và cô gái với những nhớ nhung, khao khát yêu đương một cách thật kín đáo, tế nhị. Qua đó ta thấy rõ, những giai điệu, bài hát là nơi gửi gắm tâm tư, tình cảm, ước mơ, khát vọng của người dân lúc xưa. Thông qua bài thơ, ta có thể nhân thấy rằng những câu hò, câu hát giao duyên hay những làn điệu dân ca nhìn chung dường như đều thể hiện được vẻ đẹp và khát vọng của nhân dân. Họ gửi gắm vào đó những ước vọng, khát khao hòa bình, tình yêu đôi lứa, những tâm tư tình cảm và tình yêu quê hương, đất nước.
Tóm tắt bài Lí ngựa ô ở hai vùng đất - Mẫu 5
Lý Ngựa Ô Ở Hai Vùng Đất kể về tình yêu đôi lứa. Qua làn điệu lí ngựa ô, kín đáo bộc lộ tâm tư của chàng trai, cô gái với nỗi nhớ nhung khắc khoải và mong chờ trong tình yêu.
Tóm tắt bài Lí ngựa ô ở hai vùng đất - Mẫu 6
Bài thơ Lý Ngựa Ô Ở Hai Vùng Đất thuộc thể loại thơ tự do của tác giả Phạm Ngọc Cảnh, nằm trong tập Đêm Quảng Trị. Hoàn cảnh ra đời của bài thơ vô cùng đặc biệt đó là trong mạch văn hào sảng khí thế của người lính ra trận. Bài Lý ngựa ô ở hai vùng đất đã kể lại cuộc chiến tranh đã qua của nước ta, xen lẫn vào đó chính là tình yêu đôi lứa được thể hiện thông qua làn điệu dân gian quen thuộc. Đầu tiên, những làn điệu Lý ngựa ô được hát ở bên anh trong phần đầu của bài thơ. Câu hát như tiếp thêm sức mạnh cho anh khi hành quân đánh giặc, như em vẫn luôn đợi anh về và cũng đại diện cho quê hương đang cần anh bảo vệ. Ở đoạn tiếp theo, tác giả sử dụng nghệ thuật điệp ngữ để làm tăng thêm tính tự hào của nhân vật anh về làn điệu Lý ngựa ô được truyền lại từ thời cha ông. Đến với vùng đất thứ hai cũng yêu làn điệu Lý ngựa ô không kém chính là bên nhân vật em. Có thể thấy, nếu như quê anh gắn với truyền thuyết Thánh Gióng ở miền Bắc Bộ thì quê em lại ở miền Trung, nơi móng ngựa “gõ mê say” để băng qua phá “rộng duềnh doàng lên dợn sóng” hay qua cả “truông rậm”. Đây là hai vùng địa hình đặc trưng của dải đất miền Trung nước ta, phá chính là vùng nước mặn có dải đất và cát ngăn với biển, được nối thông ra ngoài biển bằng một dòng nước hẹp. Còn truông chính là chỉ vùng đất hoang, có cây cối rậm rạp. Rồi làn điệu lý ngựa ô ở hai vùng đất bên anh và bên em được gặp gỡ và giao lưu với nhau. Tuy cùng làn điệu lý ngựa ô, nhưng câu hát ở mỗi vùng lại được thêm vào đó những đặc trưng riêng của quê hương mình. Ở bên anh câu hát lý ngựa ô gắn với truyền thuyết về Thánh Gióng. Ở nơi em, lại gắn với truông dài phá rộng của miền Trung. Hay miền Nam, lý ngựa ô lại có âm điệu “như giục như mời”, những câu hát gắn với hình ảnh ngựa bay qua vựa lúa bát ngát, ngựa chạy ở nơi sông Cửu Long “sông xòe chín cửa” để vươn ra biển lớn, cất tiếng hí vang “chào xa khơi”.
Đôi nét về tác giả, tác phẩm
1. Tác giả
- Nhà thơ Phạm Ngọc Cảnh sinh ngày 20/7/1934 tại thị xã Hà Tĩnh, tỉnh Hà Tĩnh, nhưng sống ở Hà Nội.
- Ông là Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Ông còn có bút danh Vũ Ngàn Chi. Sinh trưởng trong một gia đình tiểu thị dân, Phạm Ngọc Cảnh được cha mẹ cho ăn học tử tế.
2. Tác phẩm
Thể loại: Thể thơ tự do
Xuất xứ và hoàn cảnh sáng tác:
- Xuất xứ: Tập Đêm Quảng Trị
- Hoàn cảnh sáng tác: ra đời trong một mạch văn hào sảng khí thế của người lính trận.
Phương thức biểu đạt: Biểu cảm
Bố cục tác phẩm Lí ngựa ô ở hai vùng đất: 2 phần
- Phần 1: Câu hát ở làng anh
- Phần 2: Câu hát ở làng em
Giá trị nội dung tác phẩm Lí ngựa ô ở hai vùng đất
- Tình yêu đôi lứa được thể hiện một cách dung dị đan xen với những nét đẹp văn hóa.
Giá trị nghệ thuật tác phẩm Lí ngựa ô ở hai vùng đất
- Vận dụng lối hát đối đáp của những câu lý, điệu hò.
- Thể thơ tự do, kết hợp giữa mạch tự sự và mạch trữ tình.