Tài liệu tóm tắt Chiếu dời đô Ngữ văn lớp 8 bộ Cánh diều ngắn gọn, đầy đủ ý gồm có 10 bài tóm tắt tác phẩm Chiếu dời đô hay nhất từ đó giúp học sinh nắm được những nét chính về nội dung của văn bản để học tốt môn Ngữ văn lớp 8.
Tóm tắt Chiếu dời đô ngắn nhất
Tóm tắt bài Chiếu dời đô - mẫu 1
Chiếu dời đô là bài chiếu lịch sử nói về sự kiện Lí Công Uẩn hỏi quân thần, nhân dân về việc dời đô từ Hoa Lư ra thành Đại La. Xưa kia nhà Thương, nhà Chu của Trung Quốc đã có nhiều lần dời đô và điều đó làm cho các triều đại đều hưng thịnh. Ở nước ta, hai nhà Đinh- Lê theo ý mình, khinh thường mệnh trời, không chịu dời đổi nên vận nước ngắn ngủi, nhân dân lầm than. Vì vậy, Lí Công Uẩn rất đau xót về việc đó, muốn dời đô ra Đại La để đất nước hùng mạnh hơn. Xét về địa lí, lịch sử, Đại La là chốn tụ hội trọng yếu của bốn phương đất nước, là nơi kinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời.
Tóm tắt bài Chiếu dời đô - mẫu 2
Lịch sử Trung Quốc chứng minh các triều đại vì muốn đất nước được hưng thịnh nên đã quyết định dời đô.Còn ở nước ta,nhà Đinh và nhà Lê tầm nhìn hạn hẹp,không theo ý trời - không chịu đổi dời nên vận nước ngắn hạn,nhân dân lầm than.Trước những bài học của các thế hệ đi trước đó, Lí Công Uẩn muốn dời đô để giúp đất nước hùng mạnh và phát triển hơn. Vì vậy, ông đã đưa ra ý muốn của mình và hỏi quân thần, nhân dân về việc dời đô từ Hoa Lư ra thành Đại La -xét về mọi mặt,mọi phương diện địa lí, lịch sử thì Đại La là chốn tụ hội trọng điểm của đất nước. Lí Công Uẩn cho thấy việc rời đô là đúng đắn.
Tóm tắt bài Chiếu dời đô - mẫu 3
Lý Thái Tổ đã viện dẫn sử sách Trung Quốc nói về việc các vương triều ở đây đã từng dời đô để làm lý lẽ cho các phần sau của bài chiếu. Những cuộc dời đô trong lịch sử đều đem lại sự hưng thịnh cho đất nước mình, việc lựa chọn dời đô là điều có lý, không có gì trái với lẽ thường cả.
Tóm tắt bài Chiếu dời đô - mẫu 4
Có các triều đại ở Trung Quốc đã nhiều lần dời đô cho nên vận nước lâu dài, nhân dân ấm no. Vậy mà hai nhà Đinh, Lê lại không dời đô nên triều đại không hưng thịnh. Lí Thái Tổ, xét thấy thành Đại La có đủ các điều kiện thuận lợi về vị thế, đặc điểm thuận lợi để làm kinh đô của các bậc đế vương muôn đời nên quyết định dời đô từ Hoa Lư (Ninh Bình) về thành Đại La (Thăng Long, Hà Nội).
Tóm tắt bài Chiếu dời đô - mẫu 5
Mở đầu Thiên đô Chiếu, tác giả nói đưa dẫn chứng từ nhà Thương đến vua Bàn Canh, năm lần dời đô; nhà Chu đến vua Thành Vương cũng ba lần dời đô. Chỉ vì muốn đóng đô ở nơi trung tâm, mưu toan nghiệp lớn, tính kế muôn đời cho con cháu; trên vâng mệnh trời, dưới theo ý dân, nếu thấy thuận tiện thì thay đổi. Cho nên vận nước lâu dài, phong tục phồn thịnh nên nhà vua rất đau xót về việc đó, không thể không đổi dời.
Phần tiếp theo của Thiên đô chiếu, tác giả nói đến sự thuận lợi của thành Đại La, nơi trung tâm của trời đất, ở thế rồng cuộn hổ ngồi. Địa thế rộng bằng, đất đai cao mà thoáng, dâ chúng không phải khốn khổ ngập lụt. Xem khắp đất Việt, chỉ có nơi này là thắng địa, chốn hội tụ trọng yếu của bốn phương đất nước, nơi kinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời. Từ đó nhà vua đưa ra lựa chọn và muốn quần thần suy nghĩ, đưa ra ý kiến.
Tóm tắt bài Chiếu dời đô - mẫu 6
Chiếu dời đô hay Thiên đô chiếu là một đoạn văn được nhà sử học Ngô Sĩ Liên ghi lại sớm nhất ở thế kỷ XV trong sách Đại Việt sử ký toàn thư. Việc xuất hiện bài chiếu có ý nghĩa rất nhiều đối với lịch sử Hoa Lư và Thăng Long. Nó làm nên tính chất trọng đại của hành trình 1000 năm lịch sử. Đó là một áng văn của thời khắc lịch sử từ Hoa Lư đến Thăng Long – một bước ngoặt hào hùng của dân tộc Việt Nam.
“Chiếu dời đô” là một bài văn nghị luận giàu sức thuyết phục bởi có sự kết hợp giữa lý và tình. lời văn tạo nên sự đồng cảm sâu sắc giữa mệnh lệnh của vua với thần dân. Dời đô từ vùng núi Hoa Lư ra vùng đồng bằng đất rộng để chứng tỏ triều đình nhà Lý đủ sức chấm dứt nạn phong kiến cát cứ, thế và lực của dân tộc Đại Việt đủ sức sánh ngang hàng phương Bắc. Qua đó, có thể thấy được khát vọng mãnh liệt của tổ tiên về một nước Đại Việt độc lập, thống nhất, hùng cường và tư thế hiên ngang của một quốc gia tự chủ đang trên đà phát triển lớn mạnh.
Tóm tắt bài Chiếu dời đô - mẫu 7
Trong lịch sử Trung Quốc đã có rất nhiều triều đại quyết định dời đổi kinh đô và điều đó làm cho triều đại hưng thịnh hơn. Ở nước ta, hai nhà Đinh – Lê không chịu dời đổi đã khiến vận nước ngắn ngủi. Lí Công Uẩn rất đau lòng về việc đó, muốn dời đổi để đất nước phát triển hơn. Xét về vị trí địa lí, lịch sử, những đặc điểm thuận lợi để phát triển thì thành Đại La xứng đáng là kinh đô bậc nhất của để vương muôn đời.
Tóm tắt bài Chiếu dời đô - mẫu 8
Lí Thái Tổ sau thời gian ngắn lên ngôi đã đưa ra quyết định dời đô từ Hoa Lư ra Đại La, về sau đổi tên là Thăng Long .“Chiếu dời đô” tác phẩm đã nêu lên một số viện dẫn từ sử sách Trung Quốc về cuộc dời đô: “Bàn Canh năm lần dời đô”, “Thành Vương cũng ba lần dời đô”. Cuộc dời đô lần này phù hợp với mệnh trời, lòng dân đồng thuận, việc đời đô đã được tính toán cho con cháu đời sau. Nhà vua phê phán các đời trước đó là nhà Đinh và nhà Lê không goi gương nhà Thương mà cứ để kinh đô ở Hoa Lư.
Nhà vua ca ngợi Đại La là nơi thích hợp để làm kinh đô của Đại Việt. Đại La “ở vào nơi trung tâm trời đất… “được cái thế rồng cuộn hổ ngồi”, “lại tiện hướng nhìn sông dựa núi”, “Địa thế rộng mà bằng, cao mà thoáng”. Tác giả còn ca ngợi Đại La là “Chốn hội tụ trọng yếu của bốn phương đất nước”, là “kinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời”. Thiên thời địa lợi nhân hòa mọi yếu tố đều thuận lợi để đóng đô tại đây.
Việc dời đô từ Hoa Lư ra Đại La là quyết định đúng đắn, hợp lý, thuận với lòng dân và thể hiện tầm nhìn sâu rộng của Lí Thái Tổ.
Tóm tắt bài Chiếu dời đô - mẫu 9
Lý Công Uẩn là một võ tướng tài ba, đức độ. Khi Lê Ngọa Triều chết, Lý Công Uẩn được triều thần tôn lên làm vua và lấy hiệu là Lý Thái Tổ gây dựng lên nhà Lý tồn tại hơn 200 năm. Khi lên ngôi, Lý Thái Tổ đã quyết định dời đô từ Hoa Lư về Đại La (Thăng Long, Hà Nội) vào năm 1010 và viết “Chiếu dời đô”. Đây là một văn kiện có ý nghĩa lịch sử to lớn.
Phần đầu của chiếu dời đô chính là mục đích và tầm quan trọng của việc dời đô. Tác giả đã nêu Lên những cơ sở để làm tiền đề cho việc dời đô. Như chúng ta đã biết thì từ cổ chí kim việc dời đô là việc thường xuyên của các nhà vua với mục đích là tìm ra chỗ hợp phong thủy, góp phần làm cho đất nước hưng thịnh.
Ở trong tác phẩm, Lý Công Uẩn đã đưa ra dẫn chứng của những vị vua bên Trung Quốc trước đó. Trước kia nhà Thương đến vua Bàn Canh đã có tới năm lần dời đô. Rồi thời nhà Chu đến thời vua Thành Vương cũng có tới ba lần dời đô. Còn khẳng định rằng việc chuyển dời mà phải xem xét chứ đâu phải tự ý chuyển dời được.
Phần thứ hai tác giả phân tích thực tế để cho mọi người thấy được kinh đô cũ không còn thích hợp để mở mang đất nước nữa. Thậm chí còn không ngần ngại việc phê phán những triều đại cũ ở nước ta. Tiêu biểu đó là nhà Đinh, Lê khi khinh thường mệnh trời, đón đô yên ở đây khiến cho vận nước ngắn ngủi.
“Chiếu dời đô” (Thiên đô chiếu) chính là áng văn xuôi cổ độc đáo và đặc sắc. Tác phẩm đã thể hiện khí phách anh hùng dám đương đầu với thử thách và vững tin vào khả năng của mình của Lý Công Uẩn. Chính ông đã đặt nền móng cho sự phát triển hưng thịnh và lâu dài của đất nước.
Tóm tắt bài Chiếu dời đô - mẫu 10
“Chiếu dời đô” là áng văn chính luận, lí lẽ sắc bén dưới cái nhìn vượt thời đại của vua Lý Thái Tổ. Tác phẩm ra đời không chỉ để thông báo quyết định rời kinh thành từ Hoa Lư (Ninh Bình) ra Đại La (Hà Nội) mà còn cho thấy tầm nhìn xa trông rộng của một minh quân dân chủ, thấu ý trời tỏ lòng dân.
Tác phẩm được chia thành 2 phần, phần đầu tiên phân tích những lý do cần thiết phải dời kinh thành và phần 2 là lý do tại sao chọn Đại La làm kinh đô mới của đất nước. Thông qua những bài học lịch sử, dẫn chứng những ví dụ chuyển kinh đô của nước bạn Trung Quốc. Chuyện rời đô từ xưa không còn là chuyện hiếm, mục đích cuối cùng cũng vì sự hưng thịnh của quốc gia.
Kinh thành Hoa Lư với núi non hiểm trở không còn phù hợp trong thời bình, với lợi thế và địa hình núi rừng như vậy chỉ phù hợp trong thời chiến còn khi hòa bình lại trở thành khó khăn. Nhân dân lúc này cần một nơi có địa hình bằng phẳng, đất đai màu mỡ, giao thông thuận lợi để thúc đẩy giao lưu và buôn bán. Bộ máy hành chính cần được đặt ở trung tâm của đất nước. Và dời đô lúc này chính là hợp ý trời và thuận lòng dân.
Lý Công Uẩn đã chứng minh rằng Đại La xứng đáng là kinh đô của nước Việt muôn đời “Huống gì thành Đại La, kinh đô cũ của Cao Vương: Ở vào nơi trung tâm trời đất; được cái thế rồng cuộn hổ ngồi. Đã đúng ngôi nam bắc đông tây; lại tiện hướng nhìn sông dựa núi. Địa thế rộng mà bằng; đất đai cao mà thoáng. Dân cư khỏi chịu cảnh khốn khổ ngập lụt; muôn vật cũng rất mực phong phú tốt tươi”.
Thành Đại La dưới góc nhìn và phân tích của nhà vua hiện lên là vị trí trung tâm của đất nước, là đầu mối giao lưu kinh tế, văn hóa, chính trị của cả nước. Có thể rồng cuộn hổ ngồi, địa hình đa dạng, khoáng đạt, mở ra bốn hướng tiện cho sự phát triển bền vững của quốc gia. Thành Đại la sở hữu mọi điều kiện để trở thành kinh đô mới của Đại Việt ta.
“Chiếu dời đô” là áng văn chính luận có giá trị sâu sắc, thể hiện tài năng, tầm nhìn xa trông rộng bắt nguồn từ thực tế lịch sử vì một Đại Việt hùng mạnh trong tương lai.
Tóm tắt bài Chiếu dời đô - mẫu 11
Chiếu dời đô phản ánh ý chí tự cường và khát vọng về một đất nước độc lập, thống nhất, lớn mạnh của dân tộc Đại Việt. Bài chiếu có sức thuyết phục mạnh mẽ vì trên thuận ý trời, dưới hợp lòng người, có sự kết hợp hài hòa giữa lí với tình. Để giải tỏa tâm trạng băn khoăn của không ít người trước việc dời đô, tác giả khẳng định dời đô là việc làm thường xuyên xảy ra trong lịch sử các triều đại phong kiến từ trước tới nay.
Chiếu dời đô phản ánh ý chí độc lập tự cường của dân tộc và sự phát triển lớn mạnh của quốc gia Đại Việt. Qua đó, chúng ta có thể thấy được khát vọng mãnh liệt của tổ tiên về một nước Đại Việt độc lập, thống nhất, hùng cường và tư thế hiên ngang của một quốc gia tự chủ đang trên đà phát triển lớn mạnh.
Dời đô từ vùng núi Hoa Lư chật hẹp ra vùng đồng bằng rộng rãi, điều đó chứng tỏ triều đình nhà Lí đã đủ khả năng chấm dứt nạn phong kiến cát cứ trong nước và đủ sức chống cự với quân xâm lược phương Bắc. Việc Lí Thái Tổ định đô ở Thăng Long là thực hiện nguyện vọng của nhân dân thu giang sơn về một mối, để có điều kiện xây dựng đất nước ngày càng lớn mạnh.
Sự đúng đắn của quyết định dời đô đã được lịch sử chứng minh một cách hùng hồn. Thăng Long xưa – thủ đô Hà Nội ngày nay xứng đáng là trái tim của Tổ quốc, là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của đất nước, đã vững vàng trước mọi thử thách ác liệt của nhiều cuộc chiến tranh chống giặc ngoại xâm.
Tóm tắt bài Chiếu dời đô - mẫu 12
Năm 1010, vua Lí Thái Tổ đã rời từ kinh đô Hoa Lư (Ninh Bình) ra Đại La (Thăng Long – Hà Nội ngày nay). Đây là một sự kiện lịch sử quan trọng, đánh dấu thời kì phát triển mạnh mẽ của triều đại phong kiến Việt Nam thời đó.
Và nhà vua đã viết lên “Chiếu dời đô” để thông báo cho quần chúng được biết về sự việc dời đô đó. Bản chiếu vượt ra khỏi chức năng hành chính nhà nước thông thường, trở thành một tác phẩm vừa có giá trị lịch sử lại vừa có giá trị văn học độc đáo. “Chiếu dời đô” phản ánh khát vọng của nhân dân về một đất nước độc lập, thống nhất, đồng thời phản ánh ý chí tự cường của dân tộc Đại Việt đang trên đà lớn mạnh.
Trước hết, đoạn văn đầu nêu lên tiền đề, cơ sở lịch sử và thực tiễn của việc dời đô. Nhà vua không trực tiếp “áp đặt” mệnh lệnh của mình xuống quần thần mà ngược lại đưa ra những lí lẽ, dẫn chứng rất tiêu biểu về các triều đại cũ trong lịch sử trước đó của cả Trung Quốc và Đại Cồ Việt. Nhà Thương năm lần dời đô, nhà Chu ba lần dời đô chỉ nhằm mục đích để “vận nước lâu dài, phong tục phồn thịnh”.
Đoạn văn tiếp theo, nhà vua đưa ra những lý do để chọn thành Đại La là kinh đô mới. Dưới con mắt của nhà vua, thành Đại La hiện lên thực sự là một vùng đất hội tụ, chung đúc khí thiêng của muôn đời. Xét về vị trí địa lí, đây là nơi trung tâm của cả nước, có thế đất đẹp (rồng cuộn hổ ngồi) nhìn ra bốn phương nam , bắc, đông, tây, có núi có sông, đất đai rộng mà bằng, cao mà thoáng, không lo lụt lội. Về chính trị, là đầu mối giao lưu của bốn phương, dân cư đông đúc, đất đai màu mỡ, muôn vật phong phú tốt tươi.
Tóm lại, với nghệ thuật lập luận mạch lạc, chặt chẽ, lí lẽ sắc bén, dẫn chứng thuyết phục, tình cảm chân thành, bài chiếu đã có sức lay động tới trái tim đồng cảm của hàng triệu triệu người dân thời bấy giờ. Nguyện vọng dời đô của nhà vua đã được quân thần ủng hộ, cho thấy Lí Thái Tổ là vị vua thực sự là một bậc minh vương sáng suốt. Đồng thời qua bài chiếu, chúng ta cũng thấy được khát vọng của nhân dân về một đất nước độc lập, thống nhất, phản ánh ý chí tự cường của dân tộc Đại Việt đang trên đà lớn mạnh, phát triển, sáng tươi huy hoàng.
Tóm tắt bài Chiếu dời đô - mẫu 13
Bài Chiếu phản ánh khát vọng của nhân dân về một dân tộc độc lập thống nhất, mà cũng mang ý nghĩa là khẳng định ý chí tự cường của dân tộc Đại Việt trong quá trình phát triển và trưởng thành. Bài Chiếu này không chỉ đơn thuần là một lời kêu gọi đổi mới và di cư đến một vùng đất mới, mà còn là một tín hiệu mạnh mẽ cho sự phát triển và thăng tiến của dân tộc. Bằng việc tiếp nhận và thực hiện những ý tưởng trong Chiếu, chúng ta có thể tạo ra một quốc gia mạnh mẽ, giàu có và công bằng.
Bài Chiếu này thực sự là một bước quan trọng trong quá trình xây dựng quốc gia. Nó không chỉ tạo ra sự độc lập thống nhất cho Đại Việt, mà còn khẳng định vị thế của dân tộc trên trường quốc tế. Đồng thời, nó cũng tạo ra một tầm nhìn mới cho dân tộc, khơi dậy niềm tự hào và lòng yêu nước.
Tóm tắt bài Chiếu dời đô - mẫu 14
Có nhiều triều đại Trung Quốc đã dời đô nhiều lần, từ đó đất nước luôn được thịnh vượng, nhân dân được sống an lành. Trong khi đó, hai triều đại Đinh và Lê không dời đô, dẫn đến sự không phát triển của triều đại. Lí Thái Tổ nhận thức được tiềm năng của thành Đại La, quyết định dời đô từ Hoa Lư (Ninh Bình) về thành Đại La (Thăng Long, Hà Nội).
Tóm tắt bài Chiếu dời đô - mẫu 15
Trong lịch sử Trung Quốc xưa kia nhà Thương, nhà Chu đã có nhiều lần dời đô và điều đó làm cho các triều đại đều hưng thịnh. Ở nước ta, hai nhà Đinh - Lê theo ý mình, khinh thường mệnh trời, không chịu dời đổi nên vận nước ngắn ngủi, nhân dân lầm than. Vì vậy, Lí Công Uẩn rất đau xót về việc đó, ông muốn dời đô ra Đại La để đất nước hùng mạnh hơn. Xét về địa lí, lịch sử, Đại La là chốn tụ hội trọng yếu của bốn phương đất nước, là nơi kinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời.
Tóm tắt bài Chiếu dời đô - mẫu 16
Theo lịch sử Trung Quốc, các triều đại thường dời đô để thúc đẩy sự phát triển của đất nước. Trong khi đó, nhà Đinh và nhà Lê không hiểu biết sâu sắc về ý trời nên không dám dời đô, dẫn đến vận nước suy thoái và nhân dân khốn khổ. Trước những bài học đó, Lí Công Uẩn muốn dời đô từ Hoa Lư ra thành Đại La để đất nước trở nên mạnh mẽ hơn. Ông chứng minh rằng việc này là đúng đắn và cần thiết.
Tóm tắt bài Chiếu dời đô - mẫu 17
Đây là một văn bản thể hiện lòng yêu nước, khát khao tự do và sự tự hào về dân tộc Việt Nam, đồng thời thể hiện ý chí mạnh mẽ của dân tộc trong việc đấu tranh cho độc lập, tự do và thống nhất đất nước.
Tóm tắt bài Chiếu dời đô - mẫu 18
Trong Chiếu dời đô, tác giả giới thiệu các ví dụ về việc dời đô ở Trung Quốc và thấy rằng việc này là cần thiết để đất nước phát triển. Lý Thái Tổ đã chọn thành Đại La làm đô để thể hiện sự tự tin và quyết tâm xây dựng một đế chế mạnh mẽ cho dân tộc.
Tóm tắt bài Chiếu dời đô - mẫu 19
Lịch sử Trung Quốc chứng minh các triều đại vì muốn đất nước được hưng thịnh nên đã quyết định dời đô. Còn ở nước ta, nhà Đinh và nhà Lê tầm nhìn hạn hẹp, không theo ý trời - không chịu đổi dời nên vận nước ngắn hạn, nhân dân lầm than.Trước những bài học của các thế hệ đi trước đó, Lí Công Uẩn muốn dời đô để giúp đất nước hùng mạnh và phát triển hơn. Vì vậy, ông đã đưa ra ý muốn của mình và hỏi quân thần, nhân dân về việc dời đô từ Hoa Lư ra thành Đại La -xét về mọi mặt, mọi phương diện địa lí, lịch sử thì Đại La là chốn tụ hội trọng điểm của đất nước. Lí Công Uẩn cho thấy việc rời đô là đúng đắn.
Tóm tắt bài Chiếu dời đô - mẫu 20
Lý Thái Tổ đã trích dẫn từ sách sử Trung Quốc để chứng minh việc dời đô là một biện pháp hợp lý, mang lại sự thịnh vượng cho đất nước. Việc này cũng là một phần trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước.
Tóm tắt bài Chiếu dời đô - mẫu 21
Trong lịch sử xa xưa của Trung Quốc, nhà Thương và nhà Chu đã từng có nhiều lần dời đô, và điều này đã tác động đáng kể đến sự phát triển và thịnh vượng của các triều đại. Tuy nhiên, trong lịch sử của nước ta, hai nhà Đinh – Lê đã không tuân thủ mệnh trời và cố tình không chịu thay đổi, dẫn đến sự suy thoái ngắn ngủi của đất nước và sự khốn khó của nhân dân. Vấn đề này đã khiến Lí Công Uẩn, một nhà lãnh đạo thông thái và yêu nước, cảm thấy rất đau xót và quyết định đưa ra đề xuất dời đô ra Đại La, nhằm đem lại sự mạnh mẽ và thịnh vượng cho đất nước.
Đại La, với vị trí địa lý và quyết định lịch sử đáng chú ý, đã trở thành một trung tâm quan trọng và tụ hội của bốn phương đất nước. Nó được coi là nơi có kinh đô bậc nhất của các vị vua và đế vương trong suốt hàng ngàn năm qua. Có thể nói rằng Đại La là trái tim của đất nước, nơi mà sự quyền lực, văn hóa và thương mại gặp nhau, và tạo nên một bức tranh tuyệt đẹp về sự thịnh vượng và sự phồn vinh.
Đại La cũng là một trung tâm giao thương sầm uất, nơi mà các vị quan chính trị, quân sự và kinh tế tập trung. Đây là nơi hội tụ của những người tài giỏi và tư duy sáng tạo, nơi mà các ý tưởng mới được đề xuất và triển khai. Sự thịnh vượng và quyền lực của Đại La đã thu hút sự chú ý và lòng tôn kính của các quốc gia lân cận, và đóng vai trò quan trọng trong việc thể hiện sự vĩ đại và uy quyền của đế vương.
Với tầm quan trọng và tiềm năng của mình, việc dời đô ra Đại La sẽ mang lại lợi ích to lớn cho đất nước. Đây là một quyết định đúng đắn và mang tính chiến lược, nhằm xây dựng một đất nước hùng mạnh và thịnh vượng hơn. Bằng việc tập trung tài nguyên và sự chú trọng vào việc phát triển Đại La, chúng ta có thể tạo ra một môi trường thuận lợi cho sự phát triển kinh tế, văn hóa và xã hội, từ đó tạo ra sự tiến bộ và phồn vinh cho cả đất nước và nhân dân.
Vì vậy, việc dời đô ra Đại La không chỉ là một quyết định đúng đắn mà còn là một bước tiến quan trọng trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước. Đại La sẽ trở thành một biểu tượng cho sự thịnh vượng và quyền lực, và là một minh chứng cho sự vĩ đại và uy quyền của đế vương. Qua đó, chúng ta có thể truyền cảm hứng và tạo động lực cho tất cả những người dân của đất nước, khát khao và hướng đến một tương lai tươi sáng và thành công.
Tóm tắt bài Chiếu dời đô - mẫu 22
Lý Thái Tổ đã trích dẫn từ một trong những cuốn sách lịch sử Trung Quốc nổi tiếng để chứng minh rằng các vương triều ở đây đã từng dời đô với mục đích làm lý lẽ cho các phần sau của bài chiếu. Những sự thay đổi địa điểm đô thành trong lịch sử đã có ảnh hưởng tích cực lớn đến sự phát triển và thịnh vượng của đất nước. Việc lựa chọn dời đô không chỉ là một quyết định có lý, mà còn phản ánh đúng quy luật phát triển tự nhiên và tiến bộ của xã hội.
Trong quá khứ, các cuộc dời đô đã mang lại những lợi ích kinh tế, chính trị và văn hóa đáng kể cho quốc gia. Khi một vương triều quyết định dời đô, nó không chỉ tạo ra một cơ hội mới để thúc đẩy kinh tế và thúc đẩy quá trình đô thị hóa, mà còn thể hiện sự lãnh đạo mạnh mẽ và quyết đoán của nhà vua. Việc dời đô cũng tạo điều kiện cho việc xây dựng các công trình công cộng mới, như cung điện, đền đài và các công trình kiến trúc khác, làm tăng sự giàu có và sự phát triển văn hóa của quốc gia.
Ngoài ra, việc dời đô còn đóng góp vào việc thúc đẩy mối quan hệ ngoại giao và mở rộng vùng ảnh hưởng của quốc gia. Khi một vương triều dời đô, nó thường tạo ra sự chú ý và sự quan tâm từ các quốc gia khác, đồng thời tạo ra cơ hội để thiết lập các liên minh mới và mở rộng mạng lưới quan hệ đối tác. Điều này không chỉ củng cố sự ổn định và an ninh của quốc gia, mà còn tạo ra những cơ hội mới để thúc đẩy trao đổi văn hóa, kinh tế và khoa học kỹ thuật với các quốc gia khác.
Tóm tắt bài Chiếu dời đô - mẫu 23
Chiếu dời đô của Lý Công Uẩn được tổ chức thành 3 phần chính, mỗi phần mang đến thông tin quan trọng và có vai trò quyết định trong quá trình dời đô.
Phần 1 (Từ “Xưa nhà Thương” đến “không thể không dời đổi”): Trình bày những lí do và cơ sở của việc dời đô. Lý Công Uẩn đưa ra các lý luận về sự cần thiết và tầm quan trọng của việc dời đô, từ những vấn đề kinh tế, quân sự đến văn hóa xã hội. Ông nhấn mạnh rằng dời đô là bước cần thiết để vươn lên và phát triển quốc gia.
Phần 2 (“Huống gì” đến “muôn đời”): Trình bày những lí do lựa chọn Đại La làm kinh đô. Lý Công Uẩn giải thích tại sao ông đã chọn Đại La, một vùng đất hùng vĩ và có vị trí địa lý đắc địa, để xây dựng kinh đô mới. Ông đề cao những lợi ích và tiềm năng của Đại La, từ việc tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế đến việc đẩy mạnh quân sự và mở rộng lãnh thổ.
Phần 3 (Còn lại): Thông báo quyết định dời đô và kết thúc chiếu. Trong phần này, Lý Công Uẩn chính thức thông báo quyết định dời đô và đưa ra những lời kết thúc nhẹ nhàng nhưng đầy sức mạnh. Ông khẳng định sự quyết tâm và sự lãnh đạo vững vàng của mình, và mong rằng dự án dời đô sẽ tạo nên một thế hệ mới phát triển và thịnh vượng cho đất nước.
Giọng đọc:
Hào hùng, đanh thép, vươn lên từng âm vang để đem lại sự sống động và tạo nên một trải nghiệm nghe hấp dẫn cho người nghe. Qua giọng đọc này, người nghe sẽ cảm nhận được sự quyết đoán và lòng đam mê của Lý Công Uẩn trong việc dời đô và xây dựng một kinh đô vĩ đại.
Tóm tắt bài Chiếu dời đô - mẫu 24
Lịch sử của Trung Quốc không chỉ là một chuỗi sự kiện lịch sử, mà còn là một bài học quý giá về việc quyết định di chuyển đô thành các vị trí khác nhau để thúc đẩy sự hưng thịnh của đất nước. Trong khi đó, ở nước ta, nhà Đinh và nhà Lê đã mắc phải những hạn chế về tầm nhìn và không sẵn lòng thay đổi, dẫn đến việc vận nước ngắn hạn và nhân dân lầm than. Từ những bài học đắt giá được rút ra từ những thế hệ tiền nhiệm, Lí Công Uẩn đã nhận ra tầm quan trọng của việc dời đô trong việc thúc đẩy sự phát triển và hùng mạnh của đất nước.
Lí Công Uẩn đã không ngần ngại đưa ra ý muốn của mình và thảo luận với quân thần và nhân dân về việc dời đô từ Hoa Lư ra thành Đại La. Với mọi mặt và mọi phương diện địa lý và lịch sử được cân nhắc kỹ lưỡng, Đại La đã được xem là một chốn tụ hội trọng điểm của đất nước. Việc rời đô ra Đại La đã cho thấy sự đúng đắn và sáng suốt của Lí Công Uẩn trong việc định hướng tương lai của đất nước.
Việc di chuyển đô không chỉ mang lại sự thay đổi về mặt vị trí địa lý, mà còn có tác động rõ rệt đến nền văn hóa, kinh tế và xã hội của đất nước. Đại La đã trở thành một trung tâm văn hóa và kinh tế sầm uất, thu hút những tài năng và nguồn lực quan trọng, góp phần vào sự phát triển toàn diện của đất nước.
Nhìn chung, quyết định dời đô của Lí Công Uẩn không chỉ là một hành động vô tình, mà là một chiến lược chiến thắng cho sự hùng mạnh và phát triển của đất nước. Việc học từ lịch sử Trung Quốc và áp dụng vào thực tế của chúng ta là một bài học không thể bỏ qua, đồng thời khẳng định tầm quan trọng của việc đổi mới và thích ứng để đạt được sự tiến bộ và phát triển bền vững.
Tóm tắt bài Chiếu dời đô - mẫu 25
Trong Thiên đô Chiếu, tác giả nêu rõ số lần dời đô của nhà Thương và nhà Chu vì mong muốn đóng đô ở vị trí trung tâm, mang lại lợi ích lâu dài cho quốc gia. Nhưng việc này đã gây ra đau khổ cho nhà vua và dẫn đến việc thay đổi.
Phần tiếp theo của Thiên đô Chiếu đề cập đến lợi thế của thành Đại La, nơi có diện tích rộng, mặt đất cao và thoáng đãng, không bị ngập lụt. Đây là địa điểm phù hợp để làm kinh đô và là điểm hội tụ quan trọng của cả nước. Nhà vua đã đưa ra lựa chọn và mong muốn nghe ý kiến của quần thần.
Sơ đồ tư duy Phân tích Chiếu dời đô của Lí Công Uẩn
Dàn ý chi tiết Phân tích Chiếu dời đô của Lí Công Uẩn
I. Mở bài
- “Chiếu dời đô” không chỉ là một văn bản chính trị quan trọng của dân tộc mà còn là áng văn chính luận đặc sắc của Lý Thái Tổ - vị vua khai sinh ra vương triều nhà Lý.
II. Thân bài:
* Luận điểm 1: Những tiền đề, cơ sở để dời đô (Lí do phải dời đô)
- Nhắc lại lịch sử dời đô của các triều đại hưng thịnh ở Trung Quốc:
+ Nhà Thương: 5 lần dời đô ; nhà Chu: 3 lần dời đô
+ Lí do dời đô của 2 nhà Thương, Chu: đóng đô ở nơi trung tâm, mưu toan nghiệp lớn, tính kế muôn đời, …hễ thấy thuận tiện thì đổi.
+ Kết quả của việc dời đô: vận nước lâu dài, phong tục phồn thịnh
⇒ Những tấm gương sáng chứng minh dời đô là việc “thường niên” của các triều đại lịch sử.
- Phê phán hai nhà Đinh, Lê:
+ Khinh thường mệnh trời
+ Không biết noi theo các tấm gương sáng của 2 nhà Thương, Chu
+ Hậu quả: triều đại ngắn ngủi, nhân dân không thể phát triển được.
⇒ Những cơ sở thuyết phục để khẳng định dời đô là điều nên làm của các triều đại hưng thịnh, đặc biệt là trong hoàn cảnh nhà Lý lúc bấy giờ đang rất cần một nơi hội tụ đầy đủ linh khí, sức mạnh đất trời để phát triển.
* Luận điểm 2: Những lợi thế bậc nhất của thành Đại La
- Thành Đại La có những lợi thế tuyệt vời mà khó nơi nào có được
+ Vị trí địa lý: ở vào nơi trung tâm trời đất, hợp cả 4 hướng nam, bắc, đông, tây, + Thế đất: “rồng cuộn hổ ngồi”, được coi là thế đất đẹp, có tương lai phát triển thịnh vượng
+ Địa thế: rộng rãi, bằng phẳng, đất cao, thoáng
+ Dân cư: không bị ảnh hưởng của thiên tai ngập lụt
+ Phong cảnh: tốt tươi, tràn đầy sức sống
⇒ Thành Đại La xứng đáng là thánh địa của trời đất, là nơi thích hợp nhất để đóng đô muôn đời. Qua đó, thể hiện khát vọng của nhà vua về một đất nước thái bình, thịnh trị và ý thức dân tộc, tự chủ, tự lập, tự cường của một quốc gia phong kiến.
* Luận điểm 3: Lời tuyên bố của vua
- Chiếu là một thể văn chính luận được dùng để nhà vua ban bố mệnh lệnh đến quần thân, thiên hạ, vì vậy, lời văn trong chiếu thường trang trọng, cứng nhắc và mang sắc thái bắt buộc.
- Lời tuyên bố của vua Lý Thái Tổ lại khác: đầu tiên vua đưa ra mong muốn dời đô của bản thân, sau đó lại hỏi ý kiến quần thần ⇒ thể hiện sự gần gũi, mang tính dân chủ, không ép buộc, gò bó, xa cách. Đó chính là sự khác biệt của vua Lý Thái Tổ - một vị vua yêu nước, thương dân, hết lòng muốn cống hiến cho đất nước, cho nhân dân.
* Luận điểm 4: Nghệ thuật
- Lập luận chặt chẽ, logic, chứng cứ xác thực tạo ra sức thuyết phục mạnh mẽ
- Câu văn biền ngẫu tạo nhịp điệu
- Sự kết hợp hài hòa giữa lí và tình
III. Kết bài:
- Khẳng định lại giá trị tác phẩm: “Chiếu dời đô” xứng đáng là áng văn chính luận mẫu mực.
- Liên hệ và đánh giá tác phẩm: Qua đó, ta thấy được tài năng lãnh đạo, tầm nhìn xa trông rộng và tấm lòng của vua Lý Thái Tổ đối với đất nước, nhân dân.
Bài văn mẫu: Phân tích Chiếu dời đô của Lí Công Uẩn – mẫu 1
Trong chế độ phong kiến Việt Nam, Lí Công Uẩn được biết đến là một trong những vị minh quân có tầm nhìn xa trông rộng, lo lắng cho vận mệnh đất nước. Điều này đã được thể hiện rõ thông qua việc ông quyết định dời đô từ Hoa Lư (Ninh Bình) ra thành Đại La (Hà Nội). Sự kiện chính trị này gắn với một tác phẩm văn học có giá trị là “Chiếu dời đô”. Bằng lập luận chặt chẽ, thuyết phục, bài chiếu chứa đựng những giá trị nhân văn sâu sắc.
Đầu tiên, trong tác phẩm này, giá trị nhân văn thể hiện qua mục đích và dời đô và nỗi lòng của tác giả. Mục đích của việc dời đô từ Hoa Lư ra thành Đại La là vì lo lắng cho vận mệnh đất nước. Nhận thấy những khó khăn ở nơi đóng đô hiện tại, cụ thể là địa hình núi hiểm trở gây ra nhiều khó khăn để phát triển đất nước trong thời bình.
Tác giả nêu ra những tấm gương không ngần ngại dời đô: “Xưa nhà Thương đến đời Bàn Canh năm lần dời đô, nhà Chu đến đời Thành Vương ba lần dời đô” cùng với việc khẳng định đây là việc tất yếu nếu muốn phát triển đất nước. Vì hai nhà Đinh, Lê không nhận ra điều này nên “cứ chịu yên đóng đô nơi đây, đến nỗi thế đại không dài, vận số ngắn ngủi, trăm họ tổn hao, muôn vật không hợp” khiến cho tác giả lo lắng cho vận nước.
Chứng kiến cảnh nhân dân khổ cực, lầm than, Lí Công Uẩn “vô cùng đau xót”. Lời bộc bạch chân thành đã làm nổi bật hình ảnh của một ông vua yêu nước, thương dân và luôn khắc khoải về vận mệnh dân tộc. Như vậy, giá trị nhân văn đã được thể hiện qua tấm lòng của bậc minh quân, một lòng muốn dời đô để phát triển đất nước, tạo nên thái bình cùng cuộc sống an vui của con dân.
Giá trị nhân văn của tác phẩm còn được thể hiện qua lí do chọn Đại La làm kinh đô: “ở vào nơi trung tâm trời đất, được thế rồng cuộn hổ ngồi, chính giữa nam bắc đông tây, tiện nghi núi sông sau trước. Vùng này mặt đất rộng mà bằng phẳng, thế đất cao mà sáng sủa, dân cư không khổ thấp trũng tối tăm, muôn vật hết sức tươi”.
Tác giả đã phân tích những ưu điểm về mặt địa lí, phong thủy của vùng đất Đại La. Việc nhìn nhận địa thế của Đại La không những thể hiện sự hiểu biết sâu rộng mà còn cho thấy tầm nhìn xa trông rộng của sự thấu tình đạt lí trong việc quyết định dời đô.
Tuy là một bài chiếu nhưng “Chiếu dời đô” lại thấm đẫm giá trị nhân văn bởi một lẽ, Lí Công Uẩn không hề ép buộc nhân dân phải làm theo ý mình. Chiếu vốn thuộc thể loại văn học chức năng, là lời ban bố của vua truyền xuống nhân dân nhưng xuyên suốt bài chiếu, chúng ta không hề bắt gặp bất cứ từ ngữ mang tính chất khẩu lệnh hay ép buộc nào.
Ngược lại, bài chiếu được viết nên đầy cảm xúc: “Trẫm muốn nhân địa lợi ấy mà định nơi ở, các khanh nghĩ thế nào?”. Việc dời đô giống như được đưa ra trưng cầu ý dân bằng lập luận chặt chẽ, lí lẽ và dẫn chứng thuyết phục, giọng văn ôn hòa, lời văn chân thật.
Như vậy, tuy thuộc là thể loại văn học chức năng với mục đích ban bố mệnh lệnh nhưng “Chiếu dời đô” không hề khô khan mà rất giàu cảm xúc. Với tấm lòng yêu nước thương dân, tác giả- vị vua Lí Công Uẩn đã tạo nên một tác phẩm thấm đẫm tinh thần nhân văn.
Từ mục đích dời đô, lí do chọn Đại La làm kinh đô mới hay đến những lời bộc bạch của tác giả, chúng ta đều bắt gặp trong đó những giá trị vô cùng tốt đẹp và vì con người.
Video Phân tích Chiếu dời đô của Lí Công Uẩn
Bài văn mẫu: Phân tích Chiếu dời đô của Lí Công Uẩn – mẫu 2
Trước những biến động của nước nhà, hàng loạt các chiếu của nhà vua được ban xuống để bây giờ trở thành những tác phẩm hay có giá trị trong nền văn học Việt Nam. Cùng với chiếu cầu hiền của vua Quang Trung thì chúng ta còn được biết đến chiếu dời đô của vua Lý Công Uẩn. Bài chiếu không chỉ có ý nghĩa về mặt lịch sử mà nó còn mang nhiều nét văn học trong đó. Lý Công Uẩn nổi tiếng là một nhà vua thông minh nhân ái có trí lớn và lập được nhiều chiến công hiển hách. Khi vua Lê Ngọa Triều băng hà, ông được triều thần tôn lên làm vua, xưng là Lí Thái Tổ, lấy niên hiệu là Thuận Thiên. Năm Canh Tuất (1010), Lí Thái Tổ viết bài chiếu bày tỏ ý định dời đô từ Hoa Lư (Ninh Bình) ra thành Đại La (tức Hà Nội ngày nay).
Tương truyền khi thuyền nhà vua đến đoạn sông dưới chân thành thì chợt thấy có rồng vàng bay lên. Cho là điềm lành, Lí Thái Tổ nhân đó đổi tên Đại La thành Thăng Long.
Chiếu là một loại văn bản cổ, nội dung thông báo một quyết định hay một mệnh lệnh nào đó của vua chúa cho thần dân biết. Chiếu thường thể hiện một tư tưởng lớn lao có ảnh hưởng đến vận mệnh triều đại, đất nước. Chiếu dời đô cũng mang đầy đủ đặc điểm trên nhưng bên cạnh đó, nó cũng có những nét riêng. Đó là tính chất mệnh lệnh kết hợp hài hòa với tính chất tâm tình. Ngôn ngữ bài chiếu vừa là ngôn ngữ hành chính vừa là ngôn ngữ đối thoại. Cũng như chế và biểu, chiếu được viết bằng tản văn, chữ Hán, gọi là cổ thể; từ đời Đường (Trung Hoa) mới theo lối tứ lục gọi là cận thể (thể gần đây).
Trước hết tác giả nêu lên những dẫn chứng, những cơ sở để làm tiền đề cho việc dời đô của mình. Từ cổ chí kim việc dời đô là một việc làm thường xuyên của các nhà vua, cốt là để tìm cho hàng cung một chỗ phong thủy hợp cho sự phát triển của đất nước, góp phần hưng thịnh đất nước. Lí Công Uẩn dẫn ra hàng loạt sự dời đô của những vị vua bên Trung Quốc trước đó. Xưa nhà Thương đến vua Bàn Canh năm lần dời đô; nhà Chu đến vua Thành Vương cũng ba lần dời đô. Phải đâu các vua thời Tam đại theo ý riêng mình mà tự tiện chuyển dời ? Chỉ vì muốn đóng đô ở nơi trung tâm, mưu toan nghiệp lớn, tính kế muôn đời cho con cháu; trên vâng mệnh trời, dưới theo ý dân nếu thấy thuận tiện thì thay đổi. Cho nên vận nước lâu dài, phong tục phồn thịnh. Có thể nói bằng những dẫn chứng trên tác giả lấy đó làm tiền đề và mở đầu cho bản chiếu dời đô của mình. Dời đô không phải là một việc xấu, từ xưa nó đã diễn ra thường xuyên rồi. Mục đích của nó cốt chỉ để làm cho việc mưu sinh thêm thuận lợi, bộ máy hành chính được đặt ở trung tâm của đất nước. Dời để hợp ý trời và thuận lòng dân để từ đó đất nước phồn thịnh kéo dài.
Qua việc đưa ra những lí lẽ và dẫn chứng ấy, tác giả khẳng định việc thay đổi kinh đô đối với triều đại nhà Lí là một tất yếu khách quan. Ý định dời đô của Lí Công Uẩn bắt nguồn từ thực tế lịch sử đồng thời thể hiện ý chí mãnh liệt của nhà vua cũng như của dân tộc ta hồi đó. Nhà vua muốn xây dựng và phát triển Đại Việt thành một quốc gia hùng mạnh trong tương lai.
Tiếp theo tác giả phân tích nhưng thực tế cho thấy kinh đô cũ không còn thích hợp với sự mở mang của đất nước nữa cho nền cần thiết phải dời đô. Ông không ngần ngại phê phán những triều đại cũ "Thế mà hai nhà Đinh, Lê lại theo ý riêng mình, khinh thường mệnh trời, không noi theo dấu cũ của Thương, Chu, cứ đóng yên đô thành ở nơi đây, khiến cho triều đại không được lâu bền, số vận ngắn ngủi, trăm họ phải hao tốn, muôn vật không được thích nghi. Trẫm rất đau xót về việc đó, không thể không dời đổi". tác giả nói rằng các triều đại nhà Đinh nhà Lê đã không nghe theo ý trời nên chỉ đóng đô ở nơi đây chính vì thế mà triều đại không được lâu dài. Không biết học những cái của thời xưa như nhà Thương, nhà Chu. Vậy nên trái với khách quan thì sẽ bị tiêu vong, không đi theo quy luật thì sẽ không có kết quả tốt. Tóm lại kinh đô Đại Việt không thể phát triển được trong một quốc gia chật hẹp như thế. Nhưng thực chất thì ở giai đoạn đó hai triều đại chưa đủ mạnh cả thế và lực để tiến hành việc rời đô vùng đồng bằng trống trải nên vẫn phải dựa vào địa thế hiểm trở của rừng núi để chống thù trong, giặc ngoài. Nhưng đến thời Lí, trên đà mở mang phát triển của đất nước thì việc đóng đô ở Hoa Lư không còn phù hợp nữa. Bên cạnh những dẫn chứng thuyết phục như thế tác giả còn thể hiện giãi bày tình cảm của mình. Điều đó đã làm tăng thêm sức thuyết phục cho bài văn. Cảm xúc ấy chính là cảm xúc mà tác giả muốn phát triển đất nước theo một hướng phát triển thịnh vượng hơn, lâu dài và bền vững hơn.
Sau đó nhà vua chứng minh và khẳng định sự đúng đắn hợp quy luật và phù hợp của việc dời đô. Đại La là một nơi có tất cả các điều kiện để phát triển đất nước "Huống gì thành Đại La, kinh đô cũ của Cao Vương: Ở vào nơi trung tâm trời đất; được cái thế rồng cuộn hổ ngồi. Đã đúng ngôi nam bắc đông tây; lại tiện hưởng nhìn sông dựa núi. Địa thế rộng mà bằng; đất đai cao mà thoáng. Dân cư khỏi chịu cảnh khốn khổ ngập lụt; muôn vật cũng rất mực phong phú tốt tươi. " Đại La hiện lên đẹp về mọi mặt như địa lý, văn hóa, đầu mối giao lưu, điều kiện của dân cư và sự phong phú, tốt tươi của cảnh vật. tác giả đã nhìn từ góc nhìn của một nhà phong thủy, cho thấy tất cả những điều kiện tốt đẹp của thiên nhiên cũng như con người nơi đây. Thành Đại La ở vị trí trung tâm của đất nước. Có thế rồng cuộn hổ ngồi. Địa hình đa dạng có núi có sông, địa thế cao và khoáng đạt, mở ra bốn hướng nam, bắc, đông, tây, tiện cho việc phát triển lâu dài của quốc gia. Đây cũng là đầu mối giao lưu chính trị, văn hóa và kinh tế của cả nước. Xét toàn diện, thành Đại La có đủ điều kiện tối ưu để trở thành kinh đô mới của Đại Việt. Chứng cớ nhà vua đưa ra có sức thuyết phục rất lớn vì được cân nhắc kĩ càng trên nhiều lĩnh vực. có thể nói đây là một mảnh đất lý tưởng cho kinh đô và với những điều kiện ấy triều đại sẽ phát triển hưng thịnh. Nhà vua tự cho rằng xem cả dải đất nước Đại Việt thì chỉ có mỗi nơi đây là thánh địa. Có thể hiểu thánh địa là một nơi đất đai địa hình tốt đẹp hợp với một sự phát triển mạnh mẽ.
Kết thúc bài chiếu Lí Công Uẩn không dùng sức mạnh uy quyền để quyết định rời đô mà dùng một giọng như tham khảo ý kiến của nhân dân, bề tôi trung tín "Trẫm muốn dựa vào sự thuận lợi của đất ấy để định chỗ ở. Các khanh nghĩ thế nào?". Đó như thể hiện sự dân chủ và công bằng cho tất cả những người bề dưới, quyền quyết định đương nhiên thuộc về nhà vua thế nhưng ông vẫn muốn hỏi ý kiến phía dưới để thấy đồng lòng với người dân. Vì chỉ có hợp với lòng dân thì nhà vua cũng như đất nước mới trở nên vững bền được.
Như vậy có thể thấy Lí Công Uẩn là một vị vua thông minh, nhân ái hiền từ và rất đổi hợp lòng dân. Ông không chỉ lấy những thực tế dẫn chứng từ các triều đại trước cũng như sự tốt đẹp của địa hình Đại La mà ông còn đánh vào tình cảm để thuyết phục. Tuy là một bài chiếu có ý nghĩa ban bố mệnh lệnh nhưng Chiếu dời đô của Lí Công Uẩn rất có sức thuyết phục bởi nó hợp với lẽ trời, lòng dân. Tác giả đã sử dụng một hệ thống lập luận chặt chẽ, lí lẽ sắc bén, giọng điệu mạnh mẽ, khỏe khoắn để thuyết phục dân chúng tin và ủng hộ cho kế hoạch dời đô của mình.
Đôi nét về tác giả, tác phẩm
1. Tác giả
- Lí Công Uẩn (974-1028) tức Lí Thái Tổ
- Quê quán: Là người châu Cổ Pháp, lộ Bắc Giang (nay là xã Đình Bảng, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh)
- Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác:
+ Ông là người thông minh, có chí lớn, lập được nhiều chiến công
+ Dưới thời Lê ông làm chức Tả thân vệ Điện tiền chỉ huy sứ
+ Khi Lê Ngọa mất ông được tôn lên làm vua lấy niên hiệu là Thuận Thiên.
- Phong cách sáng tác: Sáng tác của ông chủ yếu là để ban bố mệnh lệnh, thể hiện tư tưởng chính trị lớn lao có ảnh hưởng đến vận nước
1. Hoàn cảnh sáng tác
- Năm 1010, Lí Công Uẩn quyết định dời đô từ Hoa Lư ra Đại La, đổi tên Đại Việt thành Đại Cồ Việt. Nhân dịp này ông đã viết bài chiếu để thông báo rộng rãi quyết định cho nhân dân được biết
2. Bố cục
- Phần 1: Từ “Xưa nhà Thương” đến “không thể không dời đổi”: Đưa ra những lí do, cơ sở của việc dời đô.
- Phần 2: “Huống gì” đến “muôn đời”: Những lí do chọn Đại La làm kinh đô
- Phần 3: Còn lại: Thông báo quyết định dời đô
3. Giá trị nội dung
- Bài Chiếu phản ánh khát vọng của nhân dân về một dân tộc độc lập thống nhất đồng thời phản ánh ý chí tự cường của dân tộc Đại Việt trên đà lớn mạnh
4. Giá trị nghệ thuật
- Chiếu dời đô là áng văn chính luận đặc sắc viết theo lối biền ngẫu, các vế đối nhau cân xứng nhịp nhàng
- Cách lập luận chặt chẽ, lí lẽ sắc sảo rõ ràng.
- Dẫn chứng tiêu biểu giàu sức thuyết phục.
- Có sự kết hợp hài hòa giữa tình và lí.