Sơ đồ tư duy bài Chị em Thúy Kiều (năm 2023) dễ nhớ - Ngữ văn lớp 9

Tải xuống 10 6.9 K 10

Tailieumoi.vn xin giới thiệu đến các quý thầy cô, các em học sinh lớp 9 tài liệu sơ đồ tư duy bài Chị em Thúy Kiều hay nhất, gồm 10 trang đầy đủ những nét chính về văn bản như:

Các nội dung được Giáo viên nhiều năm kinh nghiệm biên soạn chi tiết giúp học sinh dễ dàng hệ thống hóa kiến thức từ đó dễ dàng nắm vững được nội dung tác phẩm Chị em Thúy Kiều Ngữ văn lớp 9.

Mời quí bạn đọc tải xuống để xem đầy đủ tài liệu Sơ đồ tư duy bài Chị em Thúy Kiều dễ nhớ, ngắn nhất - Ngữ văn lớp 9:

 

 

Chị Em Thúy Kiều

Bài giảng: Chị em Thúy Kiều

A. Sơ đồ tư duy Chị em Thúy Kiều

1

B. Tìm hiểu Chị em Thúy Kiều

I. Tìm hiểu chung tác phẩm

1. Thể loại: Truyện thơ Nôm + Thể thơ: lục bát

2. Xuất xứ: Nằm ở phần đầu của “Truyện Kiều” (Gặp gỡ và đính ước).

3. Bố cục: 4 phần

- Phần 1: (4 câu đầu): Giới thiệu khái quát về hai chị em Thúy Kiều.

- Phần 2: (4 câu tiếp): Bức chân dung Thúy Vân.

- Phần 3: (12 câu tiếp): Bức chân dung của Thúy Kiều.

- Phần 4: (4 câu còn lại): Vẻ đẹp đức hạnh của hai chị em Thúy Kiều.

4. Giá trị nội dung

 Đoạn trích đã khắc họa rõ nét chân dung tuyệt mĩ của chị em Thúy Kiều, ca ngợi vẻ đẹp, tài năng và dự cảm về kiếp người của hai chị em Thúy Kiều, đây là biểu hiện cho cảm hứng nhân văn của Nguyễn Du.

5. Giá trị nghệ thuật

Nghệ thuật nổi bật của đoạn trích là nghệ thuật khắc họa nhân vật lí tưởng bằng bút pháp ước lệ tượng trưng – lấy vẻ đẹp của thiên nhiên làm nổi bật vẻ đẹp của con người, không miêu tả chi tiết cụ thể mà tả để gợi, sử dụng biện pháp đòn bẩy làm nổi bật vẻ đẹp của Thúy Kiều

II. Dàn ý phân tích tác phẩm

1. Bức chân dung của chị em Kiều

Đầu lòng hai ả tố nga ... Thúy Vân

- Tố nga: người con gái đẹp

+ Hình ảnh ẩn dụ

⇒ Thúy Kiều, Thúy Vân là hai người con gái xinh đẹp.

⇒ Giới thiệu vị trí của chị em Kiều trong gia đình.

 

- Dáng người thanh tao, mảnh dẻ như cây mai.

- Tâm hồn trong sáng như tuyết.

- Song mỗi người lại có vẻ đẹp riêng toàn vẹn, toàn mĩ.

- Nghệ thuật: hình ảnh ước lệ tượng trưng, thành ngữ.

⇒ Hai chị em Kiều đẹp hoàn mĩ, thanh cao, trong trắng, đẹp từ hình dáng đến tâm hồn.

2. Bức chân dung Thúy Vân

Vân xem trang trọng khác vời/ Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang

- Trang trọng: Cao sang, quí phái.

- Khuôn mặt tròn đầy như trăng rằm.

- Lông mày đẹp như mày ngài (con bướm tằm).

- Nụ cười của Thuý Vân tươi như hoa, tiếng nói trong như ngọc.

- Tóc mềm hơn mây, da trắng hơn tuyết.

+ Nghệ thuật: Hình ảnh ẩn dụ mang tính ước lệ, liệt kê, từ ngữ chọn lọc (từ Hán việt, từ chỉ mức độ).

⇒ Thúy Vân có vẻ đẹp quí phái, phúc hậu, cao sang.

⇒ Vẻ đẹp hài hòa với thiên nhiên tạo hóa.

⇒ Dự báo trước cuộc sống êm đềm, bình lặng, suôn sẻ của Thúy Vân.

3. Bức chân dung của Thúy Kiều

Kiều càng sắc sảo mặn mà/ So bề tài sắc lại là phần hơn

- Nghệ thuật: so sánh ⇒ Khẳng định vẻ đẹp vượt trội cả tài lẫn sắc của Thúy Kiều (Sắc sảo về trí tuệ. Mặn mà về tâm hồn).

- Nhan sắc:

+ Mắt trong như làn nước mùa thu

+ Lông mày đẹp như núi mùa xuân

+ Tác giả tập trung miêu tả đôi mắt của Thúy Kiều (đôi mắt thể hiện phần tinh anh của tâm hồn và trí tuệ).

+Nghệ thuật: hình ảnh ước lệ tượng trưng, điển tích, nhân hóa, thành ngữ.

⇒ Thúy Kiều có vẻ đẹp lộng lẫy, đài các, kiêu sa - một tuyệt thế giai nhân.

- Tài năng

+ Nghệ thuật: liệt kê, từ ngữ chỉ mức độ.

+ Thúy Kiều thông minh thiên bẩm: cầm, kì, thi, họa.

+ Tài năng đạt tới mức lí tưởng (theo quan niệm thẩm mĩ).

- Tâm hồn

- Một trái tim đa sầu, đa cảm trước cung đàn “Bạc mệnh”.

- Vẻ đẹp của Thúy Kiều là sự kết hợp của cả sắc - tài - tình.

- Bức chân dung Thúy Kiều nổi bật hơn vì tác giả sử dụng 12 dòng thơ, ngoài sắc còn tả tài, tình của Thúy Kiều, tả Vân trước làm nền cho vẻ đẹp của Thúy Kiều.

+ Nghệ thuật: đòn bẩy ⇒ Nổi bật bức chân dung Thúy Kiều.

- Vẻ đẹp của Thúy Kiều làm cho tạo hóa “ghen”, “hờn”. Kiều tài năng, trái tim đa sầu đa cảm ⇒ dự báo một số phận éo le, đau khổ, bạc mệnh.

4. Vẻ đẹp đức hạnh của Thúy Vân và Thúy Kiều

- Là hai cô gái đẹp, đã đến tuổi trưởng thành yêu đương, hò hẹn.

- Đứng đắn, giữ gìn nền nếp gia phong với cuộc sống của thiếu nữ phòng khuê.

- Miêu tả nhân vật bằng bút pháp nghệ thuật ước lệ, lý tưởng hóa nhân vật. 

III. Bài phân tích

“Truyện Kiều” của Nguyễn Du là một kiệt tác trong nền văn học Việt Nam. “Truyện Kiều” là kết tinh thành tựu nghệ thuật dân tộc trên mọi phương diện: ngôn ngữ, thể loại, cách xây dựng nhân vật, nghệ thuật miêu tả thiên nhiên, phác họa tính cách và miêu tả chân dung. Và Nguyễn Du đặc biệt thành công trong việc miêu tả người qua bức chân dung chị em Thúy Kiều qua đoạn trích “Chị em Thúy Kiều”.

Bốn dòng thơ đầu tác giả giới thiệu chung về vị thứ và vẻ đẹp của chị em Thúy Kiều:

Đầu lòng hai ả tố nga,

Thuý Kiều là chị, em là Thuý Vân.

Mai cốt cách, tuyết tinh thần,

Mỗi người mỗi vẻ mười phân vẹn mười

Bằng cách giới thiệu hai “ả tố nga” vừa ngắn gọn vừa giản dị hết sức ấn tượng đầy đủ. Trong gia đình họ Vương có hai cô con gái đầu lòng đẹp như Hằng Nga. Và câu thơ “Mai cốt cách, tuyết tinh thần” bằng việc sử dụng bút phát ước lệ tượng trưng thông qua hai hình ảnh “mai”, “tuyết”, tác giả gợi lên trước mắt chúng ta vẻ đẹp của hai thiếu nữ với dáng người mảnh dẻ, duyên dáng như cây mai một loài hoa đẹp và cao quý, tâm hồn của họ trong trắng như tuyết, cả hai đều đẹp hoàn thiện, hoàn mỹ “mười phân vẹn mười”, mỗi người mang một nét đẹp riêng “Mỗi người mỗi vẻ”, đúng là cách nhìn đầy ngợi ca trân trọng của tác giả.

Thực sự chính sau những câu thơ giới thiệu về hai chị em, ngòi bút Nguyễn Du lúc này đây cũng lại có chiều hướng cụ thể hơn trong bức chân dung quý phái của Thuý Vân được miêu tả qua câu:

Vân xem trang trọng khác vời

Chỉ riêng với hai chữ trang trọng trong câu thơ cũng đã như nói lên vẻ đẹp đài các, cao sang của Vân. Thực sự chính với vẻ đẹp ấy của thiếu nữ được so sánh với những thứ cao đẹp trên đời thông qua đoạn thơ:

Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang.

Hoa cười ngọc thốt đoan trang,

Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da.

Đến đoạn thơ này người đọc có thể nhận thấy được chân dung của Vân được miêu tả một cách khá toàn vẹn từ khuôn mặt, rồi miêu tả cả nét mày, làn da, mái tóc đến nụ cười, tiếng nói cũng giống như “ngọc thốt”. Nàng Vân có khuôn mặt đầy đặn, phúc hậu như vầng trăng, hơn nữa nàng lại có đôi lông mày sắc nét như con ngài, có miệng cười tươi thắm như hoa. Đặc biệt chú ý đến giọng nói trong trẻo thốt ra từ hàm răng ngà ngọc và mái tóc của nàng bồng bềnh hơn mây. Vân còn sở hữu một làn da của nàng trắng hơn tuyết. Từ chính những đặc điểm miêu tả này chúng ta có thể nhận thấy được sắc đẹp của Vân sánh với những nét kiều diễm, sáng trong của những báu vật tinh khôi của đất trời ban cho. Thực sự là một vẻ đẹp toát lên một vẻ đẹp trung hậu, êm dịu và vô cùng đoan trang, quý phái biết bao nhiêu. Vân thì đẹp một vẻ đẹp hài hòa là thế nhưng đến với nàng Kiều thì khác.

Nếu tả Thúy Vân với bốn câu thơ thì sang Thúy Kiều, Nguyễn Du dành cho nàng mười hai câu thơ. Nếu Vân được miêu tả với vẻ đẹp hoàn hảo thì Thúy Kiều còn vượt lên trên cái hoàn hảo đó, nếu Thúy Vân chỉ nói đến sắc thì Kiều còn đẹp cả sắc lẫn tài, đó là vẻ đẹp của tuyệt thế giai nhân sắc sảo mặn mà.

Kiều càng sắc sảo mặn mà,

So bề tài sắc lại là phần hơn

Ở đây, Nguyễn Du rất thành công trong việc sử dụng nghệ thuật đòn bẩy: Miêu tả Vân trước để làm nền cho vẻ đẹp của Kiều. Chỉ bằng một câu thơ với các từ “càng”, “hơn” tác giả giúp người đọc hình dung rõ vẻ đẹp vượt trội của Kiều. Nàng không những tuyệt đỉnh về nhan sắc mà còn sắc sảo về trí tuệ, mặn mà về tâm hồn.

Làn thu thuỷ, nét xuân sơn,

Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh

Khi miêu tả Thúy Kiều, tác giả vẫn sử dụng bút pháp ước lệ thông qua các hình tượng thiên nhiên “thu thủy”, “xuân sơn”, “hoa ghen”, “liễu hờn”. Chỉ có điều Nguyễn Du không liệt kê nhiều chi tiết như Vân mà chỉ tập trung ở đôi mắt. Hình ảnh ước lệ “thu thủy” gợi tả đôi mắt Kiều đẹp trong như nước mùa thu, “xuân sơn” gợi lên đôi lông mày thanh tú trên khuôn mặt trẻ trung, đôi mắt ấy của Kiều chính là cửa sổ tâm hồn, thể hiện sự sắc sảo về trí tuệ, mặn mà về tâm hồn. Sắc của Kiều làm cho người ta ngưỡng mộ say mê đến lỗi có thể “mất nước, mất thành”, còn thiên nhiên thì ganh ghét, đố kỵ “hoa ghen”, “liễu hờn”.

Sắc đã vậy còn tài, tình của Kiều thì sao? Miêu tả Kiều tác giả dành một phần để nói về nhan sắc, còn dành đến hai phần để nói về tài năng. Đây chính là dụng ý nghệ thuật của Nguyễn Du. Ông muốn nhấn mạnh sắc đẹp của Kiều thì không có bút pháp nào tả nổi. Về sắc đẹp của Kiều là số một còn về tài thì trong thiên hạ may ra có người thứ hai:

Thông minh vốn sẵn tính trời,

Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm.

Cung thương làu bậc ngũ âm,

Nghề riêng ăn đứt Hồ cầm một trương.

Thúy Kiều có cả tài cầm – kì – thi – hoạ của những bậc văn nhân quân tử và tài nào cũng đến mức điêu luyện. Thúy Kiều nàng giỏi về âm luật đến mức làu bậc. Cây đàn mà nàng chơi là cây hồ cầm, tiếng đàn của nàng ăn đứt bất cứ nghệ sĩ nào và đã trở thành nghề riêng rồi. Không dừng lại ở đó thì để cực tả cái tài của Kiều, Nguyễn Du cũng đã sử dụng hàng loạt các từ ngữ ở mức độ tuyệt đối đó là các từ như: vốn sẵnpha nghềlàu bậc và đủ mùi. Không những giỏi ca hát, chơi đàn mà Kiều còn sáng tác nhạc nữa, nhưng cung đàn nàng sáng tác là một thiên Bạc mệnh. Có thể nói chính với bản đàn ấy đã ghi lại tiếng lòng của một tâm hồn đa sầu đa cảm. Tác giả Nguyễn Du cực tả tài năng của Kiều chính là ngợi ca cái tâm đặc biệt của nàng. Thông qua đây ta nhận thấy được tài năng của Kiều vượt lên trên tất cả và là biểu hiện của những phẩm chất cao đẹp, một vẻ đẹp của trái tim trung hậu, nồng nhiệt, nghĩa tình, vị tha. Từ tất cả các yếu tố này cũng đã gợi mở ra vẻ đẹp của Kiều là sự kết hợp của sắc–tài–tình và đạt đến mức siêu phàm, lí tưởng.

Mặc dù tài sắc của Thúy Kiều, Thúy Vân khác nhau dự báo về tương lai cuộc sống khác nhau, nhưng đức hạnh của hai nàng đều đáng trân trọng, điều này thể hiện qua bốn câu thơ cuối:

Phong lưu rất mực hồng quần,

Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê.

Êm đềm trướng rủ màn che,

Tường đông ong bướm đi về mặc ai

Những câu thơ cuối lại quay về miêu tả hoàn cảnh sống của hai chị em, cả hai nàng xuất thân con viên ngoại nên cuộc sống cũng được xem là khá giả, “phong lưu”, sống trong lụa là gấm vóc. Kiều và Vân đã sắp tới tuổi cập kê, gần tuổi xuất giá, trước khi sóng gió ập đến thì chị em “êm đềm trướng rủ màn che”, cuộc đời trôi qua yên ả, vui vầy. Dẫu cũng đã trưởng thành, nhưng cả hai nàng đều còn rất thanh thuần, tinh khiết, bao nhiêu thứ ái tình “ong bướm”, Kiều Vân cũng chưa từng nếm trải, giữ gìn nền nếp gia phong một phép.  

Đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” là một trong những đoạn thơ hay nhất, đẹp nhất trong “Truyện Kiều” được nhiều người yêu thích. Ngôn ngữ thơ tinh luyện, giàu cảm xúc. Nét vẽ hàm súc, gợi cảm, nét vẽ nào cũng có thần. Các bịên pháp tu từ ẩn dụ, so sánh, nhân hóa được thi hào vận dụng tài tình tạo nên những vần thơ ước lệ mà trữ tình, đầy chất thơ. Hàm ẩn sau bức chân dung mĩ nhân là cả một tấm lòng quý mến trân trọng. Đó là nghệ thuật tả người điêu luyện của thi hào Nguyễn Du mà ta cảm nhận được.

IV. Một số lời bình về tác phẩm

1. Nổi bật bên hình ảnh người em gái có tính cách thung dung, điềm đạm và cuộc đời phẳng lặng bình yên là hình tượng Thúy Kiều với sắc-tài-tình-mệnh phi thường. Một sắc đẹp rực rỡ, đằm thắm bởi sự phong phú của tâm hồn, sự thông tuệ và tấm lòng giàu cảm xúc đã ngời sáng lên chân dung Thúy Kiều...Và vẻ đẹp hoàn thiện sắc-tài-tình của cô thiếu nữ đương tuổi thanh xuân cài trâm hôm nay còn chất chứa một viễn ảnh về cuộc đời bi kịch mai sau.

                                        (Đặng Thanh Lê, Giảng văn Truyện Kiều, Nxb Giáo dục, 1997)

2. Cả vẻ đẹp lẫn tài năng của nhân vật, tuy dều được vẽ ra rất khéo, bút pháp đa dạng nhưng vẫn nằm trong khuôn khổ của nghệ thuật và tư tưởng thời trung đại, với đường nét ước lệ, cao quý, hoàn hảo, lý tưởng. Nhưng đáng chú ý là dụng ý của tác giả khi phân biệt nét khác nhau của hai nhân vật, nhấn mạnh nét này, bỏ qua nét kia, làm hiện rõ hai bức chân dung, dự báo số phận về sau của mỗi người. Nàng Thúy Vân sẽ được hưởng phúc đấy, còn nàng Thúy Kiều sẽ bị tạo hóa đố kị, ghen ghét, làm cho đời nàng trôi bạt, tan nát suốt mười lăm năm. Đó là nghệ thuật “tả ý” tinh vi, thâm thúy của thơ văn cổ điển.

(Trần Đình Sử, Đọc văn học văn, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2001)

Sơ đồ tư du Phân tích Chị em Thúy Kiều

Phân tích Chị em Thúy Kiều năm 2021

Dàn ý chi tiết Phân tích Chị em Thúy Kiều

1. Mở bài

- Giới thiệu về Truyện Kiều và đoạn trích Chị em Thúy Kiều:

+ Truyện Kiều là kiệt tác văn học của Nguyễn Du, giàu tính hiện thực, nhân đạo và mang nhiều giá trị nghệ thuật to lớn.

+ Đoạn trích nằm ở phần mở đầu tác phẩm, giới thiệu gia cảnh của Thuý Kiều, đặc biệt miêu tả tài sắc của Thuý Kiều và Thuý Vân.

2. Thân bài

a, Bốn câu đầu giới thiệu về chị em Thúy Kiều, Thúy Vân

- Ngắn gọn: là hai con gái đầu lòng, Thúy Kiều là chị cả, Thúy Vân là em.

- Tác giả dùng từ “tố nga” để khẳng định đây là hai cô gái đẹp; “Mai cốt cách, tuyết tinh thần” nói về nhân cách, phẩm hạnh trong sáng, thuần khiết.

- Khẳng định: “Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười”.

b, Gợi tả vẻ đẹp của Thuý Vân (4 câu tiếp)

- Câu thơ đầu: giới thiệu và khái quát đặc điểm của nhân vật

+ “Trang trọng”: nói lên vẻ đẹp cao sang, quý phái của Thuý Vân.

- Tác giả so sánh vẻ đẹp của Thúy Vân với trăng, hoa, ngọc, mây, tuyết: những hình ảnh đẹp trong thiên nhiên.

+ Tác giả đã sử dụng bút pháp ước lệ tượng trưng để miêu tả vẻ đẹp của Thuý Vân, lấy chuẩn mực thiên nhiên đo vẻ đẹp con người.

- Từ ngữ “thua”, “nhường” cùng chân dung được miêu tả đầy đặn, đoan trang: tác giả báo trước tính cách số phận của Thúy Vân êm đềm, hoà hợp, suôn sẻ.

c, Gợi tả vẻ đẹp của Thuý Kiều (12 câu tiếp)

- Câu thơ đầu khái quát tài sắc của Thuý Kiều: “càng sắc sảo, mặn mà”

+ Vẻ đẹp trưởng thành, tinh anh, thông tuệ, có tài có sắc.

- Tác giả tiếp tục dùng bút pháp ước lệ tượng trưng để miêu tả vẻ đẹp của Thuý Kiều: thu thủy, xuân sơn, hoa, liễu.

+ Tập trung gợi tả vẻ đẹp của đôi mắt: đôi mắt là “cửa sổ tâm hồn”, thể hiện hết vẻ đẹp tâm hồn và trí tuệ của nhân vật.

- Tả tài năng, tâm hồn Thúy Kiều:

+ Tinh thông cả cầm (đàn), kì (cờ), thi (thơ), hoạ (vẽ), đặc biệt ca ngợi tài chơi đàn “ăn đứt hồ cầm một trương”.

+ Tâm hồn đa sầu, đa cảm: “thiên bạc mệnh” mà Kiều tự sáng tác cho thấy tâm hồn nhạy cảm, thương người, thương đời của Kiều.

+ Thúy Kiều đẹp toàn diện cả sắc, tài, tình, đẹp “nghiêng nước nghiêng thành”

- Miêu tả Thuý Kiều, tác giả dùng những từ chỉ mức độ: ghen, hờn ⇒thiên nhiên phải ghen tị, hờn giận trước vẻ đẹp và tài năng, tâm hồn của Thúy Kiều, từ đó báo hiệu một cuộc đời nhiều gian nan, sóng gió.

d, Nhận xét chung về cuộc sống của hai chị em (4 câu cuối)

- “Phong lưu rất mực hồng quần”: Gợi hoàn cảnh sống của hai chị em thúy Kiều, họ sống trong phong lưu của mọt gia đình gia giáo.

- Hai chị em luôn sống theo khuôn phép, đức hạnh, theo đúng khuôn khổ của lễ giáo phong kiến. Tuy cả hai đều “đến tuần cập kê” nhưng vẫn “êm đềm trướng rủ màn che- tường đông ong bướm đi về mặc ai”.

e, Nhận xét về nghệ thuật:

- Thủ pháp ước lệ tượng trưng: lấy từ chỉ thiên nhiên tả vẻ đẹp con người. Đây là thủ pháp thường thấy trong văn học Trung đại.

- Thủ pháp đòn bẩy: tác giả tả Thúy Vân trước, chỉ dùng bốn câu thơ để tả vẻ đẹp của Thúy Vân, dùng mười hai câu thơ tả cả tài sắc và tâm hồn Thúy Kiều nên càng làm tăng thêm vẻ đẹp toàn diện của Thúy Kiều.

- Sử dụng từ ngữ có tính chất tiên đoán số phận: tiên đoán số phận Thúy Vân êm đềm qua hình ảnh thiên nhiên “thua, nhường”, số phận Thúy Kiều trắc trở qua hình ảnh thiên nhiên “ghen, hờn”.

3. Kết bài: Nhận xét về nội dung và nghệ thuật của đoạn trích:

- Đoạn trích miêu tả tài sắc chị em Thuý Kiều cho thấy Nguyễn Du trân trọng, đề cao vẻ đẹp của người phụ nữ. Lòng thương cảm bộc lộ ngay từ những dự đoán số phận nhân vật.

- Ngôn ngữ giàu cảm xúc, vận dụng một cách linh hoạt các biện pháp nghệ thuật ước lệ, so sánh, ẩn dụ.

Top 15 bài Phân tích Chị em Thúy Kiều hay nhất (ảnh 1)

 

Bài văn mẫu Phân tích Chị em Thúy Kiều – mẫu 1

Trong thơ cổ viết về giai nhân thì đoạn thơ “Chị em Thúy Kiều” trích trong “Đoạn trường tân thanh” tức Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du là một trong những vần thơ tuyệt bút. Hai mươi tư câu thơ lục bát đã vẽ nên sắc, tài, đức hạnh của hai chị em Thuý Kiều, Thuý Vân.Với ngòi bút của một kỳ tài diệu bút Nguyễn Du đã vẽ nên bức chân dung hai nàng giai nhân tuyệt thế:

“Đầu lòng hai ả tố nga,

Thúy Kiều là chị em là Thúy Vân”

Vân là em, Kiều là chị. Hai chị em Vân và Kiều (con đầu lòng của gia đình Vương viên ngoại) đều là những ả tố nga - những người con gái đẹp. Vẻ đẹp của hai nàng là vẻ đẹp thanh tao của mai, là sự trắng trong, tinh sạch của tuyết:

“Mai cốt cách tuyết tinh thần,

Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười”

Bút pháp ước lệ cùng phép ẩn dụ đã gợi lên vẻ đẹp hài hoà, hoàn hảo cả về hình thức lẫn tâm hồn. Vẻ đẹp của hai nàng đều đến mức tuyệt mĩ mười phân vẹn mười nhưng mỗi người lại mang một vẻ riêng. Nguyễn Du đã lấy những gì đẹp đẽ nhất của thiên nhiên để miêu tả hai chị em. Thuý Kiều và Thuý Vân đều mang vẻ đẹp lí tưởng, theo khuôn mẫu và vượt lên trên khuôn mẫu.Sau những câu thơ giới thiệu về hai chị em, ngòi bút Nguyễn Du lại có chiều hướng cụ thể hơn trong bức chân dung quý phái của Thuý Vân:

“Vân xem trang trọng khác vời,”

Top 15 bài Phân tích Chị em Thúy Kiều hay nhất (ảnh 2)

Hai chữ trang trọng trong câu thơ đã nói lên vẻ đẹp đài các, cao sang của Vân. Vẻ đẹp ấy của thiếu nữ được so sánh với những thứ cao đẹp trên đời:

“Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang.

Hoa cười ngọc thốt đoan trang,

Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da”

Chân dung của Vân được miêu tả một cách khá toàn vẹn từ khuôn mặt, nét mày, làn da, mái tóc đến nụ cười, tiếng nói. Vân có khuôn mặt đầy đặn, phúc hậu như vầng trăng, có đôi lông mày sắc nét như con ngài, có miệng cười tươi thắm như hoa, giọng nói trong trẻo thốt ra từ hàm răng ngà ngọc và mái tóc của nàng bồng bềnh hơn mây, làn da của nàng trắng hơn tuyết, sắc đẹp của Vân sánh với những nét kiều diễm, sáng trong của những báu vật tinh khôi của đất trời. Tất cả toát lên vẻ đẹp trung hậu, êm dịu, đoan trang, quý phái. Vân đẹp hơn những gì mỹ lệ của thiên nhiên nhưng tạo sự hoà hợp, êm dịu: mây thua, tuyết nhường. Với vẻ đẹp như thế, Vân sẽ có một cuộc đời bình lặng, suôn sẻ và một tính cách điềm đạm. Qua bức chân dung này, Nguyễn Du đã gửi tới những thông điệp về tương lai, cuộc đời chính bởi vậy mà bức chân dung Thúy Vân là chân dung mang tính cách số phận.Tả Vân thật kỹ, thật cụ thể song Nguyễn Du chỉ vẽ Kiều bằng những nét phác hoạ thông thoáng bởi ông không muốn là người thợ vẽ vụng về:

“Kiều càng sắc sảo mặn mà,

So bề tài sắc lại là phần hơn”

Sắc đẹp của Kiều được đặt trong sự so sánh với vẻ đẹp đoan trang, quý phái của Vân để thấy được sự hơn hẳn của Kiều về vẻ sắc sảo của tài năng trí tuệ, bởi cái mặn mà của nhan sắc. Không tả khuôn mặt, giọng nói, tiếng cười, làn da, mái tóc như Thuý Vân mà Nguyễn Du đã thật tài tình khi chọn đôi mắt Kiều để đặc tả bởi đôi mắt là cửa sổ tâm hồn, thể hiện phần tinh anh của tâm hồn và trí tuệ:

“Làn thu thủy nét xuân sơn,”

Câu thơ tả đôi mắt mà gợi lên bức tranh sơn thuỷ, diễm lệ. Bức tranh ấy có làn thu thủy - làn nước mùa thu, có nét xuân sơn - dáng núi mùa xuân. Cũng như khuôn mặt Kiều có đôi mắt trong sáng, long lanh, có đôi lông mày thanh tú mà khiến:

“Hoa ghen đua thắm liễu hờn kém xanh”

Vẻ đẹp của Kiều không chỉ như thiên nhiên mà còn vượt trội hơn cả thiên nhiên khiến hoa cũng phải ghen, liễu cũng phải hờn. Thiên nhiên không còn thua, nhường mà cau mày, bặm môi tức giận, mà đố kỵ hờn ghen. Nếu vẻ đẹp của Vân là những gì tinh khôi, trong trắng nhất của đất trời thì Kiều lại mang vẻ đẹp của nước non, của không gian mênh mông, của thời gian vô tận. Cái đẹp ấy làm cho nghiêng nước, đổ thành:

“Một hai nghiêng nước nghiêng thành,”

Nguyễn Du đã sử dụng những điển tích để cực tả Kiều với vẻ đẹp của trang giai nhân tuyệt thế. Và cũng chính vẻ đẹp không ai sánh bằng ấy như tiềm ẩn những phẩm chất bên trong cao quý là tài và tình rất đặc biệt:

“Pha nghề thi hoạ đủ mùi ca ngâm.

Cung thương làu bậc ngũ âm,

Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương”

Kiều có cả tài cầm - kì - thi - hoạ của những bậc văn nhân quân tử và tài nào cũng đến mức điêu luyện. Nàng giỏi về âm luật đến mức làu bậc. Cây đàn nàng chơi là cây hồ cẩm, tiếng đàn của nàng ăn đứt bất cứ nghệ sĩ nào và đã trở thành nghề riêng. Để cực tả cái tài của Kiều, Nguyễn Du đã sử dụng hàng loạt các từ ngữ ở mức độ tuyệt đối: “vốn sẵn, pha nghề, làu bậc và đủ mùi”. Không những giỏi ca hát, chơi đàn mà Kiều còn sáng tác nhạc nữa. Cung đàn nàng sáng tác là một thiên “Bạc mệnh”. Bản đàn ấy đã ghi lại tiếng lòng của một tâm hồn đa sầu đa cảm. Nguyễn Du cực tả tài năng của Kiều chính là ngợi ca cái tâm đặc biệt của nàng. Tài năng của Kiều vượt lên trên tất cả và là biểu hiện của những phẩm chất cao đẹp, trái tim trung hậu, nồng nhiệt, nghĩa tình, vị tha. Vẻ đẹp của Kiều là sự kết hợp của sắc - tài - tình và đạt đến mức siêu phàm, lí tưởng. Nhưng nhan sắc đến mức hoa ghen, liễu hờn để tạo hóa phải hờn ghen đố kị và tài hoa trí tuệ thiên bẩm làu bậc, đủ mùi cái tâm hồn đa sầu, đa cảm như tự dưng mà có của nàng khó tránh khỏi sự nghiệt ngã của định mệnh. Chính bởi Kiều quá toàn mỹ, hoàn thiện nên trong xã hội phong kiến kia khó có một chỗ đứng cho nàng. Và cung đàn “Bạc mệnh” nàng tự sáng tác như dự báo một cuộc đời hồng nhan bạc mệnh khó tránh khỏi của Kiều. Cuộc đời nàng rồi sẽ sóng gió, nổi chìm, truân chuyên. Cũng giống như bức chân dung Thúy Vân, bức chân dung Kiều là bức chân dung mang tính cách số phận.

Nguyễn Du hết lời ca ngợi Vân và Kiều mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười nhưng ngòi bút tác giả lại đậm nhạt khác nhau ở mỗi người. Vân chủ yếu đẹp ở ngoại hình còn Kiều là cái đẹp cả về tài năng, nhan sắc lẫn tâm hồn. Điều đó tạo nên vẻ đẹp khác nhau của hai người thiếu nữ và hé mở hai tính cách, dự báo hai cuộc đời khác nhau đang đón chờ hai ả tố nga. Hai bức vẽ chân dung của chị em Thuý Vân và Thuý Kiều đã cho thấy sự tài tình trong ngòi bút tinh tế của Nguyễn Du. Kết thúc đoạn thợ là bốn câu lục bát miêu tả cuộc sống phong lưu khuôn phép, mẫu mực của hai chị em Kiều:

“Phong lưu rất mực hồng quần

Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê”

Hai người con gái họ Vương không chỉ có sắc - tài - tình mà còn có đức hạnh. Sống phong lưu đến mực hồng quần. Cả hai đều đã tới tuần cập kê - tới tuổi búi tóc, cài trâm nhưng vẫn sống trong cảnh:

“Êm đềm trướng rủ màn che,

Tường đông ong bướm đi về mặc ai”

Hai câu thơ như che chở, bao bọc cho hai chị em, hai bông hoa vẫn còn phong nhụy trong cảnh êm đềm chưa một lần hương toả vì ai. Nguyễn Du đã buông mành, gạt tất cả mọi vẩn đục cho cuộc đời khỏi cuộc sống phong lưu của hai chị em để đề cao hơn đức hạnh của hai nàng.Với cảm hứng nhân đạo và tài nghệ thơ, Nguyễn Du đã vẽ nên bức chân dung Thúy Vân, Thuý Kiều bằng những gì đẹp đẽ, mỹ lệ nhất. Hai bức tranh mỹ nhân bằng thơ đã thể hiện bút pháp ước lệ tượng trưng và các biện pháp tu từ trong ngòi bút tinh tế của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du

Bài văn mẫu Phân tích Chị em Thúy Kiều – mẫu 2

Có ý kiến cho rằng: “Truyện Kiều là một kiệt tác hàng trăm năm nay đã được lưu truyền rộng rãi và có sức chinh phục lớn đối với người đọc”. Thật vậy bằng tài và tâm của mình, Nguyễn Du đã tạo nên một kiệt tác để đời. Trong đó có đoạn trích “chị em Thúy Kiều” tiêu biểu cho cái tài khắc họa, miêu tả nhân vật.

Là một đoạn trích khắc họa rõ nét hai chị em Thúy Kiều, không chỉ vậy, qua những nét khắc họa đó còn thể hiện tính cách và số phận của hai chị em. Mở đầu đoạn trích với bốn câu giới thiệu hai chị em Thúy Kiều và Thúy Vân: 

“Đầu lòng hai ả tố nga

Kiều là chị, em là Thúy Vân

Mai cốt cách, tuyết tinh thần

Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười”

Video bài văn mẫu Phân tích Chị em Thúy Kiều

Hai chị em xuất hiện, được tác giả gọi là “tố nga” tức chỉ một người con gái đẹp ở thời xưa. Thúy Kiều và Thúy Vân, hai người con gái có vóc dáng thanh mảnh như cây mai và có lòng trắng trong như tuyết đầu mùa. Hai người con gái với những nét đẹp khác nhau nhưng đều hoàn hảo và vẹn toàn. Dường như , hai chị em được coi là chuẩn mực của cái đẹp đương thời. Sau khi tác giả giới thiệu về hai người con gái xinh đẹp nết na, đại thi hào đi vào khắc họa từng nhân vật. Trong đoạn trích Thúy Vân đẹp ngỡ ngàng:

“Vân xem trang trọng khác vời,

Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang.

Hoa cười ngọc thốt đoan trang,

Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da”

Vân với vẻ đẹp đoan trang của thiếu nữ thời xưa. Mặt đầy đặn, tròn như trăng rằm, lông mày sắc nét đậm như con ngài, miệng cười tươi thắm như hoa, làn da trắng mịn như tuyết, tóc bồng bềnh mượt như mây. Bằng nghệ thuật ẩn dụ kết hợp so sánh, sử dụng các hình ảnh thiên nhiên như: “trăng, con ngài, hoa, mây, tuyết” làm cho vẻ đẹp của Vân hiện lên sống động chân thật với tất cả những nét đẹp tự nhiên. Ta cảm nhận được qua những nét khắc họa của tác giả, Vân là một người con gái đoan trang, phúc hậu, thùy mị, nết na. Đặc biệt vẻ đẹp đó tạo sự hài hòa với thiên nhiên đất trời: “mây thua”, “tuyết nhường” biểu thị thái độ nhường nhịn chấp nhận của thiên nhiên trước vẻ đẹp của nàng. Nhìn vào vẻ đẹp của Thúy Vân, cho ta một dự cảm về một tương lai số phận bình yên tốt đẹp sẽ đến với nàng.

Nếu Thúy Vân với những nét đẹp phúc hậu cao quý thì vẻ đẹp của Thúy Kiều càng vượt trội cả sắc lẫn tài qua mười hai câu đặc tả Kiều với bốn câu khắc họa chân dung:

“Kiều càng sắc sảo mặn mà,

So bề tài sắc lại là phần hơn

Làn thu thủy nét xuân sơn

Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”

Trong xã hội cũ, người ta luôn quan niệm rằng thiên nhiên là chuẩn mực của cái đẹp, con người thường được so sánh với thiên nhiên, hoặc hiện lên qua các hình ảnh ước lệ tượng trưng. Tác giả có dụng ý miêu tả Vân trước, khéo léo sử dụng thủ pháp đòn bẩy làm nổi bật vẻ đẹp của Kiều. Nếu Thúy Vân với vẻ đẹp đoan trang, phúc hậu thì Thúy Kiều lại sắc sảo mặn mà, vẹn toàn cả tài lẫn sắc. Vẻ đẹp của Kiều được khắc họa một cách chấm phá chứ không miêu ta toàn diện như Vân, đó là cách tạo điểm nhấn rõ rệt. Qua đôi mắt trong trẻo, dịu dàng như hồ nước mùa thu, đôi mày sắc nét tươi mới như nét núi mùa xuân. Một hình ảnh ước lệ quen thuộc kết hợp với so sánh ẩn dụ đã khắc họa chân dung Thúy Kiều đẹp hoàn hảo. Vẻ đẹp khiến cho “hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”. “ghen”, “hờn” là các động từ chỉ sự ghen ghét, đố kị, nó mang một sắc thái mạnh biểu thị thái độ ghen tức của thiên nhiên đối với vẻ đẹp của Thúy Kiều, vẻ đẹp làm thành nghiêng nước mất, tiềm tàng tai họa. Và đằng sau sự nổi giận của tạo hóa ấy sẽ là sự trả thù theo quy luật tự nhiên: “trời xanh quen thói, má hồng đánh ghen”.Nếu như ở Thúy Vân, tác giả chỉ dừng ở việc miêu tả sắc đẹp thì ở Thúy Kiều hội tụ cả sắc lẫn tài:

“Sắc đành đòi một, tài đành hoạ hai”

Tác giả ngợi ca Thúy Kiều là một người thiếu nữ đẹp tuyệt trần, không những thế tài năng của nàng xuất sắc đến nỗi trên đời này phải chăng có người thứ hai sánh bằng:

“Thông minh vốn sẵn tính trời

Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm

Cung thương lầu bậc ngũ âm,

Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương

Khúc nhà tay lựa nên chương”

Chuẩn mực về sự tài giỏi ngày xưa hội tụ: “cầm, kỳ, thi, họa” thì Thúy Kiều đủ cả, không những biết mà còn đạt đến trình độ khiến người khác phải nể phục. Trong đó, nàng đặc biệt nổi trội về “cầm”. Cung đàn được vang lên bởi một người thiếu nữ đa sầu đa cảm, có lẽ bản nhạc mà nàng Kiều sáng tác ở tuổi thanh xuân lại là một thiên bạc mệnh, dự báo trước một tương lai không chút êm đềm:

“Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân”

Với tất cả tài năng, phẩm chất của nàng đang có thì chắc chắn rằng, cuộc sống êm đềm hiện tại, sự an nhàn tĩnh tại ngầm chuẩn bị trước cho một trận bão táp cuồng phong. Trong dân gian xưa cũng có câu: “tài tình chi lắm cho trời đất ghen” hay “chữ tài liền với chữ tai một vần”.Khép lại đoạn trích, Nguyễn Du một lần nữa tái hiện của sống êm ả, ngày qua ngày của hai chị em Thúy Vân và Thúy Kiều:

“Phong lưu rất mực hồng quần,

Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê,

Êm đềm trướng rủ màn che

Tường đông ong bướm đi về mặc ai”

Sống trong khuôn phép, trong “trướng rủ màn che”, hai chị em đã sắp tới tuổi tìm đấng phu quân cho mình nhưng có lẽ với chữ “mặc” ở câu thơ cuối đã thể hiện thái độ của Kiều và Vân, không tơ tưởng đến những kẻ ngoài kia.Bằng cả tài và tâm của mình, đại thi hào Nguyễn Du đã khắc họa chân dung hai nhân vật một cách sống động và sắc nét. Với thể thơ lục bát truyền thống mềm mại tinh tế, kết cấu và trình tự thể hiện dụng ý. Song song với đó là bút pháp ước lệ tượng trưng quen thuộc (làn thu thủy, nét xuân sơn, mai cốt cách, tuyết tinh thần...), khéo léo sử dụng các biện pháp tu từ như so sánh nhân hóa đặc sắc... Không những thành công trong việc khắc họa chân dung mà còn thông qua đó dự cảm về số phận của hai chị em. Đặc biệt bức chân dung của Thúy Kiều là chân dung mang tính chất số phận hội tụ đủ: “sắc, tài, tình, mệnh”.Như vậy, đằng sau nét khắc họa và những dự cảm về số phận của Nguyễn Du là tấm lòng của nhà thơ đối với người thiếu nữ trong xã hội xưa. Đó là nét đặc sắc trong đoạn trích “chị em Thúy Kiều” - một đoạn trích tiêu biểu cho biệt tài khắc họa chân dung của đại thi hào.

 

Tài liệu có 10 trang. Để xem toàn bộ tài liệu, vui lòng tải xuống
Đánh giá

0

0 đánh giá

Tải xuống