TOP 16 bài Cảm nhận khổ đầu và khổ cuối trong bài thơ Đoàn thuyền đánh cá 2023 SIÊU HAY

Tải xuống 9 7.9 K 5

Tailieumoi.vn xin giới thiệu đến các quý thầy cô, các em học sinh lớp 9 bài văn mẫu Cảm nhận khổ đầu và khổ cuối trong bài thơ Đoàn thuyền đánh cá hay nhất, gồm có dàn ý phân tích chi tiết, sơ đồ tư duy và 16 bài văn phân tích mẫu hay nhất giúp các em học sinh có thêm tài liệu tham khảo trong quá trình ôn tập, củng cố kiến thức và chuẩn bị cho bài thi vào lớp 10 môn Văn sắp tới. Chúc các em học sinh ôn tập thật hiệu quả và đạt được kết quả như mong đợi.

Mời các quý thầy cô và các em học sinh cùng tham khảo và tải về chi tiết tài liệu dưới đây:

CẢM NHẬN KHỔ ĐẦU VÀ KHỔ CUỐI TRONG BÀI THƠ ĐOÀN THUYỀN ĐÁNH CÁ

Bài giảng: Đoàn thuyền đánh cá

Cảm nhận khổ đầu và khổ cuối trong bài thơ Đoàn thuyền đánh cá – mẫu 1

Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá là một trong những bài thơ hay của Huy Cận sáng tác sau năm 1945. Đài thơ thể hiện tình yêu quê hương, niềm phấn khởi tin và tin yêu vào cuộc sống. Tinh thần của bài thơ thể hiện rõ nhất trong hai khổ thơ đầu và khổ thơ cuối.Mặt trời xuống biển như hòn lửa. Phép nhân hoá độc đáo: “mặt trời xuống biển”. Hình ảnh so sánh tuyệt đẹp “như hòn lửa”, ở hướng tây, mặt trời chìm xuống mặt biển như một khối lửa đỏ rực. Ánh sáng tắt dần đến đâu, hoàng hôn ngập tràn đến đó…Rồi màn đêm sụp xuống. Phép nhân hoá được tiếp tục sử dụng với các động từ dứt khoát: “cài”, “sập”:

“Sóng đã cài then, đêm sập cửa.”

Vũ trụ bao la đã kết thúc một ngày, không gian mênh mông trên biển cả dần chìm vào bóng đêm.Chính vào lúc vũ trụ nghỉ ngơi, con người lao động trên biển bắt đầu hoạt động:

“Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi.”

Đoàn thuyền đánh cá ra đi trong tiếng hát. Cả đoàn thuyền với nhiều cánh buồm ra khơi. Không chỉ những luồng gió đã làm câng buồm mà còn cổ cả những câu hát. Tiếng hát của những người đánh cá hoà vào gió biển khơi làm nở thêm những cánh buồm đang lộng gió “Câu hát căng buồm cùng gió khơi”.

Hình ảnh hai câu thơ sau như đối lập với hai câu thơ đầu. Vũ trụ nghỉ ngơi, con người hoạt động. Thiên nhiên tĩnh lặng, con người lao động khẩn trương, náo nhiệt.Con người bắt đầu một buổi lao động với niềm phấn khởi, say mê, mong ước đánh được nhiều cá.Vẫn là câu hát, nhưng đây là câu hát tràn ngập niềm vui của con người sau một đêm lao động khẩn trương và đạt sản lượng mong muốn.Thiên nhiên như chia sẻ niềm vui đó, câu hát căng buồm với gió khơi và cảnh trở nên vô cùng sinh động. Trên mặt biển mênh mông, đoàn thuyền lao vùn vụt: “Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời”. Cách sử dụng từ thật gợi tả: thuyền chạy đến đâu, mặt trời như soi rọi ánh nắng đến đấy, thuyền như đang chạy đua cùng mặt trời. Nếu trong khổ thơ đầu, mặt trời xuống biển, thì trong khổ thơ cuối, mặt trời đội biển với màu sắc mới “Mặt trời đội biển nhô màu mới”

Ánh nắng mặt trời phản chiếu lên muôn vạn mắt cá, thành muôn vạn mặt trời nhỏ, góp thêm ánh sáng rực rỡ cho bình minh trên biển. Trong khoảng không gian huy hoàng ấy, đoàn thuyền đánh cá trở về với niềm vui náo nức… Tất cả thể hiện niềm phấn khởi, lòng tin yêu vô hạn vào cuộc sống mới đang diễn ra từng giờ, từng phút trên quê hương.

Sơ đồ tư duy

Cảm nhận khổ đầu và khổ cuối trong bài thơ Đoàn thuyền đánh cá năm 2021

Dàn ý chi tiết

1. Mở bài:

- Giới thiệu tác giả: Huy Cận

+ Là một trong những nhà thơ tiêu biểu của nền thơ ca hiện đại Việt Nam.

+ Phong cách sáng tác: Trước cách mạng tháng Tám, ông viết nhiều về thiên nhiên, vũ trụ. Tất cả đều gợi nỗi buồn của một con người gắn bó với quê hương, đất nước nhưng cô đơn bất lực. Sau Cách mạng tháng Tám, những vần thơ của ông trở nên sôi động, huyên náo hơn.

- Giới thiệu tác phẩm: “Đoàn thuyền đánh cá“

+ Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá“ viết năm 1958, trong thời gian ông đi thực tế ở Hòn Gai - Quảng Ninh, được in trong tập “Trời mỗi ngày mỗi sáng”.

- Giới thiệu khái quát về khổ thơ đầu và cuối của bài thơ.

2. Thân bài:

* Khổ thơ đầu

- Hình ảnh người dân chài cá ra khơi vào lúc hoàng hôn.

- Nhà văn Nguyễn Tuân Đã viết “Mặt trời đỏ như lòng trứng khổng lồ, đặt trên mâm lễ từ từ tiến vào” với “hòn lửa”. Điều này khác hẳn với thời xưa cảnh hoàng hôn chiều tà thường gợi cảm giác ảm đạm hiu hắt và đây cũng là điều khác hẳn với thơ Huy Cận thời kì trước cách mạng tháng tám 1945. Trước đó bao nhiêu sóng nước tràng giang là có bấy nhiêu nỗi buồn trong lòng thi nhân: “Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp “.

- Độc đáo hơn, nhà thơ đã tả "mặt trời xuống biển" (trong khi biển nước ta là biển đông - một cách cảm nhận dường như thật mơ hồ nhưng có thể lý giải được bởi phải chăng Huy Cận đang mượn điểm nhìn của những người đi biển để chứng kiến cảnh mặt trời lặn "xuống biển"?

+ Trong trí tưởng tượng bay bổng của Huy Cận, màn đêm như một cánh cửa khổng lồ mà sóng chính là cái then cài đóng lại cánh cửa khổng lồ ấy.

+ Nghệ thuật nhân hóa đã đem lại cho người đọc cảm giác thiên nhiên vũ trụ trong màn đêm như một ngôi nhà lớn, gần gũi, thân thuộc với con người, nó không huyền bí, xa lạ với con người, đoàn thuyền đánh cá ra khơi mà như đang đi trong chính ngôi nhà thân thuộc của mình.

- Thiên nhiên vũ trụ bắt đầu đi vào trạng thái nghỉ ngơi thì con người bắt đầu công việc khơi đánh cá. Đó là sự tương phản giữa thiên nhiên và con người

+ Chuyến ra khơi này là cả một đoàn thuyền với khí thế căng tràn, khí thế lao động tập thể, chứ không phải là chuyến ra khơi của những con thuyền lẻ tẻ ở ven bờ.

+ Hơn hết, tuy công việc đánh cá ở ngoài khơi nặng nhọc và đầy bất trắc nhưng đoàn quân vẫn xông trận cất cao tiếng hát.

* Khổ thơ cuối

- Vẻ đẹp tráng lệ của bình minh trên biển được nhà thơ miêu tả sinh động qua biện pháp nhân hóa "mặt trời đội biển" gợi cảm giác thần thoại. Mặt trời có sức mạnh lớn lao, dường như nó đang đội biển mà lên và cái "màu biển" là màu hồng bình minh, là lời chào đón của thiên nhiên với những người lao động cần cù.

- Hình ảnh "mắt cá huy hoàng" vừa là thành quả lao động, vừa gợi ra niềm vui, niềm tự hào của những người lao động và cuộc sống mới đầy tốt đẹp đang mở ra trước mắt.

3. Kết bài:

- Khẳng định giá trị của tác phẩm

- Tình cảm của em dành cho tác phẩm

Top 10 bài Cảm nhận khổ đầu và khổ cuối trong bài thơ Đoàn thuyền đánh cá hay nhất (ảnh 1)

Các bài mẫu khác:

Cảm nhận khổ đầu và khổ cuối trong bài thơ Đoàn thuyền đánh cá – mẫu 2

Nếu như bài thơ "tiểu đội đội xe không kính" là bài ca về lòng dũng cảm, ý chí, trái tim thiết tha đối với Miền Nam, của những lái xe không kính thì "đoàn thuyền đánh cá" lại là khúc tráng ca về công cuộc lao động của con người trong công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc trong những năm đầu sau giải phóng.Nếu các khổ thơ đầu nói về chuyến hành trình đánh cá gian lao và vất vả trong không khí tươi vui của đất nước, hân hoan tưng bừng cùng nhau thi đua với khung cảnh thiên nhiên đẹp đẽ thì khổ thơ cuối tác giả miêu tả cảnh đoàn thuyền đánh cá trở về trong bình minh:

"Câu hát căng buồm với gió khơi,

Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời.

Mặt trời đội biển nhô màu mới

Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi."

Huy Cận sử dụng biện pháp đầu cuối tương ứng. Câu đầu khổ cuối lặp lại với câu cuối khổ đầu như là điệp khúc của thơ ca. Như vậy câu hát đã theo hành trình của người dân chài lưới với niềm lạc quan, tin tưởng và vui sướng. Điều này nhấn mạnh niềm vui lao động làm giàu quê hương đất nước của người dân chài.Đoàn thuyền trở về trong câu hát hân hoan, phấn khởi với những khoang thuyền đầy ắp cá với tư thế hào hùng khẩn trương "chạy đua cùng mặt trời" giành lấy thời gian, tranh thủ thời gian để lao động.Đoàn thuyền ở đây sánh ngang cùng vũ trụ, là hình ảnh hoán dụ để chỉ người dân trong tư thế sóng ngang cùng vũ trụ. Trong cuộc chạy đua này con người đã dành được chiến thắng. Khi "Mặt trời đội biển nhô màu mới" thì "Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.""Mặt trời đội biển nhô màu mới" là hình ảnh nhân hóa vẻ đẹp ngày mới như một huyền thoại rực rỡ. Ở đây ta bắt gặp một hình ảnh mặt trời khác không phải mặt trời của thiên nhiên mà là mặt trời của muôn loài mắt cá long lanh trong buổi bình minh. Ý thơ phảng phất không khí thần thoại , bản hùng ca lao động. Câu kết đã diễn tả ánh mặt trời đã điểm tô cho những thành quả lao động thêm rực rỡ, muôn mắt cá như muôn mặt trời tỏa sáng huy hoàng, góp phần làm đẹp thêm trời biển quê hương. Đó là niềm vui chiến thắng, niềm vui đủ đầy khi được mùa tôm cá, niềm vinh quang bình dị của người lao động.Qua khổ thơ ta thấy thuyền và người luôn nổi bật giữa vũ trụ và niềm vui chiến thắng cũng mang lại tầm vóc lớn lao. Văn chương Việt Nam sau năm 1945 không chỉ khắc họa hình ảnh các anh bộ đội cứu nước mà còn vẽ lên chân dung của những người lao động xây dựng xã hội chủ nghĩa. Bài thơ nói về những con người đang ngày đêm cống hiến sức lực của mình cho đất nước.

Nhà nghiên cứu Trần Đình Sử đã viết trong bình giảng các tác phẩm văn học lớp 9 rằng: "câu hát căng thuyền đưa buồm đi nay đưa thuyền về. Nhưng nó về với một tư thế mới: chạy đua cùng mặt trời và trong cuộc đua này, còn người đã về đích trước và giành chiến thắng . Khi mặt trời vừa đội biển mà lên đem màu đỏ sáng cho đất nước thì thuyền đã về bến từ lâu. Ánh sáng ban mai làm cho thành quả lao động trở nên rực rỡ, huy hoàng".Tác giả miêu tả đoàn thuyền đánh cá theo vòng tuần hoàn của thời gian, từ đêm hôm trước tới sáng ngày hôm sau. Và theo mạch cảm xúc của bài thơ đó là khúc hát vang vọng, ca ngợi tinh thần lao động hăng say để xây dựng quê hương đất nước, trở thành hậu phương vững chắc cho miền Nam ruột thịt.

Top 10 bài Cảm nhận khổ đầu và khổ cuối trong bài thơ Đoàn thuyền đánh cá hay nhất (ảnh 2)

Cảm nhận khổ đầu và khổ cuối trong bài thơ Đoàn thuyền đánh cá – mẫu 3

Huy Cận (1919 -2005)  là nhà thơ suất sắc của phong trào thơ mới trước cách mạng, thơ Huy Cận hướng về thiên nhiên vũ trụ với những nét buồn man mác, sau cách mạng thơ ông tập trung ca ngợi thiên nhiên đất nước và niềm vui của con người trước cách mạng với một hồn thơ dạt dào cảm xúc. Tiêu biểu là bài thơ ” đoàn thuyền đánh cá” được sáng tác năm 1958 sau chuyến đi thực tế dài ngày ở vùng mỏ Hạ Long_ Quảng Ninh. Bài thơ là một khúc tráng ca khỏe khoắn, hào hùng về thiên nhiên và con người lao động. Điều này được thể hiện sâu sắc, tinh tế ở khổ 1 và khổ 2 của bài:

Cảm hứng trữ tình của  bài thơ được diễn tả theo mạch thời gian. Hoàng hôn, đêm trăng, bình minh, mỗi một cảnh trong từng  khổ thơ mang ý nghĩa như một biểu tượng, một thời đại huy hoàng đang mở ra phía trước. Cuộc sống cần lao của nhân dân lao động đang nở hoa.Đến với khổ thơ đầu là cảnh biển vào đêm và đoàn thuyền ra khỏi đánh cá, trước hết cảnh biển vào đêm được khắc họa bằng đôi mắt quan sát sắc xảo, trí tưởng tượng phong phú và tài năng nghệ thuật điêu luyện của nhà thơ:

“ Mặt trời xuống biển như hòn lửa

Sóng đã cài then đêm sập cửa”

Hình ảnh ” mặt trời xuống biển” được so sánh với ” hòn lửa” đỏ rực, cách so sánh này làm cho hoàng hôn trên biển trở lên rực rỡ tráng lệ và ấm áp, chứ không ảm đạm hắt hiu như thơ cổ, sau lúc hoàng hôn là màn đêm buông xuống” sóng đã cài then đêm sập cửa” câu thơ sử dụng phép tu từ nhân hóa gợi cảm xúc vũ trụ như một ngôi nhà lớn, màn đêm buông xuống là tấm cửa khổng lồ còn là những con sóng là chiếc then cài của ngôi nhà vĩ đại. Thiên nhiên vũ trụ đang chìm vào đêm yên tĩnh và lặng lẽ, đồng thời phép nhân hóa còn gợi lên sự gần gũi giữa tự nhiên và con người lao động: con người đi trong biển đêm mà như đi trong ngôi nhà thân yêu của mình, đối lập với trạng thái nghỉ ngơi của vũ trụ, con người lại bắt đầu công việc của mình:

” Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi”

Ở đây không phải là từng chiếc riêng lẻ mà là cả đoàn thuyền- sức mạnh mới của cuộc đời đổi thay, ” lại ra khơi” diễn tả nhịp lao động của dân chài đã ổn định vào nề nếp trong hòa bình.Tác giả đã tạo ra một hình ảnh khỏe lạ, chân thực vừa lãng mạng bay bổng, sự gắn kết của 3 sự vật ” cánh buồn, gió khơi, câu hát” của người dân đánh cá. Câu hát thể hiện niềm vui, sự phấn chấn và niềm tin tưởng vào chuyến ra khơi thắng lợi. Sang khổ thơ thứ hai nói rõ về câu hát để làm nổi  bật  nét tâm hồn của người dân chài, tiếng hát cầu mong đi biển gặp nhiều may mắn.

“ Hát rằng cá bạc biển đông lặng

Cá thu biển đông như đoàn thoi

Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng

Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi”

Trong niềm vui hân hoan lao động, cảnh vật biển, cảnh quan biển dường như đều phát sóng, họ cất lên tiếng hát ngợi ca sự giàu có của biển cả, bởi ” rừng vàng, biển bạc”  trong câu thơ thứ nhất từ ” bạc” là một định ngữ nghệ thuật có ý nghĩa số lượng cá nhiều và phải tạo lên sự giàu có quý giá của biển cả. Cái giàu ấy còn được cụ thể hóa ở câu thơ thứ hai với hình ảnh so sánh ” cá thu” với ” đoàn thoi” đã được tác giả xây dựng trên một liên tưởng thực tế ” cá thu mình lấp lánh ánh trăng lướt rất nhanh trên biển như con thoi chạy đi chạy lại trên khung cửa dệt vải. Từ đó ta mới hiểu được hai câu thơ sau là những nhân hóa vô cùng tinh tế của Huy Cận. Trong sự tưởng tượng của những người đánh cá yêu quý biển cả quê hương của mình, cá đi trên biển là cá dệt biển, cá vào lưới là cá dệt lưới, ” đến dệt lưới ta” từ ” ta” vang lên đầy tự hào kiêu hãnh trong suốt bài thơ, không còn là cái tôi nhỏ bé, đơn côi như ngày xưa nữa mà là cái” ta” tập thể đầy sức mạnh. Tuy nhiên, với người dân miền biển lúc này chuyện làm ăn thường có nhiều may rủi nên ra khơi đánh cá họ cầu mong biển lặng sóng êm, gặp luồng cá đánh bắt được nhiều, niềm mong ước ấy phản ánh tấm biển, khổ thơ mang âm hưởng ngọt ngào vang xa, của dòng cảm hứng vũ trụ với sự lãng mạng của tâm hồn, kết hợp với những hình ảnh sáng tạo đã đem đến cho người đọc bao liên tưởng, bao thú vị về vẻ đẹp củ thơ ca viết về lao động.

Tóm lại với việc xây dựng hình ảnh thơ bằng liên tưởng, tưởng tượng, âm hưởng hào hùng, lạc quan, bài thơ đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận nói chung và hai khổ thơ đầu nói riêng đã khắc họa cảnh biển đêm vô cùng lung linh và cảnh đoàn thuyền ra khơi đánh cá với niềm say sưa lạc quan tin tưởng của người dân chài, đó là niềm vui, niềm tự hào của nhà thơ trước đất nước và cuộc sống mới, qua đây đã khơi gợi trong lòng người đọc chúng ta sự trân trọng con người lao động mới từ đó hãy góp sức xây dựng đất nước ngày càng thêm giàu đẹp.

Cảm nhận khổ đầu và khổ cuối trong bài thơ Đoàn thuyền đánh cá – mẫu 4

Nếu như bài thơ "tiểu đội đội xe không kính" là bài ca về lòng dũng cảm, ý chí, trái tim thiết tha đối với Miền Nam, của những lái xe không kính thì "đoàn thuyền đánh cá" lại là khúc tráng ca về công cuộc lao động của con người trong công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc trong những năm đầu sau giải phóng.Nếu các khổ thơ đầu nói về chuyến hành trình đánh cá gian lao và vất vả trong không khí tươi vui của đất nước, hân hoan tưng bừng cùng nhau thi đua với khung cảnh thiên nhiên đẹp đẽ thì khổ thơ cuối tác giả miêu tả cảnh đoàn thuyền đánh cá trở về trong bình minh:

"Câu hát căng buồm với gió khơi,

Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời.

Mặt trời đội biển nhô màu mới

Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi."

Huy Cận sử dụng biện pháp đầu cuối tương ứng. Câu đầu khổ cuối lặp lại với câu cuối khổ đầu như là điệp khúc của thơ ca. Như vậy câu hát đã theo hành trình của người dân chài lưới với niềm lạc quan, tin tưởng và vui sướng. Điều này nhấn mạnh niềm vui lao động làm giàu quê hương đất nước của người dân chài. Đoàn thuyền trở về trong câu hát hân hoan, phấn khởi với những khoang thuyền đầy ắp cá với tư thế hào hùng khẩn trương "chạy đua cùng mặt trời" giành lấy thời gian, tranh thủ thời gian để lao động.Đoàn thuyền ở đây sánh ngang cùng vũ trụ, là hình ảnh hoán dụ để chỉ người dân trong tư thế sóng ngang cùng vũ trụ. Trong cuộc chạy đua này con người đã dành được chiến thắng. Khi "Mặt trời đội biển nhô màu mới" thì "Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi."

"Mặt trời đội biển nhô màu mới" là hình ảnh nhân hóa vẻ đẹp ngày mới như một huyền thoại rực rỡ. Ở đây ta bắt gặp một hình ảnh mặt trời khác không phải mặt trời của thiên nhiên mà là mặt trời của muôn loài mắt cá long lanh trong buổi bình minh. Ý thơ phảng phất không khí thần thoại, bản hùng ca lao động.Câu kết đã diễn tả ánh mặt trời đã điểm tô cho những thành quả lao động thêm rực rỡ, muôn mắt cá như muôn mặt trời tỏa sáng huy hoàng, góp phần làm đẹp thêm trời biển quê hương. Đó là niềm vui chiến thắng, niềm vui đủ đầy khi được mùa tôm cá, niềm vinh quang bình dị của người lao động.Qua khổ thơ ta thấy thuyền và người luôn nổi bật giữa vũ trụ và niềm vui chiến thắng cũng mang lại tầm vóc lớn lao. Văn chương Việt Nam sau năm 1945 không chỉ khắc họa hình ảnh các anh bộ đội cứu nước mà còn vẽ lên chân dung của những người lao động xây dựng xã hội chủ nghĩa. Bài thơ nói về những con người đang ngày đêm cống hiến sức lực của mình cho đất nước.Nhà nghiên cứu Trần Đình Sử đã viết trong bình giảng các tác phẩm văn học lớp 9 rằng: "câu hát căng thuyền đưa buồm đi nay đưa thuyền về. Nhưng nó về với một tư thế mới: chạy đua cùng mặt trời và trong cuộc đua này, còn người đã về đích trước và giành chiến thắng. Khi mặt trời vừa đội biển mà lên đèn màu đỏ sáng cho đất nước thì thuyền đã về bến từ lâu. Ánh sáng ban mai làm cho thành quả lao động trở nên rực rỡ, huy hoàng".

Tác giả miêu tả đoàn thuyền đánh cá theo vòng tuần hoàn của thời gian, từ đêm hôm trước tới sáng ngày hôm sau. Và theo mạch cảm xúc của bài thơ đó là khúc hát vang vọng, ca ngợi tinh thần lao động hăng say để xây dựng quê hương đất nước, trở thành hậu phương vững chắc cho miền Nam ruột thịt.

Cảm nhận khổ đầu và khổ cuối trong bài thơ Đoàn thuyền đánh cá – mẫu 5

Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận là một thể thống nhất, cảm xúc phát triển theo hành trình một chuyến ra khơi của đoàn thuyền đánh cá, từ lúc bắt đầu và kết thúc.Thời điểm khác với mọi hành động trên đất liền là từ khi mặt trời lặn đến lúc bình minh lên. Nếu bài thơ là khúc tráng ca ca ngợi lao động tập thể và người lao động trên biển thì khổ thơ mở đầu là khúc hát ra khơi và khổ kết là khúc khải hoàn trở về sau một đêm hăng say lao động và thắng lợi trở về của người lao động.

Mở đầu bài thơ là khúc hát lên đường của người lao động trên biển cả.

“Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then, đêm sập cửa.
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,
Câu hát căng buồm cùng gió khơi”

Hai câu thơ mở đầu khái quát thời điểm xuất phát của đoàn thuyền đánh cá bằng hình ảnh đẹp tráng lệ. Nghệ thuật nhân hóa so sánh của thiên nhiên trên biển. Biển lúc hoàng hôn tưởng tượng như một ngôi nhà lớn có động tác như con người. " Tắt lửa, cài then, sập cửa" màn đêm như tấm cửa sập xuống. Đóng lại một ngày nghỉ ngơi nhưng đó lại là lúc dân chài ra khơi cất tiếng hát căng buồm xuôi gió khơi. Cái khí thế bắt đầu của lao động thật hào hứng, phấn khởi của con người. Hình ảnh cánh buồm gió khơi và câu hát tạo ra khung cảnh vừa thực vừa lãng mạn, tâm tư con người gửi gắm trong câu hát: Phấn khởi, mê say với công việc hi vọng và tự hào về sự giàu đẹp của biển quê hương.

Lúc ra khơi đầy hứng khởi và lúc trở về đầy tôm cá, khí thế niềm vui càng lo hơn.

“Câu hát căng buồm với gió khơi,
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời.
Mặt trời đội biển nhô màu mới
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.”

Nếu khổ đầu nói lên thời điểm xuất phát thì khổ cuối là thời điểm trở về. Điểm xuất phát lúc mặt trời xuống biển đỏ như hòn lửa thì lúc trở về bình minh mặt trời đội biển lên mang theo một màu mới khép kín một chu trình thời gian và cũng là hoàn thiện một chu trình làm việc của dân chài. Đoàn thuyền lúc này cá đầy khoang, gương buồm chạy đua cùng mặt trời, hình ảnh thật rực rỡ, tráng lệ, khúc hát trở về là khúc ca khải hoàn của người lao động, vẫn khí thế như lúc ra đi hồ hởi, phấn khởi trong niềm vui chiến thắng. Khổ thơ sử dụng nhiều thư phát nghệ thuật ẩn dụ, hình ảnh đẹp tráng lệ tạo lên bức tranh trên biển đẹp hào hùng. Đặc biệt là tiếng hát ngân nga suốt bài thơ. Mỏ đầu và kết thúc đó là tiếng hát lạc quan yêu đời, yêu cuộc sống của người lao động.

Hai khổ thơ đầu và cuối được đánh giá đặc sắc nhất trong bài thơ có sự đối lập về hình ảnh thời gian, không gian và có thể coi là một chu trình khép kín hành trình của ngư dân lao động trên biển. Niềm vui khí thế phấn khởi không chỉ người lao động và đó cũng là niềm vui của nhà thơ trước khung cảnh thiên nhiên và cuộc sống lớn của thiên nhiên đất trời.

Cảm nhận khổ đầu và khổ cuối trong bài thơ Đoàn thuyền đánh cá – mẫu 6

Huy Cận là nhà thơ nổi tiếng trong phong trào thơ mới với những vần thơ sầu vũ trụ, nhưng sau cách mạng Huy Cận ấm áp hơi thở cuộc sống. Trong đó, bài thơ Đoàn Thuyền Đánh Cá là bài thơ mang âm điệu ngọt ngào niềm vui và sự say mê của con người lao động. Và phải chăng đó cũng chính là niềm vui của tác giả. Có đọc bài thơ, ta mới cảm nhận sâu sắc điều đó và hẳn rằng hình ảnh mặt trời sẽ chạm khắc trong tâm hồn ta.

“Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then, đêm sập cửa.
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,
Câu hát căng buồm cùng gió khơi”

Khổ thơ đầu của bài thơ đã gây ấn tượng cho người đọc bởi chất thơ chất lãng mạn theo nhịp điệu tiếng sóng vỗ. Chao ôi, hãy lắng tai nghe âm hưởng của bài ca lao động khỏe khoắn vang lên từ xa. Trông kìa, mặt trời đang xuống biển, cảnh hoàng hôn hiện lên thật đẹp. Với biện pháp so sánh ” mặt trời” được ví như “hòn lửa” cùng biện pháp nhân hóa đặc sắc ” Sóng đã cài then, đêm sập cửa.” miêu tả cảnh về đêm thật kỳ vĩ tráng lệ, mặt trời đang lặn dần vào lòng đại dương mênh mông buông xuống. Không xe lạnh mà ngược lại ta còn thấy ấm áp biết nhường nào. Phải chăng bầu trời và mặt biển bao la là ngôi nhà vũ trụ trong khoảnh khắc phủ bóng tối mịt mùng. Dường như lúc đất trời đang đi vào trạng thái nghỉ ngơi cũng là lúc con người bắt đầu một ngày lao động mới, đó là ra khơi đánh cá. Không phải từng chiếc thuyền lẻ tẻ đi biển mà cả đoàn thuyền một sức mạnh của cuộc đời đổi thay, chữ ” lại” trong ý thơ” lại ra khơi” vừa khẳng định nhịp điệu lao động của người dân chài đã đi vào ổn định, nề nếp, khúc hát lên đường vang động, gió biển thổi mạnh, cánh buồm cùng gió. Nghệ thuật liên tưởng kết hợp với hình ảnh ẩn dụ thể hiện một hiện thực đó là niềm vui là khí thế phơi phới mạnh mẽ lạc quan của dân chài trên biển.

Một lần nữa hãy nghe tiếng hát âm vang ở trên biển khơi đang dội vào:

“Câu hát căng buồm với gió khơi,
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời.
Mặt trời đội biển nhô màu mới
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.”

Đến đây, câu hát đã theo hết hành trình của người dân chài, cấu trúc lặp đoạn đầu cuối đã làm vang lên niềm vui lao động làm giàu đẹp cho quê hương, con thuyền và mặt trời được nhân hóa. Con thuyền nuốt sóng như chạy đua cùng thời gian, giành lấy thời gian để nhanh chóng về bến. Hình ảnh mặt trời lại hiện lên làm cho ” Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi” muôn ngàn mắt cá lấp lánh, ý thơ phảng phất không khí thần thoại anh hùng ca lao động đó là niềm vui cho niềm vinh quang của người lao động khi gặt hái thành công.

Như vậy, chỉ với khổ thơ đầu và khổ thơ cuối đã tạo nên một kết cấu bài thơ vô cùng đặc sắc. Tiếng hát say mê niềm vui như đang làm rung động sợi dây tình cảm của ta, và đây cũng chính là cái tài cái khéo của Huy Cận khi làm thơ.

Cảm nhận khổ đầu và khổ cuối trong bài thơ Đoàn thuyền đánh cá – mẫu 7

Sau năm 1945, văn học Việt Nam bước sang thời kì văn chương Cách mạng. mang đậm âm hưởng anh hùng ca bi tráng, oai hùng nhằm tiếp thêm động lực, sức mạnh chiến đấu và xây dựng đất nước. Thoát ra khỏi cái tôi u sầu của mình trong thời kì Thơ mới, Huy Cận thổi vào hồn văn của mình sự vui tươi, phấn chấn về thiên nhiên, con người hăng say lao động kiến thiết nước nhà. Đoàn thuyền đánh cá là một trong số những tác phẩm "thay máu" của ông, lấy cảm hứng từ người dân miền biển và vẻ đẹp biển khơi phóng khoáng năng động. Trong bài thơ, hai khổ thơ đầu và cuối có sự liên kết về nội dung và hình ảnh, mở ra khoảng thời gian trước và sau khi đoàn thuyền ra khơi đánh cá gây ấn tượng đặc sắc cho người đọc.

Ra đời sau chuyến đi thực tế dài ngày của tác giả tới vùng mỏ Quảng Ninh, bài thơ được ví như một bức tranh tả thực cảnh đoàn thuyền của những người dân chài lưới ra khơi đánh cá trên nền trời thăm thẳm. Hình ảnh tráng lệ, đẹp đẽ cùng con người lao động tươi vui thể hiện sự tin tưởng, hy vọng và tự hào của nhà thơ với công cuộc đổi mới đất nước. Khổ thơ đầu của bài thơ là cảnh đoàn thuyền ra khơi đánh cá, khổ thơ cuối lại là cảnh đoàn thuyền trở về với chuyến thu hoạch thắng lợi. Những hình ảnh, cảnh tượng lặp lại trong hai khổ thơ mang đến suy nghĩ và liên tưởng về sự lặp vòng, vần xoay của vũ trụ cũng như hoạt động của con người. Thời gian tuần hoàn, từ hoàng hôn tới bình minh cũng giống như con người luôn luôn cố gắng phát triển sự nghiệp, cải tạo nước nhà.

Mở đầu bài thơ bằng cảnh hoàng hôn, khi đoàn thuyền đánh cá chuẩn bị nhổ neo căng buồm ra khơi:

"Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then, đêm sập cửa
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,
Câu hát căng buồm cùng gió khơi".

Đứng trên bờ để quan sát cảnh tượng hoàng hôn kỳ vĩ, phóng tầm mắt ra xa, thu vào trong ống kính của nhà thơ là hình ảnh mặt trời đỏ ối "như hòn lửa". Mặt trời, biểu tượng của sự sống luôn rực rỡ và tráng lệ, nhất là khi được quan sát giữa không gian rộng lớn. "Mặt trời xuống biển", người đọc có thể hình dung ra đường chân trời, nơi giao thoa giữa ánh sáng chói chang và mặt nước in hằn sắc đỏ cam kỳ vĩ. "Sóng đã cài then, đêm sập cửa", với người dân chài quanh năm bám biển, biển chính là nhà, là nơi để về, là nơi cho họ thức ăn, nguồn sống. Sóng "cài then", con sóng trở nên hiền hòa và êm dịu dưới màn đêm yên tĩnh, "đêm sập cửa", cả bầu trời tối đen sau khi mặt trời tắt nắng. Ở đây, tác giả dùng từ "cài then", "sập cửa", cũng giống như một ngôi nhà khi màn đêm buông xuống đều cửa đóng then cài, chuẩn bị cho một giấc ngủ sâu sau ngày dài làm việc vất vả. Thiên nhiên đối với người dân lao động thật gần gũi, giống như mái ấm chở che, nuôi dưỡng họ trưởng thành. Trong thời khắc vạn vật chìm vào giấc mộng như thế, những người dân vạn chài lại bắt đầu công việc thường nhật của mình:

"Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi"

Phép tu từ ẩn dụ "đoàn thuyền đánh cá" chính là những người dân chài khỏe mạnh, giàu sức sống. Cùng với con thuyền - kế sinh nhai, người dân biển đi theo đoàn ra khơi đánh bắt cá. Tuy làm việc vào ban đêm, nhưng dường như, ta vẫn cảm nhận được rõ ràng cái khí thế hừng hực như đoàn quân ra trận. "Câu hát căng buồm cùng gió khơi', ẩn dụ khí phách của người lao động với câu hát mạnh mẽ, mang tầm vóc vũ trụ "cùng gió khơi". Câu hát hay là sức mạnh của người lao động giúp con thuyền căng mới buồm, xứng đáng đứng cạnh thiên nhiên mênh mông vĩ đại. Tác giả khéo léo lồng ghép sự tự hào, tự tin đặt ngang con người sánh vai với vũ trụ, "cùng gió khơi" đưa thuyền ra xa, tìm về vùng đất nơi có nhiều hải sản quý giá. Con người làm chủ thiên nhiên, khai thác thiên nhiên để phục vụ cho đời sống kinh tế, hình ảnh con người chế ngự thiên nhiên vẫn luôn là khao khát và mục tiêu, nhất là trong thời kỳ đổi mới, xây dựng đất nước đương thời

Đặc sắc nghệ thuật của khổ thơ này là ở những hình ảnh không gian, con người hòa quyện làm một. Gói gọn trong một vài câu từ, khoảng thời gian từ lúc mặt trời lặn cho đến khi màn đêm bao phủ đều được miêu tả bao quát. Trên cái nền hùng vĩ ấy của thiên nhiên điểm xuyết hình ảnh con người, nhưng con người không hề bé nhỏ, lạc lõng mà là đoàn người ra khơi, vẻ oai hùng ngang hàng với năm châu bốn bể. Cảnh ra khơi huy hoàng, con người chinh phục thiên nhiên gây ấn tượng mạnh cho người đọc ngay từ đầu tác phẩm.

Cảnh tượng đặc sắc, ngạo ở khổ đầu còn được tiếp tục lặp lại ở khổ thứ ba, miêu tả cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi nay đã trở về thắng lợi.

"Câu hát căng buồm với gió khơi
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời
Mặt trời đội biển nhô màu mới
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi"

Hình ảnh "câu hát căng buồm với gió khơi" lặp lại ở khổ thơ đầu, khúc hát hào hùng từ khi bắt đầu cuộc đi biển tới khi đoàn thuyền trở về, câu hát vui vẻ, phấn chấn tiếp thêm sức mạnh cho những người dân chài đối diện với gian khó. m hưởng ngân vang của bài ca thắng lợi, khi đi là những câu hát mang niềm kỳ vọng, khát khao về một buổi ra khơi thành công, khi về là khúc hát, là lời reo hò mừng vui khôn xiết cho những thành quả lao động đã gặt hái được. Và một lần nữa, hình ảnh mặt trời lại xuất hiện trong câu thơ, nhưng thay vì là "mặt trời xuống biển" thì ở đây là "mặt trời đội biển", mặt trời lên, một ngày mới, một sức sống mãnh liệt mới. Sau một đêm lao động vất vả, lênh đênh ngoài biển khơi, giờ đây, những người dân chài được đền đáp không chỉ bằng lưới cá đầy khoang mà còn là ánh bình minh rực rỡ, ánh sáng mang lại sự sung túc ấm no. "Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi", biểu tượng của sự no đủ. Cá được mùa, mặt trời ấm áp, báo hiệu một cuộc sống không phải chật vật cơm áo gạo tiền. Có lẽ, đối với người lao động chân tay thuần túy, không có gì quý giá hơn sóng yên biển lặng, tay lưới trĩu nặng vì cá tôm. Người dân chài giống như những tráng sĩ trở về với chiến công hiển hách, vang dội, nhấn mạnh nét đẹp lao động, nét đẹp của những cơ bắp dạn dày gió sương và những đôi tay khéo léo làm việc không quản gian nan.

Đặc sắc nghệ thuật của bài thơ phải kể đến câu thơ "Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời". Được ví như nhãn tự của tác phẩm, Huy Cận nâng tầm con người lên với tầm của vũ trụ. Quả cầu lửa của nhân loại, mặt trời lộng lẫy chói chang, giờ đây, đoàn thuyền với những người lao động cũng có thể sánh ngang với mặt trời. Trải dài từ đầu đến cuối bài thơ là giọng điệu tự hào, trân trọng những con người cống hiến, làm việc và sinh sống giữa thiên nhiên xoay vần, biến chuyển không ngừng nhưng không hề xuất hiện sự bé nhỏ, sợ hãi. Tư thế của những người dân vạn chài luôn hướng về cuộc sống mới, nơi có ánh sáng rạng rỡ, "chạy đua cùng mặt trời". Sau một đêm lao động vất vả, họ vẫn dồi dào năng lượng, cũng giống như đất nước và con người Việt Nam, chìm trong chiến tranh, đạn bom loạn lạc, nhưng khi tổ quốc bước vào thời kì xây dựng, người dân vẫn luôn sẵn sàng tiên phong, đi theo tiếng gọi của Tổ quốc.

Với lời thơ dứt khoát, mạnh mẽ cùng âm hưởng bản anh hùng ca, hình ảnh thơ lặp lại, tương xứng ở khổ đầu và khổ cuối, tác giả đã mang đến một nức họa với những khối màu vừa hài hòa, giao thoa vừa đối lập, tương phản. Đặc sắc nghệ thuật của hai khổ thơ chính là ở chỗ, dùng những hình ảnh cũ nhưng nội dung lại nói về cái mới, tạo nên sự hô ứng giữa không gian và thời gian. Không gian tuần hoàn, thời gian ngày đêm lặp vòng cũng giống như những người lao động luôn làm việc hăng say, hết mình cho sự nghiệp lớn lao của dân tộc.

Cảm nhận khổ đầu và khổ cuối trong bài thơ Đoàn thuyền đánh cá – mẫu 8

Huy Cận là một trong những nhà thơ tiêu biểu của nền thơ ca hiện đại Việt Nam. Bài thơ "Đoàn thuyền đánh cá" viết năm 1958, trong thời gian ông đi thực tế ở Hòn Gai - Quảng Ninh, được in trong tập "Trời mỗi ngày mỗi sáng". Bài thơ đã khắc họa nhiều hình ảnh đẹp tráng lệ, thể hiện sự hài hòa giữa thiên nhiên và con người lao động, bộc lộ niềm vui, niềm tự hào của nhà thơ trước đất nước và cuộc sống. Điều này được thể hiện rõ nét qua khổ thơ đầu và cuối của bài.

Bài thơ ra đời trong thời điểm miền Bắc nước ta đang trong giai đoạn đầu dựng chủ nghĩa xã hội. Xuyên suốt toàn bài thơ là âm hưởng khỏe khoắn, hào hùng, lạc quan thể hiện rõ dấu ấn của sự chuyển mình trong cảm hứng nghệ thuật của nhà thơ Huy Cận. Cũng vẫn là cảm hứng về thiên nhiên vũ trụ, nếu như trước cách mạng, thiên nhiên vũ trụ đi vào thơ ông thường gợi cảm giác về sự rợn ngợp trước cái mênh mông, vô cùng vô tận khiến con người trở nên nhỏ bé, cô độc thì ở bài này, thiên nhiên vũ trụ trở nên tươi sáng, khoáng đạt gần gũi với con người, mạnh mẽ và đầy tự tin trong tư thế của một vị chủ nhân của biển cả.

Ở khổ thơ đầu tiên, ta đã bắt gặp hình ảnh người dân chài cá ra khơi vào lúc hoàng hôn.

Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then đêm sập cửa

Nhà văn Nguyễn Tuân Đã viết "Mặt trời đỏ như lòng trứng khổng lồ, đặt trên mâm lễ từ từ tiến vào" với "hòn lửa". Khi hoàng hôn buông xuống, mặt trời như một quả cầu lửa khổng lồ đang từ từ lặn xuống biển xanh, cả không gian vũ trụ như nhuốm một màu đỏ rực rỡ và huy hoàng. Điều này khác hẳn với thời xưa cảnh hoàng hôn chiều tà thường gợi cảm giác ảm đạm hiu hắt và đây cũng là điều khác hẳn với thơ Huy Cận thời kì trước cách mạng tháng tám 1945. Trước đó bao nhiêu sóng nước tràng giang là có bấy nhiêu nỗi buồn trong lòng thi nhân: "Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp". Độc đáo hơn, nhà thơ đã tả "mặt trời xuống biển" (trong khi biển nước ta là biển đông - một cách cảm nhận dường như thật mơ hồ nhưng có thể lý giải được bởi phải chăng Huy Cận đang mượn điểm nhìn của những người đi biển để chứng kiến cảnh mặt trời lặn "xuống biển"?

Khi ánh sáng của mặt trời dần lịm tắt, màn đêm từ từ buông xuống: "Sóng đã cài then đêm sập cửa". Trong trí tưởng tượng bay bổng của Huy Cận, màn đêm như một cánh cửa khổng lồ mà sóng chính là cái then cài đóng lại cánh cửa khổng lồ ấy. Nghệ thuật nhân hóa đã đem lại cho người đọc cảm giác thiên nhiên vũ trụ trong màn đêm như một ngôi nhà lớn, gần gũi, thân thuộc với con người, nó không huyền bí, xa lạ với con người, đoàn thuyền đánh cá ra khơi mà như đang đi trong chính ngôi nhà thân thuộc của mình. Như vậy, nhờ sự khéo léo tài tình biện pháp tu từ so sánh và nhân hóa trong hai câu thơ mở đầu, nhà thơ Huy Cận đã khắc họa được vẻ đẹp kì vĩ của thiên nhiên lúc hoàng hôn và mối quan hệ gắn bó giữa thiên nhiên vũ trụ với con người đang khao khát chinh phục làm chủ biển khơi.

Thiên nhiên vũ trụ bắt đầu đi vào trạng thái nghỉ ngơi thì con người bắt đầu công việc khơi đánh cá. Đó là sự tương phản giữa thiên nhiên và con người:

Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi

Chuyến ra khơi này là cả một đoàn thuyền với khí thế căng tràn, khí thế lao động tập thể, chứ không phải là chuyến ra khơi của những con thuyền lẻ tẻ ở ven bờ. Hơn hết, tuy công việc đánh cá ở ngoài khơi nặng nhọc và đầy bất trắc nhưng đoàn quân vẫn xông trận cất cao tiếng hát. Đây là một hình ảnh bay bổng thể hiện sự tưởng tượng liên tưởng độc đáo của tác giả. Bên cạnh đó, tiếng hát đã bộc lộ niềm lạc quan, phấn khởi, nhiệt tình của lao động của những con người làm chủ quê hương giàu đẹp.

Sau một đêm đánh cá vất vả đoàn thuyền lại trở về vào lúc bình minh:

"Câu hát căng buồm cùng gió khơi
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời"

Câu thơ "câu hát căng buồm" với gió khơi, gần như nguyên vẹn câu thơ trong khổ đầu tiên. Đây là lần thứ ba tiếng hát vang lên. Tiếng hát biểu hiện cho niềm vui của những người đánh cá khi được hưởng thành quả rực rỡ sau một đêm lao động vất vả. Tiếng hát ấy vang lên hùng tráng khi đoàn thuyền đang rẽ sóng trở về. Nhà thơ nhân hóa "đoàn thuyền" đang "chạy đua cùng mặt trời, chạy đua cùng thời gian. Hai tiếng "chạy đua" cho ta thấy những người đan chài mặc dù suốt đêm làm việc không mệt mỏi nhưng sức lực của họ vẫn dồi dào, khí thế của họ vẫn mạnh mẽ. Huy Cận đã nâng cao người lên tầm vóc vũ trụ rộng lớn. Con người thật xứng đáng với tầm vóc chủ nhân biển cả, vẫn muốn dành thời gian để lao động, để cống hiến.

"Mặt trời đội biển nhô màu mới
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi".

Vẻ đẹp tráng lệ của bình minh trên biển được nhà thơ miêu tả sinh động qua biện pháp nhân hóa "mặt trời đội biển" gợi cảm giác thần thoại. Mặt trời có sức mạnh lớn lao, dường như nó đang đội biển mà lên và cái "màu biển" là màu hồng bình minh, là lời chào đón của thiên nhiên với những người lao động cần cù. Đặc biệt câu thơ cuối cùng gợi ra hình ảnh đoàn thuyền nối đuôi nhau trở về, chiếc nào trên khoang cũng đầy ắp cá. Ánh mặt trời chiếu vào mắt cá khiến cho mỗi mắt cá như một mặt trời nhỏ, lấp lánh. Hình ảnh "mắt cá huy hoàng" vừa là thành quả lao động, vừa gợi ra niềm vui, niềm tự hào của những người lao động và cuộc sống mới đầy tốt đẹp đang mở ra trước mắt. Đó là một hình ảnh đầy sáng tạo và lãng mạn.

Bài thơ có âm hưởng khỏe khoắn, hào hùng, sử dụng nhiều biện pháp tu từ đặc sắc. Bằng bút pháp lãng mạn và sức tưởng tượng phong phú, Huy Cận đã sáng tạo ra những hình ảnh đẹp bất ngờ, dào dạt chất thơ.

"Đoàn thuyền đánh cá" của Huy Cận thực sự là một bức tranh lao động hoành tráng, tràn ngập ánh sáng, sắc màu và sức sống mãnh liệt. Bài thơ là khúc ca ca ngợi biển cả giàu đẹp và ca ngợi những người dân chài trong công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa do đảng và Bác Hồ chỉ đường dẫn lối.

Cảm nhận khổ đầu và khổ cuối trong bài thơ Đoàn thuyền đánh cá – mẫu 9

Huy Cận là nhà thơ nổi tiếng trong phong trào thơ mới với những vần thơ sầu vũ trụ, nhưng sau cách mạng Huy Cận ấm áp hơi thở cuộc sống. Trong đó, bài thơ Đoàn Thuyền Đánh Cá là bài thơ mang âm điệu ngọt ngào niềm vui và sự say mê của con người lao động. Và phải chăng đó cũng chính là niềm vui của tác giả. Có đọc bài thơ, ta mới cảm nhận sâu sắc điều đó và hẳn rằng hình ảnh mặt trời sẽ chạm khắc trong tâm hồn ta.

“Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then, đêm sập cửa.
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,
Câu hát căng buồm cùng gió khơi”

Khổ thơ đầu của bài thơ đã gây ấn tượng cho người đọc bởi chất thơ chất lãng mạn theo nhịp điệu tiếng sóng vỗ. Chao ôi, hãy lắng tai nghe âm hưởng của bài ca lao động khỏe khoắn vang lên từ xa. Trông kìa, mặt trời đang xuống biển, cảnh hoàng hôn hiện lên thật đẹp. Với biện pháp so sánh ” mặt trời” được ví như “hòn lửa” cùng biện pháp nhân hóa đặc sắc ” Sóng đã cài then, đêm sập cửa.” miêu tả cảnh về đêm thật kỳ vĩ tráng lệ, mặt trời đang lặn dần vào lòng đại dương mênh mông buông xuống. Không xe lạnh mà ngược lại ta còn thấy ấm áp biết nhường nào. Phải chăng bầu trời và mặt biển bao la là ngôi nhà vũ trụ trong khoảng khắc phủ bóng tối mịt mùng. Dường như lúc đất trời đang đi vào trạng thái nghỉ ngơi cũng là lúc con người bắt đầu một ngày lao động mới, đó là ra khơi đánh cá. Không phải từng chiếc thuyền lẻ tẻ đi biển mà cả đoàn thuyền một sức mạnh của cuộc đời đổi thay, chữ ” lại” trong ý thơ” lại ra khơi” vừa khẳng định nhịp điệu lao động của người dân chài đã đi vào ổn định, nề nếp, khúc hát lên đường vang động, gió biển thổi mạnh, cánh buồn càng gió. Nghệ thuật liên tưởng kết hợp với hình ảnh ẩn dụ thể hiện một hiện thực đó là niềm vui là khí thế phơi phới mạnh mẽ lạc quan của dân chài trên biển.

Một lần nữa hãy nghe tiếng hát âm vang ở trên biển khơi đang dội vào:

“Câu hát căng buồm với gió khơi,
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời.
Mặt trời đội biển nhô màu mới
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.”

Đến đây, câu hát đã theo hết hành trình của người dân chài, cấu trúc lặp đoạn đầu cuối đã làm vang lên niềm vui lao động làm giàu đẹp cho quê hương, con thuyền và mặt trời được nhân hóa. Con thuyền nuốt sóng như chạy đua cùng thời gian, giành lấy thời gian để nhanh chóng về bến. Hình ảnh mặt trời lại hiện lên làm cho ” Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi” muôn ngàn mắt cá lấp lánh, ý thơ phảng phất không khí thần thoại anh hùng ca lao động đó là niềm vui cho niềm vinh quang của người lao động khi gặt hái thành công.

Như vậy, chỉ với khổ thơ đầu và khổ thơ cuối đã tạo nên một kết cấu bài thơ vô cùng đặc sắc. Tiếng hát say mê niềm vui như đang làm rung động sợi dây tình cảm của ta, và đây cũng chính là cái tài cái khéo của Huy Cận khi làm thơ.

Cảm nhận khổ đầu và khổ cuối trong bài thơ Đoàn thuyền đánh cá – mẫu 10

Huy cận là một trong số những nhà thơ nổi tiếng trong phong trào thơ Mới với bài thơ "Đoàn thuyền đánh cá " sáng tác 1958 khi miền Bắc đi lên xây dựng cách mạng xã hội với khí thế làm ăn tập thể sôi nổi hào hứng và cũng chính lúc ấy hồn thơ Huy Cận nảy nở trở lại tràn đầy niềm tin yêu cuộc sống với người dân và đất nước. Bài thơ thể hiện vẻ đẹp của con người lao động mới trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Với hồn thơ tinh tế, trí tưởng tượng phong phú và nhạy cảm. Huy cận đã vẽ lên trước mắt chúng ta một khung cảnh hoàng hôn trên biển thật kì vĩ, tráng lệ, với hình ảnh những con người lao động mới trong thời điểm đoàn thuyền đánh cá ra khơi

Những người ngư dân ra khơi trong hoàn cảnh đặc biệt hoàng hôn xuống, vũ trụ đi vào nghỉ ngơi thì họ lại bắt tay vào công việc lao động đánh cá trên biển.

Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then, đêm sập cửa.
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.

Hình ảnh thơ đẹp tráng lệ các biện pháp tu từ so sánh nhân hóa. Cảnh hoàng hôn trên biển đẹp, kỳ vĩ, tráng lệ. Vũ trụ đã đến giờ nghỉ ngơi yên tĩnh những đợt sóng dừng ngang trên mặt biển như những chiếc then cài còn cánh cửa là màn đêm sập xuống.

Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi

Đây không phải là chiếc thuyền bé tiểu tiêu trong thơ Nguyễn Khuyến cũng không phải là chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã trong thơ tế hành mà là cả một đoàn thuyền hùng dũng ra khơi

Người ngư dân bắt đầu một công việc lao động mới trên biển công việc chinh phục biển khơi đó là khí thế lao động tập thể đầy tự tin, phấn khởi của người dân miền Bắc trong những năm tháng ấy.

“Câu hát căng buồm cùng gió khơi”

Hình ảnh ẩn dụ cho thấy chỉ có gió mới làm căn phòng cánh buồm phải chăng nhà thơ như muốn nói những người dân chài hào hứng hân hoan ra khơi trong niềm vui câu hát.

Hình ảnh người lao động trong thời điểm đoàn thuyền đánh cá trở về

Câu hát căng buồm với gió khơi,
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời.
Mặt trời đội biển nhô màu mới
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi

Câu hát căng buồm được lập lại ở khổ cuối làm cho bài thơ có cấu trúc trọn vẹn hơn đó là niềm vui bội thu. Khi bình minh lên mặt chơi lóe sáng cũng là lúc hoàn tất công việc trở về với những khoang cá nặng đầy mà vẫn phơi phới chạy đua cùng mặt trời tầm vóc lớn lao phi thường của người lao động vừa thực vừa hào hứng. Hình ảnh thơ phản ánh một thói quen lâu đời của người dân là đưa cá về bến trước lúc trời sáng. Hoàng hôn xuống biển thuyền đi thu đêm đánh cá trở về Bình minh.

Với hình ảnh nhân hóa ẩn dụ đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời, mặt trời đội biển nói lên vẻ đẹp của người chinh phục thiên nhiên đã hiện lên với vẻ đẹp khỏe khoắn trong tư thế làm chủ. Họ lao động bằng niềm tin niềm lạc quan của mình. Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi. Là sự liên tưởng về tương lai tươi sáng về một cuộc sống ấm no hạnh phúc đang đón chờ người dân.

Với thể thơ tự do, giọng thơ bay bổng trí tưởng tượng phong phú. Tác giả đã sử dụng thành công các biện pháp tu từ so sánh, ẩn dụ, nhân hóa liệt kê và liên tưởng tưởng tượng. Vì thế bài thơ được coi là khúc tráng ca của người lao động vì sự giàu đẹp của quê hương, đất nước.

Cảm nhận khổ thơ 3, 4, 5, 6 bài Đoàn thuyền đánh cá – mẫu 1

Huy Cận là một trong số những gương mặt tiêu biểu của nền thơ ca Việt Nam hiện đại. Trước Cách mạng thơ Huy Cận thường giàu chất triết lí và ngập tràn nỗi sầu nhân thế. Nhưng từ khi Cách mạng tháng Tám thành công thì thơ ông là bài ca dào dạt niềm vui về cuộc đời, là bài thơ mến yêu thiên nhiên, con người và cuộc sống. Ra đời năm 1958, trong chuyến đi thực tế của nhà thơ ra vùng mỏ Quảng Ninh, “Đoàn thuyền đánh cá” là một tác phẩm mang cảm xúc như thế. Bài thơ miêu tả một chuyến đi khơi của đoàn thuyền đánh cá; là một khúc ca lao động tập thể, khúc ca về vẻ đẹp của thiên nhiên; là niềm vui, niềm ngưỡng mộ của tác giả trước con người và cuộc sống mới. Để lại nhiều ấn tượng nhất trong lòng người đọc là vẻ đẹp của biển cả, của đoàn thuyền và con người được thể hiện. Mở đoạn đoạn thơ là hình ảnh đoàn thuyền lướt nhanh giữa trời cao biển rộng có cái lâng lâng, sảng khoái lạ thường:

“Thuyền ta lái gió với buồm trăng

Lướt giữa mây cao với biển bằng.

Ra đậu dặm xa dò bụng biển

Dàn đan thế trận lưới vây giăng.”

Video bài văn mẫu Cảm nhận khổ thơ 3, 4, 5, 6 bài Đoàn thuyền đánh cá

Con thuyền đánh cá vốn nhỏ bé trước biển trời bao la, đã trở thành con thuyền kì vĩ, lớn lao mang tầm vóc vũ trụ. Thuyền có gió làm lái, có trăng làm buồm, lướt giữa mây cao và biển bằng, giữa mây trời và sóng nước với tất cả sức mạnh chinh phục biển cả, chinh phục thiên nhiên. Hình ảnh này thể hiện rất rõ sự thay đổi trong cảm hứng nghệ thuật của Huy Cận trước và sau cách mạng (có thể bàn thêm). Chủ nhân con thuyền – những người lao động cũng trở nên lồng lộng giữa biển trời trong tư thế, tầm vóc làm chủ cuộc đời. Con người đã chủ động, mạnh mẽ hòa nhập với kích thước rộng lớn của thiên nhiên, vũ trụ. Không chỉ vậy, họ còn nổi bật ở vị trí trung tâm: ra tận khơi xa dò bụng biển, tìm luồng cá, dàn đan thế trận, bủa lưới vây giăng. Chất lãng mạn bao trùm cả bức tranh lao động biến công việc nặng nhọc trên biển thành một cuộc chiến đấu đầy hăm hở, với khí thế đua tranh. Nếu như ở đoạn đầu, thiên nhiên đã chìm vào trạng thái nghỉ ngơi, thư giãn “mặt trời xuống biển”, “sóng đã cài then”, “đêm sập cửa” thì ở đây, con người đã đánh thức thiên nhiên, khiến thiên nhiên dường như bừng tỉnh, như cùng hòa vào niềm vui trong lao động. Có thể nói, lòng tin yêu thiên nhiên, con người và cảm hứng lãng mạn bay bổng đã giúp nhà thơ xây dựng được một hình ảnh thơ tuyệt đẹp, vừa hoành tráng, lại vừa thơ mộng.Bức tranh lao động được điểm tô bằng vẻ đẹp của thiên nhiên. Cái nhìn của nhà thơ đối với biển và cá cũng có những sáng tạo bất ngờ, độc đáo:

“Cá nhụ cá chim cùng cá đé

Cá song lấp lánh đuốc đen hồng.

Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe”

Thủ pháp liệt kê kết hợp với sự phối sắc tài tình qua việc sử dụng các tính từ chỉ màu sắc “đen hồng”, “vàng chóe”… đã tạo nên một bức tranh sơn mài nhiều màu sắc, ánh sáng, lung linh huyền ảo như trong câu chuyện cổ tích nói về xứ sở thần tiên. Mỗi loài cá là một kiểu dáng, một màu sắc: “Cá nhụ cá chim cùng cá đé/Cá song lấp lánh đuốc đen hồng” làm nên sự giàu đẹp của biển cả quê hương. Như có một hội rước đuốc trong lòng biển đêm sâu thẳm. Mỗi khi: “Cái đuôi em quẫy”, trăng như vàng hơn, rực rỡ hơn, biển cả như sống động hẳn lên. Người xưa thường nói: “Thi trung hữu họa” – nghĩa là trong thơ có hình có ảnh. Quả đúng như thế, mỗi loài cá ở đây là bức kí họa thần tình. Chúng đâu chỉ là sản phẩm vô tri được đánh bắt bởi bàn tay con người. Với họ - những người ngư dân này – cá là bạn, là “em”, là niềm cảm hứng cho con người trong lao động, và cũng chính là đối tượng thẩm mĩ cho thi ca.Cảnh đẹp không chỉ ở màu sắc, ánh sáng, mà còn ở âm thanh. Nhìn bầy cá bơi lội, nhà thơ lắng nghe tiếng sóng vỗ rì rầm:

"Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long"

Bằng nghệ thuật ẩn dụ kết hợp nhân hóa, biển cả như một sinh thể sống động. Tiếng sóng vỗ dạt dào dâng cao hạ thấp là nhịp thở trong đêm của biển. Thế nhưng nhà thơ lại viết “Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long”. Thật ra, là sóng biển đu đưa rì rào va đập vào mạn thuyền. Trăng, sao phản chiếu ánh sáng xuống nước biển, mỗi khi sóng vỗ nhịp tưởng như có bàn tay của sao trời đang “lùa nước Hạ Long”. Đó là sự độc đáo, mới lạ trong sáng tạo nghệ thuật. Có thể nói, bằng tâm hồn hết sức tinh tế, tác giả đã cảm nhận được hơi thở của thiên nhiên, vũ trụ. Chính không khí say sưa xây dựng đất nước của những năm đầu khôi phục và phát triển kinh tế là cơ sở hiện thực của những hình ảnh lãng mạn trên. Bởi thế, bài thơ như một khúc tráng ca mà Huy Cận sáng tác để ca ngợi những con người lao động mới hay chính những con người lao động tự cất lên, tự viết lời cho khúc ca lao động của mình:

“Ta hát bài ca gọi cá vào

Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao”

Bài hát căng buồm đưa đoàn thuyền ra khơi, bài hát lại vang lên trong công việc, biến lao động cực nhọc thành niềm vui phơi phới, niềm vui lao động, niềm vui được hòa nhập gắn bó thân thiết với thiên nhiên. Lời ca gọi cá vào lưới nâng cao thêm chất thơ mộng của bức tranh. Người dân chài gõ thuyền xua cá vào lưới, nhưng đây không phải là con người mà là ánh trăng: trăng in xuống dòng nước, sóng vỗ như gõ nhịp vào mạn thuyền xua cá. Hiện thực được trí tưởng tượng sáng tạo thành hình ảnh lãng mạn, giàu chất thơ. Cái nhìn của nhà thơ đối với biển cả và con người là cái nhìn tươi tắn, lạc quan, ông như hòa nhập vào công việc, vào con người, vào biển cả.Từ đó, cảm xúc dâng trào, không thể không cất lên tiếng hát, bài ca về lòng biết ơn mẹ biển giàu có và nhân hậu:

“Biển cho ta cá như lòng mẹ

Nuôi lớn đời ta tự buổi nào”

Biển ấm áp như người mẹ hiền chở che, nuôi nấng con người lớn lên, bao bọc con người với một tình cảm trìu mến, thân thương. Biển là nguồn sống, gắn bó thân thiết, cho ta tất cả những gì của cuộc đời như người mẹ “nuôi lớn đời ta tự buổi nào”. Câu thơ như một sự cảm nhận thấm thía của những người dân chài đối với biển khơi. Đến một lúc nào đó, họ chợt nhận ra biển đã gắn bó với mình từ bao đời, bao thế hệ, thật quý giá và thân yêu biết chừng nào!

Cảm nhận khổ thơ 3, 4, 5, 6 bài Đoàn thuyền đánh cá – mẫu 2

Nếu như trước cách mạng tháng Tám thơ Huy Cận chìm đắm vào nỗi sầu vương nhân thế thì sau cách mạng, thơ ông tràn ngập niềm yêu cuộc sống, ngợi ca cuộc đời và con người mới. Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá được tác giả sáng tác trong một lần đi thực tế tại Quảng Ninh là một tác phẩm như thế. Vẻ đẹp huy hoàng, kỳ vĩ của thiên nhiên cùng những người lao động mạnh mẽ, lạc quan tạo nên một bức tranh cuộc sống hài hoà, đẹp đẽ. Các khổ thơ 3, 4, 5, 6 là những đoạn thơ thể hiện rõ nhất bức tranh ấy.

"Thuyền ta lái gió với buồm trăng

Lướt giữa mây cao với biển bằng"

Những người đánh cá ra đi mang theo câu hát của niềm tin và hy vọng. Giữa biển cả sóng nước mênh mông của vũ trụ, người lao động nào có nhỏ bé mà họ trở nên phi thường, lớn lao, làm chủ chính công việc của mình. Qua cái nhìn lãng mạn của thi nhân cùng lối tưởng tượng độc đáo, từ một công việc vất vả trở nên thi vị biết bao. Thiên nhiên sát cánh cùng người lao động, gió căng buồm cùng người lái thuyền vượt sóng, buồm chở trăng vượt biển, lướt mây. Nhờ gió, trăng mà người lao động vui vầy hơn với công việc, thiên nhiên gần gũi, thân thương thật nhiều. Động từ "lướt" được đặt đầu câu cho thấy khí thế phơi phới trong hoạt động lái thuyền, vượt biển.

"Ra đậu dặm xa dò bụng biển"

Thuyền cùng người "lướt mây cao", vượt "biển bằng" để đến nơi xa xôi của biển cả "ra đậu dặm xa", tìm kiếm những nguồn cá tôm dồi dào. Công việc đánh cá nào có dễ dàng thuận lợi, phải cần kinh nghiệm và mưu trí của mình, người lao động mới tìm được nơi có bãi cá, luồng tôm để đánh bắt " dò bụng bể".

"Dàn đan thế trận lưới vây giăng"

Đánh bắt cá cũng là một cuộc chinh phục của con người trước thiên nhiên. Công việc diễn ra như một trận đánh của người lao động vậy, cần sự tập trung cao độ trong mỗi bước hành động "dàn đan thế trận" để giăng lưới bắt cá. Công việc đánh cá hiện lên vừa chân thực lại không kém phần lãng mạn qua cách khắc hoạ của Huy Cận. Kinh nghiệm bao mùa mưa nắng đánh bắt cá tôm đã nuôi dưỡng trong những người dân chài bản lĩnh can trường để vượt qua gian khó, công việc trở thành một môn nghệ thuật mà những người lao động ấy là nghệ sĩ tài ba, vô danh và dũng cảm.

"Cá nhụ, cá chim cùng cá đé

Cá song lấp lánh đuốc đen hồng

Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe"

Phải chăng thiên nhiên cũng thấu hiểu được sự vất vả của con người mà thương họ, bạn phát cho họ nguồn cá tôm dồi dào đến thế. Thủ pháp liệt kê được tác giả vận dụng để thể hiện sự phong phú, đa dạng của các loài cá trên biển: cá nhụ, cá chim, cá đé, cá song,..... Ta như thấy được niềm vui của người lao động khi bắt gặp luồng cá đông đến vậy. Trong màu sắc dịu dàng của ánh trăng đêm giữa biển khơi, những chú cá hiện lên thật lung linh, đẹp đẽ. Cá song "lấp lánh đuốc đen hồng" nổi bật trong làn nước của biển đêm. Nghệ thuật nhân hoá "em" như một cách gọi đầy trìu mến và thân thương của người lao động dành cho bao chú cá biển khơi. Động từ "quẫy" kết hợp với cụm danh từ "trăng vàng choé" càng làm cho khung cảnh lao động trong biển đêm thêm sinh động, nên thơ. Ánh trăng đêm rẽ nước cùng thuyền vượt biển, trăng mang ánh sáng huyền diệu xua tan tăm tối của biển đêm, sáng soi cho con người lao động. Trăng cùng cá tôm vẽ nên nét đẹp lung linh, mơ màng của biển cả.

"Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long"

Nghệ thuật nhân hoá một lần nữa được tác giả vận dụng để miêu tả thiên nhiên "đêm thở", "sao lùa".

"Ta hát bài ca gọi cá vào,

Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao

Biển cho ta cá như lòng mẹ

Nuôi lớn đời ta tự buổi nào"

Câu hát luôn được người lao động nơi biển cá mang theo. Dẫu mệt nhọc, vất vả thì những lời ca, tiếng hát văn vang lên, xua tan bao khó khăn, đem đến cho họ nguồn năng lượng tích cực để làm việc. Câu hát mời gọi tôm cá đến với con người nghe sao mà thiết tha, ân tình đến vậy. Trăng cũng hoà mình vào làn nước mát xanh, vỗ vào mạn thuyền để gõ nhịp, góp thêm cho lời hát của con người khúc nhạc tâm tình, dạt dào mời gọi. Nhịp thơ nhẹ nhàng, lời thơ phóng khoáng ấy càng thể hiện vẻ đẹp của người lao động trong cuộc đời mới: tự do, kiêu hãnh và đầy khát khao.Xúc cảm trào dâng mãnh liệt, thay lời bao người con biển cả, nhà thơ cất lên lời biết ơn từ tận đáy lòng dành cho mẹ biển:

"Biển cho ta cá như lòng mẹ

Nuôi lớn đời ta tự buổi nào"

Bao nhiêu thế hệ được lớn lên, trưởng thành nơi đây là nhờ biển cả. Biển mang lại nguồn kinh tế vô cùng lớn cho người lao động để họ có thể mưu sinh, nuôi sống gia đình mình. Nếu lòng mẹ cao lớn, dạt dào nuôi nấng chăm sóc con thì biển cả cũng vĩ đại như lòng mẹ vậy, dành cho người lao động nguồn cá tôm rộng mở, nuôi dưỡng và chở che cho cuộc đời con người "Nuôi lớn đời ta tự buổi nào". Lời biết ơn cũng là lời ngợi ca biển quê hương giàu đẹp, tiếng thơ chân thành mà tha thiết yêu thương.

"Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng

Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng"

Không khắc hoạ vẻ cường tráng, mạnh bạo của người dân qua ngoại hình, màu da như Tế Hanh, nhưng Huy Cận lại thể hiện vẻ đẹp đó của họ quá hành động. Sao dần mờ, trời sắp sáng cũng là lúc mọi người thúc giục nhau kéo lưới lên. Hành động "kéo xoăn tay chùm cá nặng" khắc hoạ nên hình ảnh dân chài đầy sức sống, mạnh mẽ như bức tượng đồng, dù đã mệt mỏi sau đêm dài thức trắng làm việc, họ vẫn quyết dùng hết sức lực để kéo lưới lên. Ta như thấy được những cánh tay cuồn cuộn, rắn chắc căng mình kéo lưới, một hình ảnh khoẻ mạnh và thật rắn rỏi. "Chùm cá nặng" là thành quả xứng đáng mà còn người nhận được sau bao thời gian gắng sức, vất vả. Đó là niềm vui thoả những chờ đợi, mong mỏi mà họ đã gửi gắm vào từng câu ca, tiếng hát.

"Vẩy bạc đuôi vàng loé rạng đông

Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng"

Chùm lưới nặng được kéo lên cũng là lúc công việc hoàn thành, vừa lúc rạng đông cũng đến. Con thuyền trở về với cá tôm đầy khoang. "Vẩy bạc" "đuôi vàng" lấp lánh trong ánh bình minh của buổi sớm. Hình ảnh lung linh và đẹp đẽ ấy là đại diện cho thành quả của người dân chài, họ tự hào và trân trọng những gì mà mình nhận được, họ hạnh phúc vì những cống hiến, hy sinh của mình được nhận lại xứng đáng. Cánh buồm căng gió trở về trong niềm hứng khởi, "nắng hồng" sớm mai lên cũng là lúc mọi người chào đón một ngày mới với những niềm vui mới, những hy vọng mới. 4 khổ thơ dạt dào cảm xúc, mang cả những yêu thương, ước vọng và niềm tin của tác giả dành cho người dân chài nói riêng và dành cho quê hương, đất nước nói chung. Hồn thơ khoẻ khoắn, khoáng đạt của Huy Cận đã mang đến cho người đọc bao cảm xúc tự hào về con người và thiên nhiên Việt Nam.

Cảm nhận bài thơ Đoàn thuyền đánh cá – mẫu 1

Huy Cận là một trong những nhà thơ tiêu biểu của phong trào Thơ Mới. Sau cách mạng ông nhanh chóng hoà nhập vào công cuộc kháng chiến vĩ đại và trường kì của dân tộc. Hoà bình lập lại, từng trang thơ Huy Cận ấm áp hơi thở của cuộc sống đang lên. Bài thơ "Đoàn thuyền đánh cá"được sáng tác ở Hòn Gai năm 1958 nhân một chuyến đi thực tế dài ngày. Bài thơ thực sư là một bài ca ca ngợi cuộc sống của những con người lao động mới.Với đôi mắt quan sát sắc sảo, trí tưởng tượng phong phú, trái tim nhạy cảm và tài năng nghệ thuật điêu luyện, nhà thơ đã vẽ lên trước mắt chúng ta khung cảnh lao động hăng say trên biển. Cả bài thơ như một bức tranh sơn mài lộng lẫy những sắc màu huyền ảo, cuốn hút vô cùng:

“Mặt trời xuống biển như hòn lửa

Sóng đã cài then đêm sập cửa

Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi

Câu hát căng buồm với gió khơi.”

Đoàn thuyền đánh cá rời bến vào lúc hoàng hôn, mặt trời như hòn lửa đỏ rực đang lặn dần vào lòng đại dương mênh mông, màn đêm buông xuống, kết thúc một ngày. Biển kín đáo như một gian phòng lớn của thiên nhiên bởi cách nói thật riêng biệt "sóng đã cài then đêm sập cửa". Chính vào thời điểm ấy, ngư dân bắt tay vào công việc quen thuộc của mình: Ra khơi đánh cá !Mặt biển đêm không lạnh lẽo mà ấm áp hẳn lên bởi tiếng hát âm vang, náo nức, thể hiện niềm vui to lớn của người lao động được giải phóng, tiếng hát hoà cùng gió, thổi căng buồm đưa đoàn thuyền ra khơi. Lời hát ca ngợi sự giàu có và hào phóng của biển cả cùng vẻ đẹp lung linh, diệu kì của nó trong đêm:

“Hát rằng cá bạc biển đông lặng

Cá thu biển đông như đoàn thoi

Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng

Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi!”

Video bài văn mẫu Cảm nhận bài thơ Đoàn thuyền đánh cá

Sự say mê vẻ đẹp của biển đã làm giảm bớt bao nỗi nhọc nhằn vất vả trong việc đánh cá, đem lại niềm vui và sức mạnh cho ngư dân. Cảnh đánh cá trong đêm được nhà thơ miêu tả bằng cảm hứng trữ tình mãnh liệt. Tác giả như nhập thân vào thiên nhiên, công việc, và con người:

“Thuyền ta lái gió với buồm trăng

Lướt giữa mây cao với biển bằng

Ra đậu dặm xa dò bụng biển

Dàn đan thế trận lưới vây giăng.”

Con thuyền đánh cá vốn nhỏ bé trước biển cả bao la đã trở thành con thuyền kì vĩ, khổng lồ hoà nhập với kích thước rộng lớn của thiên nhiên, vũ trụ. Con thuyền đó đang bay giữa không gian trong một đêm thuỷ tinh tuyệt đẹp. Những hình ảnh "lái gió", "buồm trăng", " mây cao", " biển bằng "phảng phất phong vị thơ cổ điển nhưng vẫn đậm chất hiện thực. Chuyến ra khơi đánh cá cũng giống như một trận đánh thật sự hào hùng. Cũng thăm dò, cũng dàn đan thế trận và bủa vây bằng. . . lưới! Đã bao đời nay, ngư dân có quan hệ chặt chẽ với biển cả. Họ thuộc biển như lòng bàn tay, bao loài cá họ thuộc tên, thuộc dáng và thuộc cả thói quen của chúng:

“Cá nhụ cá chim cùng cá đé

Cá song lấp lánh đuốc đen hồng

Cái đuôi em quẫy trăng vàng choé

Đêm thở sao lùa nước Hạ Long.”

Trên mặt biển đêm, ánh trăng lung linh dát bạc, cá quẫy đuôi sóng sánh trăng vàng, tiếng "em" bật lên tự nhiên, trìu mến. Bài ca gọi cá vẫn tiếp tục ngân vang: lúc náo nức, lúc lại thật tha thiết. Trăng thức cùng ngư dân, trăng cùng sóng dập dờn bên mạn thuyền như gõ nhịp phụ hoạ cho tiếng hát, trăng chiếu sáng cho ngư dân kéo được những mẻ cá đầy.Với ngư dân, biển cả bao la "như lòng mẹ", bởi vậy thiên nhiên và con người thật hoà hợp, nhịp nhàng. Nhịp điệu công việc càng khẩn trương, sôi nổi khi bóng đêm dần tàn, ngày đang đến:

“Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng

Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng

Vẩy bạc đuôi vàng loé rạng đông

Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng.”

Bao công lao vất vả đã được đền bù, dáng người ngư dân đang choãi chân, nghiêng người dồn tất cả sức mạnh vào đôi tay cuồn cuộn để kéo lên những mẻ lưới nặng trĩu mới đẹp làm sao!Màu sắc phong phú, lấp lánh vẩy bạc, đuôi vàng của bao loài cá càng khiến cho cảnh rạng đông thêm rực rỡ. Nhịp điệu câu thơ "lưới xếp buồm lên đón nắng hồng "chậm rãi, gợi cảm giác thanh thản, vui tươi, phản ánh tâm trạng hài lòng của ngư dân trước những kết quả tốt đẹp của chuyến ra khơi. Khổ thơ cuối cùng miêu tả cảnh trở về của đoàn thuyền đánh cá:

“Câu hát căng buồm với gió khơi

Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời

Mặt trời đội biển nhô màu mới

Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi”.

Vẫn là tiếng hát khoẻ khoắn của ngư dân dạn dày sông nước đang vươn lên làm chủ cuộc đời. Tiếng hát hoà trong gió, thổi căng buồm đưa đoàn người ra khơi đêm trước nay lại cùng đoàn thuyền đầy ắp cá hân hoan về bến. Hình ảnh "đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời" rất thực mà cũng rất hào hùng. Nó phản ánh một thói quen lâu đời của ngư dân là đưa cá về bến trước khi trời sáng đồng thời cũng hàm ý nói lên khí thế đi lên mạnh mẽ của họ trong công cuộc xây dựng đất nước. Hoà cùng niềm vui to lớn của mọi người, nhà thơ chắp cánh cho trí tưởng tượng của mình bay bổng. Đoàn thuyền đi trên biển, giữa màu hồng rạng rỡ tinh khôi và ánh mặt trời phản chiếu trong muôn ngàn mắt cá khiến nhà thơ liên tưởng đến hàng ngàn những mặt trời nhỏ xíu đang toả rạng niềm vui. Đến đây bức tranh biển cả ngập tràn màu sắc tươi sáng và ăm ắp chất sống trong từng dáng hình, từng đường nét của cảnh, của người."Đoàn thuyền đánh cá" là một bài ca lao động hứng khởi, hào hùng. Bài ca ấy dành cho biển hào phóng, cho những con người cần cù, gan góc đang làm giàu cho đất nước. Cảm hứng trữ tình và nghệ thuật điêu luyện được tác giả sử dụng trong bài thơ đã cuốn hút người đọc thật sự. Chúng ta cùng chia sẻ niềm vui to lớn với nhà thơ, với tất cả những người lao động mới đang kiêu hãnh ngẩng cao đầu trên con đường đi tới tương lai tươi sáng.

Cảm nhận bài thơ Đoàn thuyền đánh cá – mẫu 2

Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” là một trong những tác phẩm tiêu biểu của nhà thơ Huy Cận. Qua tác phẩm, người đọc sẽ cảm nhận được vẻ đẹp thiên nhiên cũng như công việc lao động hăng say của người ngư dân.Trước tiên, Huy Cận đã khắc họa cho chúng ta một bức tranh thiên nhiên đầy màu sắc và sức sống:

“Mặt trời xuống biển như hòn lửa

Sóng đã cài then, đêm sập cửa.

Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,

Câu hát căng buồm cùng gió khơi”

Hình ảnh so sánh “mặt trời xuống biển” với “hòn lửa” gợi ra màu sắc và hình dạng của mặt trời khi hoàng hôn buông xuống. Kết hợp với hình ảnh nhân hóa “sóng đã cài then, đêm sập cửa” khiến biển giống như là một căn nhà rộng lớn. Đây là thời điểm mà vạn vật nghỉ ngơi. Nhưng lại là lúc người ngư dân bắt đầu công việc lao động. Không chỉ một con thuyền, mà là cả một “đoàn thuyền” - số nhiều, chỉ một tập thể. Đoàn thuyền ấy “lại ra khơi”, lại tiếp tục lao động hăng say. Tiếng hát khi ra khơi mang theo niềm hứng khởi, sự hy vọng về một vụ mùa bội thu.Nếu như ở trên tác giả Huy Cận với việc sử dụng cách nói độc đáo, miêu tả con thuyền ra khơi ta còn nhìn thấy được vẻ đẹp cua biển khi màn đêm buông xuống thì ở khổ thơ tiếp theo tác giả miêu tả cảnh biển hết sức thơ mộng:

“Thuyền ta lái gió với buồm trăng

Lướt giữa mây cao với biển bằng,

Ra đậu dặm xa dò bụng biển,

Dàn đan thế trận lưới vây giăng”

Hình ảnh “con thuyền lái gió với buồm trăng” với vừa có tính thực lại vừa mang vẻ đẹp lãng mạn. Con thuyền ấy thật vĩ đại: “lướt giữa mây cao với biển bằng” gợi ra hình ảnh con thuyền giống như một tấm ván khổng lồ đang lướt giữa không gian bao la, rộng lớn - tầm vóc vũ trụ. Công việc lao động diễn ra ngay trong đêm: “Ra đậu dặm xa dò bụng biển” - mặc dù trong đêm tối, ngư dân vẫn miệt mài với công việc đánh cá của mình. Đánh cá cũng giống như đang đánh trận, mà con người phải sử dụng mưu trí tạo ra thế trận để đánh bại thiên nhiên. Huy Cận không chỉ nói về vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn thể hiện cuộc sống lao động trong thời kỳ mới:

“Ta hát bài ca gọi cá vào,

Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao,

Biển cho ta cá như lòng mẹ,

Nuôi lớn đời ta tự buổi nào”

Nhà thơ đã sử dụng kết hợp giữa bút pháp hiện thực và lãng mạn đã thể hiện không khí làm việc sôi nổi, khẩn trương. Công việc rất nặng nhọc. Họ phải làm thâu đêm. Họ kéo xoăn tay có nghĩa phải dùng hết sức, tay căng phồng cuộn cuộn với nhau :

“Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng,

Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng,

Vảy bạc đuôi vàng loé rạng đông,

Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng”

Bài thơ kết thúc lại bằng hình ảnh đoàn thuyền đánh cá trên hành trình trở về:

“Câu hát căng buồm với gió khơi,

Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời.

Mặt trời đội biển nhô màu mới

Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi”

Câu hát luôn được cất vang từ lúc ra khơi cho đến lúc trở về. Những câu hát đã thể hiện niềm hân hoan, phấn khởi. Cảnh bình minh được miêu tả với những nét đẹp tuyệt diệu. Con thuyền trở về với một tâm thế khẩn trương: “Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời”. Nó đã phản ánh một thói quen lâu đời của ngư dân là đưa cá về bến trước khi trời sáng đồng thời cũng hàm ý nói lên khí thế đi lên mạnh mẽ của họ trong công cuộc xây dựng đất nước. Hình ảnh “mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi” thể hiện một niềm tin hướng về tương lai của người ngư dân.Qua bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá”, Huy Cận đã khắc họa hình ảnh đẹp đẽ tráng lệ cũng như thể hiện sự hài hòa giữa thiên nhiên và con người lao động. Từ đó, tác phẩm cũng bộc lộ niềm vui, tự hào của nhà thơ đối với thiên nhiên, đất nước.

Phân tích bài thơ Đoàn thuyền đánh cá – mẫu 1

Đoàn thuyền đánh cá được Huy Cận sáng tác năm 1958, trong chuyến đi thực tế tại vùng mỏ Hòn Gai. Bài thơ là khúc tráng ca ca ngợi con người lao động với tinh thần làm chủ và niềm vui, niềm tin trước cuộc sống mới trong những năm đầu xây dựng đất nước.

Bài thơ là sự kết hợp của hai nguồn cảm hứng: cảm hứng lãng mạn, tràn đầy niềm vui, sự hào hứng trong thời kỳ miền Bắc bước vào xây dựng cuộc sống mới và cảm hứng vũ trụ vốn là nét nổi bật trong hồn thơ Huy Cận. Sự gặp gỡ, giao hoà của hai nguồn cảm hứng đó đã tạo nên những hình ảnh rộng lớn, tráng lệ, lung linh như những bức tranh sơn mài của bài thơ.

Đoàn thuyền ra khơi được miêu tả trong một khung cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp:

Mặt trời xuống biển như ngọn lửa.
Sóng đã cài then đêm sập cửa.

Nghệ thuật so sánh và nhân hoá được sử dụng thật độc đáo. Mặt trời được ví như hòn lửa đang lặn dần vào lòng biển. Vũ trụ như một ngôi nhà lớn, màn đêm xuống mau khép lại ánh sáng như đóng sập cánh cửa khổng lồ mà những lượn sóng là chiếc then cài. Ngày đã khép lại, vũ trụ như đang bước vào trạng thái thư giãn sau một ngày lao động thì chính lúc ấy một ngày lao động mới của người dân đánh cá lại bắt đầu:

Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.

Khi vị chủ nhân thứ nhất của thiên nhiên là mặt trời đi ngủ thì vị chủ nhân thứ hai – những người dân chài của cuộc sống mới lại mở cửa đêm để ra biển đánh cá. Công việc của những người dân chài diễn ra như một nhịp sống đều đặn trở thành quen thuộc, nền nếp. Nếu như sức sống của thiên nhiên như ngừng lại thì sự có mặt của đoàn thuyền như nối tiếp nhịp sống đó. Dù đã cài then, sập cửa nhưng biển không chìm trong lạnh lẽo hoang vu mà trái lại biển đang là chứng nhân cho sự làm việc hăng say, không nghỉ của những người lao động:

Câu hát căng buồm cùng gió khơi.

Câu thơ xuất hiện ba sự vật khác biệt là câu hát, căng buồm và gió khơi nhưng lại được gắn kết, hoà quyện với nhau. Tiếng hát khỏe khoắn của cả tập thể hoà với tiếng gió thổi căng buồm đẩy thuyền phăng phăng rẽ sóng. Câu hát là niềm tin, sự phấn chấn của người lao động. Sự kết hợp của nhịp điệu gấp gáp khẩn trương ở hai câu đầu với cái thanh thoát, đĩnh đạc của nhịp thơ hai câu sau đã vẽ nên bức tranh hào hùng về cảnh đoàn thuyền ra khơi. Khổ thơ còn là sự kết hợp của những liên tưởng táo bạo với những phép tu từ so sánh, nhân hoá đặc sắc đã giúp tác giả thể hiện khúc ca ra khơi hào hùng của người dân chài.

Không chỉ hát khi ra khơi mà những con người lao động luôn cất tiếng hát hòa cùng với công việc của mình. Tiếng hát là mong ước, là niềm tin thu hoạch:

Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng,
Cá thu biển Đông như đoàn thoi.

Từ con cá bạc báo biển lặng, biển hiện lên trong đêm như một khung cửi lớn và đẹp. Cá thu từng đoàn rẽ nước toả sáng, di chuyển như những con thoi. Sự liên tưởng từ khung cửi dệt đến khung cửa biển là sự liên tưởng độc đáo, là kết quả của sự quan sát thực tế. Qua sự liên tưởng ấy, trong cảm xúc vũ trụ của Huy Cận biển không còn xa lạ mà trở nên gần gũi. Trong lời hát của người ngư dân, biển thật giàu có:

Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng.
Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!

Nguyên liệu biển dồi dào, chỉ cần một tiếng gọi để thu cá vào lưới. Khổ thơ mang âm hưởng của dòng cảm hứng vũ trụ với sự lãng mạn của tâm hồn đã làm nên những khúc ca hoành tráng của người lao động.

Trên cái nền tráng lệ của thiên nhiên là sức mạnh của cánh buồm, sức mạnh của con người làm chủ biển cả:

Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng,

Thuyền có lái, có buồn nhưng lái bằng gió, buồm là buồm trăng. Đoàn thuyền lướt đi trong đêm không phải bằng sức mạnh của con người mà bằng sức mạnh của câu hát hòa cùng sức mạnh của gió, cộng hưởng sức mạnh của trăng. Bởi thế mà thuyền như lướt đi, như bay lên. Con thuyền đánh cá còn nhỏ bé qua cảm hứng vũ trụ đã trở nên kì vĩ, khổng lồ, sánh ngang tầm với vũ trụ. Và trên con thuyền ấy, người như dần hiện lên trong tư thế làm chủ:

Ra đậu dặm xa dò bụng biển,
Dàn đan thế trận lưới vây giăng.

Đã qua rồi thời con người còn nhỏ bé, đơn độc trước sức mạnh bí ẩn của biển cả. Mang trong mình khí thế của người làm chủ, biển như hẹp lại để con người ra đậu dặm xa, dàn đan thế trận và dò bụng biển để con người tìm tòi, khám phá. Họ đàng hoàng ra những nơi xa để bắt thiên nhiên phục vụ. Họ – những dân chài mang theo cả sức trẻ, sức khỏe, mang theo cả sự tìm tòi, khám phá để tung phá thế giới bí hiểm của thiên nhiên. Việc đánh bắt ấy như một trận chiến mà mỗi người lao động như một chiến sĩ.

Hát khi ra khơi, hát cho cuộc hành trình và những người lao động còn hát để ca ngợi sự giàu đẹp của biển cả:

Cá nhụ cá chim cùng cá đé,
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng,
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe.

Các loài cá được kể tên: cá nhụ, cá chim, cá đé, cá song đã nói lên sự phong phú, giàu có của biển. Không chỉ, giàu mà biển còn rất đẹp:

Cá song lấp lánh đuốc đen hồng,

Dưới ánh trăng, cá song quẫy mặt nước. Thân cá có khoang màu hồng lấp lánh như ánh sáng chuyển động dưới làn nước biển. Đoạn thơ mang nhiều màu sắc, ánh sáng: ánh sáng đen hồng, lấp lánh của cá song, ánh sáng vàng chóe của trăng vỡ trên mặt nước. Những gam sắc ánh sáng hòa cùng bóng tối của màn đêm tạo ra bức tranh sơn mài lóng lánh sắc màu, biển lại như thấy hơi thở:

Phân tích bài thơ Đoàn thuyền đánh cá – mẫu 2

“Đoàn thuyền đánh cá” được đánh giá là một trong những bài thơ ca ngợi lao động rất hay và đẹp. Từ hình ảnh, các biện pháp tu từ đều đầy chất thơ lãng mạn. Dưới đây là bài phân tích bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” để các bạn học sinh tham khảo.

Chỉ với 4 câu thơ đầu tiên, Huy Cận đã vẽ nên một khung cảnh hoàng hôn rực rỡ. Có mặt trời như “hòn lửa”, có màn đêm ập xuống nhanh như “sập cửa”. Và đó cũng là lúc đoàn thuyền đánh cá ra khơi cùng những “câu hát căng buồm” đầy sức sống. Đó cũng là khí thế hừng hực xây dựng đất nước. Người dân chài ca ngợi sự giàu đẹp của biển, của các loài cá tôm đầy ắp biển nuôi sống mình mỗi ngày.

Hát rằng: Cá bạc biển Đông lặng
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng.
Đến dệt lưới ta, đàn cá ơi!

Vẻ đẹp của biển đã xoa dịu đi nỗi vất vả của công việc chài lưới. Tác giả sử dụng những từ ngữ rất thơ “lái gió”, “buồm trăng”, “lướt”, “dò bụng biển”… Công việc dù có nặng nhọc nhưng giữa biển trời bao la lại giống một cuộc dạo chơi đầy thi vị. Huy Cận ca ngợi từng loại cá như gọi những gì thân thương, quý báu nhất. Đó là châu ngọc của biển cả, là món quà mẹ biển ban tặng cho mỗi người con của mình:

Cá nhụ cá chim cùng cá đé,
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe.
Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long.

Ánh trăng “vàng chóe” lóng lánh trên mặt nước, hòa cùng ánh bạc của vảy cá lấp lánh. Bài ca của những ngư dân vẫn thiết tha mạnh mẽ. Cả biển cả và con người như hòa vào làm một.

Hai khổ thơ cuối là cảnh bình minh ngày mới rạng rỡ trên biển. Ngư dân khẩn trương kéo lưới “chạy đua” vào bờ. Bóng họ in trên bình minh buổi sớm đầy mạnh mẽ: “kéo xoăn tay chùm cá nặng”. Khoang tàu đầy ắp cá thể hiện sự hân hoan và giàu có của biển khơi. Hình ảnh đoàn tàu “chạy đua cùng mặt trời” vừa khỏe khoắn, vừa hào hùng. Đó là sức mạnh của con người chinh phục thiên nhiên, làm giàu quê hương, xây dựng đất nước.

Phân tích bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” để thấy đây là bài ca lao động đầy hăng say, hứng khởi. Là những lời ngợi ca người dân lao động cần cù, thiện lương và mạnh mẽ. Đây cũng là hình tượng con người thời đại mới kiêu hãnh và vững vàng với tương lai tươi sáng.

Đôi nét về tác giả, tác phẩm

1. Tác giả

- Huy Cận (1919 - 2005) tên đầy đủ là Cù Huy Cận.

- Quê quán: Làng Ân Phú - huyện Dụ Quang - tỉnh Hà Tĩnh

- Sự nghiệp sáng tác:

    + Huy Cận đã nổi tiếng trong phong trào thơ mới với tập thơ “Lửa thiêng”.

    + Ông tham gia cách mạng từ trước năm 1945 và sau cách mạng tháng Tám từng giữ nhiều trọng trách trong chính quyền cách mạng, đồng thời là một trong một trong những nhà thơ tiêu biểu của nền thơ hiện đại Việt Nam.

    + Huy Cận đã được Nhà nước trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (1996)

2. Tác phẩm

1. Hoàn cảnh sáng tác:

- Giữa năm 1958, Huy Cận có một chuyến đi thực tế dài ngày ở vùng mỏ Quảng Ninh. Từ chuyến đi thực tế ấy, hồn thơ Huy Cận thực sự nảy nở dồi dào cảm hứng về thiên nhiên đất nước. Bài thơ được sáng tác trong thời gian ấy và in trong tập “Trời mỗi ngày lại sáng”.

2. Bố cục

- Phần 1 (2 khổ đầu):Cảnh đoàn đánh cá ra khơi

- Phần 2 (4 khổ tiếp theo): Cảnh đoàn thuyền đánh trên biển

- Phần 3 (khổ cuối): Hình ảnh đoàn thuyền trở về

3. Nội dung chính

Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá là bức tranh thiên nhiên con người về cảnh đoàn thuyền ra khơi đánh cá vào lúc hoàng hôn, cảnh đoàn thuyền đi trên biển đánh bắt cá và cảnh đoàn thuyền trở về vào bình minh của ngày hôm sau.

4. Phương thức biểu đạt: tự sự kết hợp với miêu tả và biểu cảm.

5. Thể thơ: Thể thơ tự do

6. Giá trị nội dung

- Đoàn thuyền đánh cá đã tái hiện thành công vẻ đẹp trù phú của biển cả quê hương và cuộc sống lao động đầy hăng say của nhân dân trong thời kỳ mới. 

- Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá còn là khúc tráng ca ca ngợi cuộc sống lao động tập thể của người dân chài trong công cuộc xây dựng và tái thiết đất nước, đồng thời bộc lộ niềm vui, niềm tự hào của nhà thơ trước khung cảnh thiên nhiên đất nước giàu đẹp.

7. Giá trị nghệ thuật

- Xây dựng hình ảnh thơ bằng liên tưởng

- Trí tưởng tượng phong phú.

- Âm hưởng thơ khỏe khoắn hào hùng và sáng tạo.

Tài liệu có 9 trang. Để xem toàn bộ tài liệu, vui lòng tải xuống
Đánh giá

0

0 đánh giá

Tải xuống