Tailieumoi.vn xin giới thiệu đến các quý thầy cô, các em học sinh lớp 11 bài văn mẫu Phân tích khổ 2 trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ hay nhất, gồm 13 trang trong đó có dàn ý phân tích chi tiết, sơ đồ tư duy và 37 bài văn phân tích mẫu hay nhất giúp các em học sinh có thêm tài liệu tham khảo trong quá trình ôn tập, củng cố kiến thức và chuẩn bị cho bài thi môn văn sắp tới. Chúc các em học sinh ôn tập thật hiệu quả và đạt được kết quả như mong đợi.
Mời các quý thầy cô và các em học sinh cùng tham khảo và tải về chi tiết tài liệu dưới đây:
Bài giảng: Đây thôn Vĩ Dạ
1. Mở bài:
- Dẫn dắt và giới thiệu tác giả, tác phẩm
- Giới thiệu khổ hai
2. Thân bài:
- Khổ hai là bức tranh sông nước nhuốm màu tâm trạng
- Mây gió: ngược chiều , trái tự nhiên, chia cắt đôi ngả
- Dòng nước: nhân hóa " buồn thiu"
- Dòng sông không còn là sự vật vô tri vô giác
- Sự chảy trôi buồn một nỗi buồn ly tán
- Hoa bắp lay: gợi buồn
- Thuyền và sông trăng: hình ảnh ảo, khó phân định vừa mơ vừa thực
- Trăng: chứa đựng vẻ đẹp tác giả luôn muốn gửi gắm
- Dòng sông trăng: trăng tan vào nước để trôi chảy từ vũ trụ về nơi xa.
- "kịp" không chỉ là khát khao mong đợi mà còn âu lo
3. Kết bài:
- Tóm tắt nội dung khổ 2 bài Đây thôn Vĩ Dạ và nêu lên giá trị, những đóng góp của khổ 2 với cả bài thơ.
Hàn Mặc Tử là một trong những gương mặt đặc sắc của phong trào Thơ mới. Thơ Hàn Mặc Tử là tiếng nói của một tâm hồn yêu cuộc sống, yêu cảnh vật, yêu con người nồng nàn, tha thiết. Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” chính là bài mang một tình yêu, khát khao cuộc sống như vậy. Khổ thơ thứ 2 của bài thơ mang đến một hoài niệm và tâm trạng lo âu của thi sĩ.
Mở đầu bài thơ, người đọc đã cảm nhận được vẻ đẹp của thiên nhiên, cuộc sống và vẻ đẹp tâm hồn người thi sĩ. Ta thấy thi sĩ tuy phải sống cuộc đời đầy bi kịch nhưng vẫn khát khao được sống và yêu đời tha thiết.
Khổ thơ thứ hai được mở ra, khiến người đọc cảm nhận được hoài niệm về cảnh sông nước đêm trăng, hòa theo đó là tâm trạng lo âu, phấp phỏng của thi sĩ. Cảnh sông nước đêm trăng được gợi ra:
“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay”
Dòng sông có nhiều cách hiểu, nhưng dù hiểu theo cách nào thì vẫn gợi ý thức về sông Hương-linh hồn của Huế. Cảnh vật được miêu tả rất nhẹ nhàng, êm ả, gợi đặc điểm riêng của Huế: gió khẽ lay, mây khẽ bay, hoa bắp khẽ đung đưa, chuyển động rất nhẹ nhàng, êm ả, gợi không gian rất thanh bình, rất Huế. Cảnh vật đượm buồn: buồn thiu, buồn sâu lắng, buồn nhuốm vào không gian, cảnh vật, thường là nỗi buồn từ thế giới bên ngoài tác động. Câu thơ như dài ra, căng ra, khiến nỗi buồn như dằng dặc. Tác giả đã sử dụng biện pháp nghệ thuật “nhân hóa”, dòng sông đã trở thành một sinh thể, có tâm trạng, có hồn, mang nỗi niềm của con người. Cảnh vật như nhuốm màu chia ly “Gió theo lối gió mây đường mây”. Câu thơ tách nhịp 4/3 chia làm hai nửa: một gió một mây. Từ “gió” được điệp lại ở vế một, đóng khung một thế giới đầy gió, chỉ có gió, chỉ riêng gió. Từ “mây” điệp ở vế hai, tạo nên một thế giới mây khép kín chỉ có mây. Vậy là hai sự vật vốn dĩ chỉ đi liền với nhau thì nay tác biệt và chia lìa. Gió đóng khung trong gió, mây khép kín trong mây. Câu thơ mang đến một hiện thực phi lý về hiện thực khách quan, nhưng rất có lý về hiện thực tâm trạng. Thi sĩ đang sống trong cảnh chia ly, cách biệt, sống trong cảnh đời đầy nghịch lý cho nên gió cứ gió, mây cứ mây. Từ “lay” mang một nỗi buồn trong ca dao, chỉ hoạt động rất nhẹ của sự vật hiện tượng khi có gió nhẹ. Nó mang nỗi buồn truyền thống của ca dao, thổi vào nỗi buồn muôn thuở của con người.
Hai câu thơ sau, ta nhận ra được tâm trạng lo âu, phấp phỏng của thi sĩ:
“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay”
Cảnh vật được gợi ra một cách lung linh, huyền ảo, tràn ngập ánh trăng, mang ý nghĩa vừa thực vừa ảo. “Sông trăng” có thể hiểu là dòng sông tràn ngập ánh trăng, cũng có thể là trăng tuôn chảy thành dòng. “Thuyền trăng” là con thuyền chở đầy trăng, cũng có thể hiểu là trăng giống như hình ảnh một con thuyền. Dù hiểu theo cách nào thì trăng đã tràn ngập cả không gian, vừa thực vừa ảo, tạo nên một cảm giác mơ hồ. Trong thơ của Hàn Mặc Tử có cả một miền trăng, để có một thế giới tri âm, chất chứa tâm sự, giải tỏa những niềm đau, trăng đối với Hàn Mặc Tử là một người bạn tri âm. “Thuyền ai” lại gợi ra một danh từ phiếm chỉ. Hai câu thơ chứa đựng cả những hình ảnh mâu thuẫn. Câu dưới không có trăng, ý thơ phi lý về hiện thực nhưng chúng ta có thể lý giải được khi dựa vào tâm trạng của chủ thể trữ tình. Trăng lúc có lúc không, mong manh và mờ ảo, người tri kỷ cũng mờ ảo và mong manh nên lo âu, phấp phỏng là thế. Chờ trăng là chờ sự tri âm, chờ sự đồng điệu, chờ sự sẻ chia và chờ được khát khao, giao cảm với đời, là một con người bình thường mong muốn sự giao cảm. Từ “kịp” thể hiện một tâm trạng lo âu của nhà thơ, tâm trạng đợi chờ, khao khát. Qua đó thể hiện được quỹ thời gian sống đang bị vơi cạn đi từng ngày, cuộc chia lìa vĩnh viễn có thể đến bất cứ lúc nào. Với một người bình thường nếu không trở về tối nay thì còn nhiều những đêm khác, nhưng với Hàn Mặc Tử nếu thuyền không trở về tối nay, không có sự tri âm thì thi sĩ sẽ ra đi vĩnh viễn trong đau buồn.
Những cảm nhận khổ 2 bài Đây thôn Vĩ Dạ cho ta thấy được hoài niệm của tác giả về cảnh sông nước đêm trăng, đồng thời cũng hiểu được tâm trạng lo âu, phấp phỏng của nhà thơ. Tác giả cũng đang chờ đợi sự tri âm, sự chia sẻ để dịu bớt nỗi đau trên hành trình trở về thế giới bên kia. Đó hay chăng chính là sự xót xa trong bi kịch cuộc đời của một thi sĩ tài hoa nhưng bạc mệnh.
Ai đó đã từng nói “Thơ là tiếng lòng. Đọc thơ, ta nghe thấy tiếng nói cất lên từ sâu thẳm trái tim của thi sĩ. Thơ là sự lên tiếng về thân phận. Đến với bài thơ, ta cảm được tình cảnh, tình thế số phận của nhà thơ”. Và “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử là một bài thơ như thế. Đọc thơ của Hàn Mặc Tử, ta thấy được một trong những nét độc đáo làm nên phong cách thơ rất lạ của ông, đó là mạch thơ đứt đoạn mà thống nhất, nghĩa là bề ngoài kết cấu như rời rạc nhưng lại có sự thống nhất trong chiều sâu của mạch cảm xúc. Nếu khổ thơ đầu là sự bừng sáng kí ức của hoài niệm về vườn Vĩ Dạ lúc hừng đông thì khổ thơ thứ hai lại cảnh xứ Huế đêm trăng thơ mộng cùng bao nỗi niềm chia lìa, lạc loài bơ vơ, buồn thương tuyệt vọng:
Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay.
Chỉ bằng vài nét chấm phá tinh tế, gợi cảm Hàn Mặc Tử đã gợi dậy một cách thần tình cả linh hồn của xứ Huế đêm trăng thơ mộng, huyền ảo. Ở phương diện tả cảnh, mới đọc câu thơ “Gió theo lối gió mây đường mây” cứ tưởng là phi lý nhưng ngẫm kĩ đó lại là sản phẩm của ngòi bút xuất thần. Hàn Mặc Tử đã gợi tả tinh tế, chính xác tài hoa vẻ êm dịu của mây trời xứ Huế. Êm dịu đến mức ta thấy gió thổi mà như mây đứng yên. Hai chữ “buồn thiu” gợi tả vẻ dùng dằng, lặng lờ của dòng nước sông Hương. Nói như Hoàng Phủ Ngọc Tường thì dòng nước sông Hương cơ hồ chỉ còn là một mặt hồ yên tĩnh. Sông Hương chảy chậm, thực chậm, đó là điệu slow tình cảm mà dòng sông Hương dành cho xứ Huế. Trong đêm trăng Hương giang thật huyền ảo ấy, bầu trời trong vắt, trăng vằng vặc dải ánh vàng trên sông. Dòng nước bỗng hóa thành dòng sông trăng, những con thuyền gối bãi ăm ắp đầy trăng. Hàn Mặc Tử vốn say trăng, yêu trăng là vậy. Bài thơ nào của ông cũng có đôi câu về trăng. Đọc “Đây thôn Vĩ Dạ”, dễ thấy đây là những vần thơ dịu êm và huyền ảo nhất trong dòng thơ trăng của thi sĩ.
Video bài văn mẫu Phân tích khổ 2 trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ
Bị cuộc đời tuyệt giao từ chối, thơ ca thiên nhiên là nơi Hàn Mặc Tử chút bầu tâm sự, giãi bày lòng mình. Ngoại cảnh dường như chỉ là cái cơ để thi sĩ bày tỏ tâm sự, trải niềm đau của hồn mình, bức tranh “Đây thôn Vĩ Dạ” cũng không nằm ngoài quy luật ấy. Ngay ở trong câu thơ đầu tiên của khổ thơ thứ hai, ta đã thấy được sự chia lìa, ngang trái:
"Gió theo lối gió mây đường mây” ,Gió mây luôn đi đôi với nhau, sóng đôi cùng nhau, vậy mà ở đây lại chia lìa xa cách, gió một đằng, mây một nẻo. Tại sao vậy? Có phải chăng trái tim thi sĩ luôn trĩu nặng chia lìa, thành ra nhìn đâu cũng thấy chia ly cách biệt. Không chỉ gió mây chia lìa, sông nước hắt hiu, dòng nước buồn thiu hoa bắp lay. Dòng sông ôm lấy nỗi buồn ngậm ngùi câm lặng, rười rượi. Dòng sông vốn ủ sẵn mối sầu hay sự chia lìa, ly tán của gió mây đã gieo vào lòng sông chết lặng? Hay mối sầu thăm thẳm trong lòng của thi sĩ đã ám bào dòng sông? Khó có thể lý giải một cách rõ ràng được. Chỉ thấy đọc câu thơ lên, lòng ta bỗng trào dâng một nỗi niềm bâng khuâng mà da diết, khắc khoải mà khôn nguôi. Phụ họa với dòng nước buồn thiu là bông hoa bắp xám bạc khẽ lay trong gió. Động từ “lay” tự nó vốn không vui, không buồn như trong câu thơ này, không hiểu sao nó lại ẩn chứa nỗi niềm hiu hắt đến vậy. Có phải chữ “lay” ấy đã mang theo nỗi buồn trong câu ca dao:
Ai về Rồng Dứa, ao Chuông
Gió lay bông sậy bỏ buồn cho em
Trong không gian nghệ thuật, hình ảnh hoa bắp lay thật tủi sầu. Tất cả dường như đang bỏ nơi này mà đi. Gió bay đi, mây bay đi, dòng nước cũng trôi xuôi, chỉ còn bông hoa bắp cô đơn, côi cút, vật vờ trên triền sông hoang vắng. Động thái “lay” như một sự níu giữ vu vơ, một lưu luyến vô vọng. Hình ảnh hoa bắp “lay” cứ như hiện thân cho thân phận lạc loài, bơ cơ, bị cuộc đời lãng quên của thi sĩ.
Đối mặt với xu thế tất cả đang bỏ đi, rời xa mình, thi sĩ chợt ao ước có một thứ gì đó ngược dòng trôi chảy trở về với mình, gắn bó với mình. Với Hàn Mặc Tử, đó là trăng, và cũng chỉ có chăng mà thôi:
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay
Tại sao Hàn Mặc Tử lại mong ngóng ao ước, khao khát có trăng như vậy? Phải chăng bị chôn vùi trong lãnh cung chia lìa, mù tối, “không có niềm trăng và tiếng nhạc” nên thi sĩ ao ước có trăng như thế? Hơn thế, với Hàn Mặc Tử, chí có trăng sao là bất tử. Đặc biệt, với thi sĩ, trăng không chỉ đơn thuần là nguồn sáng, huyền ảo, diệu kì nhất của thiên nhiên mà trăng là biểu tượng cho cuộc sống tươi đẹp, tràn ngập hạnh phúc mà thi sĩ khao khát. Với những ý nghĩ như thế, giờ đây, “trăng là bám víu duy nhất”, là tri ân, tri kỷ, là cứu tinh với Hàn Mặc Tử. Giọng điệu, chữ nghĩa trong câu thơ bật lên niềm khát khao, da diết, khắc khoải đến cháy bỏng. Câu thơ mang vóc dáng của một lời khẩn cầu, khẩn nguyện tha thiết. Nhưng thật xót xa, bi kịch thay cho thi sĩ, ngay trong lời khẩn cầu da diết đến cháy bỏng ấy, ta thấy hằn lên một nỗi lo âu hoài, tuyệt vọng, đến đau đớn. Nỗi niềm ấy ghim chặt vào mấy chữ “kịp tối nay”. Cơ hội đón trăng, đắm mình trong trăng thật ngắn ngủi mong manh biết chừng nào.
Chỉ còn đêm nay thôi, sáng mai đã là một dấu chấm hết. Lưỡi hái tử thần đang kể tận cổ, chuông nguyện hồn ai đã dóng lên. Cơ hội mong manh, thời gian ngắn ngủi là thế mà bến sông trăng cứ ở mãi ngoài kia xa vời vợi. Không dùng hình thức cầu khiến, câu thơ là lời hỏi hoài nghi đầy tuyệt vọng. Có lẽ khi cất lên lời khẩn cầu tha thiết, thi sĩ đã có lời giải đáp cho mình. Chẳng bao giờ con thuyền chở trăng về kịp tối nay cho thi sĩ. Thi sĩ sẽ mãi rời xa cõi đời này trong đau đớn, tuyệt vọng. Đọc những vần thơ này, ta cảm thấy quặn lòng đau đớn. Vọng về đâu đây dự cảm xót xa:
Một mai kia ở bên khe nước ngọc
Với sao sương anh nằm chết như trăng
Chẳng tìm thấy nàng tiên mô đến khóc
Đến thương anh và rửa vết thương tâm.
Với bút pháp gợi tả, hình ảnh tinh tế, “Đây thôn Vĩ Dạ” là một miền quê hương đất nước, Vĩ Dạ-xứ Huế mộng và thơ. Bài thơ còn là tiếng lòng uẩn khúc của một trái tim yêu người, yêu đời, thiết tha, mãnh liệt trong vô vọng. “Đây thôn Vĩ Dạ” xứng đáng là kiệt tác thơ Hàn, một viên ngọc chói lọi nghìn năm.
Phong trào thơ mới năm 1932-1945 là sự nở rộ của cái tôi cá nhân. Có thể thấy nếu thơ trung đại gắn liền với những điều lớn lao, ước lệ thì thơ mới gắn liền với cảm xúc. Như nhà thơ Hàn Mạc Tử nói rằng: "tôi làm thơ nghĩa là tôi nhấn một cung đàn, bấm một đường tơ, rung rinh một làn ánh sáng". Về cơ bản thơ Hàn luôn hướng tới quan niệm nghệ thuật vị nghệ thuật nhưng cái đẹp trong thơ ông lại riêng biệt, nó là nét đẹp kì dị, đau thương đan xen với những thứ hư ảo. Thiên nhiên trong thơ ông cũng vậy, nhuốm màu tâm trạng, như thực mà như mơ:
Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?
Bốn câu thơ được trích trong bài thơ nổi tiếng Đây Thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử đã vẽ lên một bức tranh sông nước xứ Huế nhưng bức tranh ấy cũng đượm nỗi buồn lo. Mở đầu khổ thơ với hình ảnh " gió" và "mây". Gió và mây xưa kia thường " gió thổi mây bay" nhưng trong thơ ông hai sự vật ấy lại chia làm đôi ngả.
Những thứ vốn dĩ không thể tách rời thì hồn thơ Hàn Mạc Tử đã chia cắt những thứ không thể cắt chia. Bản thân dòng nước cũng là một vật vô tri vô giác trong tự nhiên nhưng với biện pháp nhân hóa " dòng nước buồn thiu" khiến nó có những cảm xúc buồn, vui của con người. Điệu chảy " buồn thiu" của dòng sông Hương lững lờ yên tĩnh như điệu làn êm ả. Không những vậy dường sự chảy trôi vô định của dòng nước thấm đẫm nỗi buồn ly tán của sự vận động giữa mây và gió hay chính là sự mặc cảm chia lìa của Hàn Mạc Tử lây lan sang cảnh vật.
Đúng như lời Nguyễn Du đã nói trong truyện Kiều " lòng buồn cảnh có vui đâu bao giờ". Trên dòng sông Hương xứ Huế ấy là những "hoa bắp lay" khẽ lay động ở đôi bờ, rất nhẹ và rất khẽ, đặt cùng gió, mây, nước hoa bắp "lay" ấy trong ca dao và cũng gặp cái buồn ấy trong thơ , trong nỗi buồn của người chinh phụ, Trúc Thông có viết: "Lá ngô lay ở bờ rông".
Cảnh sông Hương xứ Huế hiện lên thật buồn , gió mây đôi ngả, hoa bắp lay , hoang vắng rợn ngợp thấm thía nỗi buồn của sự thê lương. Nỗi buồn thi sĩ hòa hợp với nhịp buồn xứ Huế cùng những khát khao khôn nguôi:
Thuyền ai chở bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay
Trong tâm trạng thẻ lương ấy, chợt bật lên những ước ao hy vọng là có một điều gì đó có thể trở về với mình để níu giữ, để bám víu. Dường như ước mơ của thi sĩ thường gắn với trăng, với thuyền thể hiện khao khát tri âm. Bởi thuyền chở trăng mang một vẻ đẹp mà tác giả luôn hướng tới, vẻ đẹp hư ảo huyền hoặc khó phân định . Đây quả là một sản phẩm của trí tưởng tượng với dòng sông trăng đang trôi chảy, hay trăng đang lan mình thành nước để trôi chảy từ vũ trụ về nơi xa. Thuyền chở trăng vừa mơ vừa thực. Bên cạnh những khát khao mong đợi ấy còn là những lo âu qua từ "kịp", nỗi mong ước thầm kín đã tìm được nơi gửi gắm là con thuyền trên sông trăng nhưng càng khao khát hy vọng thì lại càng lo âu bởi nỗi mặc cảm vì hiện tại ngắn ngủi. Khát vọng thì ít mà cảm giác tuyệt vọng thì lấp đầy tâm hồn. Những mong muốn tưởng chừng giản đơn ấy của Hàn Mặc Tử lại gắn liền với những đau thương và dự cảm đổ vỡ.
Nếu khổ thơ mở đầu là cảnh thực thì cảm nhận khổ 2 bài thơ Đây thôn Vĩ dạ nghiêng về thế giới ảo. Trong nỗi buồn da diết thì nhà thơ muốn nương tựa vào cái đẹp của tình đời tình người nhưng càng trông đợi thì vẫn không tránh khỏi những tuyệt vọng để rồi tác giả chìm sâu vào cõi mộng. Khổ thơ thứ hai này góp phần tạo sự liên kết và giá trị sâu sắc cho cả bài thơ Đây Thôn Vĩ Dạ giúp khẳng định tài năng và thể hiện những cảm xúc chân thật nhất của Hàn Mặc Tử- nhà thơ "điên".
Trong phong trào Thơ Mới các nhà thơ được tự do thể hiện cái tôi cá nhân của mình. Nếu như Xuân Diệu thể hiện tình yêu thiên nhiên yêu con người nhưng vẫn cô đơn hoài nghi của mình, Lê Trọng Lư thì thả sức phiêu lưu cùng những bài ca tình yêu thì Hàn Mạc Tử lại quằn quại đau đớn trong những vần thơ về bệnh tật. Đọc thơ Hàn Mạc Tử ta không thể nào không nhớ đến bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ – một bài thơ chở đầy những cảm xúc của nhà thơ về con người về mảnh đất Huế thương. Đặc biệt trong bài thơ ấy ta ấn tượng nhất với những cảm nhận khổ 2 bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ khi nó mang đầy bi kịch và chất chứa bao nỗi buồn.
Bài thơ được sáng tác khi nhà thơ nhận được tấm bưu thiếp của người con gái mang tên một loài hoa đó là nàng Hoàng Cúc. Nhà thơ gặp cô gái ấy ở Huế và đã có một khoảng thời gian ở cạnh nhau. Cả nhà thơ cũng như cô gái đều hiểu được tấm lòng của mình trái tim của mình nhưng khổ nỗi nhà thơ vốn là người nhút nhát. Trước Hoàng Cúc cũng có biết bao cô gái phải lòng ông cũng như ông mến họ nhưng ông lại không một lần nào ngỏ lời, dần dần những cô gái ấy không thể đợi chờ thêm được nữa nên đã rời xa ông. Và Hoàng Cúc cũng không ngoại lệ. Khi đã chia xa thì cô gái ấy đã đi lấy chồng nhưng trong lòng vẫn coi ông là một người bạn. Biết tin ông bị bệnh cô gái ấy đã gửi cho ông một tấm bưu thiếp để hỏi thăm và trách móc sao không về chơi thôn Vĩ. Vậy là bây nhiêu nỗi nhớ niềm thương con người và cảnh vật Huế thương cứ thế ngập đến nhà thơ một cách tự nhiên.
Đoạn thơ thứ hai mang đến cho chúng ta biết bao nhiêu trăn trở suy nghĩ của mình về cuộc sống và số phận của nhà thơ tài năng này. Đây có thể coi là đoạn mang tâm trạng nhất, buồn nhất bi kịch nhất.
Mở đầu khổ thơ nhà thơ đã nhắc đến sự chia ly buồn bã. Bởi hiện tại làm cho nhà thơ luyến tiếc những gì đã qua và bốn bức tường cách ly kia chính là sự cản trở ngăn cách:
“Gió theo lối gió, mây đường mây”
Theo quy luật tự nhiên thì gió thổi mây bay vậy mà ở đây nhà thơ lại tách mây và gió ra, gió theo lối gió còn mây đi đường mây thể hiện sự chia ly cách trở. Nhà thơ sầu thảm buồn bã nên đã phá quy luật của tự nhiên để thể hiện sự khắc nghiệt của sự chia ly này. Gió và mây ở đây có phải chính là nhà thơ và người con gái Huế phúc hậu xinh đẹp ấy. Hay cũng chính là nhà thơ và cuộc đời này. Ngày nhà thơ ra đi khỏi Huế nhà thơ không biết được đó lại là ngày cuối cùng và vĩnh viễn không thể quay lại thăm con người cảnh vật nơi đây được nữa. Hàn Mạc Tử vẫn còn lưu luyến lắm cái cuộc đời này vậy mà số phận đưa đẩy làm sao để cho nhà thơ phải mắc một căn bệnh không thuốc chữa, để cho nó ngày ngày phá hoại cơ thể, nhà thơ phải chịu đau đớn. Chính vì thế mà Hàn Mạc Tử nhìn đâu cũng thấy chia ly cách xa. Nhà thơ có nỗi sầu vạn kỉ Cù Huy Cận cũng đã từng thể hiện sự chia ly qua hình ảnh:
“Thuyền về nước lại sầu trăm ngả”
Cũng sầu đấy, chia ly đấy nhưng sao nó chưa trở thành bi kịch như câu thơ của hàn Mặc Tử được nỗi buồn không chỉ lan tỏa trên bầu trời nơi mà ánh mắt của nhà thơ hướng tới để tìm sự hy vọng mà nó còn lan tỏa khắp cảnh vật nơi đây. Bởi:
“Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ?”
“ Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay”
Dòng nước kia như được nhân hóa cũng biết buồn giống y như thi sĩ vậy, tâm trạng không tốt thì nhìn đâu cũng thấy không vui. Ta có thể cảm nhận được dòng nước kia lững lờ trôi chậm như thế nào để cho nỗi buồn của nhà thơ càng có chỗ chiếm đóng, càng dằn vặt nhà thơ nhiều hơn. Cơn gió kia cũng không mạnh mẽ, không tươi mát không mang lại cảm giác xao xuyến cho con người. Nó chỉ khẽ lay hoa bắp bên sông. Những từ “buồn thiu” , “khẽ” sao mà khiến cho người ta đau lòng đến thế.
Trước dòng sông, bên bờ hoa bắp ấy lại xuất hiện con thuyền, bến cũ, trăng mờ:
“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó"
Đại từ ai vang lên không biết rằng đó là thuyền của Hoàng Cúc của người dân xứ Huế hay của ai. Hay đơn giản nhà thơ chỉ nói một cách bâng quơ như thế. Chính sự bâng quơ ấy lại thể hiện được tâm trạng của nhà thơ. Đó là một tâm trạng mơ hồ, khó tả, đau mà lại không đau, nhớ mà lại thương, vui khi nhận được tấm bưu thiếp của Hoàng Cúc nhưng lại không vui vì hiện thực này. Con thuyền ấy chắc cũng đi hết chặng đường của một ngày và nó đang nằm im trên bến đậu. Chợt nghĩ đến nhà thơ sống cũng được gần nửa đời người mà giờ cũng trong trạng thái nằm im một chỗ. Thế nhưng con thuyền kia chỉ nghỉ ngơi rồi sáng mai lại lên đường tiếp tục qua sông này sông khác còn Hàn Mạc Tử thì chỉ có một đời người vậy thôi. Ánh trăng như in từng nét lờ mờ trên dòng sông ấy. Một bức tranh nên thơ nên họa mà sao lại buồn man mác thế này!
Đặc biệt nhất, ấn tượng nhất, bi kịch nhất lại chính là câu thơ cuối cùng của khổ thơ này:
“Có chở trăng về kịp tối nay?”
Một câu hỏi tu từ vang lên mà không có lời giải đáp. Từ“kịp” chính là từ mang đầy bi kịch. Nhà thơ như lo lắng bối rối khi nghĩ không biết con thuyền kia có chở được ánh trăng về kịp tối nay. Chở ánh trăng hay chính là trở người con gái kia đến kịp với nhà thơ. Ông không tham lam gì cả mà ông chỉ lo sợ rằng cái lưỡi hái tử thần có thể cướp ông đi khỏi thế gian này bất cứ lúc nào và điều ông mong muốn chỉ là gặp lại người xưa một lần thôi.
Cảm nhận khổ 2 bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ đem lại cho ta cảm xúc về tình cảm và cuộc đời của nhà thơ, Ai mà không thương xót cho số phận không may mắn ấy. Khi người ta sắp phải rời xa cuộc đời này và họ còn quá trẻ vẫn còn hoài bão, vẫn còn tình yêu dang dở thì họ sẽ hiểu nhà thơ đã đau khổ như thế nào.
Hàn Mặc Tử, một trong những nhà thơ có sức sáng tạo mạnh mẽ nhất trong phong trào Thơ mới, thơ của ông luôn phảng phất nỗi buồn, nổi tiếng trong số các sáng tác của Hàn Mặc Tử là bài thơ "Đây thôn Vĩ Dạ" được in trong tập thơ "Đau thương". Bài thơ là một bức tranh phong cảnh thôn Vĩ nhưng cũng là bức tranh tâm cảnh chứa đựng nhiều tâm trạng, cảm xúc và tâm sự của nhân vật trữ tình, đặc biệt trong khổ thơ thứ hai, vẻ đẹp thiên nhiên và tâm hồn con người đã được đan xen hòa quyện vào nhau.
"Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?"
Có thể nói ở khổ thơ này Hàn Mặc Tử đã hướng tâm trí của mình về dòng sông Hương, một hình ảnh đã gắn liền với thôn Vĩ Dạ, sông Hương hiện lên với vẻ êm đềm, trầm mặc, thơ mộng trữ tình, nhân vật trữ tình hay chính là tác giả nhìn con sông mà trong lòng chứa đựng nhiều suy tư, cảm xúc. Hai câu thơ đầu tác giả dùng bút pháp tả thực vẻ đẹp êm đềm, khoan thai của xứ Huế:
"Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay"
Mọi cảnh vật dường như chậm rãi: gió khẽ thổi, mây nước lững lờ trôi, hoa bắp khẽ đung đưa lay động, nhà thơ đã dùng biện pháp nhân hóa với cả gió, mây và nước, chúng như mang tâm trạng và cũng có sự liên kết, gắn kết với nhau: có gió mây mới bay, có gió thì dòng sông mới có sóng nước, chúng thường đi với nhau khiến cho cảnh vật trở nên sống động hơn, thế nhưng ở đây mây và gió lại xa rời nhau, gió và mây mỗi bên một đường một ngả tạo nên sự xa cách chia ly. Ít mây ít gió mà mây gió lại không có cùng nhau nên dòng sông cũng đành "buồn thiu", cây cỏ cũng chỉ lay động rất nhẹ, cảnh vật trở nên thiếu sự sống, đây là một hình ảnh đẹp nhưng lại rất hiu quạnh, lặng lẽ và đượm buồn. Hai câu thơ sau khắc họa rõ tâm trạng của nhân vật trữ tình hay chính là nhà thơ:
"Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?"
Tuy mang tâm trạng u buồn, cô đơn nhưng trong tâm hồn của tác giả vẫn chan chứa tình yêu thiên nhiên và con người xứ Huế, dưới cái nhìn của tâm hồn nhà thơ, dòng sông đã không còn là một dòng sông bình thường có nước chảy mà đã trở thành một dòng "sông trăng", dòng sông chứa đầy ánh sáng trăng vàng, hình ảnh đó khiến cho cảnh vật càng thêm huyền ảo, thơ mộng. Con thuyền có thực trên dòng sông cũng được chuyển đổi thành một con thuyền đậu trên bến sông trăng, thuyền chở trăng về một bến nào đó trong mộng tưởng của nhà thơ. Câu hỏi tu từ "Có chở trăng về kịp tối nay?" cho thấy tác giả nôn nóng, chờ đợi, mong muốn con thuyền chở trăng về trong tối nay chứ không phải là một tối nào khác, phải chăng cái "tối nay" đó là một tối thật buồn, thật cô đơn, nhà thơ muốn được tâm sự với trăng, và cũng chỉ có trăng mới hiểu được nỗi lòng nhà thơ. Mong chờ trăng cũng cho thấy Hàn Mặc Tử rất yêu trăng, ông cũng yêu cảnh vật và con người Huế nhưng hai thứ đó không thấu hiểu và không đáp lại được tình yêu của nhà thơ. Nhà thơ mong muốn gặp được trăng cũng giống như khao khát gặp được một tình yêu tha thiết, kín đáo, nhưng đó là sự chờ đợi khắc khoải, khôn nguôi.
Qua khổ thơ thứ hai bài thơ "Đây thôn vĩ dạ" của Hàn Mặc Tử chúng ta cảm nhận được những tâm tư của nhà thơ nhờ bức tranh thiên nhiên xứ Huế, tuy những tâm trạng đó chỉ là của riêng tác giả nhưng lại có sức ảnh hưởng, có sự cộng hưởng rộng rãi và bên lâu trong lòng người đọc. Chỉ một đoạn thơ bốn câu ngắn ngủi nhưng vẫn chứa đựng tất cả, thiên nhiên xứ Huế, tình yêu của tác giả với xứ Huế nói chung và Vĩ Dạ nói riêng.
Trong phong trào Thơ Mới các nhà thơ được tự do thể hiện cái tôi cá nhân của mình. Nếu như Xuân Diệu thể hiện tình yêu thiên nhiên yêu con người nhưng vẫn cô đơn hoài nghi của mình, Lê Trọng Lư thì thả sức phiêu lưu cùng những bài ca tình yêu thì Hàn Mạc Tử lại quằn quại đau đớn trong những vần thơ về bệnh tật. Đọc thơ Hàn Mạc Tử ta không thể nào không nhớ đến bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ – một bài thơ chở đầy những cảm xúc của nhà thơ về con người về mảnh đất Huế thương. Đặc biệt trong bài thơ ấy ta ấn tượng nhất với những cảm nhận khổ 2 bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ khi nó mang đầy bi kịch và chất chứa bao nỗi buồn.
Bài thơ được sáng tác khi nhà thơ nhận được tấm bưu thiếp của người con gái mang tên một loài hoa đó là nàng Hoàng Cúc. Nhà thơ gặp cô gái ấy ở Huế và đã có một khoảng thời gian ở cạnh nhau. Cả nhà thơ cũng như cô gái đều hiểu được tấm lòng của mình trái tim của mình nhưng khổ nỗi nhà thơ vốn là người nhút nhát. Trước Hoàng Cúc cũng có biết bao cô gái phải lòng ông cũng như ông mến họ nhưng ông lại không một lần nào ngỏ lời, dần dần những cô gái ấy không thể đợi chờ thêm được nữa nên đã rời xa ông. Và Hoàng Cúc cũng không ngoại lệ. Khi đã chia xa thì cô gái ấy đã đi lấy chồng nhưng trong lòng vẫn coi ông là một người bạn. Biết tin ông bị bệnh cô gái ấy đã gửi cho ông một tấm bưu thiếp để hỏi thăm và trách móc sao không về chơi thôn Vĩ. Vậy là bây nhiêu nỗi nhớ niềm thương con người và cảnh vật Huế thương cứ thế ngập đến nhà thơ một cách tự nhiên.
Đoạn thơ thứ hai mang đến cho chúng ta biết bao nhiêu trăn trở suy nghĩ của mình về cuộc sống và số phận của nhà thơ tài năng này. Đây có thể coi là đoạn mang tâm trạng nhất, buồn nhất bi kịch nhất.
Mở đầu khổ thơ nhà thơ đã nhắc đến sự chia ly buồn bã. Bởi hiện tại làm cho nhà thơ luyến tiếc những gì đã qua và bốn bức tường cách ly kia chính là sự cản trở ngăn cách:
“Gió theo lối gió, mây đường mây”
Theo quy luật tự nhiên thì gió thổi mây bay vậy mà ở đây nhà thơ lại tách mây và gió ra, gió theo lối gió còn mây đi đường mây thể hiện sự chia ly cách trở. Nhà thơ sầu thảm buồn bã nên đã phá quy luật của tự nhiên để thể hiện sự khắc nghiệt của sự chia ly này. Gió và mây ở đây có phải chính là nhà thơ và người con gái Huế phúc hậu xinh đẹp ấy. Hay cũng chính là nhà thơ và cuộc đời này. Ngày nhà thơ ra đi khỏi Huế nhà thơ không biết được đó lại là ngày cuối cùng và vĩnh viễn không thể quay lại thăm con người cảnh vật nơi đây được nữa. Hàn Mạc Tử vẫn còn lưu luyến lắm cái cuộc đời này vậy mà số phận đưa đẩy làm sao để cho nhà thơ phải mắc một căn bệnh không thuốc chữa, để cho nó ngày ngày phá hoại cơ thể, nhà thơ phải chịu đau đớn. Chính vì thế mà Hàn Mạc Tử nhìn đâu cũng thấy chia ly cách xa. Nhà thơ có nỗi sầu vạn kỉ Cù Huy Cận cũng đã từng thể hiện sự chia ly qua hình ảnh:
“Thuyền về nước lại sầu trăm ngả”
Cũng sầu đấy, chia ly đấy nhưng sao nó chưa trở thành bi kịch như câu thơ của hàn Mặc Tử được nỗi buồn không chỉ lan tỏa trên bầu trời nơi mà ánh mắt của nhà thơ hướng tới để tìm sự hy vọng mà nó còn lan tỏa khắp cảnh vật nơi đây. Bởi:
“Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ?”
“ Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay”
Dòng nước kia như được nhân hóa cũng biết buồn giống y như thi sĩ vậy, tâm trạng không tốt thì nhìn đâu cũng thấy không vui. Ta có thể cảm nhận được dòng nước kia lững lờ trôi chậm như thế nào để cho nỗi buồn của nhà thơ càng có chỗ chiếm đóng, càng dằn vặt nhà thơ nhiều hơn. Cơn gió kia cũng không mạnh mẽ, không tươi mát không mang lại cảm giác xao xuyến cho con người. Nó chỉ khẽ lay hoa bắp bên sông. Những từ “buồn thiu” , “khẽ” sao mà khiến cho người ta đau lòng đến thế.
Trước dòng sông, bên bờ hoa bắp ấy lại xuất hiện con thuyền, bến cũ, trăng mờ:
“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó"
Đại từ ai vang lên không biết rằng đó là thuyền của Hoàng Cúc của người dân xứ Huế hay của ai. Hay đơn giản nhà thơ chỉ nói một cách bâng quơ như thế. Chính sự bâng quơ ấy lại thể hiện được tâm trạng của nhà thơ. Đó là một tâm trạng mơ hồ, khó tả, đau mà lại không đau, nhớ mà lại thương, vui khi nhận được tấm bưu thiếp của Hoàng Cúc nhưng lại không vui vì hiện thực này. Con thuyền ấy chắc cũng đi hết chặng đường của một ngày và nó đang nằm im trên bến đậu. Chợt nghĩ đến nhà thơ sống cũng được gần nửa đời người mà giờ cũng trong trạng thái nằm im một chỗ. Thế nhưng con thuyền kia chỉ nghỉ ngơi rồi sáng mai lại lên đường tiếp tục qua sông này sông khác còn Hàn Mạc Tử thì chỉ có một đời người vậy thôi. Ánh trăng như in từng nét lờ mờ trên dòng sông ấy. Một bức tranh nên thơ nên họa mà sao lại buồn man mác thế này!
Đặc biệt nhất, ấn tượng nhất, bi kịch nhất lại chính là câu thơ cuối cùng của khổ thơ này:
“Có chở trăng về kịp tối nay?”
Một câu hỏi tu từ vang lên mà không có lời giải đáp. Từ“kịp” chính là từ mang đầy bi kịch. Nhà thơ như lo lắng bối rối khi nghĩ không biết con thuyền kia có chở được ánh trăng về kịp tối nay. Chở ánh trăng hay chính là trở người con gái kia đến kịp với nhà thơ. Ông không tham lam gì cả mà ông chỉ lo sợ rằng cái lưỡi hái tử thần có thể cướp ông đi khỏi thế gian này bất cứ lúc nào và điều ông mong muốn chỉ là gặp lại người xưa một lần thôi.
Cảm nhận khổ 2 bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ đem lại cho ta cảm xúc về tình cảm và cuộc đời của nhà thơ, Ai mà không thương xót cho số phận không may mắn ấy. Khi người ta sắp phải rời xa cuộc đời này và họ còn quá trẻ vẫn còn hoài bão, vẫn còn tình yêu dang dở thì họ sẽ hiểu nhà thơ đã đau khổ như thế nào.
Hàn Mặc Tử, một trong những nhà thơ có sức sáng tạo mạnh mẽ nhất trong phong trào Thơ mới, thơ của ông luôn phảng phất nỗi buồn, nổi tiếng trong số các sáng tác của Hàn Mặc Tử là bài thơ "Đây thôn Vĩ Dạ" được in trong tập thơ "Đau thương". Bài thơ là một bức tranh phong cảnh thôn Vĩ nhưng cũng là bức tranh tâm cảnh chứa đựng nhiều tâm trạng, cảm xúc và tâm sự của nhân vật trữ tình, đặc biệt trong khổ thơ thứ hai, vẻ đẹp thiên nhiên và tâm hồn con người đã được đan xen hòa quyện vào nhau.
"Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay ?"
Có thể nói ở khổ thơ này Hàn Mặc Tử đã hướng tâm trí của mình về dòng sông Hương, một hình ảnh đã gắn liền với thôn Vĩ Dạ, sông Hương hiện lên với vẻ êm đềm, trầm mặc, thơ mộng trữ tình, nhân vật trữ tình hay chính là tác giả nhìn con sông mà trong lòng chứa đựng nhiều suy tư, cảm xúc. Hai câu thơ đầu tác giả dùng bút pháp tả thực vẻ đẹp êm đềm, khoan thai của xứ Huế:
"Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay"
Mọi cảnh vật dường như chậm rãi: gió khẽ thổi, mây nước lững lờ trôi, hoa bắp khẽ đung đưa lay động, nhà thơ đã dùng biện pháp nhân hóa với cả gió, mây và nước, chúng như mang tâm trạng và cũng có sự liên kết, gắn kết với nhau: có gió mây mới bay, có gió thì dòng sông mới có sóng nước, chúng thường đi với nhau khiến cho cảnh vật trở nên sống động hơn, thế nhưng ở đây mây và gió lại xa rời nhau, gió và mây mỗi bên một đường một ngả tạo nên sự xa cách chia ly. Ít mây ít gió mà mây gió lại không có cùng nhau nên dòng sông cũng đành "buồn thiu", cây cỏ cũng chỉ lay động rất nhẹ, cảnh vật trở nên thiếu sự sống, đây là một hình ảnh đẹp nhưng lại rất hiu quạnh, lặng lẽ và đượm buồn. Hai câu thơ sau khắc họa rõ tâm trạng của nhân vật trữ tình hay chính là nhà thơ:
"Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?"
Tuy mang tâm trạng u buồn, cô đơn nhưng trong tâm hồn của tác giả vẫn chan chứa tình yêu thiên nhiên và con người xứ Huế, dưới cái nhìn của tâm hồn nhà thơ, dòng sông đã không còn là một dòng sông bình thường có nước chảy mà đã trở thành một dòng "sông trăng", dòng sông chứa đầy ánh sáng trăng vàng, hình ảnh đó khiến cho cảnh vật càng thêm huyền ảo, thơ mộng. Con thuyền có thực trên dòng sông cũng được chuyển đổi thành một con thuyền đậu trên bến sông trăng, thuyền chở trăng về một bến nào đó trong mộng tưởng của nhà thơ. Câu hỏi tu từ "Có chở trăng về kịp tối nay?" cho thấy tác giả nôn nóng, chờ đợi, mong muốn con thuyền chở trăng về trong tối nay chứ không phải là một tối nào khác, phải chăng cái "tối nay" đó là một tối thật buồn, thật cô đơn, nhà thơ muốn được tâm sự với trăng, và cũng chỉ có trăng mới hiểu được nỗi lòng nhà thơ. Mong chờ trăng cũng cho thấy Hàn Mặc Tử rất yêu trăng, ông cũng yêu cảnh vật và con người Huế nhưng hai thứ đó không thấu hiểu và không đáp lại được tình yêu của nhà thơ. Nhà thơ mong muốn gặp được trăng cũng giống như khao khát gặp được một tình yêu tha thiết, kín đáo, nhưng đó là sự chờ đợi khắc khoải, khôn nguôi.
Qua khổ thơ thứ hai bài thơ "Đây thôn vĩ dạ" của Hàn Mặc Tử chúng ta cảm nhận được những tâm tư của nhà thơ nhờ bức tranh thiên nhiên xứ Huế, tuy những tâm trạng đó chỉ là của riêng tác giả nhưng lại có sức ảnh hưởng, có sự cộng hưởng rộng rãi và bên lâu trong lòng người đọc. Chỉ một đoạn thơ bốn câu ngắn ngủi nhưng vẫn chứa đựng tất cả, thiên nhiên xứ Huế, tình yêu của tác giả với xứ Huế nói chung và Vĩ Dạ nói riêng.
Hàn Mặc Tử được biết đến là một trong những nhà thơ có sức sáng tạo mạnh nhất trong phong trào thơ mới. Thế nhưng thơ của ông lại phản phất một chút gì đó mơ hồ và đầy bí ẩn đến mức Hoài Thanh hết lời ngợi khen thơ ông như một nguồn thơ dào dạt và lạ lùng.
Không những thế, Hoài Thanh đã phải bỏ ra một tháng trời để nghiên cứu toàn bộ thơ Hàn Mặc Tử và công nhận Vườn thơ Hàn rộng rinh không bờ không bến càng đi xa càng ớn lạnh. Phải chăng vì cuộc đời ông mang nhiều bi thương và số phận vô cùng bất hạnh mà thơ của ông luôn thể hiện một tình yêu đau đớn hướng về cuộc đời trần thế đến vậy? Và trong số các tác phẩm ấy, nổi bật nhất và đậm chất Hàn Mặc Tử nhất có lẽ là Đây thôn Vĩ Dạ.
Mở đầu khổ 2 của bài Đây thôn Vĩ Dạ, Hàn Mặc Tử đã đề cập ngay đến hình ảnh thiên nhiên sinh động:
Gió theo lối gió, mây đường mây
Hình ảnh gió và mây từ bao đời nay đã gắn liền với nhau như đôi bạn tri kỷ, không thể tách rời – gió thổi mây bay. Thế nhưng, qua biện pháp sử dụng nghệ thuật nhân hóa đầy sáng tạo của mình, Hàn Mặc Tử đã tạo nên một nghịch lý chưa từng có từ trước đến nay. Ông vẽ lên một bức tranh thiên nhiên bao la rộng lớn: có gió – nhưng gió theo lối gió; cũng có mây, nhưng lại mây đường mây.
Mây gió đôi đường, đôi ngả. Đồng thời, Hàn Mặc Tử còn sử dụng nhịp thơ một cách vô cùng tinh tế – nhịp 4/3. Cách ngắt nhịp này đã giúp cho câu văn của ông tách thành 2 vế đối nghịch nhau, một bên là gió, bên còn lại là mây khiến sự chia lìa, cách xa này lại càng thêm xa cách. Từ đó, hai người bạn tri kỉ ấy, tưởng chừng như không thể nào xa rời, lại ngoảnh mặt quay lưng, đôi ngả chia ly.
Quả thật, có lẽ Chế Lan Viên đã đúng khi nói Tôi xin hứa hẹn với các người rằng, mai sau, những cái tầm thường mực thước kia sẽ tan biến đi, và còn lại của cái thời này chút gì đáng kể, đó là Hàn Mặc Tử. Chỉ có ông mới có thể biến cái tưởng chừng như phi lý trong hiện thực lại trở nên vô cùng hợp lí trong thơ văn.
Nhưng mọi vật Hàn Mặc Tử nhân hóa chỉ đơn thuần để diễn tả cảnh gió, cảnh mây. Nguyễn Du đã từng viết trong tác phẩm nổi tiếng của ông Truyện Kiều rằng: Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ. Hàn Mặc Tử buồn vì biết mình mắc phải căn bệnh hiểm nghèo, quái ác; buồn vì vẫn còn luyến lưu những cảnh vật thơ mộng và buồn vì mối tình đơn phương với người con gái xứ Huế chỉ còn lại trong giấc chiêm bao! Nhưng trên tất cả, có lẽ ông sợ nhiều hơn là buồn. ông sợ một ngày nào đó mình chẳng còn tồn tại trên cõi đời này nữa.
Có phải chăng vì buồn, vì sợ mà cảnh Huế vốn dĩ rất thơ mộng, trữ tình đã dần nhuốm một màu bi ai đến não lòng:
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Từ trước đến nay, sông Hương được biết đến như một vẻ đẹp tinh khôi, dịu dàng và được xem là một trong những biểu tượng lớn của xứ Huế. Vì thế sẽ chẳng lấy làm lạ nếu Sông Hương luôn trở thành đề tài chính trong các tác phẩm thơ ca nước ta. Sông Hương không chỉ được nhắc đến với một tính yêu nồng nhiệt, chân thành mà cháy bỏng trong thơ của Nguyễn Trọng Tạo:
Sông Hương hóa rượu ta đến uống
Ta tỉnh, đền đài ngả nghiêng say…
Thế nhưng, dưới ngòi bút tài tình của Hàn Mặc Tử, sông Hương lại hiện ra với một vẻ u sầu, ảo não. Buồn thiu là cái buồn nhè nhẹ nhưng dai dẳng, nó len lỏi và thấm dần vào tâm hồn của thi nhân và lan sang cả những thứ vô tri vô giác: dòng nước, hoa bắp. Để rồi, dòng nước ấy lại trôi đi một cách lững lờ; hoa bắp kia lại lay động, đong đưa thật chậm, thật nhịp nhàng theo từng nhịp đưa của gió. Dường như nỗi buồn của thi nhân được hòa quyện dần vào nỗi buồn của thiên nhiên, của vạn vật làm cho buồn lại càng thêm buồn, cô đơn lại càng thêm hiu quạnh.
Buồn bã là thế, cô đơn là thế! Nhưng khi trời xuống trăng lên, không chỉ cảnh vật, mà cả tâm tư, tình cảm con người cũng chuyển mình thay đổi: Thuyền ai đậu bến sông trăng đó.Câu thơ hiện lên mang theo một khung cảnh tràn ngập ánh trăng – người bạn tâm tình của tác giả. Thật dễ dàng đề thấy trăng có mặt khắp mọi nơi: trăng chất đầy trên con đò đơn độc đậu lặng lẽ bên bờ; trăng trải dài, dát vàng cả một bến đò rộng lớn; trăng tan chảy hòa quyện vào con sông Hương lặng lẽ trôi hững hờ.
Phải là người có một tâm hồn yêu trăng, say trăng đến điên dại mới có thể tưởng tượng ra được hình ảnh bến sông trăng vô cùng đặc sắc này! Trước đây, trong thơ Trương Kế thời Đường chỉ mới xuất hiện Thuyền ai đậu bến Cô Tô; trong Xuân giang hoa nguyệt dạ của Trương Nhược Hư, 1300 năm về trước chỉ có Sông xuân đâu chẳng sáng ngời trăng. Thì nay có thể nói rằng hình ảnh sông trăng của Hàn Mặc Tử là vô cùng đặc sắc và tinh tế.
Với sự tinh tế và sáng tạo đó, con thuyền ở hiện thực đã dần đi vào thế giới mộng tưởng nhờ vào sự bao phủ của ánh trăng huyền ảo. Liệu rằng có phải Hàn Mặc Tử đã mượn sự huyền ảo, mộng mị của vầng trăng để che lấp đi niềm đau và nỗi buồn của hiện tại? Bởi ông luôn nghĩ về thơ với một quan niệm có phần kỳ lạ, khác người: Thơ là tiếng kêu rên thảm thiết của một linh hồn thương nhớ ước ao trở lại trời xưa. Không chỉ có thế, từ trước đến nay,trăng luôn xuất hiện trong những vần thơ của ông một cách kỳ lạ hơn gấp mấy lần:
…Nước hóa thành trăng trăng ra nước
Lụa là ướt đẫm cả trăng thơm
….
Say! Say lảo đảo cả trời thơ
Gió rít tầng cao trăng ngả ngửa
Vỡ tan thành vũng đọng vàng khô
Ta nằm trong vũng trăng.
(Say trăng- Hàn Mặc Tử)
Thế mà giờ đây, hình ảnh vầng trăng trong Đây thôn Vĩ Dạ lại đậm chất trữ tình hơn, đằm thắm hơn: Có chở trăng về kịp tối nay? Câu hỏi tu từ được thốt lên chứa đầy nỗi niềm âu lo, day dứt của người thi sĩ. Nhưng vì điều gì mà nhà thơ phải đợi trăng về chính xác trong tối nay, chứ chẳng phải là tối mai hay bất kì tối hôm nào khác? Hơn ai hết, có lẽ ông là người hiểu rõ căn bệnh mình mắc phải và khoảng thời gian ngắn ngủi mà mình còn có thể tồn tại trên cõi đời này.
Chính vì vậy, trong lòng nhà thơ trỗi dậy trong lòng một nỗi niềm, một khát khao nhỏ bé – được gặp trăng, được tận mắt nhìn thấy người bạn tri kỉ của mình trong đêm nay để cùng được san sẻ nỗi buồn, san sẻ nỗi cô đơn, tuyệt vọng cùng với vầng trăng ấy!
Vầng trăng với ông lúc này như một tia hi vọng nhỏ nhoi, mong manh chỉ còn le lói chút ít ánh sáng cuối cùng trong màn đêm u tối. Nó cũng chính là lý do khiến Hàn Mặc Tử không ngừng bồn chồn, lo lắng rằng: liệu chiếc thuyền ấy, con đò ấy có kịp đưa trăng về cùng ông trong tối nay?
Qua bốn câu thơ tuy ngắn gọn, súc tích nhưng vẫn giàu tính tượng trưng, giàu sức gợi hình, gợi cảm, cùng với các biện pháp nghệ thuật: nhân hóa, sử dụng câu hỏi tu từ, tả cảnh ngụ tình… được sử dụng một cách vô cùng điêu luyện và tuyệt diệu.
Đoạn thơ không chỉ giúp bạn đọc hiểu thêm về tâm tư, tình cảm từ sâu bên trong đáy lòng của một nhà thơ khi sắp phải xa rời chốn trần thế, mà nó còn phần nào khẳng định tài năng và tâm hồn yêu cuộc sống, yêu quê hương đất nước sâu nặng.
Nếu như thơ trung đại gắn liền với những điều lớn lao, ước lệ thì thơ Mới gắn liền với những cảm xúc cá nhân. Có thể thấy giai đoạn 1932-1945 là giai đoạn nở rộ của cái tôi cá nhân người nghệ sĩ. Nhà thơ Hàn Mạc Tử đã nói rằng: " tôi làm thơ nghĩa là tôi nhấn một cung đàn, bấm một đường tơ, rung rinh một làn ánh sáng". Về cơ bản thơ ông luôn hướng tới quan niệm nghệ thuật vị nghệ thuật nhưng cái đẹp trong thơ ông lại riêng biệt, nó là nét đẹp kì dị, đau thương đan xen với những thứ hư ảo. Thiên nhiên trong thơ ông cũng vậy, nhuốm màu tâm trạng, như thực mà như mơ:
Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?
Mở đầu khổ thơ với hình ảnh " gió" và "mây":
Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Gió và mây luôn luôn gắn bó với nhau " gió thổi mây bay" nhưng trong khổ thơ này hai sự vật ấy lại chia làm đôi ngả. Câu thơ tách thành hai vế khác nhau, mở đầu vế thứ nhất là hình ảnh gió khép lại cũng gió, mở đầu vế thứ hai là mây thì kết thúc cũng là mây. Từ đó ta thấy "gió" và "mây" như những kẻ xa lạ, quay lưng với nhau. Những thứ vốn dĩ không thể tách rời thì hồn thơ Hàn Mạc Tử đã chia cắt những thứ không thể cắt ấy. Dòng nước cũng chỉ là một vật vô tri vô giác trong tự nhiên nhưng với biện pháp nhân hóa " dòng nước buồn thiu" khiến nó trở nên có những cảm xúc buồn, vui của con người. Điệu chảy " buồn thiu" của dòng sông Hương lững lờ yên tĩnh như điệu làn êm ả. Và dường như sự chảy trôi vô định của dòng nước thấm đẫm nỗi buồn li tán của sự vận động giữa mây và gió cũng có thể là sự mặc cảm chia lìa của Hàn Mạc Tử lây lan sang cảnh vật. Như Nguyễn Du đã nói " người buồn cảnh có vui đâu bao giờ". Trên dòng sông Hương xứ Huế ấy là những "hoa bắp lay" khẽ lay động ở đôi bờ, rất nhẹ và rất khẽ, đặt cùng gió, mây, nước hoa bắp "lay" ấy trong ca dao và cũng gặp nỗi buồn ấy trong thơ , trong nỗi buồn của người chinh phụ. Sông Hương vốn đẹp đẽ và thơ mộng đã bao đời đi vào thơ ca Việt nam thế mà bây giờ lại “buồn thiu” – một nỗi buồn sâu thẳm, không nói nên lời. Mặt nước buồn hay chính là con sóng lòng “buồn thiu” của thi nhân đang dâng lên không sao giấu nổi. Lòng sông buồn, bãi bờ của nó còn sầu hơn. “Hoa bắp lay” gợi tả những hoa bắp xám khô héo, úa tàn đang “lay” rất khẽ trong gió. Hai câu thơ đã mở ra bức tranh thiên nhiên ảm đạm nỗi buồn hiu hắt mang dự cảm về hạnh phúc chia li nhuốm màu chia lìa, sự sống mệt mỏi yếu ớt. Thi sĩ tạo ra hình ảnh này không phải bằng thị giác mà bằng cái nhìn của tâm trạng, tâm hồn mang mặc cảm của một người luôn gắn bó thiết tha với đời mà đang có nguy cơ phải chia lìa.
Hai câu thơ tiếp là nỗi nhớ, là hoài niệm của nhân vật trữ tình về sông nước, đêm trăng và tâm trạng xót xa, nuối tiếc:
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?
Cảnh sông nước được miêu tả gắn với hình tượng trăng. Sông trở thành sông trăng, thuyền trở thành thuyền trăng, bến trở thành bến trăng gợi không khí mơ hồ huyền ảo, đẹp một cách thơ mộng làm cho không gian nghệ thuật ở đây càng thêm hư ảo, mênh mang. Dòng sông của hiện thực đã trở thành dòng sông của cõi mộng. Cảnh vật đã được ảo hóa gợi lên cảm giác chơi vơi trong tâm trạng của nhà thơ. Hình ảnh con thuyền cô đơn nằm trên bến sông trăng là một hình ảnh sáng tạo độc đáo của tác giả, nó mang theo những nỗi niềm của thi sĩ. Nếu mọi vật đang trong thế chia lìa, li tán thì chỉ có trăng là đi ngược lại với tất cả để trở về với thi sĩ. Tâm hồn nhà thơ đang rợn ngợp trong nỗi cô đơn, tưởng như mình bị bỏ rơi bên bờ quên lãng. Trong khoảnh khắc ấy thi sĩ chỉ còn biết mong đợi một hình ảnh duy nhất là trăng. Câu cuối cùng là câu hỏi ẩn chứa biết bao nỗi niềm khắc khoải, lo âu bởi quỹ thời gian còn lại rất ngắn ngủi mà trăng thì vẫn quá xa xôi. Tâm trạng trữ tình phấp phỏng, lo âu được thể hiện qua từ "kịp" vừa như mong chờ hi vọng một cái gì đó đang rời xa, biết khi nào trở lại.
Điều đó đã khiến thời gian "tối nay" càng trở nên ngắn ngủi, như một giới hạn trong quỹ thời gian ít ỏi còn lại của thi nhân. Qua hai câu thơ ta thấy được bức tranh thiên nhiên sông nước xứ Huế buồn hiu hắt trong đêm trăng chở nặng nỗi niềm ưu tư của thi nhân. Tất cả bức tranh ấy thể hiện qua một câu hỏi tu từ da diết và khắc khoải. Trăng đã đi vào thơ Hàn Mặc Tử như một nhân vật huyền thoại, một nơi chốn để tâm hồn thi sĩ được phiêu diêu, thoát tục.
Huế đẹp và thơ. Núi sông diễm lệ. Con gái Huế xinh tươi và đa tình. Nếp sống thanh lịch của miền núi Ngự sông Hương đã trở thành ấn tượng và cảm mến sâu sắc đối với bao người gần xa:
"Đã đôi lần đến với Huế mộng mơ
Tôi ôm ấp một tình yêu dịu ngọt..."
Thơ ca viết về Huế có nhiều bài hay. Tiêu biểu là bài thơ "Đây thôn Vĩ Dạ" của Hàn Mặc Tử (1912 - 1940), nhà thơ lỗi lạc trong phong trào "Thơ mới". Bài thơ có ba khổ thơ thất ngôn nói về cảnh sắc và cô gái Vĩ Dạ trong hoài niệm với bao cảm xúc bâng khuâng, man mác, thẫn thờ.
Vĩ Dạ, một làng cổ xinh đẹp nằm bên bờ Hương Giang thuộc cố đô Huế, qua hồn thơ Hàn Mặc Tử mà trở nên gần gũi yêu thương đối với nhiều người trong bảy mươi năm qua. Đây là khổ thơ thứ hai của bài "Đây thôn Vĩ Dạ":
"Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?"
Khổ thơ thứ nhất nói về cảnh vật thôn Vĩ khi "nắng mai lên"... Ở khổ thơ thứ hai, Hàn Mặc Tử nhớ đến một miền sông nước mênh mang, bao la, một không gian nghệ thuật nhiều thương nhớ và lưu luyến. Có gió, nhưng " gió theo lối gió". Cũng có mây, nhưng "mây đường mây". Mây gió đôi đường, đôi ngả:
"Gió theo lối ,gió/mây đường mây".
Cách ngắt nhịp 4/3, với hai vế tiểu đối, gợi tả một không gian gió, mây chia xa, như một nghịch cảnh đầy ám ảnh. Chữ "gió" và "mây" được điệp lại hai lần trong mỗi vế tiểu đối đã gợi lên một bầu trời thoáng đãng, mênh mông. Thi nhân đã và đang sống trong cảnh ngộ chia li và xa cách nên mới cảm thấy gió mây đôi ngả đôi đường như tình và lòng người bấy nay. Ngoại cảnh gió mây chính là tâm cảnh Hàn Mặc Tử.
Không có một bóng người xuất hiện trước cảnh gió mây ấy. Mà chỉ có "Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay". Cảnh vật mang theo bao nỗi niềm. Sông Hương lững lờ trôi xuôi êm đềm, trong tâm tưởng thi nhân đã hoá thành "dòng nước buồn thiu", càng thêm mơ hồ, xa vắng. "Buồn thiu" là buồn héo hon cả gan ruột, một nỗi buồn day dứt triền miên, cứ thấm sâu mãi vào hồn người. Hai tiếng "buồn thiu" là cách nói của bà con xứ Huế. Bờ bãi đôi bờ sông cũng vắng vẻ, chỉ nhìn thấy "hoa bắp lay". Chữ " lay" gợi tả hoa bắp đung đưa trong làn gió. Hoa bắp, hoa bình dị của đồng nội cũng mang tình người và hồn người.
Hai câu thơ thất ngôn với bốn thi liệu (gió, mây, dòng nước, hoa bắp) đã hội tụ hồn vía cảnh sắc thôn Vĩ. Hình như đó là cảnh chiều hôm? Hàn Mặc Tử tả ít mà gợi nhiều, tượng trưng mà ấn tượng. Ngoại cảnh thì chia lìa, buồn lặng lẽ biểu hiện một tâm cảnh: thấm thía nỗi buồn xa vắng, cô đơn.
Hai câu thơ tiếp theo gợi nhớ một cảnh sắc thơ mộng, cảnh đêm trăng trên Hương Giang ngày nào. "Dòng nước buồn thiu" đã biến hoá kì diệu thành "sông trăng" thơ mộng:
"Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?".
Đây là hai câu thơ tuyệt bút của Hàn Mặc Tử được nhiều người ngợi ca, kết tinh rực rỡ bút pháp nghệ thuật tài hoa lãng mạn. Một vần lưng tài tình. Chữ "đó" cuối câu 3 bắt vần với chữ "có" đầu câu 4, âm điệu vần thơ cất lên như một tiếng khẽ hỏi thầm "có chở trăng về kịp tối nay?". "Thuyền ai" phiếm chỉ gợi lên bao ngỡ ngàng bâng khuâng, tưởng như quen mà lạ, gần đó mà xa xôi. Con thuyền mồ côi nằm trên bến đợi "sông trăng" là một nét vẽ thơ mộng và độc đáo. Đã có "Thuyền ai đậu bến Cô Tô" hiện lên trong ánh trăng tà và tiếng quạ kêu sương trong thơ Trương Kế đời Đường. Đã có "Sông xuân đâu chẳng sáng ngời trăng" trong "Xuân giang hoa nguyệt dạ" của Trương Nhược Hư, 1300 năm về trước. Lại có cảnh "Gió trăng chứa một thuyền đầy" (Nguyễn Công Trứ). Còn có "Trăng sông Trà như tấm gương soi dòng nước bạc" (Cao Bá Quát) Qua đó, ta thấy hình tượng "sông trăng" là mới mẻ, sáng tạo. Cả hai câu thơ của Hàn Mặc Tử, câu thơ nào cũng có trăng. Ánh trăng tỏa sáng dòng sông, con thuyền và bến đò. Con thuyền không chở người (vì người xa cách chia li) mà chỉ "chở trăng về". Phải "về kịp tối nay" vì đã cách xa và mong đợi sau nhiều năm tháng. Con thuyền tình của ước vọng nhưng đã thành vô vọng! Bến sông trăng trở nên vắng lặng vì "thuyền ai" chỉ là con thuyền mồ côi.
Sau cảnh gió, mây, là con thuyền, bến đợi và sông trăng, cảnh đẹp một cách mộng ảo. Cả ba hình ảnh ấy đều biểu hiện một nỗi niềm, một tâm trạng cô đơn, thương nhớ đôi với cảnh và người nơi thôn Vĩ. Như ta đã biết, thời trai trẻ, Hàn Mặc Tử đã từng học ở Huế từng có một mối tình đơn phương với một thiếu nữ thôn Vĩ, mang tên một loài hoa. Với chàng thi sĩ tài hoa, đa tình và bất hạnh, đang sống trong cô đơn và bệnh tật, nhớ Vĩ Dạ là nhớ cảnh cũ người xưa. Cảnh "gió theo lối gió, mây đường mây", cảnh "thuyền ai đậu bến sông trăng đó" là cảnh đẹp mà buồn. Buồn vì chia lìa, xa vắng, lẻ loi và vô vọng.
Khổ thơ trên đây, mỗi câu, mỗi chữ, mỗi vần thơ đều thấm đẫm tình thương nhớ và một nỗi "buồn thiu" lẻ loi, vần thơ tả cảnh ngụ tình đặc sắc. Thơ Hàn Mặc Tử, đúng là thơ trữ tình hướng nội "tình trong cảnh ấy, cảnh trong tình này"
Cuộc sống đối với bạn có thể là chuỗi ngày nhàm chán bởi sự lặp đi lặp lại những tháng ngày mông lung vô vọng; nhưng đối với một ai đó, nó lại đáng quý và tươi đẹp biết bao nhiêu. Đặc biệt là với những người chỉ còn một khoảng thời gian ngắn để gắn bó với cuộc đời này, thì cuộc sống lại càng trở nên quý giá và xa vời hơn bao giờ hết. Trong “Đây thôn Vĩ Dạ”, đặc biệt là khổ 2 của bài thơ, bạn sẽ cảm nhận một cách rõ nét khát vọng sống mãnh liệt cùng nỗi niềm tiếc nuối khi không thể tiếp tục nếm trải vị ngọt đắng cuộc đời của Hàn Mặc Tử. Từ đó, hãy tự hỏi rằng liệu bạn có đang quá lãng phí thời gian - thứ mà đối với người khác chỉ là mộng tưởng?
Nếu như khổ thơ thứ nhất cho ta cảm nhận đẹp nhất về sắc màu của thiên nhiên, của cuộc sống và tâm hồn của người thi sĩ, thì khổ thơ thứ hai sẽ là những nỗi niềm rất buồn, rất bi thương hòa vào cảnh sông nước đêm trăng:
“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay”.
Dòng sông xứ Huế mộng mơ được xem như là linh hồn của cảnh, linh hồn của người. Tác giả đã miêu tả cảnh vật một cách rất nhẹ nhàng, rất êm ả như chính cái cách Huế vận động vô cùng chậm rãi. Gió khẽ lay, mây nhè nhẹ bay cùng những hàng hoa bắp đung đưa rất êm ả, nhẹ nhàng. Từ đó, người đọc như được đứng trước khung cảnh thanh bình lại nhuốm màu buồn của xứ Huế.
Cảnh vật sao buồn thế, có cái buồn như len lỏi, như sâu lắng, như bao trùm cả không gian mênh mông vậy? Câu thơ cứ thế như dài ra, khiến cho nỗi buồn cũng dằng dặc bao phủ mọi vật. Trong cái buồn đó, dòng sông cũng chẳng thể tránh mang tâm trạng chung khi được nhân hóa “buồn thiu”. Câu thơ được tác giả tách thành nhịp 4/3, chia “gió” với “mây” thành hai vật thể riêng biệt.
Từ “gió” và “mây” được sử dụng phép điệp ở hai vế dường như tạo nên một thế giới khép kín. Hai sự vật vốn dĩ luôn gắn liền với nhau, nay lại như chẳng hề quen biết mà tách biệt, chia lìa theo hướng riêng. Gió đóng khung trong gió, còn mây cứ mặc mà khép kín trong mây. Chính việc nhìn có vẻ rất phi lý này đã góp phần thể hiện tâm trạng bi thương, buồn đau của tác giả. Liệu cảnh vật vốn dĩ mang màu buồn như thế, hay tâm hồn thi nhân ảm đạm đến mức chẳng thể nhìn ra cảnh sắc tươi vui? Liệu mây và gió tách biệt như thế, hay việc phải chia ly và sống trong cảnh đời đầy nghịch lý khiến tác giả chẳng thể “tác thành” cho cả “gió” và “mây”?
Từ “lay” cũng như mang một nỗi buồn rất nhẹ. Đó phải chăng là sự xâm chiếm của nỗi buồn mây nước vào hồn hoa bắp bên sông. Cảnh sông Hương xứ Huế hiện lên sao trông thật buồn, gió mây đôi ngả, hoa bắp lay nhẹ, hoang vắng lại rợn ngợp như ngập tràn nỗi buồn thê lương. Từ đó, một nỗi buồn nặng trĩu như đè lấy cõi lòng thi nhân, nỗi buồn của sự cô đơn, nỗi buồn của sự mặc cảm và tiếc nuối, là nỗi buồn mang đậm chất ca dao thổi vào hồn muôn thuở của con người.
Trước nỗi buồn ngày một nặng trĩu ấy, tác giả như dần nhận ra sự lo âu, phấp phỏng đang dần chiếm lấy cõi lòng mình:
“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay”
Trong tâm trạng bi thương ấy, thi nhân bỗng bật lên những nỗi niềm ước ao, hy vọng. Đó phải chăng là một sự níu giữ, bám víu cuối cùng của số phận bạc bẽo? Ước mơ của người thi sĩ dường như đã gắn với trăng, với thuyền như một người bạn tri âm duy nhất đem lại nguồn sống cứu vớt chính mình. Thuyền trăng ấy mang một vẻ đẹp mà tác giả luôn mơ tưởng, dẫu cho nó thật hư ảo và khó phân định. Có thể hiểu “sông trăng” chính là hình ảnh dòng nước ngập tràn ánh trăng, thực thực ảo ảo, đẹp đến nao lòng, và “thuyền trăng” là một con thuyền vận chuyển ánh trăng về với tâm hồn thi nhân.
Trong thơ của Hàn Mặc Tử có cả một miền trăng là nơi chất chứa bao tâm sự, giải tỏa những nỗi đau mà tác giả muốn quên lãng. Từ “thuyền ai” sử dụng danh từ phiếm chỉ “ai” dường như khiến ý thơ trở nên thật mâu thuẫn. Sự mâu thuẫn và phi lý trong ý thơ xét về mặt hiện thực lại giúp người ta lý giải được tâm trạng của chủ thể trữ tình.
Trăng lúc có lúc không, trăng mong manh, xa vời lại mờ ảo, cũng như người tri kỷ mờ ảo chẳng thể nắm bắt khiến cho người ta thật sự lo âu, phấp phỏng. Thi nhân chờ trăng hay chờ tri âm, chờ trăng hay chờ sự đồng điệu, chờ trăng hay chờ sự chia sẻ, chờ trăng hay chính là sự khát khao được giao cảm với đời? Tâm trạng lo âu của tác giả như được đẩy lên cao qua từ “kịp”.
Đó là sự lo âu đan xen với đợi chờ cùng nỗi niềm khao khát. Với một người bình thường, có lẽ nếu không chờ được đêm nay thì còn rất nhiều đêm khác, nhưng đối với Hàn Mặc Tử, rất có thể tối nay sẽ là tối cuối cùng thi sĩ còn cơ hội chờ đợi. Bởi vì quỹ thời gian của ông đang bị vơi dần đi, cuộc chia ly vĩnh viễn có thể đến bất kỳ lúc nào. Nếu như không về kịp tối nay, liệu có còn tối mai, liệu có được cơ hội gặp được tri âm để bầu bạn lần cuối?
Hàn Mặc Tử (1912 – 1940) là một trong những gương mặt tiêu biểu của phong trào Thơ mới. Ông đã để lại cho kho tàng thơ ca Việt Nam nhiều tác phẩm hay được chú ý như Đây thôn Vĩ Dạ, Mùa xuân chín, Nắng vàng, Trên cầu Tràng tiền,…. Trong đó Đây thôn Vĩ Dạ được đánh giá là tác phẩm xuất sắc nhất của Hàn Mặc Tử thể hiện rõ nét tính cách thơ của ông.
Đây thôn Vĩ Dạ là bài thơ về tình yêu và khát khao cuộc sống. Nếu mở đầu bài thơ, người ta cảm nhận được vẻ đẹp của thiên nhiên và vẻ đẹp tâm hồn người thi sĩ. Thì đến khổ thơ thứ hai, ta cảm nhận được sự hoài niệm, cùng tâm trạng lo âu của người thi sĩ. Đây là một trong những khổ thơ thể hiện chân thực nhất tâm lý tình cảm của người thi sĩ.
Khổ thơ thứ 2 Đây thôn Vĩ Dạ bao gồm 4 câu thơ thể hiện tâm tư, tình cảm của người thi sĩ – của người khách khi nhớ về quê hương. Ngay đầu khổ 2, một bức tranh sông nước đêm trăng được tác giả mở ra rõ nét:
Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Ở đây ta thấy được sự tài tình của Hàn Mặc Tử. Chỉ bằng vài nét chấm phá thôi nhưng có thể gợi lên cả linh hồn của xứ Huế mộng mơ giữa đêm trăng thơ mộng. Đó là một xứ Huế yên bình, huyền ảo với mây trời êm dịu. Dòng sông Hương trong lời thơ của Hàn Mặc Tử hiện lên thật nhẹ nhàng nhưng cũng rất mênh mông thể hiện được linh hồn của xứ Huế mộng mơ. Đó là cảnh vật: gió khẽ lay, mây khẽ bay,… Ở đây, mọi cảnh vật đều chuyển động nhẹ nhàng, êm ả – là một điều gì đó rất riêng của Huế. Giống như Hoàng Phủ Ngọc Tường từng nói “dòng nước sông Hương cơ hồ chỉ còn là một mặt hồ yên tĩnh. Sông Hương chảy chậm, thực chậm, đó là điệu slow tình cảm mà dòng sông Hương dành cho xứ Huế”.
Nhưng cảnh vật ấy trong mắt người thi sĩ cũng đượm buồn, chẳng có sự kết nối. Mây và gió vốn là những sự vật gắn liền với nhau, hòa quyện vào nhau. Vậy mà ở đây “Gió theo lối gió, mây đường mây”, như chẳng có chút vương vấn nào.. Cùng với dòng nước “buồn thiu” càng làm nổi bật lên nỗi buồn sâu lắng ấy. Và trong không gian ấy, hoa bắp chỉ khẽ “lay”. Động từ “lay” trong hoàn cảnh này nghe sao hiu hắt, nó giống như một sự níu giữ vu vơ. Hình ảnh “hoa bắp lay” như hiện thân cho thân phận cô độc, lạc loài, bị cuộc đời lãng quên của thi sĩ. Dường như nỗi buồn nhuốm cả vào không gian, cảnh vật, làm tâm trạng con người cũng chẳng thể nào vui được. Câu thơ nghe sao cứ dài đằng đẵng, làm cho nỗi buồn chẳng thể nguôi ngoai.
Đêm trăng đã biến dòng Hương giang trở nên huyền ảo hơn bao giờ hết. Cùng với bầu trời trong vắt, ánh trăng sáng vằng vặc tạo thành những dải ánh vàng trên sống. Nó làm cho dòng sông bỗng hóa thành “dòng sông trăng”. Ở đây, tác giả đã dùng biện pháp nhân hóa đối với dòng sông. Dòng sông không còn đơn thuần là một cảnh vật tĩnh nữa, qua lời thơ của Hàn Mặc Tử nó đã trở thành sinh thể có tâm hồn mang nỗi niềm của con người. Dường như nó chính là đại diện cho người thi sĩ.
Cảnh vật càng nhuốm màu buồn hơn khi các sự vật dường như chẳng có liên quan gì. “Mây” và “gió” đã trở thành xa lạ. Dường như khung cảnh lúc này gió và mây đã ở hai thế giới khác nhau, chẳng còn vướng bận với nhau nữa. Câu thơ mang đến hiện thực phũ phàng và cũng thể hiện tâm trạng ngổn ngang của người thi sĩ. Đó là thi sĩ đang sống trong cảnh chia ly với cảnh đời đầy nghịch lý nên gió và mây cứ như hai đường thẳng song song, chẳng hòa nhập gì. Chính lúc ấy, chỉ một từ “láy” nhẹ nhàng của gió thôi cũng thổi bùng lên nỗi buồn muôn thuở của con người.
Tiếp theo đó, tâm trạng lo âu, thấp thỏm của người thi sĩ được thể hiện rõ nét. Dường như người thi sĩ đã hy vọng quá nhiều, để rồi giờ đây nỗi thất vọng được bộc lộ rõ ngay trên dòng Hương giang này. Đó không đơn thuần là nỗi thất vọng, đó còn là nỗi sợ, nỗi băn khoăn về sự chia ly cách biệt.
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay
Một cảnh vật lung linh, huyền ảo với ánh trăng ngập lối được mở ra. Hình ảnh ấy mang đến ý nghĩa vừa thực vừa ảo như tâm trạng của người thi sĩ vậy. Ở đây, tác giả dùng “sông trăng” để miêu tả dòng sông ngập tràn ánh trăng mang đến sự kỳ vĩ. Còn chiếc thuyền đậu trên dòng sông trăng ấy giống như chính người thi sĩ. Ánh trăng dường như đã ngập tràn tất cả không gian và thời gian, gợi lên một cảm giác mơ hồ.
Ở đây tác giả sử dụng “thuyền ai” vừa như câu hỏi, vừa như câu cảm thán. “Thuyền ai” vô cùng mơ hồ nhưng ta biết đó là khát vọng của người thi sĩ, mong mỏi về người xưa, chốn cũ. Trong khi đó “thuyền ai” lại gợi ra một hình ảnh đơn độc. Hình ảnh ấy chẳng rõ ràng mà mờ ảo, mong manh giống như ánh trăng lúc có lúc không. Đó cũng là điều thể hiện niềm lo âu, phấp phỏng của người thi sĩ.
Có lẽ, Hàn Mặc Tử muốn dùng dòng sông trăng để mở ra một thế giới tri âm chất chứa tâm sự. Đó cũng là thế giới để tác giả giải tỏa những niềm đau, sự lo lắng. Trong giọng điệu của câu thơ ta thấy được nỗi niềm khát khao, khắc khoải đến cháy bỏng của Hàn Mặc Tử. Nó được thể hiện rõ nét qua từ “kịp” mà tác giả sử dụng trong câu. “Kịp” có nghĩa là chưa chắc chắn nên người thi sĩ mới lo âu sống trong tâm trạng chờ đợi, khát khao. Cái sự “kịp tối nay” mà tác giả đưa ra cũng như một lời khẩn cầu tha thiết, bởi chỉ qua ngày mai thôi, mọi thứ sẽ chỉ còn là dấu chấm hết. Qua đó ta cũng thấy được dường như cuộc sống của người thi sĩ đang vơi cạn từng ngày. Sự chia ly có thể đến bất cứ lúc nào. Thế nên nếu thuyền không chở được “trăng” về tối nay, người thi sĩ chẳng tìm được sự tri âm sẽ phải ra đi vĩnh viễn trong buồn đau, ân hận.
Với bút pháp tả cảnh gợi tình đầy tinh tế, hình ảnh chắt lọc, Hàn Mặc Tử đã mang đến cho người đọc một Đây thôn Vĩ Dạ gần gũi, thân thuộc. Đó là miền quê hương đất nước, một nơi gắn bó với tuổi thơ. Bài thơ còn là tiếng lòng của một trái tim yêu người, yêu đời mãnh liệt. Nhưng niềm tin yêu ấy lại sớm chìm trong vô vọng. Và khổ 2 trong Đây thôn Vĩ Dạ chính là sự chứng minh cho sự vô vọng ấy. Khổ 2 bài Đây thôn Vĩ Dạ là sự hoài niệm của tác giả về nơi từng gắn bó với mình – dòng sông Hương và tâm trạng lo âu, phấp phỏng khi đợi chờ tri âm, tri kỷ. Đây có lẽ là khổ thơ hay thể hiện tâm trạng của tác giả trong chặng đường chờ đợi sự tri âm, sẻ chia.
"Vĩ Dạ thôn! Vĩ Dạ thôn
Biết che cành trúc không buồn mà say?"
Vẻ đẹp của thôn Vĩ qua những câu thơ ấy của Bích Khê đầy ấn tượng. Vĩ Dạ đẹp, Vĩ Dạ buồn, Vĩ Dạ đắm say lòng người ngoạn cảnh đã cuốn hút biết bao người đắm chìm trong đó để rồi có một người cho ta một bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ đặc sắc – Hàn Mặc Tử.
Vĩ Dạ đẹp với những khu vườn xanh tốt, mượt mà dưới ánh bình minh, với những con người dịu hiền, phúc hậu thấp thoáng sau cành tre lá trúc thanh tao. Vĩ Dạ dịu dàng thơ mộng với dòng sông hiền hoà:
"Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?"
Cặp câu thơ đầu bằng biện pháp miêu tả có sức gợi sâu sắc hình ảnh mây gió vần vũ. Câu thơ cho ta nhiều cách hiểu khác nhau. Có người cho rằng, thông thường thì gió và mây là những sự vật gắn kết với nhau, luôn đi liền nhau, bởi vậy giờ đây, khi "gió theo lối gió mây đường mây" nghĩa là tất cả đang ở trong thế của sự chia lìa, tan tác. Điều này phù hợp với tâm trạng của tác giả. Nhưng đối với thiên nhiên, khi gió to thì mây vần vũ, lúc bấy giờ, gió mới thổi mây bay đi. Còn ở đây, trong Vĩ Dạ của xứ Huế, tất cả đều mang một vẻ đẹp nhẹ nhàng và thơ mộng. Nơi đây, mây cứ lững lờ bay ở bên trên còn gió thì hiu hiu thổi, gợi lên cái gì đó buồn bã, phù hợp với tâm trạng của chính tác giả.
Mọi sự xuất hiện của cảnh vật đều gợi cảm giác buồn. Cả dòng nước trôi cũng không nằm ngoài âm hưởng chung ấy: "Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay". Dòng nước thâm cái buồn của ngoại cảnh hay ấy chính là cái "buồn thiu" của tâm cảnh đang lan tỏa và bao trùm lên ngoại giới. Bên bờ sóng, những bông hoa kia nhữ cũng thấm nỗi buồn của cảnh vật nên cũng chỉ khẽ khàng lay động. Ta cũng đã từng bắt gặp hình ảnh hoa bắp lay đó ở nhiều câu thơ nhưng dù ở đâu thì nó cũng thật buồn. Là những câu thơ của Huy Thông:
"Lá ngô lay ở bờ sông
Bờ sông vẫn gió, người không thấy về"
Hay đó là nỗi buồn trước cảnh hoa lay lan toả trong lòng người đọc:
"Ai về Giồng Dứa qua truông
Gió lay bông sậy, bỏ buồn cho ai"
Dù là nỗi buồn của cảnh chia li, nỗi buồn của nỗi chờ mong mỏi mòn nhưng cảnh bờ sông và những cây bắp, lau bên bờ sông đều mang lại cho người ta cảm giác buồn. Dòng sông và cây hoa bắp lay của Hàn Mặc Tử cũng vậy, đẹp một vẻ đẹp buồn nhẹ nhàng và thơ mộng. Thiên nhiên đẹp nhưng cũng thật lạnh lẽo, dường như nó phảng phất tâm trạng u buồn, cô đơn của nhà thơ trước sự xa cách, thờ ơ của cuộc đời đối với mình.
Trong khung cảnh sông nước nên thơ, thời gian chuyển biến linh hoạt. Thoắt cái, cảnh vật đã chuyển sang một buổi đêm trăng huyền ảo:
"Thuyền ai đậu bến sông trăng đó?
Có chở trăng về kịp tối nay?"
Hai câu thơ sau cho thấy tâm hồn nhà thơ có buồn và cô đơn nhưng vẫn chan chứa tình yêu đối với con người và thiên nhiên xứ Huế. Đây là cảnh thực mà cứ như ảo vì dòng sông không còn là dòng sông của sóng nước nữa mà là dòng sông ánh sáng, lấp lánh ánh trăng vàng, hay đấy là dòng ánh sáng tuôn chảy khắp vũ trụ làm không gian nghệ thuật thêm hư ảo, mênh mang. Cũng vì thế, con thuyền vốn có thực trên dòng sông đã trở thành một hình ảnh của mộng tưởng, nó đậu trên bến sông trăng để chở trăng về một bến nào đó trong mơ. Là thuyền ai? Thuyền của người thôn Vĩ hay con thuyền của chính tác giả? Cũng không rõ nữa, chỉ biết rằng con thuyền ấy chở đầy trăng. Bằng ngòi bút liên tưởng và trí tưởng tượng phong phú, Hàn Mặc Tử đã phác hoạ được nét đẹp nhất của sông Hương là vẻ huyền ảo thơ mộng dưới ánh trăng. Đến câu thơ cuối, con thuyền, dòng sông, ánh trăng trong sự hồi tưởng quá khứ ấy lại gắn với cảm nghĩ của nhà thơ trong hiện tại, bởi nhà thơ mong muốn con thuyền chở trăng về kịp tối nay chứ không phải là một tối nào khác? Con thuyền trở thành con thuyền nhỏ trên mình người du khách đặc biệt, liệu có kịp cập một bến thời gian nào đó tôi nay? Phải chăng cái "tối nay" đó là một tối thật buồn và cô đơn, nhà thơ đang có những tâm sự mà chỉ có trăng mới có thể hiểu được? Điều đó cho thấy Hàn Mặc Tử rất yêu trăng, rất yêu xứ Huế, yêu cảnh vật và con người nơi đây nhưng dường như cảnh Huế, người Huế không hiểu được, không đáp lại tình yêu ấy nên nhà thơ tìm đến vầng trăng như một người để trút bầu tâm sự cho vơi đi cảm giác lẻ loi, cô đơn và những mặc cảm bệnh tật.
Cả bài thơ "Đây thôn Vĩ Dạ" là một tác phẩm nghệ thuật để lại cho người đọc nhiều suy tư. Bằng những biện pháp tu từ và cặp mắt quan sát, cảm nhận tinh tế của mình, Hàn Mặc Tử đã tiếp tục vẽ những nét vẽ khắc họa rõ hơn về thôn Vĩ trong khổ thơ thứ hai. Với sông Hương, dòng nước trôi hờ hững, với mây bồng bềnh, con thuyền, ánh trăng và đặc biệt là một tấm lòng yêu thiên nhiên, khát khao, khắc khoải trong khát vọng tình đời, tình người, nhà thơ sẽ khiến cho người ta còn mãi vương vấn về một Vĩ Dạ của xứ Huế mộng mơ, nơi có một cặp mắt đau đáu hướng về
Nhà thơ Hàn Mặc tử, sinh năm 1912 và mất năm 1940, ông là một trong những người tiên phong của phong trào thơ mới tại Việt Nam. Tác phẩm của ông đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng độc giả và làm say đắm những người yêu thơ. Trong số các tác phẩm của ông, Đây thôn Vĩ Dạ được xem là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất với sự lan tỏa mạnh mẽ và ảnh hưởng lớn đến cộng đồng đọc thơ.
Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ là một tác phẩm về tình yêu và khát khao cuộc sống. từ những câu đầu tiên, người đọc đã được đưa vào một thế giới của sự thanh tịnh, một thế giới được bao phủ bởi vẻ đẹp của thiên nhiên và sự tinh tế của tâm hồn người thi sĩ. Tuy nhiên, khi đọc đến khổ thơ thứ hai, ta có thể cảm nhận được sự hoài niệm và lo lắng của người viết. Những từ ngữ được sắp xếp một cách tinh tế, nhưng lại đầy ẩn ý, cho thấy tâm trạng sâu sắc của người thi sĩ và tình cảm nồng nàn đối với đất nước.
Đây thôn Vĩ Dạ là một tác phẩm thơ cao siêu của Hàn Mặc Tử, nổi tiếng với cách viết tinh tế và tình cảm sâu sắc. Khổ thơ thứ 2 của bài thơ bao gồm 4 câu thơ, là một bức tranh tuyệt đẹp về cảnh vật Huế đêm trăng. Sự tài tình của Hàn Mặc Tử được thể hiện rõ nét khi ông chỉ bằng vài nét chấm phá thôi đã gợi lên được cả linh hồn của xứ Huế mộng mơ giữa đêm trăng thơ mộng. Bức tranh mô tả gió theo lối gió, mây đường mây, dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay đã đưa chúng ta đến với một xứ Huế yên bình, huyền ảo với mây trời êm dịu.
Sông Hương trong lời thơ của Hàn Mặc Tử hiện lên thật nhẹ nhàng nhưng cũng rất mênh mông, thể hiện được linh hồn của xứ Huế mộng mơ. Tất cả cảnh vật đều chuyển động nhẹ nhàng, êm ả - là một điều gì đó rất riêng của Huế. Sông Hương chảy chậm, thực chậm, nhưng nó lại là điệu múa tình cảm mà dòng sông Hương dành cho xứ Huế. Với cách viết tinh tế và tình cảm sâu sắc, Hàn Mặc Tử đã tạo nên một bức tranh thơ đẹp tuyệt vời về xứ Huế đêm trăng, để lại trong lòng người đọc cảm giác ngọt ngào và sâu lắng về quê hương.
Bức tranh đêm trăng trên dòng sông Hương trong tác phẩm thơ của Hàn Mặc Tử đầy sự đẹp đẽ và lãng mạn, nhưng cũng đầy buồn bã. Trong đó, mây và gió được miêu tả là hai sự vật gắn liền với nhau, nhưng lại "Gió theo lối gió, mây đường mây" không có sự kết nối. Cảnh vật mang nét buồn tột cùng với dòng nước buồn thiu và hoa bắp lay chỉ làm nổi bật lên nỗi buồn sâu lắng. Tác giả đã sử dụng biện pháp nhân hóa để miêu tả dòng sông như một cá thể mang nỗi niềm của con người. Dòng sông đã trở nên huyền ảo hơn bao giờ hết trong ánh trăng sáng vằng vặc, tạo ra những dải ánh vàng trên sông. Đây không còn là một cảnh vật tĩnh thuần túy nữa mà đã trở thành một sinh thể có tâm hồn, mang nỗi niềm của người thi sĩ. Dường như dòng sông chính là đại diện cho con người trong tác phẩm thơ này.
Nhìn vào bức tranh đêm trăng trên dòng sông Hương, ta cảm nhận được sự đẹp đẽ của nó nhưng cũng ẩn chứa đầy những nỗi buồn, cô đơn và lạc lõng. Cảnh vật và con người cùng rơi vào trạng thái buồn bã, nỗi buồn nhuốm vào không gian, làm cho tâm trạng con người chẳng thể nào vui nổi. Câu thơ nghe sao cứ dài đằng đẵng như một lời thổn thức của người thi sĩ, gợi lên nỗi buồn chẳng thể nguôi ngoai.
Cảnh vật trở nên buồn tẻ hơn khi các sự vật dường như không liên quan đến nhau. Mây và gió đã trở nên xa lạ với nhau. Khung cảnh trông như hai thế giới khác nhau, gió và mây không còn gắn kết với nhau. Điều này thể hiện thực tế khắc nghiệt và tâm trạng không ổn định của tác giả. Tác giả sống trong cảnh đời đầy nghịch lý, với gió và mây như hai đường thẳng song song không hòa nhập. Những tiếng gió nhẹ cũng đủ để thổi bùng lên nỗi buồn sâu thẳm của con người. Tâm trạng lo âu và bồn chồn của người viết được thể hiện rõ ràng. Tác giả hy vọng quá nhiều khiến cho nỗi thất vọng bộc lộ ngay trên dòng sông Hương. Đó không chỉ là nỗi thất vọng, mà còn là nỗi sợ hãi và băn khoăn về sự chia lìa và cách biệt
Hình ảnh cảnh vật lung linh, huyền ảo với ánh trăng đầy ngập lối được miêu tả. Nó có ý nghĩa thực tế vào ảo tưởng như tâm trạng của người viết. Tác giả sử dụng sông trăng để miêu tả dòng sông bao phủ bởi ánh trăng kỳ diệu. Thuyền ai như một câu cảm thán vô cùng mơ hồ thể hiện sự mong mỏi về người xưa, về nơi quen thuộc.
Với nét bút tài hoa, tả cảnh gợi tình đầy tinh tế và hình ảnh sắc nét, Hàn Mặc Tử đã đưa độc giả đến với một Đây thôn Vĩ Dạ gần gũi và thân thuộc. Đó là quê hương đất nước, nơi gắn bó với tuổi thơ, nhưng cũng là nơi tình yêu và đời sống mãnh liệt của tác giả. Tuy nhiên, niềm tin ấy đã nhanh chóng tan biến. Khổ thơ thứ hai là sự hoài niệm của tác giả về nơi từng gắn bó. Đây có lẽ là bức tranh tâm trạng của tác giả trong cuộc hành trình chờ đợi tình yêu và sự chia sẻ.
Trong phong trào Thơ Mới, các nhà thơ được tự do thể hiện bản thân cá nhân. Nếu Xuân Diệu thể hiện tình yêu thiên nhiên và con người một cách cô đơn và hoài nghi, Lê Trọng Lư phiêu lưu trong những bài thơ tình yêu, thì Hàn Mạc Tử lại đau đớn trong những vần thơ về bệnh tật. Đọc thơ của Hàn Mạc Tử, ta không thể không nhớ đến bài thơ Đây Thôn Vĩ Dạ - một tác phẩm đầy cảm xúc về con người và đất đai Huế. Trong bài thơ này, ấn tượng nhất là khổ thơ thứ hai, khi nó chứa đựng bi kịch và nỗi buồn.
Bài thơ được viết khi nhà thơ nhận được một tấm thiệp từ một cô gái tên là Hoàng Cúc, mang tên một loài hoa. Nhà thơ gặp cô ấy tại Huế và họ đã có một thời gian ở bên nhau. Cả hai đều hiểu tình cảm của mình, nhưng nhà thơ lại là một người rất nhút nhát. Trước Hoàng Cúc, có nhiều cô gái đã yêu thương ông và ông cũng thích họ, nhưng ông không bao giờ tỏ tình, dần dần những cô gái ấy không chờ đợi nữa mà rời xa ông. Và Hoàng Cúc cũng không ngoại lệ. Khi họ chia tay, cô ấy đã lấy chồng, nhưng vẫn coi ông là một người bạn. Khi biết ông bị bệnh, cô ấy gửi cho ông một tấm thiệp hỏi thăm và trách móc vì sao ông không về thăm thôn Vĩ. Những kỷ niệm và cảnh vật của Huế hiện lên tự nhiên trong tâm trí nhà thơ, với nỗi nhớ và tình thương con người.
Khổ thơ thứ hai đem lại cho chúng ta thấy nhiều nỗi lo lắng và suy tư về cuộc sống và số phận của nhà thơ tài năng này. Đây có thể coi là đoạn thơ mang tâm trạng sâu nhất, buồn nhất và bi kịch nhất.
Bắt đầu bài thơ là một cảm giác chia ly buồn thảm. Hiện tại khiến nhà thơ nhớ về những gì đã qua, và bốn bức tường cách ly là rào cản ngăn cách:
“Gió theo lối gió, mây đường mây”
Theo luật tự nhiên, gió thường thổi mây bay. Nhưng ở đây, nhà thơ lại tách rời gió và mây, gió theo hướng của gió, mây đi theo con đường của mây, thể hiện sự chia ly cách biệt. Nhà thơ đau đớn và buồn bã nên đã phá vỡ quy luật tự nhiên để thể hiện sự khắc nghiệt của sự chia ly này. Có thể gió và mây ở đây là nhà thơ và người con gái Huế phúc hậu và xinh đẹp, hoặc có thể là nhà thơ và cuộc đời này. Khi nhà thơ rời bỏ Huế, ông không biết đó sẽ là lần cuối cùng và mãi mãi không thể quay lại để thăm lại những người và cảnh vật ở đây. Hàn Mạc Tử rất lưu luyến với cuộc đời này, nhưng số phận đã khiến ông phải mắc một căn bệnh không chữa trị, gây đau đớn hàng ngày. Vì vậy, mọi thứ đều trở nên chia ly và xa cách. Nhà thơ gặp khó khăn vô cùng, như Cù Huy Cận đã thể hiện qua câu thơ:
“Thuyền về nước lại sầu trăm ngả”
Tuy cũng buồn và chia ly, nhưng tại sao nó lại không trở thành bi kịch như câu thơ của Hàn Mạc Tử? Sự buồn không chỉ trải dài trên bầu trời mà nhìn vào ánh mắt của nhà thơ, ta còn thấy nó lan tỏa khắp cảnh vật xung quanh. Bởi vì:
“Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ?”
“Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay”
Dòng nước như được biến thành nhân vật, cũng biết buồn giống như thi sĩ, khiến mọi người cảm thấy không vui. Ta có thể cảm nhận được cách dòng nước lững lờ trôi chậm như thế nào, tạo điều kiện cho nỗi buồn của nhà thơ chiếm lĩnh, gây ra thêm đau đớn. Cơn gió không mạnh mẽ, không tươi mát, không làm cho con người cảm thấy hứng khởi. Chỉ là nhẹ nhàng lay hoa bắp bên bờ sông. Những từ “buồn thiu”, “khẽ” khiến cho người ta cảm thấy đau lòng.
Ở bên bờ sông, bên cạnh những cánh đồng hoa bắp, một chiếc thuyền xuất hiện, bến cũ, trăng mờ:
“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó'
Không ai biết đó là thuyền của Hoàng Cúc, của người dân xứ Huế hay của ai. Có thể nhà thơ chỉ nói một cách mơ hồ như vậy. Sự mơ hồ đó thể hiện tâm trạng của nhà thơ, là một cảm xúc khó diễn tả, đau đớn nhưng cũng không đau, nhớ nhung nhưng cũng thương tiếc, vui khi nhận được tấm bưu thiếp của Hoàng Cúc nhưng cũng không vui vì hiện thực này. Con thuyền có lẽ đã hoàn thành một ngày dài và đang yên bình trên bến đậu. Nhưng khi nghĩ về nhà thơ, trong khi con thuyền chỉ nghỉ ngơi rồi lại ra khơi vào sáng hôm sau, Hàn Mạc Tử chỉ có một cuộc đời duy nhất. Ánh trăng phản chiếu lên dòng sông, tạo nên một bức tranh thơ mộng nhưng lại buồn buông.
Đặc biệt nhất, ấn tượng nhất, và bi kịch nhất chính là câu thơ cuối cùng của khổ thơ này:
“Có thuyền đưa trăng về đúng kịp tối nay không?”
Một câu hỏi hiu quạnh vang vọng, không có câu trả lời. Từ “kịp” đau đớn, đầy bi kịch. Nhà thơ lo lắng, bối rối, không biết liệu con thuyền có thể đưa ánh trăng về đúng giờ không. Đưa ánh trăng, cũng là trở lại người con gái, kịp với nhà thơ. Ông không tham lam, chỉ mong gặp lại người xưa một lần.
Cảm nhận về hai khổ thơ Đây Thôn Vĩ Dạ gợi lên cảm xúc về tình yêu và cuộc đời của nhà thơ. Ai cũng thương xót cho số phận đau buồn ấy. Khi sắp rời khỏi cuộc đời và còn trẻ, còn ước mơ, còn tình yêu dang dở, họ sẽ hiểu nhà thơ đã đau khổ như thế nào.
Hàn Mặc Tử nổi tiếng là một ngôi sao sáng trong phong trào thơ mới. Thơ của ông là tiếng nói của một tâm hồn yêu cảnh vật, yêu cuộc sống, yêu con người một cách nồng nàn. 'Đây thôn Vĩ Dạ' là một bức tranh thơ phản ánh tình yêu và khát khao cuộc sống của Hàn Mặc Tử. Khổ thơ thứ hai của bài thơ này là một tấm gương cho thấy ký ức và lo lắng của nhà thơ.
Khổ thơ thứ hai: bầu trời, sông nước của thôn Vĩ Dạ trong tâm trạng buồn bã, chia rẽ, và tuyệt vọng, phản ánh sự khao khát được gặp lại của Hàn Mặc Tử. Câu thơ đầu tiên với sự đan xen của nhịp 4/3 tạo ra sự đối lập. Hai hình ảnh tự nhiên là gió và mây, thường đi cùng nhau, nhưng trong thơ của Hàn Mặc Tử, chúng dường như đối lập. Sự đối lập này dự báo về sự xa cách và chia lìa sắp xảy ra. Thiên nhiên không hòa hợp vì con người mang theo nỗi lo âu và sự cô đơn, và vẻ đẹp của cảnh vật chỉ là một phần của tình trạng tinh thần của nhà thơ.
Tác giả đã sử dụng nghệ thuật nhân hóa để biểu hiện tâm trạng 'buồn thiu' của dòng nước. Dòng nước trở nên im lặng, không muốn chảy, như đang từ từ mất đi sự sống. Hàn Mạc Tử mang trong lòng mình nỗi buồn nặng nề. Hình ảnh hoa bắp kết hợp với động từ 'lay', một sự chuyển động nhẹ nhàng, gợi lên không gian lặng yên với cảm giác hiu quạnh, thiếu vắng, u buồn, cô đơn. Cảnh sắc được nội tâm hóa thể hiện nỗi đau thân phận, sự chia lìa xa cách của nhân vật trữ tình.
Mặc dù cảnh vật đẹp nhưng lại cô độc, phân tán, u ám mang trong lòng nỗi cô đơn, u sầu của nhà thơ trước cuộc sống đầy gian khổ. Cảnh sắc của sông Hương xứ Huế hiện lên đầy nỗi buồn, hoa bắp lay động, gió mây đan xen tạo nên không khí hoang vắng chứa đựng nỗi buồn của sự thê lương. Nỗi buồn của nhà thơ kết hợp với nỗi buồn của xứ Huế cùng với những khát khao không nguôi.
Trong tâm trạng thê lương buồn thảm đó, bỗng nảy sinh những ước mơ hy vọng về một điều gì đó có thể trở về, để dựa dẫm, để giữ chặt. Dường như ước mơ của Hàn Mạc Tử thường liên quan đến ánh trăng, với chiếc thuyền thể hiện sự mong đợi, sự gặp lại.
Trong hai câu thơ tiếp theo, tác giả mô tả cảnh đêm trăng của thiên nhiên, cảnh sông Hương xứ Huế, một trong những địa danh đặc trưng khi nhắc đến Huế. Hình ảnh thuyền chở trăng là một biểu tượng lãng mạn và thú vị. Sông trăng: là dòng sông long lanh soi bóng ánh trăng vàng, mang trong mình linh hồn của cảnh sắc thiên nhiên. Đại từ 'ai' tạo ra cảm giác mơ hồ, xa lạ, mơ màng, không biết đó là thuyền của ai, người dân xứ Huế hay của Hoàng Cúc. Hay chỉ là nhà thơ mơ mộng như thế. Sự mơ hồ đó lại thể hiện tâm trạng bâng khuâng, khó tả của nhà thơ.
Thể hiện vẻ đẹp huyền ảo của sông trăng, ánh trăng tác giả đã gợi lên được vẻ đặc trưng của xứ Huế, êm đềm và thơ mộng. Câu hỏi 'kịp tối nay?' thể hiện sự thắc mắc, lo lắng mang theo nỗi khắc khoải, khẩn thiết. Từ 'kịp' làm cho thời gian trở nên ngắn ngủi. Câu hỏi liên tiếp đầy lo lắng, chờ đợi và lo sợ trong tâm hồn của nhà thơ. Hình ảnh 'Thuyền chở trăng', 'bến sông trăng' là biểu tượng của sự lảng tránh giữa hư không và hiện thực, niềm ao ước gặp gỡ duyên phận.
Những ước ao đơn giản của Hàn Mặc Tử lại liên quan đến những nỗi đau và dự cảm tan vỡ. Cảnh vẫn đẹp nhưng chứa đựng vẻ hiu quạnh, buồn bã, lạnh lẽo. Tác giả cảm nhận nỗi buồn của một người phải xa cách với cuộc sống ở tuổi 28 vì căn bệnh phong quái.
Nếu trong khổ thơ đầu tiên tác giả mô tả cảnh thiên nhiên tươi sáng, tràn đầy sức sống, thì trong khổ thơ thứ hai, cảnh vật đột ngột trở nên u ám, buồn bã. Trong nỗi buồn tha thiết đó, tác giả muốn nương tựa vào đẹp của tình người và cuộc sống, nhưng vẫn không thể tránh khỏi những tuyệt vọng, và cuối cùng nhà thơ chìm sâu vào mộng mị.
Ai đó từng nói “Thơ là tiếng lòng. Đọc thơ, ta nghe tiếng nói từ đáy lòng của thi sĩ. Thơ là cách thể hiện bản thân. Đến với bài thơ, ta cảm nhận được tình cảnh, số phận của nhà thơ”. Và “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử chính là một bài thơ như vậy. Đọc thơ của Hàn Mặc Tử, ta nhận ra một trong những điểm độc đáo tạo nên phong cách thơ của ông, đó là mạch thơ đan xen nhưng vẫn có sự thống nhất trong cảm xúc. Nếu khổ thơ đầu là sự hồi tưởng về vườn Vĩ Dạ đẹp đẽ lúc xuân tới thì khổ thơ thứ hai lại là hình ảnh xứ Huế đêm trăng lãng mạn cùng nỗi đau, nỗi buồn tuyệt vọng:
Gió dẫn mây, mây đi theo gió
Dòng nước u buồn, hoa bắp lay
Thuyền nào gắn bến dưới ánh trăng kia
Đưa trăng trở lại kịp trong đêm nay.
Chỉ với vài nét tinh tế, Hàn Mặc Tử đã khơi gợi một cách thần kỳ linh hồn của xứ Huế trong đêm trăng mộng mơ, huyền ảo. Bằng bút pháp mạch lạc, tác giả đã miêu tả chân thực vẻ đẹp êm đềm của mây trời Huế. Hai từ “buồn thiu” tạo ra hình ảnh sâu lắng, yên bình của dòng sông Hương. Trong cảnh trăng rọi sáng, dòng sông trở thành dòng sông trăng, những con thuyền nằm yên giữa dòng nước. Hàn Mặc Tử say mê trăng, yêu trăng. Bài thơ của ông luôn chứa đựng những dòng thơ về trăng. Trong “Đây thôn Vĩ Dạ”, ta cảm nhận được vẻ đẹp dịu dàng và huyền ảo nhất của thơ trăng của thi sĩ.
Gặp sự từ chối của cuộc sống, thơ thiên nhiên là nơi Hàn Mặc Tử chia sẻ tâm tư, thể hiện lòng mình. Bức tranh “Đây thôn Vĩ Dạ” không ngoại lệ. Ngay từ câu thơ đầu tiên của khổ thứ hai, chúng ta nhận ra sự chia lìa, bất đồng:
'Gió dẫn mây, mây đi theo gió”, mối liên kết giữa gió và mây vốn không thể tách rời, nhưng ở đây lại chia lìa, gió một nẻo, mây một nẻo. Làm sao? Có lẽ trái tim thi sĩ luôn phải chịu nặng nề sự chia lìa, khiến mọi thứ đều trở nên xa cách. Không chỉ gió mây chia lìa, dòng nước hãy hoạ, dòng nước buồn bã, hoa bắp lay. Dòng sông ôm nỗi buồn im lặng, rơi rụng. Dòng sông đã chứa đựng mối buồn, nỗi chia lìa của gió mây đã truyền vào lòng sông câm lặng? Hay nỗi buồn sâu thẳm trong tâm hồn của thi sĩ đã ảnh hưởng đến dòng sông? Khó có thể giải thích một cách rõ ràng. Chỉ cần đọc câu thơ, lòng ta tràn ngập nỗi buồn, nhớ nhung cay đắng và thấu hiểu. Phụ họa với dòng nước buồn bã là hoa bắp mạt mạt bay trong gió. Động từ “lay” tự nó đã không vui, không buồn nhưng trong câu thơ này, nó mang nhiều ý nghĩa âm thầm và khó quên. Có lẽ chữ “lay” kia đã kèm theo nỗi buồn trong câu ca dao:
Ai về Rồng Dứa, ao Chuông
Gió lay bông sậy bỏ buồn cho em
Trong thế giới nghệ thuật, hình ảnh hoa bắp lay đầy thương tâm. Tất cả dường như đang rời bỏ nơi này. Gió bay đi, mây bay đi, dòng nước cũng trôi đi, chỉ còn bông hoa bắp đơn côi, lạc lõng trên bờ sông hoang vắng. Hành động 'lay' như một sự níu giữ, một lưu luyến không hy vọng. Hình ảnh hoa bắp 'lay' giống như biểu tượng cho tình trạng lạc loài, lạc lõng, bị bỏ rơi của thi sĩ.
Đối mặt với sự ra đi, thi sĩ bỗng ao ước có một điều gì đó trở lại, gắn bó với mình. Với Hàn Mặc Tử, điều đó là trăng, và chỉ có vậy:
Thuyền nào đậu bến sông trăng kia
Có thể chở trăng về kịp tối nay
Tại sao Hàn Mặc Tử ao ước có trăng như vậy? Có thể bởi ông đã bị lãng quên trong cung điện của sự chia lìa, trong bóng tối, 'không trăng, không nhạc' nên thi sĩ ao ước có trăng như thế? Hơn nữa, với Hàn Mặc Tử, trăng là biểu tượng của sự sống, niềm hạnh phúc mà thi sĩ mong mỏi. Với những ý nghĩ như vậy, giờ đây, 'trăng là người bạn duy nhất', là tri ân, là cứu cánh với Hàn Mặc Tử. Câu thơ bày tỏ niềm khao khát, da diết, khắc khoải. Câu thơ mang vẻ khẩn nguyện tha thiết. Nhưng thật đau lòng, bi kịch thay cho thi sĩ, trong lời khẩn cầu da diết đó, ta thấy một nỗi lo âu, tuyệt vọng, đau đớn. Nỗi niềm ấy ghi sâu vào mấy chữ 'kịp tối nay'. Cơ hội để đón trăng, đắm mình trong trăng là ngắn ngủi mong manh.
Chỉ còn đêm nay thôi, sáng mai đã là dấu chấm hết. Cái lưỡi hái tử thần đã chạm tận cổ, chuông chứng minh linh hồn nào đã ra đi. Cơ hội mong manh, thời gian ngắn là thế mà bến sông trăng cứ ở xa xôi. Câu thơ không phải là lời cầu xin, mà là một câu hỏi đầy tuyệt vọng. Có lẽ khi thốt lên những lời khẩn cầu tha thiết, thi sĩ đã tìm được lời giải cho mình. Chẳng bao giờ con thuyền chở trăng về kịp tối nay cho thi sĩ. Thi sĩ sẽ mãi rời xa cuộc sống này trong đau đớn, tuyệt vọng. Đọc những dòng thơ này, ta cảm nhận sự đau buồn. Tiếc thương đổ dồn về đâu đây dự cảm xót xa:
Một sáng mai ở bên khe nước ngọc
Với những hạt sương anh nằm ngủ tựa như trăng
Không thấy nàng tiên mô đến khóc
Để âu yếm và lau chùi vết thương lòng.
Bằng bút pháp tinh tế, hình ảnh tinh xảo, “Đây thôn Vĩ Dạ” là một miền quê hương đất nước, Vĩ Dạ-xứ Huế mộng và thơ. Bài thơ cũng là tiếng lòng uẩn khúc của một trái tim yêu người, yêu đời, thiết tha, mãnh liệt trong vô vọng. “Đây thôn Vĩ Dạ” xứng đáng là kiệt tác thơ Hàn, một viên ngọc chói lọi nghìn năm.
'Thôn Vĩ Dạ ơi! Thôn Vĩ Dạ ơi
Biết che chắn cành trúc không gì buồn hơn khi say mê?'
Sắc đẹp của thôn Vĩ qua những câu thơ ấy của Bích Khê ấn tượng đến đáng nhớ. Vĩ Dạ đẹp, Vĩ Dạ buồn, Vĩ Dạ đắm say lòng người ngoạn cảnh đã cuốn hút biết bao người đắm chìm trong đó để rồi có một người cho ta một bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ đặc sắc – Hàn Mặc Tử.
Vĩ Dạ tươi đẹp với những khu vườn xanh mướt, mịn màng dưới ánh bình minh, với những con người hiền lành, hòa nhã thoáng qua những cành tre lá trúc thanh bình. Vĩ Dạ êm đềm thơ mộng với dòng sông hiền hòa:
'Gió theo lối gió, mây dọc theo đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bên bến sông trăng kia
Có chở trăng về kịp tối nay không?'
Cặp câu thơ đầu sử dụng phép tả có sức gợi sâu sắc hình ảnh mây gió vần vũ. Câu thơ cho chúng ta nhiều cách hiểu khác nhau. Có người cho rằng, thường thì gió và mây là những sự vật gắn kết với nhau, luôn đi đôi. Nhưng ở đây, trong Vĩ Dạ của xứ Huế, mọi thứ đều mang vẻ đẹp nhẹ nhàng và thơ mộng. Mây lững lờ bay trên cao, gió hiu quạnh thổi, gợi lên cái gì đó buồn bã, phù hợp với tâm trạng của tác giả.
Mọi sự xuất hiện của cảnh vật đều gợi cảm giác buồn. Cả dòng nước trôi cũng không nằm ngoài âm hưởng chung đó: 'Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay'. Dòng nước thấm đẫm cái buồn của cảnh vật là cái 'buồn thiu' của tâm trạng đang lan tỏa và bao trùm lên ngoại cảnh. Bên bờ sóng, những bông hoa kia cũng thấm nỗi buồn của cảnh vật nên cũng chỉ khẽ lay động. Chúng ta cũng đã từng thấy hình ảnh hoa bắp lay đó ở nhiều câu thơ nhưng dù ở đâu thì nó vẫn thật buồn.
'Lá ngô lay bên bờ sông
Bờ sông vẫn còn gió, người đã không thấy về'
Hoặc đó là nỗi buồn khi ngắm cảnh hoa lay lan toả trong lòng người đọc:
'Ai về Giồng Dứa qua đám đông
Gió lay bông sậy, gạt đi buồn phiền'
Dù là nỗi buồn của cảnh chia ly, nỗi buồn của nỗi mong chờ mỏi mòn nhưng cảnh bờ sông và những cây bắp, lau bên bờ sông đều mang lại cho người ta cảm giác buồn. Dòng sông và cây hoa bắp lay của Hàn Mặc Tử cũng vậy, đẹp một vẻ buồn nhẹ nhàng và thơ mộng. Thiên nhiên đẹp nhưng cũng thật lạnh lẽo, dường như nó phản ánh tâm trạng u buồn, cô đơn của nhà thơ trước sự xa cách, thờ ơ của cuộc sống.
Trong bối cảnh sông nước thơ mộng, thời gian biến đổi mạnh mẽ. Một cái kết thúc, cảnh vật đã chuyển sang một buổi đêm trăng huyền ảo:
'Thuyền ai đậu bến sông trăng đó?
Có chở trăng về kịp tối nay?'
Hai dòng thơ sau thể hiện tâm hồn của nhà thơ mang nỗi buồn và cô đơn nhưng vẫn đong đầy tình yêu với con người và thiên nhiên xứ Huế. Đây là cảnh thực nhưng lại như mơ với dòng sông biến thành dòng sáng, lấp lánh dưới ánh trăng vàng, hoặc là dòng ánh sáng lan tỏa khắp vũ trụ, làm cho không gian trở nên huyền ảo, lôi cuốn. Con thuyền, ban đầu đơn giản chỉ là một phần của dòng sông, giờ đã trở thành biểu tượng của ước mơ, đậu bên bến sông trăng để đưa trăng về một chốn trong mơ. Ai chủ nhân của thuyền? Người dân thôn Vĩ hay chính nhà thơ? Không rõ, chỉ biết rằng thuyền chở đầy trăng. Với sự liên tưởng và tưởng tượng phong phú, Hàn Mặc Tử đã vẽ lên vẻ đẹp của sông Hương dưới ánh trăng. Đến cuối bài thơ, thuyền, dòng sông, ánh trăng kết hợp với hồi ức, gợi lên tâm trạng của nhà thơ trong hiện tại, khi nhìn thấy thuyền đang chở trăng về, liệu có kịp đến đâu vào tối nay? Có lẽ 'tối nay' là một tối buồn và cô đơn, nhà thơ có những suy tư mà chỉ trăng mới hiểu được. Điều này cho thấy Hàn Mặc Tử yêu thích trăng, yêu xứ Huế, yêu cảnh vật và con người ở đây, nhưng có vẻ như không được đáp lại, nhà thơ tìm đến trăng như một người để tâm sự và giảm bớt cảm giác cô đơn, lạc lõng và những tâm trạng xấu xa.
Bài thơ 'Đây thôn Vĩ Dạ' là một tác phẩm nghệ thuật đầy suy tư. Với sự sáng tạo và khả năng quan sát tinh tế, Hàn Mặc Tử đã mô tả rõ hơn về thôn Vĩ trong khổ thơ thứ hai. Bằng sông Hương, dòng nước nhẹ nhàng trôi, mây trôi nổi, con thuyền, ánh trăng và đặc biệt là tấm lòng yêu thiên nhiên, khát khao, và khắc khoải trong ước mơ về cuộc sống và tình người, nhà thơ đã để lại cho người đọc những suy tư sâu sắc về một Vĩ Dạ mộng mơ ở xứ Huế, nơi mà một đôi mắt đau đáu hướng về.
Đây thôn Vĩ Dạ là Bài thơ được viết ra từ hai nguồn cảm hứng: thứ nhất là cảm hứng đẹp với một ngôi làng vùng quê ven bờ sông Hương, cây cối tốt tươi, thơ mộng. Cảm hứng thứ hai, theo nhà thơ Quách Tấn đó là mối tình đơn phương nhiều ước mơ với Hoàng Cúc.
Đây thôn Vĩ Dạ là một bài thơ rất nổi tiếng của Hàn Mặc Tử, in trong tập Thơ điên. Bài thơ không chỉ làm rạng danh cho một thi sĩ tài hoa, đa cảm nhưng cuộc đời gặp nhiều cảnh ngộ éo le, bất hạnh mà còn góp phần tô điểm cho một địa danh vốn đã nổi tiếng ở Huế:
Đây xứ mơ màng, đây xứ thơ
Bài thơ gồm ba khổ: Khổ một là vẻ đẹp mới mẻ, tinh khôi, chứa chan sức sống của khu vườn trong ánh nắng ban mai. Khổ hai: bầu trời, sông nước Vĩ Dạ trong tâm trạng buồn, chia li tuyệt vọng và đau đáu một nỗi khát khao gặp gỡ của Hàn Mặc Tử.
Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Tiếp theo khổ một đặc tả vẻ đẹp trong sáng, thơ mộng, tràn đầy sức sống của vườn thôn Vĩ Dạ vào một buổi sớm mai, khổ hai đã mở rộng ra khung cảnh bầu trời, sông nước Vĩ Dạ. Bài thơ dường như có sự vận động từ ngoại cảnh vào tâm cảnh. Vì thế, Bầu trời sông nước cũng nhuốm đầy tâm trạng thi nhân. Cảnh vật xuất hiện với bốn hình ảnh: “gió”, “mây”, “dòng nước”, “hoa bắp”. Hai hình ảnh “gió”, “mây” ở đây trở nên chia lìa, trái tự nhiên, không hoà nhập “gió một đường, mây một nẻo” này được thể hiện theo logic của tâm trạng buồn, cô đơn vì mối tình ở dạng “đơn phương”, “vô vọng” của nhà thơ với Hoàng Cúc. Chú ý phân tích các điệp từ, cách ngắt nhịp câu thơ đã làm nổi bật cảm xúc trên.
Câu thơ thứ hai với hai hình ảnh “dòng nước” và “hoa bắp” cũng đã tiếp tục tô đậm thêm tâm trạng thi nhân: buồn lặng lẽ, hiu hắt, có thể hiểu hai câu thơ ở khổ thơ này vừa tả cảnh, vừa tả tình trong cảnh và cả nhịp điệu của cảnh: Tình buồn chia li, sầu tủi, hiu hắt. Cảnh êm đềm phẳng lặng, nhịp điệu cảnh “trầm tư chẳng nơi nào có được” của Huế đẹp và thơ.
Cùng với cảm giác chìa lìa, mạch thơ đã chuyển hẳn một thế giới thôn Vĩ thực và tràn trề ánh nắng ở khổ 1 sang một thế giới mộng, tắm đẫm ánh trăng ở khổ 2:
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?
Trăng dưới ngòi bút tài hoa của Hàn Mặc Tử bỗng trở nên huyền ảo, tràn đầy vũ trụ, tạo nên một không khí nửa thực nửa hư, như trong cõi mộng. Trăng vốn là biểu tượng cho cái đẹp, cho hạnh phúc, niềm vui. Với Hàn Mặc Tử, trong bối cảnh lúc đó, trăng có ý nghĩa như “một bám víu duy nhất, như người bạn tri âm, tri kỉ”, giờ chỉ còn là nỗi ước ao, khát khao gặp gỡ và nỗi niềm lo âu về sự muộn màng, dang dở. Vì thế, câu thơ của Tử cất lên như một câu hỏi đau đáu, một nỗi niềm day dứt đầy phấp phỏng “Có chở trăng về kịp tối nay?”.
Hàn Mặc Tử được biết đến là ngôi sao băng ngắn ngủi trong phong trào thơ mới. Thơ Hàn Mặc Tử là tiếng nói của một hồn thơ yêu cảnh vật, yêu cuộc sống, yêu con người tha thiết, nồng nàn. Tác phẩm “Đây thôn Vĩ Dạ” là bài thơ phản ánh lại tình yêu, khát khao cuộc sống của tâm hồn đó. Khổ thơ thứ 2 của bài thơ mang đến một hồi ức và tâm trạng âu lo của thi sĩ.
Khổ hai: bầu trời, sông nước Vĩ Dạ thôn trong tâm trạng buồn bã, chia rời, tuyệt vọng và đau đáu một nỗi khát khao được trùng phùng của Hàn Mặc Tử. Câu thơ đầu với cách ngắt nhịp 4/3 tạo nên 2 vế đối lập nhau. Xuất hiện hai hình ảnh của thiên nhiên đó là gió và mây, theo một quy lực tự nhiên thì “Gió thổi mây bay” có nghĩa là gió và mây sẽ luôn luôn song hành, đi cùng với nhau. Thế nhưng trong câu thơ của Hàn Mạc Tử thì hình ảnh gió và mây dường như đối lập nhau. Sự đối lập trái ngược với quy luật của tự nhiên, của vũ trụ như ngầm dự báo về sự xa cách chia lìa sắp xảy ra. Thiên nhiên không hòa hợp vì chính con người cũng đang mang trong mình tâm trạng bất an, mặc cảm chia lìa cõi đời.
Tác giả sử dụng nghệ thuật nhân hóa gắn tâm trạng “buồn thiu” lên “dòng nước”. Dòng nước trở nên bất động, không muốn trôi chảy, mặc kệ sự đời như đang dần đánh mất sự sống. Hàn Mạc Tử mang trong mình nỗi buồn trĩu nặng. Hình ảnh hoa bắp kết hợp với động từ chỉ trạng thái “lay”, một sự chuyển động rất nhẹ, gợi lên không gian vắng lặng với sự hiu hắt, thiếu vắng, u buồn, cô đơn. Cảnh sắc được nội tâm hóa bộc lộ nỗi đau thân phận, sự chia lìa xa cách của nhân vật trữ tình.
Cảnh tuy đẹp nhưng lại đơn độc, rời rạc, hiu hắt mang trong mình tâm trạng cô đơn, u sầu của nhà thơ trước cuộc đời nghiệt ngã. Cảnh sắc sông Hương xứ Huế hiện lên thấm đẫm nỗi buồn, hoa bắp lay, gió mây đôi ngả hoang vắng rợn ngợp chứa đựng nỗi buồn của sự thê lương. Nỗi buồn nhà thơ hòa hợp với nhịp buồn xứ Huế cùng những khát khao khôn nguôi.
Trong tâm trạng thê lương buồn thảm ấy, chợt hiện lên những ước ao hy vọng là có một điều gì đó có thể trở về với mình để bám víu, để níu giữ. Dường như ước mơ của nhà thơ Hàn Mạc Tử thường gắn với ánh trăng, với chiếc thuyền thể hiện khao khát tri âm, trùng phùng.
Ở hai câu thơ tiếp theo tác giả đã miêu tả cảnh đêm trăng của thiên nhiên, cảnh sông Hương xứ Huế, một trong những địa danh tiêu biểu khi nhắc đến Huế. Hình ảnh thuyền chở trăng một hình ảnh vô cùng lãng mạn và đầy thi vị. Sông trăng: là dòng sông lấp lánh soi bóng ánh trăng vàng, chất chứa trong mình linh hồn của cảnh sắc thiên nhiên. Đại từ phiếm chỉ “ai” đặc tả cảm giác mơ hồ, xa lạ, đầy mơ ảo, không biết rằng đó là chiếc thuyền của ai của người dân xứ Huế hay của Hoàng Cúc. Hay chỉ đơn giản là nhà thơ nói một cách bâng quơ như thế. Chính sự bâng quơ ấy lại gợi lên được tâm trạng của nhà thơ mơ hồ, khó tả.
Thông qua vẻ đẹp huyền ảo của sông trăng, ánh trăng tác giả đã gợi tả lên được vẻ đẹp đặc trưng của xứ Huế, êm đềm và thơ mộng. Câu hỏi tu từ “kịp tối nay?” thể hiện sự thảng thốt, băn khoăn mang trong mình cái vẻ khắc khoải, khẩn thiết. Chữ “kịp” làm cho thời gian như bị rút ngắn lại, trở nên ngắn ngủi. Xuất hiện hàng loạt câu hỏi ẩn chứa sự day dứt, đợi chờ và lo lắng trong tâm hồn của nhà thơ. Hình ảnh “Thuyền chở trăng”, “bến sông trăng” là hình ảnh trôi giữa hư vô và thực tại, nỗi niềm mong ước được hội ngộ giao duyên.
Những ước muốn tưởng chừng đơn giản ấy của Hàn Mặc Tử lại gắn liền với những đau thương và dự cảm tan vỡ. Cảnh vẫn đẹp nhưng lại thấm đượm vẻ hiu hắt, buồn bã, lạnh lẽo. Tác giả đã cảm nhận được nỗi buồn của một con người phải xa cách với cuộc đời ở tuổi 28 chỉ vì căn bệnh phong quái ác.
Nếu khổ thơ thứ nhất cảnh sắc mà tác giả đưa đến cho người đọc là thiên nhiên tươi sáng, tràn đầy sức sống thì sang đến khổ thơ thứ hai cảnh vật đột ngột nhuốm màu sắc u buồn, trầm mặt. Trong nỗi buồn tha diết ấy thì tác giả như muốn nương tựa vào cái đẹp của tình người tình đời nhưng càng trông ngóng thì vẫn không tránh khỏi những tuyệt vọng để rồi nhà thơ chìm sâu vào mộng cảnh. Khổ thơ thứ hai này góp phần tạo sự gắn kết và giá trị sâu sắc cho cả bài thơ Đây Thôn Vĩ Dạ một lần nữa giúp khẳng định tài năng cũng như thể hiện những cảm xúc chân thật nhất của Hàn Mặc Tử- nhà thơ “điên”.
Hàn Mặc Tử (1912 – 1940) là một trong những biểu tượng hàng đầu của phong trào Thơ mới. Ông đã để lại cho văn hóa thơ Việt Nam nhiều tác phẩm xuất sắc như Đây thôn Vĩ Dạ, Mùa xuân chín, Nắng vàng, Trên cầu Tràng Tiền,… Đặc biệt, Đây thôn Vĩ Dạ được đánh giá cao nhất trong số những tác phẩm của Hàn Mặc Tử, là bức tranh tinh tế về bản sắc thơ của ông.
Đây thôn Vĩ Dạ là một tác phẩm thơ về tình yêu và khát vọng sống. Nếu ở đoạn mở đầu của bài thơ, chúng ta ngắm nhìn vẻ đẹp của tự nhiên và nét đẹp tinh thần của nhà thơ. Thì khi đến khổ thơ thứ hai, chúng ta cảm nhận được sự lưu luyến, cùng tâm trạng lo lắng của nhà thơ. Đây thực sự là một trong những khổ thơ thể hiện một cách chân thực nhất tâm lý và tình cảm của nhà thơ.
Khổ thơ thứ hai của Đây thôn Vĩ Dạ bao gồm 4 câu thơ thể hiện tâm trạng, tình cảm của nhà thơ - người lữ khách khi nhớ về quê hương. Ngay từ đầu khổ thứ 2, tác giả đã mở ra một bức tranh sông nước đêm trăng rõ nét:
Gió theo lối gió, mây theo đường mây
Dòng nước buồn bã, hoa bắp lay
Ở đây, chúng ta thấy được tài năng của Hàn Mặc Tử. Chỉ với vài nét chấm phá thôi nhưng có thể hiện lên hình ảnh xứ Huế mộng mơ giữa đêm trăng trong thơ mộng của ông. Đó là một xứ Huế yên bình, huyền ảo với mây trời êm đềm. Dòng sông Hương trong lời thơ của Hàn Mặc Tử hiện lên nhẹ nhàng nhưng cũng rất sâu lắng, thể hiện được bản sắc của xứ Huế mộng mơ. Đó là cảnh vật: gió nhè nhẹ lay đưa, mây nhẹ nhàng trôi,… Ở đây, mọi cảnh vật đều di chuyển nhẹ nhàng, êm đềm - đó là một đặc điểm đặc biệt của Huế. Giống như Hoàng Phủ Ngọc Tường đã nói: “dòng nước sông Hương gần như chỉ còn là một mặt hồ yên bình. Sông Hương chảy chậm, thật chậm, đó là điệu slow tình cảm mà dòng sông Hương dành cho xứ Huế”.
Nhưng cảnh vật trong mắt của nhà thơ cũng mang nét buồn, không có sự kết nối. Mây và gió thường là những thứ gắn liền với nhau, hòa quyện vào nhau. Nhưng ở đây “Gió theo lối gió, mây theo đường mây”, như không có chút vấn vương nào.. Cùng với dòng nước “buồn bã” càng làm nổi bật nỗi buồn sâu thẳm ấy. Và trong không gian ấy, hoa bắp chỉ nhẹ nhàng “lay”. Động từ “lay” trong tình huống này nghe sao u buồn, nó giống như một sự níu giữ buồn bã. Hình ảnh “hoa bắp lay” như hiện thân cho sự cô đơn, lạc lõng, bị cuộc đời lãng quên của nhà thơ. Dường như nỗi buồn lan tỏa khắp không gian, cảnh vật, khiến tâm trạng con người không thể vui lên được. Câu thơ nghe sao dài dằng dặc, làm cho nỗi buồn không thể xua đi.
Đêm trăng đã biến dòng sông Hương trở nên huyền ảo hơn bao giờ hết. Cùng với bầu trời trong lành, ánh trăng chiếu sáng mạnh mẽ tạo ra những dải ánh vàng trên mặt nước. Nó khiến cho dòng sông bỗng chốc trở thành “dòng sông trăng”. Ở đây, tác giả đã nhân hóa dòng sông. Dòng sông không chỉ đơn thuần là một cảnh vật tĩnh lặng nữa, qua lời thơ của Hàn Mặc Tử nó trở thành một sinh vật có tâm hồn mang nỗi niềm của con người. Dường như nó chính là biểu tượng cho người thi sĩ.
Cảnh vật trở nên u ám hơn khi các sự vật dường như xa lạ nhau. “Mây” và “gió” trở nên xa cách. Khung cảnh lúc này gió và mây dường như đã thuộc về hai thế giới khác nhau, không còn liên kết với nhau nữa. Câu thơ thể hiện hiện thực đắng cay và tâm trạng rối loạn của nhà thơ. Đó là tình trạng sống trong sự chia lìa với cuộc sống đầy biến động, khi gió và mây giống như hai đường thẳng song song, không hòa hợp gì. Lúc đó, chỉ một từ “láy” nhẹ nhàng của gió cũng đủ để thổi lên nỗi buồn muôn thuở của con người.
Tiếp sau đó, tâm trạng lo âu, bồn chồn của nhà thơ được thể hiện rõ ràng. Dường như nhà thơ đã đặt quá nhiều hy vọng, để rồi bây giờ nỗi thất vọng trỗi dậy ngay trên dòng sông Hương này. Đó không chỉ là nỗi thất vọng, mà còn là nỗi sợ hãi, lo lắng về sự chia lìa.
Thuyền nào neo bến sông trăng kia
Có đưa trăng về kịp tối nay không
Một cảnh vật lung linh, huyền ảo với ánh trăng ngập lối được mở ra. Hình ảnh này mang đến ý nghĩa vừa thực vừa mơ như tâm trạng của nhà thơ. Tác giả dùng “sông trăng” để miêu tả dòng sông ngập tràn ánh trăng, mang đến sự kỳ diệu. Chiếc thuyền neo trên dòng sông trăng giống như chính nhà thơ. Ánh trăng dường như đã lan tỏa khắp không gian và thời gian, tạo nên một cảm giác mơ màng.
Tác giả sử dụng “thuyền nào” vừa như câu hỏi, vừa như câu thán phục. “Thuyền nào” mơ hồ nhưng chúng ta biết đó là khát vọng của nhà thơ, mong mỏi về người xưa, nơi quê hương. Trong khi đó “thuyền nào” lại đem lại một hình ảnh cô đơn. Hình ảnh này mơ hồ, mong manh giống như ánh trăng lúc có lúc không. Điều này cũng thể hiện sự lo lắng, phấn khích của nhà thơ.
Có thể, Hàn Mặc Tử muốn sử dụng dòng sông trăng để mở ra một thế giới tâm sự sâu thẳm. Đó cũng là không gian để tác giả giải tỏa những nỗi đau, lo lắng. Trong câu thơ, chúng ta cảm nhận được niềm khao khát, lòng khắc khoải của Hàn Mặc Tử. Điều này được thể hiện qua từ “kịp” mà tác giả chọn. “Kịp” mang ý nghĩa không chắc chắn, khiến nhà thơ sống trong sự chờ đợi, mong muốn. “Kịp tối nay” như một lời cầu nguyện, vì chỉ còn ngày mai, mọi thứ sẽ kết thúc. Từ đó, chúng ta nhận ra cuộc sống của nhà thơ dần trở nên cạn kiệt. Sự chia ly có thể đến bất cứ lúc nào. Do đó, nếu thuyền không kịp chở “trăng” về tối nay, nhà thơ sẽ phải rời đi mãi mãi trong đau khổ, hối hận.
Với bút pháp tả cảnh tinh tế, Hàn Mặc Tử đã mang đến cho độc giả một Đây thôn Vĩ Dạ gần gũi, thân thuộc. Đó là quê hương, nơi gắn bó từ thuở thơ ấu. Bài thơ cũng là lời thổ lộ của một trái tim yêu người, yêu đời mãnh liệt. Tuy nhiên, niềm tin ấy lại sớm chìm vào vô vọng. Và khổ 2 trong Đây thôn Vĩ Dạ là minh chứng cho điều đó. Khổ thơ thứ hai là sự nhớ lại của tác giả về nơi mà ông đã gắn bó – dòng sông Hương và tâm trạng lo lắng, phấn khích khi mong chờ tâm hồn đồng điệu, tình cảm thấu hiểu. Đây có thể là khổ thơ thể hiện tâm trạng của tác giả khi chờ đợi tình yêu, sự chia sẻ.
Hàn Mạc Tử là một nhà thơ tài hoa nhưng không được may mắn trong cuộc sống. Khi ra đi ông để lại một kho tàn văn thơ vô cùng to lớn. Đây thôn Vĩ Dạ là một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất của ông viết về cảnh thôn Vĩ, nơi có người ông thương. Trong đó, khổ 2 của bài thơ Đây thôn vĩ Dạ đã cho ta thấy được cảnh đẹp mơ mộng, huyền ảo của thôn Vĩ, đồng thời thể hiện tâm trạng buồn bã, lo âu của nhà thơ.
Ở khổ thơ đầu, người đọc đã cảm nhận được vẻ đẹp của thiên nhiên, cuộc sống và vẻ đẹp tâm hồn người thi sĩ, tuy phải sống cuộc đời đầy bi kịch nhưng vẫn khát khao được sống và yêu đời tha thiết. Khổ thơ thứ hai được mở ra, khiến người đọc cảm nhận được hoài niệm về cảnh sông nước đêm trăng, hòa theo đó là tâm trạng lo âu, phấp phỏng của thi sĩ.
“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay”
Dòng sông có nhiều cách hiểu, nhưng dù hiểu theo cách nào thì vẫn gợi ý thức về sông Hương - linh hồn của Huế. Cảnh vật được miêu tả rất nhẹ nhàng, êm ả, gợi đặc điểm riêng của Huế: gió khẽ lay, mây khẽ bay, hoa bắp khẽ đung đưa, chuyển động rất nhẹ nhàng, êm ả, gợi không gian rất thanh bình, rất Huế. Cảnh vật đượm buồn: buồn thiu, buồn sâu lắng, buồn nhuốm vào không gian, cảnh vật, thường là nỗi buồn từ thế giới bên ngoài tác động. Câu thơ như dài ra, căng ra, khiến nỗi buồn như dằng dặc.
Tác giả đã sử dụng biện pháp nghệ thuật “nhân hóa”, dòng sông đã trở thành một sinh thể, có tâm trạng, có hồn, mang nỗi niềm của con người. Cảnh vật như nhuốm màu chia ly “Gió theo lối gió mây đường mây”. Câu thơ tách nhịp 4/3 chia làm hai nửa: một gió một mây. Từ “gió” được điệp lại ở vế một, đóng khung một thế giới đầy gió, chỉ có gió, chỉ riêng gió. Từ “mây” điệp ở vế hai, tạo nên một thế giới mây khép kín chỉ có mây. Vậy là hai sự vật vốn dĩ chỉ đi liền với nhau thì nay tác biệt và chia lìa.
Gió đóng khung trong gió, mây khép kín trong mây. Câu thơ mang đến một hiện thực phi lý về hiện thực khách quan, nhưng rất có lý về hiện thực tâm trạng. Thi sĩ đang sống trong cảnh chia ly, cách biệt, sống trong cảnh đời đầy nghịch lý cho nên gió cứ gió, mây cứ mây. Từ “lay” mang một nỗi buồn trong ca dao, chỉ hoạt động rất nhẹ của sự vật hiện tượng khi có gió nhẹ. Nó mang nỗi buồn truyền thống của ca dao, thổi vào nỗi buồn muôn thuở của con người.
Hai câu thơ sau, ta nhận ra được tâm trạng lo âu, phấp phỏng của thi sĩ:
“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay”
Cảnh vật được gợi ra một cách lung linh, huyền ảo, tràn ngập ánh trăng, mang ý nghĩa vừa thực vừa ảo. “Sông trăng” có thể hiểu là dòng sông tràn ngập ánh trăng, cũng có thể là trăng tuôn chảy thành dòng. “Thuyền trăng” là con thuyền chở đầy trăng, cũng có thể hiểu là trăng giống như hình ảnh một con thuyền. Dù hiểu theo cách nào thì trăng đã tràn ngập cả không gian, vừa thực vừa ảo, tạo nên một cảm giác mơ hồ. Trong thơ của Hàn Mặc Tử có cả một miền trăng, để có một thế giới tri âm, chất chứa tâm sự, giải tỏa những niềm đau, trăng đối với Hàn Mặc Tử là một người bạn tri âm.
“Thuyền ai” lại gợi ra một danh từ phiếm chỉ. Hai câu thơ chứa đựng cả những hình ảnh mâu thuẫn. Câu dưới không có trăng, ý thơ phi lý về hiện thực nhưng chúng ta có thể lý giải được khi dựa vào tâm trạng của chủ thể trữ tình. Trăng lúc có lúc không, mong manh và mờ ảo, người tri kỷ cũng mờ ảo và mong manh nên lo âu, phấp phỏng là thế. Chờ trăng là chờ sự tri âm, chờ sự đồng điệu, chờ sự sẻ chia và chờ được khát khao, giao cảm với đời, là một con người bình thường mong muốn sự giao cảm.
Từ “kịp” thể hiện một tâm trạng lo âu của nhà thơ, tâm trạng đợi chờ, khao khát. Qua đó thể hiện được quỹ thời gian sống đang bị vơi cạn đi từng ngày, cuộc chia lìa vĩnh viễn có thể đến bất cứ lúc nào. Với một người bình thường nếu không trở về tối nay thì còn nhiều những đêm khác, nhưng với Hàn Mặc Tử nếu thuyền không trở về tối nay, không có sự tri âm thì thi sĩ sẽ ra đi vĩnh viễn trong đau buồn.
Những cảm nhận khổ 2 bài Đây thôn Vĩ Dạ cho ta thấy được hoài niệm của tác giả về cảnh sông nước đêm trăng, đồng thời cũng hiểu được tâm trạng lo âu, phấp phỏng của nhà thơ. Tác giả cũng đang chờ đợi sự tri âm, sự chia sẻ để dịu bớt nỗi đau trên hành trình trở về thế giới bên kia. Đó hay chăng chính là sự xót xa trong bi kịch cuộc đời của một thi sĩ tài hoa nhưng bạc mệnh.
Hàn Mặc Tử được biết đến là một trong những nhà thơ có sức sáng tạo mạnh mẽ nhất trong phong trào thơ mới. Tuy nhiên, thơ của ông lại mang một vẻ mơ hồ, bí ẩn, đến mức Hoài Thanh còn phải ca ngợi thơ ông như một nguồn cảm hứng dồi dào và lạ lùng.
Không chỉ vậy, Hoài Thanh đã dành một tháng để nghiên cứu toàn bộ tác phẩm của Hàn Mặc Tử và khen ngợi Vườn thơ Hàn Mặc Tử vô cùng phong phú và sâu sắc. Có lẽ do cuộc đời ông gặp nhiều bi thương và số phận đau buồn mà thơ của ông luôn thể hiện một tình yêu đắng cay dành cho cuộc sống.
Bắt đầu khổ thơ thứ hai của bài 'Đây thôn Vĩ Dạ', Hàn Mặc Tử đã mô tả ngay hình ảnh thiên nhiên sống động:
Gió theo lối gió, mây đường mây
Hình ảnh gió và mây luôn liên kết như một cặp đôi tri kỷ, không thể tách rời - gió thổi mây bay. Tuy nhiên, với sự sáng tạo của mình, Hàn Mặc Tử đã tạo ra một nghịch lý chưa từng thấy. Ông vẽ ra một bức tranh thiên nhiên rộng lớn: có gió - nhưng gió theo lối gió; cũng có mây, nhưng mây đường mây.
Mây và gió đi đường, rẽ ngả. Đồng thời, Hàn Mặc Tử còn sử dụng nhịp thơ 4/3 một cách tinh tế - cách này giúp câu văn của ông phân chia thành 2 phần đối lập, một bên là gió, một bên là mây, tạo ra sự chia lìa, cách xa. Từ đó, hai người bạn tri kỷ đó, dường như không thể tách rời, lại quay lưng, rẽ đường, chia ly.
Thực tế, có thể Chế Lan Viên đã đúng khi nói: 'Tôi xin hứa hẹn với các người rằng, mai sau, những cái tầm thường mực thước kia sẽ tan biến đi, và còn lại của cái thời này chút gì đáng kể, đó là Hàn Mặc Tử.' Chỉ có ông mới có khả năng biến những điều dường như không hợp lý trong hiện thực trở nên hợp lí trong thơ văn.
Tuy nhiên, mọi thứ mà Hàn Mặc Tử nhân hóa chỉ để diễn tả cảnh gió, cảnh mây. Nguyễn Du đã viết trong tác phẩm nổi tiếng Truyện Kiều rằng: 'Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ.' Hàn Mặc Tử buồn vì biết mình mắc phải căn bệnh hiểm nghèo, quái ác; buồn vì vẫn còn luyến lưu những cảnh vật thơ mộng và buồn vì mối tình đơn phương với người con gái xứ Huế chỉ còn lại trong giấc mơ! Nhưng trên tất cả, có lẽ ông sợ nhiều hơn là buồn. Ông sợ một ngày nào đó mình chẳng còn tồn tại trên cõi đời này nữa.
Có phải vì buồn, vì sợ mà cảnh Huế vốn dĩ rất thơ mộng, trữ tình đã dần nhuốm một màu bi ai sâu vào lòng:
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Suốt từ ngày xưa đến nay, sông Hương được biết đến như một biểu tượng của vẻ đẹp tinh khôi, dịu dàng và được xem là một trong những biểu tượng lớn của xứ Huế. Vì thế, không có gì lạ khi Sông Hương luôn là đề tài chính trong các tác phẩm thơ ca của nước ta. Sông Hương không chỉ được nhắc đến với tình yêu nồng nhiệt, chân thành mà còn cháy bỏng trong thơ của Nguyễn Trọng Tạo:
Sông Hương biến thành rượu ta uống
Ta tỉnh, đền đài nghiêng ngả say…
Tuy nhiên, dưới bàn tay tài ba của Hàn Mặc Tử, sông Hương lại hiện lên với một vẻ buồn bã, huyền bí. Nỗi buồn này nhẹ nhàng nhưng kéo dài, nó thấm vào tâm hồn của nhà thơ và lan tỏa đến cả những vật vô tri vô giác: dòng nước, hoa bắp. Cuối cùng, dòng nước trôi lơ lửng; hoa bắp lay động, rung rinh thong thả theo nhịp của gió. Như là nỗi buồn của nhà thơ hòa quyện vào nỗi buồn của thiên nhiên, làm cho nỗi buồn trở nên sâu hơn, cô đơn trở nên hiu quạnh.
Buồn và cô đơn! Nhưng khi trăng lên, không chỉ cảnh vật, mà cả tâm trạng con người cũng thay đổi: Thuyền ai đậu bên bờ sông trăng ấy. Câu thơ này mang theo một khung cảnh đầy ánh trăng – người bạn tâm tình của nhà thơ. Dễ dàng nhận thấy trăng hiện diện khắp mọi nơi: trăng đậu trên con thuyền yên bình bên bờ; trăng chiếu rọi, phủ vàng cả một bến sông rộng lớn; trăng tan chảy, hòa quyện vào dòng sông Hương lặng lẽ trôi.
Chỉ có người có tâm hồn yêu trăng, mê trăng đến điên dại mới có thể tưởng tượng ra hình ảnh bến sông trăng độc đáo như vậy! Trước đây, trong thơ Trương Kế thời Đường chỉ có thuyền bên bến Cô Tô; trong Xuân giang hoa nguyệt dạ của Trương Nhược Hư, 1300 năm về trước chỉ có Sông xuân mới tỏa sáng dưới ánh trăng. Có thể nói rằng hình ảnh sông trăng của Hàn Mặc Tử là vô cùng độc đáo và tinh tế.
Với sự tinh tế và sáng tạo đó, con thuyền trong thực tế đã chuyển dần vào thế giới mơ ước dưới sự phủ bóng của ánh trăng huyền bí. Liệu Hàn Mặc Tử đã sử dụng sự mơ hồ, huyền ảo của ánh trăng để che lấp nỗi đau và nỗi buồn hiện tại? Vì ông luôn xem thơ như là tiếng kêu rên thảm thiết của một linh hồn nhớ nhung mong muốn trở lại quá khứ. Không chỉ vậy, từ trước đến nay, trăng luôn xuất hiện trong những bài thơ của ông một cách kỳ lạ hơn nhiều lần:
…
Dòng nước biến thành trăng, trăng nhẹ nhàng tỏa sáng
Ánh trăng phủ lụa, thơm mát hương thơm
…
Say! Say lảo đảo cả bầu trời thơ mộng
Gió hát trong không trung, trăng nghiêng nghiêng
Tiêu tan thành vũng vàng khô
Tôi nằm trong vũng trăng.
(Say trăng- Hàn Mặc Tử)
Nhưng giờ đây, hình ảnh vầng trăng trong Đây thôn Vĩ Dạ lại đậm chất trữ tình hơn, sâu lắng hơn: Có mang trăng về kịp tối nay? Câu hỏi nhỏ nhẹ chứa đựng nỗi lo âu, bất an của nhà thơ. Nhưng vì điều gì mà nhà thơ phải chờ trăng về chính xác trong đêm nay, chứ không phải là tối mai hay bất kỳ đêm nào khác? Hơn bất kỳ ai khác, có lẽ ông hiểu rõ căn bệnh mình mắc phải và khoảng thời gian ngắn mà mình còn có thể tồn tại trên cõi đời này.
Chính vì thế, trong lòng nhà thơ sống lên một khát khao, một ước ao nhỏ nhoi – được gặp trăng, được nhìn thấy người bạn tri kỷ của mình trong đêm nay để chia sẻ nỗi buồn, nỗi cô đơn, nỗi tuyệt vọng cùng với vầng trăng ấy!
Vầng trăng hiện hình như một điểm sáng mong manh, là niềm hy vọng cuối cùng trong bóng tối, khiến Hàn Mặc Tử lo lắng liệu chiếc thuyền kia có kịp mang trăng về.
Bằng bốn câu thơ ngắn gọn nhưng sâu lắng, tác giả đã tái hiện hình ảnh sống động, gợi lên nhiều cảm xúc và tưởng tượng, với những biện pháp nghệ thuật tinh tế và tuyệt vời.
Đoạn thơ không chỉ làm cho độc giả hiểu sâu thêm về tâm trạng của nhà thơ trước ngưỡng cửa sự ra đi, mà còn là minh chứng cho tình yêu cuộc sống và quê hương của một tâm hồn nghệ sĩ.
Hàn Mặc Tử, một trong những nhà thơ sáng tạo mạnh mẽ nhất trong phong trào Thơ Mới, thơ của ông luôn mang nét buồn, nổi tiếng với bài thơ 'Đây Thôn Vĩ Dạ' trong tập thơ 'Đau Thương'. Bức tranh phong cảnh thôn Vĩ trong bài thơ cũng là bức tranh tâm trạng, cảm xúc của nhân vật, đặc biệt là trong khổ thơ thứ hai, vẻ đẹp của thiên nhiên và tâm hồn con người kết hợp vào nhau.
'Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay ?'
Ở khổ thơ này, Hàn Mặc Tử tập trung vào dòng sông Hương, một biểu tượng của thôn Vĩ Dạ, hiện lên với vẻ êm đềm, thơ mộng, tâm trạng của nhân vật hay chính là tác giả. Hai câu thơ đầu miêu tả vẻ đẹp của xứ Huế:
'Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay'
Cảnh vật diễn ra chậm rãi: gió nhẹ nhàng, mây trôi êm đềm, hoa bắp lay động nhẹ nhàng. Nhà thơ nhân hóa gió, mây, nước, chúng như mang tâm trạng và sự liên kết với nhau, tạo ra sự sống động nhưng cũng đầy buồn bã. Nhưng ở đây mây và gió lại xa cách, tạo nên sự xa lạ. Dòng sông buồn thiu, cây cỏ lay động nhẹ nhàng, cảnh vật trở nên hiu quạnh, buồn bã. Hai câu thơ sau khắc họa tâm trạng của nhân vật, hay chính là nhà thơ:
'Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?'
Dù mang tâm trạng u buồn, cô đơn, nhưng trong lòng tác giả vẫn chứa đựng tình yêu sâu đậm đối với thiên nhiên và con người xứ Huế. Dưới góc nhìn của nhà thơ, dòng sông không chỉ là một dòng nước bình thường, mà còn trở thành một dòng 'sông trăng', nơi mà ánh trăng vàng lan tỏa, tạo nên cảnh vật huyền bí, thơ mộng. Con thuyền thực sự trên dòng sông được biến hóa thành một con thuyền đậu trên bến sông trăng, thuyền mang trăng về một bến trong giấc mơ của nhà thơ. Câu hỏi nhẹ nhàng 'Có chở trăng về kịp tối nay?' thể hiện sự mong chờ, chờ đợi của tác giả, mong muốn gặp lại trăng trong tối nay, một tối buồn, cô đơn. Nhà thơ hi vọng được chia sẻ tâm tư cùng trăng, và chỉ có trăng mới hiểu được lòng người. Mong chờ trăng cũng thể hiện tình yêu của Hàn Mặc Tử đối với trăng, đối với cảnh vật và con người Huế, một tình yêu không được đáp lại, nhưng vẫn mãnh liệt và kiên nhẫn.
Qua khổ thơ thứ hai của 'Đây Thôn Vĩ Dạ', chúng ta cảm nhận được tâm trạng, suy tư của nhà thơ qua hình ảnh thiên nhiên xứ Huế. Mặc dù những cảm xúc đó chỉ là của riêng tác giả, nhưng lại có sức ảnh hưởng sâu rộng và lâu dài trong lòng người đọc. Chỉ với bốn câu thơ ngắn, tác giả đã truyền đạt được tất cả, từ thiên nhiên xứ Huế đến tình yêu của ông dành cho đất nước và Vĩ Dạ cụ thể.
Hàn Mặc Tử là một trong những nhà thơ có sức sáng tạo mạnh mẽ nhất trong phong trào Thơ mới. Tuy cuộc đời nhiều bi thương nhưng ông đã để lại nhiều tác phẩm có giá trị. Đây thôn Vĩ Dạ sáng tác năm 1938 được in trong tập thơ Điên và là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất của ông. Bài thơ được gợi cảm hứng từ mối tình của cô gái Hoàng Thị Kim Cúc vốn quê ở Vĩ Dạ, một thôn nhỏ bên bờ sông Hương xứ Huế thơ mộng trữ tình. Khổ thơ thứ hai trong bài đã thể hiện nỗi niềm khắc khoải, lo âu của nhà thơ qua việc miêu tả vẻ đẹp cảnh trời mây sông nước xứ Huế nên thơ.
Nếu ở khổ thơ thứ nhất nhà thơ tập trung miêu tả cảnh vườn tược và con người thôn Vĩ trong nắng sớm ban mai ngập tràn sức sống thì với khổ thơ thứ hai nhà thơ lại chú ý đến thôn Vĩ bên dòng sông Hương mênh mang buồn. Sông Hương vốn là một vẻ đẹp của Huế, không chỉ đẹp trong đời thực mà còn rất nổi tiếng trong thơ văn khi viết về cố đô. Giờ đây sông Hương cũng đi vào thơ Hàn Mặc Tử lại mang những đường nét tâm hồn rất riêng của nhà thơ
"Gió theo lối gió mây đường mây"
Nếu ở khổ thơ thứ nhất hình ảnh vườn Vĩ Dạ trong nắng sớm ban mai tươi đẹp tràn đầy sức sống thì ở khổ thơ này cảnh bỗng biến thành buổi chiều tối và nhuốm màu chia li cách biệt. Cảnh trời mây sông nước xứ Huế hiện lên trữ tình thơ mộng trong sự hài hòa, cân đối giữa "gió" và "mây", giữa "dòng nước" và "hoa bắp" thế nhưng ta vẫn cảm nhận được một nỗi buồn phảng phất sâu lắng bởi hình ảnh gió, mây trôi lang thang, chia lìa đôi ngả.
Thông thưởng gió và mây không thể tách rời: "Gió cuốn mây trôi, gió thổi mây bay" gió mây cùng chiều. Nhưng ở đây gió theo lối gió, mây đường mây, gió thổi một đằng, mây bay một nẻo, gió mây trái chiều, lạc điệu với nhau. Dấu phẩy đặt giữa dòng cùng nhịp thơ 4/3 như một sự chia cắt phũ phàng khiến gió mây càng chia cắt nhau mãnh liệt. Chỉ trong một câu thơ mà hình ảnh gió mây trở đi trở lại nhưng nó không tạo nên vẻ quấn quýt, gắn bó mà người lại càng tô đậm hơn sự chia lìa phân tán. Như vậy, ở câu thơ này ta thấy có sự phi lý về hiện tượng khách quan nhưng lại hợp lý về logic nghệ thuật. Bởi trong cảnh ngộ bất hạnh, bi thương, thi sĩ đã thấy sự chia li can thiệp vào những thứ vốn không thể tách rời, và hình ảnh ở đây được thi nhân cảm nhận qua tâm trạng buồn thương cách biệt của mình.
Ở câu thơ thứ hai cảnh cũng đượm buồn vì được cảm nhận qua tâm trạng buồn của thi nhân:
"Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay"
Tác giả đã khéo léo sử dụng biện pháp nhân hóa để biến dòng sông cũng trở nên có hồn, cũng chất chứa tâm trạng, nỗi niềm "buồn hiu" - một nỗi buồn nhẹ nhàng nhưng sâu lắng và chứa cả sự chán chường. Hình ảnh hoa bắp với động thái "lay" nhẹ nhàng gợi lên sự sống yếu ớt nhỏ nhoi, câu thơ không tả gió nhưng ta vẫn thấy gió lặng lờ dòng nước và phất phơ, vật vờ những bông hoa bắp với gam màu u trầm, tím nhạt hoặc vàng nhạt.
Và nếu khổ thơ thứ nhất cảnh tràn đầy sức sống, con người và thiên nhiên hài hòa trong nhau thì sang khổ thơ thứ hai cảnh đã đem lại cho ta ấn tượng về sự rời rạc, phân rã buồn và cô đơn, phải chăng chính niềm cô đơn trong tâm hồn đã thấm vào cảnh vật. Trong sa mạc cô đơn của nỗi buồn xa cách, thi sĩ đã thiết tha, khao khát mong đợi một vầng trăng, chính vì thế cảnh thiên nhiên, mây trời sông nước càng trở nên thơ mộng, huyền ảo qua những câu thơ đầy trăng.
" Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay"
Cả không gian ngập tràn ánh trăng, một dòng sông trăng, một bến đò trăng và một con thuyền chở đầy ánh trăng, ta đã bắt gặp hình ảnh thuyền trăng trong cách sáng tác của nhiều thi nhân. Với bài thơ "Rằm tháng giêng" Bác Hồ đã từng nói: "Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền" nhưng có vẽ hình ảnh "bến sông trăng" là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo, mới lạ, rất riêng của Hàn Mặc Tử. Nhà thơ đang tự hỏi thuyền chở trăng đậu ở bến sông trăng có chở trăng về kịp tối nay? "Về" là về đây, về nơi cõi lòng u tối mà thi nhân đang mong ngóng, đợi chờ.
Trong cảnh ngộ bệnh tật dày vò, phải sống cách biệt với thế giới bên ngoài thì cái giường bé nhỏ của nhà thơ là cả một sa mạc cô đơn, thế nên nhà thơ càng khao khát đợi một vầng trăng, dẫu là trong hoài niệm. Như vậy, vầng trăng trong thơ Hàn Mặc Tử không những là hình ảnh đẹp của thiên nhiên là tri âm tri kỷ mà còn là bến bờ hạnh phúc mà thi nhân khao khát mong chờ.
Tiếc thay niềm khao khát tha thiết mãnh liệt ấy lại trở nên mơ hồ, mong manh, thậm chí là xa vời bởi thi sĩ đã đặt vào câu hỏi tu từ một đại từ phiếm chỉ "ai" trong "thuyền ai" để chỉ một con thuyền cố định. Không những thế, giọng thơ khắc khoải cùng với cách nói "kịp tối nay" gợi ý niệm về thời gian vô cùng gấp gáp khiến thi nhân phấp phỏm lo âu: Liệu mình có đủ thời gian đợi chờ? Bởi vì, đối với người bình thường, thuyền không chở trăng về kịp tối nay, còn có tối mai, tối khác, không kịp ngày này còn có ngày nọ, tháng kia, còn đối với Hàn Mặc Tử thì không được như thế nữa rồi. Nếu "thuyền" không "chở trăng về kịp tối nay" thì biết đâu thi sĩ sẽ ra đi vĩnh viễn trong nuối tiếc đau buồn. Tác giả đã chạy đua vội vàng với thời gian bởi quỹ thời gian sống còn ngắn ngủi đang vơi đi từng khắc từng ngày. Câu thơ nói cảnh mà thấm đẫm cảm giác mong manh, chứa đầy linh cảm về sự mất mát, lỡ làng.
Có đặt trong hoàn cảnh riêng của Hàn Mặc Tử ta mới hiểu hết được nỗi đau của thân phận và duyên phận của chàng thi sĩ trẻ tài hoa bạc mệnh. Dẫu có bị cuộc đời từ bỏ một cách phũ phàng, dẫu có ở trong thế giới tối tắm đau khổ bất hạnh thì nhà thơ vẫn thiết tha níu kéo cuộc đời, vẫn luôn hướng đến ánh sáng, hướng đến cõi nhân gian cao sang diễm lệ.
Qua phân tích khổ 2 của bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ, một hòn đá nặng nề dường như đè nặng lên trái tim người đọc. Ta như cảm nhận được sự hoài niệm cuộc sống đời thường cùng tâm trạng buồn đau, lo âu thấp thỏm của thi sĩ. Trong cảnh cô đơn ấy, con người này vẫn ấp ủ khát khao được giao cảm với đời cùng tình yêu cuộc sống tươi đẹp mãnh liệt. Tuy nhiên, đáp trả thi nhân chỉ là sự cô đơn, xót xa. Đó là bi kịch cuộc đời của một người nghệ sĩ tài hoa nhưng lại bạc mệnh.
Hàn Mặc Tử, một trong những nhà thơ có sức sáng tạo mạnh mẽ nhất trong phong trào Thơ mới, thơ của ông luôn phảng phất nỗi buồn. Nổi tiếng trong số các sáng tác của Hàn Mặc Tử là bài thơ "Đây thôn Vĩ Dạ" được in trong tập thơ "Đau thương". Bài thơ là một bức tranh phong cảnh thôn Vĩ nhưng cũng là bức tranh tâm cảnh chứa đựng nhiều tâm trạng, cảm xúc và tâm sự của nhân vật trữ tình, đặc biệt trong khổ thơ thứ hai, vẻ đẹp thiên nhiên và tâm hồn con người đã được đan xen hòa quyện vào nhau.
"Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?"
Có thể nói ở khổ thơ này Hàn Mặc Tử đã hướng tâm trí của mình về dòng sông Hương, một hình ảnh đã gắn liền với thôn Vĩ Dạ, sông Hương hiện lên với vẻ êm đềm, trầm mặc, thơ mộng trữ tình, nhân vật trữ tình hay chính là tác giả nhìn con sông mà trong lòng chứa đựng nhiều suy tư, cảm xúc. Hai câu thơ đầu tác giả dùng bút pháp tả thực vẻ đẹp êm đềm, khoan thai của xứ Huế:
"Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay"
Mọi cảnh vật dường như chậm rãi: gió khẽ thổi, mây nước lững lờ trôi, hoa bắp khẽ đung đưa lay động, nhà thơ đã dùng biện pháp nhân hóa với cả gió, mây và nước, chúng như mang tâm trạng và cũng có sự liên kết, gắn kết với nhau: có gió mây mới bay, có gió thì dòng sông mới có sóng nước, chúng thường đi với nhau khiến cho cảnh vật trở nên sống động hơn, thế nhưng ở đây mây và gió lại xa rời nhau, gió và mây mỗi bên một đường một ngả tạo nên sự xa cách chia ly. Ít mây ít gió mà mây gió lại không có cùng nhau nên dòng sông cũng đành "buồn thiu", cây cỏ cũng chỉ lay động rất nhẹ, cảnh vật trở nên thiếu sự sống, đây là một hình ảnh đẹp nhưng lại rất hiu quạnh, lặng lẽ và đượm buồn. Hai câu thơ sau khắc họa rõ tâm trạng của nhân vật trữ tình hay chính là nhà thơ:
"Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?"
Tuy mang tâm trạng u buồn, cô đơn nhưng trong tâm hồn của tác giả vẫn chan chứa tình yêu thiên nhiên và con người xứ Huế, dưới cái nhìn của tâm hồn nhà thơ, dòng sông đã không còn là một dòng sông bình thường có nước chảy mà đã trở thành một dòng "sông trăng", dòng sông chứa đầy ánh sáng trăng vàng, hình ảnh đó khiến cho cảnh vật càng thêm huyền ảo, thơ mộng. Con thuyền có thực trên dòng sông cũng được chuyển đổi thành một con thuyền đậu trên bến sông trăng, thuyền chở trăng về một bến nào đó trong mộng tưởng của nhà thơ.
Câu hỏi tu từ "Có chở trăng về kịp tối nay?" cho thấy tác giả nôn nóng, chờ đợi, mong muốn con thuyền chở trăng về trong tối nay chứ không phải là một tối nào khác, phải chăng cái "tối nay" đó là một tối thật buồn, thật cô đơn, nhà thơ muốn được tâm sự với trăng, và cũng chỉ có trăng mới hiểu được nỗi lòng nhà thơ. Mong chờ trăng cũng cho thấy Hàn Mặc Tử rất yêu trăng, ông cũng yêu cảnh vật và con người Huế nhưng hai thứ đó không thấu hiểu và không đáp lại được tình yêu của nhà thơ. Nhà thơ mong muốn gặp được trăng cũng giống như khao khát gặp được một tình yêu tha thiết, kín đáo, nhưng đó là sự chờ đợi khắc khoải, khôn nguôi.
Qua khổ thơ thứ hai bài thơ "Đây thôn Vĩ Dạ" của Hàn Mặc Tử chúng ta cảm nhận được những tâm tư của nhà thơ nhờ bức tranh thiên nhiên xứ Huế, tuy những tâm trạng đó chỉ là của riêng tác giả nhưng lại có sức ảnh hưởng, có sự cộng hưởng rộng rãi và bền lâu trong lòng người đọc. Chỉ một đoạn thơ bốn câu ngắn ngủi nhưng vẫn chứa đựng tất cả, thiên nhiên xứ Huế, tình yêu của tác giả với xứ Huế nói chung và Vĩ Dạ nói riêng.
Khi nhận định về các nhà thơ nổi bật của phong trào thơ Mới nhà phê bình văn học Đỗ Lai Thúy đã viết rằng “Nếu Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Nguyễn Bính là dòng lãng mạn thuần khiết, nếu Xuân Diệu và nhất là Huy Cận, là dòng lãng mạn được cườm vào những yếu tố tượng trưng… thì Hàn Mặc Tử là hài hòa của lãng mạn, tưởng tượng, thậm chí siêu thực nữa”. Thật vậy, cuộc đời Hàn Mặc Tử tuy ngắn ngủi và phải chịu nhiều đau thương, tuyệt vọng, thế nhưng khi nhìn vào thơ ông, người ta vẫn thấy trong đó chan chứa những xúc cảm về tình yêu và sự sống mãnh liệt, mãnh liệt đến độ quằn quại và đau đớn. Thêm vào đó cái khác biệt trong thơ Hàn Mặc Tử còn là vẻ lãng mạn pha lẫn lối thơ Đường luật cũ, cùng với nét phá cách đầy sáng tạo trong tuy duy nghệ thuật, mang đến cho độc giả những vần thơ độc đáo, ấn tượng. Đọc thơ Hàn Mặc Tử người ta thấy những vẻ đẹp thực lãng mạn, trong trẻo, tinh khiết đến vô ngần, nhưng cũng đồng thời là những hình ảnh kỳ dị, điên cuồng, siêu thực nhất khiến người đọc không khỏi trăn trở suy nghĩ về một hồn thơ lạ lùng nhất của nền thơ Mới. Đây thôn Vĩ Dạ là một trong số những bài thơ xuất sắc nhất của Hàn Mặc Tử, là tác phẩm nổi bật hàng đầu của trong phong trào thơ Mới, thể hiện được gần như hết phong cách sáng tác của ông, trong đó ở hai khổ thơ đầu, người ta thấy một Hàn Mặc Tử với tâm hồn yêu đời, yêu cuộc sống sâu sắc thông qua bức tranh quê thanh khiết, đậm chất trữ tình.
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên.
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.”
Hàn Mặc Tử mở đầu tác phẩm bằng một lời hỏi ngỏ rất đỗi dịu dàng, rất đậm chất Huế, mang đến những xúc cảm êm đềm của bức tranh quê thanh bình đầy sức gợi “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”. Chủ thể “anh” trong câu thơ khiến người đọc không khỏi quẩn quanh nhiều mối băn khoăn, liệu rằng câu hỏi ấy có phải là lời hờn dỗi, trách yêu đầy duyên dáng của một cô gái xứ Huế nào với một chàng trai cứ mãi rụt rè chẳng chịu bày tỏ lòng thương nhớ, để cô phải đợi chờ. Rồi đấy cũng có thể là lời mời mọc dễ thương của một người con xứ Huế, muốn người bạn phương xa có đôi lần ghé thăm quê hương xứ sở đầy thơ mộng này. Nhưng rồi nếu nhìn ở một khía cạnh khác có lẽ rằng câu hỏi “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”, lại là lời mà tác giả đang tự vấn lòng mình, nhắc nhở bản thân về một chuyến ghé thăm thôn Vĩ sau nhiều năm xa cách. Hai từ “không về” gắn vào giai đoạn cuộc đời đầy đau thương của Hàn Mặc Tử, lại càng thêm xót xa, đó là ẩn ý về những dự cảm không lành của người thi sĩ khi bị căn bệnh phong hành hạ, đau đớn, tuyệt vọng vì không thể nào còn về lại được Huế. Người chỉ còn có thể nhớ về thôn Vĩ, nhớ về người anh yêu thương trong những hồi ức tốt đẹp nhất.
Có thể nói rằng câu hỏi tu từ mở đầu bài thơ, không chỉ là chiếc cầu dẫn gợi mở ra bức tranh xứ Huế mà còn bộc lộ một cách sâu kín những nỗi niềm trăn trở của tác giả về mảnh đất cố đô. Ở nơi ấy có tình yêu, có cuộc sống, có người con gái mà thi sĩ vẫn thường ao ước, chỉ tiếc rằng tất cả đều trở thành hư không trước trái ngang của bệnh tật. Trong niềm mong nhớ về Huế, Hàn Mặc Tử đã dùng những câu thơ thật tình, thật đẹp để gợi ra bức tranh thiên nhiên thôn Vĩ thơ mộng, trong trẻo, tràn ngập sức sống. Bức tranh mở đầu bằng hình ảnh “nắng” lặp lại hai lần trong câu thơ:
“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên”
Đó là một buổi bình minh rực rỡ, ánh sáng tràn ngập khắp nơi nơi, lấp ló, xen kẽ qua từng tán cau xanh mướt. Hàn Mặc Tử đã vẽ lên từng nét thực mượt mà, đầy sức gợi trong bức tranh quê buổi sớm, trên nền nhàn nhạt ấm áp của nắng mới, hiện trên đó là hàng cau thẳng tắp, xanh tươi giản dị chân quê. Hình ảnh “nắng hàng cau” là hình ảnh mà Hàn Mặc Tử dành riêng cho Huế, bởi lẽ hàng cau là biểu tượng đặc trưng của mảnh đất cố đô, luôn vươn cao mạnh mẽ trên nền trời xanh thẳm, đón những tia nắng ấm áp đầu tiên trong ngày một cách thật trọn vẹn. Cảnh từng tán lá cau xanh mướt tắm nắng vàng lấp lánh những sương mai ẩn hiện, làm cho lòng người thêm khoan khoái, vui tươi, mở ra một bức tranh quê thực tinh khiết thơ mộng. “Nắng mới lên” là những từ ngữ giản dị mà Hàn Mặc Tử viết về cảnh bình minh, đó là cái nắng ban mai mới mẻ, êm dịu, không phải cái nắng nóng đổ lửa lúc ban trưa, mà đó là những tia nắng đầu tiên sau một đêm dài, trong trẻo, ấm áp tràn đầy sức sống, là biểu tượng của sự khởi đầu tươi mới. Nghĩ xa hơn hình ảnh “nắng mới lên” có lẽ chính là ẩn dụ cho tâm hồn người nghệ sĩ khi cầm trên tay tấm bưu thiếp của cố nhân, một xúc cảm dịu dàng, đầy hy vọng.
Trong không gian tràn ngập nắng mới, là sự hiện diện của “vườn ai” một khu vườn mang dáng vẻ trù phú, non tươi, mỡ màng trong từng góc cạnh thông qua hai từ “mướt quá”, đầy gợi cảm. Bên cạnh đó liệu pháp so sánh “xanh như ngọc” cũng mang đến vẻ đẹp thực thơ mộng cho bức tranh thiên nhiên thôn Vĩ Dạ, khiến người đọc dễ dàng tưởng tượng ra hình ảnh một khu vườn Huế xanh non, từng tán lá còn đọng hơi sương tắm dưới cái nắng ban mai dìu dịu, mang đến cảm giác thực trong trẻo, ngọc ngà, tươi mát làm sao. Đặc biệt với từ phiếm chỉ “ai” trong “vườn ai” đã gợi ra nhân vật trữ tình ẩn hiện, làm tăng thêm sức sống, sự hòa hợp của con người với thiên nhiên tươi đẹp. Đồng thời dẫn mở câu thơ “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”, gợi ra vẻ đẹp con người xứ Huế chân thành, phúc hậu, ấm áp. Bút pháp “thi trung hữu họa”, lấy cái gầy guộc, giản đơn của lá trúc để làm đậm lên những nét đẹp duyên dáng, hiền từ của khuôn mặt người. Hàn Mặc Tử nhớ người Huế bằng những vẻ đẹp hiền hòa, đan xen trong đó là những nỗi nhớ xa xôi về một người con gái Huế mang trong mình những phẩm chất nổi bật, thủy chung, dịu dàng, khuôn mặt xinh xắn phúc hậu.
Sau những niềm rung cảm, lạc quan yêu đời từ bức tranh thiên nhiên rực rỡ, nhiều sức sống, Hàn Mặc Tử tiếp tục đưa độc giả về đến với bức tranh thiên nhiên buổi tối muộn, với những cảnh thuyền, cảnh trăng, và dòng sông Hương êm đềm, lặng lẽ. Từ thực cảnh tràn ngập ánh sáng của buổi bình minh, đến cảnh đêm đen người ta đã tinh tế nhận ra được sự chuyển đổi cảm xúc của tác giả từ những niềm vui ngập tràn trong thân thể, đến nỗi băn khoăn, bất định, nhiều lo lắng, hoang mang trong cảnh thiên nhiên lạnh lẽo, vắng vẻ.
“Gió theo lối gió, mây đường mây,
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay...
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó,
Có chở trăng về kịp tối nay?”
Hàn Mặc Tử viết về cảnh mây, cảnh gió, vốn là những thứ luôn song hành với nhau, mây có dịch chuyển là bởi vì có gió đưa, dường như chúng luôn có một mối liên hệ gắn bó thực chặt chẽ. Nhưng khi đọc câu thơ “Gió đi lối gió, mây đường mây” cũng là cảnh gió, mây ấy thế nhưng chúng lại dường như tách biệt, ngược hướng, gợi ra sự chia ly, tan vỡ, mà đối với Hàn Mặc Tử ấy là sự chia cắt của tác giả với nhân thế, là những dự cảm đầy đau thương trước căn bệnh hiểm ác. Đặc biệt lối thơ tả cảnh đóng khung khi tác giả lặp lại điệp từ “mây”, “gió” hai lần, cùng lối ngắt nhịp 4/3 làm gãy đôi câu thơ, mang đến sự hụt hẫng, cô liêu khó tả. Con sông Hương vốn đã yên bình lặng lẽ suốt mấy ngàn năm lịch sử, chứng kiến nhiều những biến cố đau thương của dân tộc, đã không còn hay bất ngờ trước thế sự đổi thay, nhưng khi bước vào thơ của Hàn Mặc Tử dòng sông lại dường như mang những xúc cảm bâng khuâng của thi nhân qua mấy chữ “dòng nước buồn thiu”. Đọc thơ Hàn Mặc Tử, ta tưởng chừng như tác giả đang đứng trước bờ sông Hương, ánh mắt dõi trông xa xa, lòng buồn man mác một nỗi buồn vô tận đang lan tràn khắp không gian, thực đúng với mấy câu “Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu/Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” của Nguyễn Du. Bên cạnh đó hình ảnh “hoa bắp lay” lại càng khiến người đọc thấm thía những nỗi lòng của thi nhân, hoa bắp vốn vô sắc, vô hương, nhạt nhòa trong trời đất, là ẩn dụ sâu sắc cho cuộc đời cho số phận buồn tẻ, lặng lẽ đang tồn tại như một cái bóng cô liêu, đơn độc giữa cuộc đời, chỉ có thể mặc cho dòng đời đẩy đưa, nghĩ mà thật xót xa cho cuộc đời “hoa bắp”. Thêm vào đó cả câu thơ “Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay” đã mở ra một không gian rộng lớn vô tận, nhưng thiếu đi cái ấm áp, chỉ có sự lạnh lẽo, đìu hiu bao trùm, xóa tan hết cái vẻ đẹp rực rỡ nhiều mộng tưởng mà tác giả gợi nhắc trong khổ thơ đầu.
Nhấn mạnh sự chuyển đổi cảm xúc của tác giả giữa hai khổ thơ từ vui tươi, yêu đời sang buồn thương, tuyệt vọng. Vì quá đau đớn, xót xa cho cuộc đời nhiều bất hạnh của mình, Hàn Mặc Tử lại tìm về với trăng, người bạn tri kỷ tâm giao của thi sĩ, vẫn luôn gắn bó với người trong nhiều vần thơ vừa trong trẻo vừa kỳ dị, liêu trai khó tả. Hình ảnh trăng trong Đây thôn Vĩ Dạ xuất hiện thực đẹp và hiền hòa ở câu “Thuyền ai chở bến sông trăng đó”, ánh trăng vàng nhàn nhạt phủ lên con thuyền nan đang xuôi theo dòng nước, và mặt sông dập dềnh lấp lánh những ánh trăng rực rỡ. Một khung cảnh thật nhiều mộng ảo và tình tứ biết bao dường như đã phần nào xua đi được những nỗi buồn thương trong tâm hồn tác giả. Thế nhưng Hàn Mặc Tử vẫn chẳng thể quên đi hết những nỗi hoang mang, lo lắng cho cuộc đời mình trong câu thơ “Có chở trăng về kịp tối nay?”, ấy là cảm xúc lo lắng không yên, dự cảm chẳng lành trước cuộc đời ngắn ngủi sắp hết của mình. Ông sợ rằng bản thân không còn kịp được nhìn thấy ánh trăng đẹp đẽ, không còn thấy được “bạch nguyệt quang” của cuộc đời – người con gái xứ Huế, người mang lại cho ông những niềm vui sống, hy vọng về một tình yêu đẹp giữa lúc sóng gió cuộc đời đang bủa vây thân xác héo gầy, dù rằng đó chỉ là một tấm bưu thiếp mà nàng gửi đi.
Cuộc đời Hàn Mặc Tử ngắn ngủi và đau thương, hồn thơ ông chất chứa nhiều nỗi khát vọng về tình yêu, về cuộc sống, nhưng ẩn chứa sau đó là những nỗi xót xa, đau đớn đến cùng cực. Chính điều đó đã làm nên một chất thơ vừa thơ mộng, trong trẻo đến vô ngần, lại cũng cực kỳ phức tạp khi thường xuyên thấy sự xuất hiện của những yếu tố kỳ dị, liêu trai, điên cuồng mà nói như Hoài Thanh, có sự đó cũng bởi hồn thơ của Hàn Mặc Tử vốn là “Một nguồn sáng tỏa ra từ một linh hồn vô cùng khổ não. Ta bắt gặp dấu tích còn hoi hóp của một tình duyên vừa chết yểu... Chỉ trong thơ Hàn Mặc Tử mới thấy một nỗi đau thương mãnh liệt như thế. Lời thơ như dính máu”. Đây thôn Vĩ Dạ chính là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất cho phong cách sáng tác của Hàn Mặc Tử vừa đẹp vừa ẩn chứa những nỗi lòng đau thương tuyệt vọng, hồn thơ từ ấm chuyển sang lạnh lẽo, cô đơn chỉ trong vài dòng thơ ngắn ngủi, khiến người đời không khỏi băn khoăn, thấm thía xót thương cho một đời nghệ sĩ ngắn ngủi, nhiều bất hạnh.
Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” vẫn luôn được yêu mến qua nhiều thế hệ và đã có ba ý kiến nhận định dành cho bài thơ. Đầu tiên, bài thơ là tiếng lòng, nỗi trăn trở của mối tình thầm kín; sau đó là lời yêu thương dành cho một miền quê bình yên và thứ ba, bài thơ là niềm khao khát được sống của nhà thơ, khao khát được đồng cảm, được chia sẻ với cuộc đời. Và hai khổ thơ đã thể hiện rõ một cách xúc động những tâm tình ấy của tác giả gửi gắm qua bài thơ:
Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên.
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.
Gió theo lối gió, mây đường mây,
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay…
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó,
Có chở trăng về kịp tối nay
Thơ ca luôn là sự phản ánh cuộc đời qua lăng kính của nhà thơ, qua tâm hồn nhạy bén của nhà thơ. Bởi vậy thơ luôn mang tư tưởng, tình cảm mà người nghệ sĩ muốn gửi gắm, muốn biểu đạt. Và Hàn Mặc Tử luôn không ngừng sáng tạo, không ngừng chiêm nghiệm đời sống để mang lại nhiều tác phẩm đặc sắc. “Đây thôn Vĩ Dạ” là tác phẩm tiêu biểu.
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”
Câu hỏi tu từ này chính là sự phân thân của nhà thơ. Lúc này Hàn Mặc Tử đang trở thành cô gái Huế và hỏi với giọng trách móc, hờn giận thật nhẹ nhàng. Từ “chơi” dường như một sự chơi chữ. Bởi tác giả có thể dùng từ “thăm” nhưng lại mất đi sự thân quen gần gũi.
Câu thơ cũng có thể là sự tự trách, tự hỏi sao Huế đẹp đến vậy mà anh không vào chơi. Câu hỏi ấy là nỗi đau khắc khoải, bởi có lẽ khi viết bài thơ này, nhà thơ đang phải chịu đựng những đau đớn của bệnh Phong ở giai đoạn cuối. Vì vậy, về chơi ở Huế đã trở thành niềm khao khát của Hàn Mặc Tử.
Dù không thể về Huế, trong tâm tưởng nhà thơ, thiên nhiên ở thôn Vĩ vẫn thật lung linh, đẹp đẽ:
“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền”
Ba câu thơ đã khắc họa thật thành công một bức tranh về thôn Vĩ thơ mộng, từ xa đến gần. Điệp từ “nắng” gợi lên trước người đọc một không gian tràn ngập ánh sáng. Còn cau là loại cây đặc trưng của thôn Vĩ, thân cây thẳng tắp với tán lá xanh tốt đến thực khách phải thốt lên “vườn ai mướt quá xanh như ngọc”. Dù nói rằng “vườn ai” nhưng ai cũng biết là vườn của cô gái Huế.
“Mướt quá xanh như ngọc”. Xanh như ngọc là màu xanh tinh khiết, màu xanh tinh túy kết tinh từ nắng, từ sương. Màu xanh ngọc ấy đã tạo nên khu vườn quyến rũ và thôn Vĩ vì thế trở nên đẹp hơn. Nhưng bức tranh thôn quê ấy hoàn hảo hơn, có thần có tình hơn khi có sự thấp thoáng của bóng dáng người thiếu nữ: “lá trúc che ngang mặt chữ điền”. Là lá trúc cũng bởi, thôn Vĩ Dạ nổi tiếng với loài cây trúc luôn được trồng trước ngõ. Bởi vậy, trong tâm tưởng của thi nhân hiện lên gương mặt chữ điền thấp thoáng sau hàng trúc.
Phân tích 2 khổ đầu bài đây thôn vĩ dạ, trước tiên người đọc thấy rõ, tất cả khung cảnh và con người tạo nên một bức tranh hài hòa giữa con người và thiên nhiên. Nhưng có lẽ nếu thơ chỉ có niềm vui, niềm lạc quan yêu đời thì hẳn đó không phải thơ của Hàn Mặc Tử. Bởi vậy, sau khổ thơ đầu rạng rỡ nắng, thì ở khổ thứ hai giọng thơ đã chuyển sang sự mặc cảm về cảnh chia ly:
“Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay”
Với hai câu thơ này, vẻ đẹp đặc trưng của xứ Huế hiện lên rõ nét. Đó là dòng Hương lững lờ trôi, là vườn cắp, còn trên cao “gió theo lối gió”, mây đi đường mây. Dù thực tế mây và gió là hai hiện tượng không thể tách rời, bởi có gió thổi, mây mới có thể bay. Thế nhưng trong câu thơ của Hàn Mặc Tử, gió và mây chia lìa nhau, dòng nước buồn thiu mang trong mình tâm trạng không thể tả thành lời.
“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay”
Hai câu thơ tiếp theo vẫn là dòng sông Hương, là thành Huế mơ mộng, nhưng lúc này đã không còn nắng, màu xanh ngọc của Vĩ Dạ nay là không gian tràn ngập ánh sáng của trăng. Và thuyền trở thành thuyền trăng, sông trở thành sông trăng và bến là bến trăng.
Bến trăng, thuyền trăng đã xuất hiện nhiều trong thi ca, nhưng sông trăng thì lại là hình ảnh mới lạ. Bởi vậy, câu thơ như đưa người đọc vào cõi mộng. Và “Có chở trăng về kịp tối nay?” là câu hỏi mong chờ, khắc khoải, lo âu lẫn hoài nghi, khẩn thiết; đó cũng như câu hỏi nhà thơ hỏi chính mình. Người viết ý thức được rằng, nếu trăng không “về kịp tối nay”, thì mình sẽ rơi vào đau đớn, tuyệt vọng mãi mãi.
Qua 2 khổ đầu bài đây thôn vĩ dạ có thể thấy, thành công của hai khổ thơ nhờ các biện pháp tu từ như điệp từ, các câu hỏi thu từ, cách so sánh bằng liên tưởng. Qua các bút pháp nghệ thuật, Hàn Mặc Tử đã khắc họa nên một khung cảnh nên thơ, đầy sức sống nhưng cũng mang tải nỗi buồn, nỗi lòng của người thi sĩ chịu nhiều bất hạnh.
Trong số các thi nhân của phong trào thơ mới 1932 – 1945 có lẽ ta không thấy ai có số phận ai oán nghiệt ngã như Hàn Mặc Tử, số mệnh cay đắng của thi sĩ được tiên đoán trước qua ý nghĩa các biệt danh Phong Trần (Gió Bụi), Lệ Thanh (tiếng của nước mắt). Hàn Mặc Tử người đi trong màn lạnh với tấm lòng quặn thắt, ông đã trải lòng mình trên giấy mong manh và cho ra đời nhiều thi phẩm đặc sắc. Một trong số đó là bài thơ Đây Thôn Vĩ Dạ, đọc bài thơ người đọc sẽ có ấn tượng ngay với hai khổ thơ đầu:
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ
............
Có chở trăng về kịp tối nay”
Hàn Mặc Tử là một trong ba đỉnh cao của phong trào thơ mới, ông là một hiện tượng Thơ rất mới lạ. Hồn thơ mãnh liệt luôn chất chứa sự mâu thuẫn giữa cảnh sắc và tinh thần vì những nỗi đau đớn về bệnh tật nên ông luôn khát vọng sống, khát vọng giao hòa giao cảm với cuộc đời, với con người. Bài thơ Đây Thôn Vĩ Dạ được sáng tác năm 1938, lấy cảm hứng từ một mối tình đơn phương của Hàn Mặc Tử với một cô gái Huế, bài thơ được in trong tập “Thơ điên” sau đổi thành “Đau thương”.
Như chúng ta đã biết thơ là cuộc đời nhưng đó không phải là sự sao chép máy móc, mà phải được thanh lọc cảm nhận qua tâm hồn thi sĩ để thành thơ. Thơ là hình ảnh sống tươi nguyên, được tái hiện qua lăng kính tình cảm của người nghệ sĩ. Vì vậy nếu thơ không có tư tưởng, tình cảm thì đó chỉ là những lời sáo rỗng nhạt nhẽo vô vị tầm thường, chỉ là chọn làm xiếc, ngôn từ chẳng thể đánh lừa được người đọc. Vai trò là một nhà thơ, Hàn Mặc Tử không ngừng sáng tạo cho ra đời những tác phẩm đặc sắc, khác với các nhà thơ cùng thời. Đọc Đây Thôn Vĩ Dạ ta càng cảm thấy rõ điều đó, mở đầu bài thơ là một câu hỏi tu từ:
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”
Câu hỏi đó chính là sự phân thân của nhà thơ, nhà thơ hóa thân vào cô gái Huế để hờn dỗi, trách móc nhẹ nhàng nhưng đằng sau ấy là sự mời mọc rất chân thành, nhà thơ sử dụng từ “chơi” gợi lên sự thân mật gần gũi. Mặt khác câu hỏi tu từ này là nhà thơ đang tự hỏi mình, tự trách mình sao cảnh Huế đẹp như vậy mà anh không vào chơi. Đó là một câu hỏi lớn, nỗi đau khắc khoải, bây giờ đây trở về xứ Huế đã trở thành một niềm khao khát của nhà thơ. Có lẽ khi sáng tác bài thơ này, nhà thơ đang ở giai đoạn cuối của bệnh phong nên ông chỉ có thể trở về chơi thôn vĩ trong tâm tưởng, nhưng dù là trong tâm tưởng thì cảnh thiên nhiên về thôn Vĩ vẫn đẹp lung linh:
“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền"
Bức tranh thôn Vĩ xinh xắn thơ mộng được chiêm ngưỡng từ xa đến gần. câu thơ với điệp từ “nắng” đã gợi lên trong mắt người đọc một không gian tràn ngập ánh sáng, cau đó là một loại cây mang vẻ đẹp đặc trưng của thôn Vĩ, với thân hình thẳng tắp tán lá xanh tươi, vườn cây thôn Vĩ tươi tốt đến mức khách ở xa về phải trầm trồ “vườn ai mướt quá xanh như ngọc” vườn ai không xác định nhưng người đọc vẫn có thể hiểu là vườn của cô gái Huế. “mướt quá” là sự đặc tả sắc xanh của cây lá. Tại sao tác giả không dùng màu xanh da trời, xanh thẫm mà dùng màu xanh ngọc bích, có lẽ đó là màu xanh tinh khiết, tinh túy, quyến rũ và bức tranh thôn Vĩ ngày càng đẹp hơn, hiện lên đầy đủ hoàn hảo hơn, khi có sự xuất hiện của người con gái “lá trúc che ngang mặt chữ điền”. Vĩ Dạ nổi tiếng với màu xanh của trúc một loại cây được trồng trước ngõ, trong tâm tưởng của thi nhân bất chợt hiện về qua mặt chữ điền lấp ló sau hàng trúc. Lá trúc thì mảnh mai, mặt chữ điền gợi lên sự vuông vắn, phúc hậu.
Tất cả tạo nên vẻ đẹp hài hòa giữa con người với thiên nhiên, nếu ở khổ thơ thứ nhất nhà thơ nhìn cảnh vật bằng sự lạc quan yêu đời, thì khổ thơ thứ hai đã có sự thay đổi đó chính là sự mặc cảm về cảnh chia lìa, tan tác:
"Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay"
Hai câu thơ nói lên vẻ đẹp đặc trưng của xứ Huế, đó là dòng sông Hương chảy lững lờ hai bên bờ sông, là những vườn bắp, những bông hoa nhẹ nhàng lay động còn trên cao thì gió đi theo lối gió mây đi theo đường mây. Trong thực tế ta thấy Gió và Mây là hai sự vật không thể tách rời, bởi có gió thổi thì mây trời có thể bay. Vậy mà hai chữ chia lìa vẫn đến còn dòng nước buồn thiu như mang trong mình một tâm trạng không gì tả nổi.
Đến hai câu thơ tiếp theo vẫn là dòng sông Hương, là Huế mộng mơ nhưng nó không còn nắng, không còn xanh của Vĩ Dạ mà trước mắt người đọc là không gian tràn ngập ánh trăng, con thuyền trở thành thuyền Trăng, dòng sông trở thành sông trăng và bến trở thành bến trăng
“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay”
Từ xưa đến nay, ta thường bắt gặp hình ảnh thuyền trăng, bến chăng, Nhưng nay ta lại bắt gặp một hình ảnh mới đó là sông trăng, đọc câu thơ người đọc mới có cảm tưởng như đang vào cõi mộng, dường như nhà thơ đang sống trong khắc khoải, chờ mong. Ở thơ thứ nhất câu hỏi tu từ xuất hiện với câu thơ đầu còn đối với khổ thơ thứ hai câu hỏi tu từ lại xuất hiện ở câu cuối. Câu thơ như mang nhiều cảm xúc “Có chở trăng về “ là sự mong ngóng hi vọng “kịp tối nay” là khắc khoải, lo âu, là sự hoài nghi, là sự khẩn thiết yêu cầu. Nhưng dường như nhà thơ đã dự cảm được sự thất vọng, nhà thơ như ý thức được rằng nếu trăng không về kịp thì mình sẽ vĩnh viễn rơi vào thế giới đau đớn, tuyệt vọng.
Thành công của đoạn thơ là nhờ sử dụng các biện pháp tu từ như điệp từ, câu hỏi tu từ, so sánh bằng thủ pháp nghệ thuật liên tưởng, cùng với những câu hỏi tu từ xuyên suốt đoạn thơ. Nhà thơ đã khắc họa ra trước mắt ta một khung cảnh nên thơ, đầy sức sống và bản trong đó là nỗi lòng của chính nhà thơ.
Tóm lại, Đây Thôn Vĩ Dạ là một bức tranh đẹp về cảnh và người của miền quê, đất nước qua tâm hồn thơ mộng giàu trí tưởng tượng và đầy yêu thương của nhà thơ đa tình, đa cảm. Và Hàn Mạc Tử đã thực sự thành công trong việc thể hiện sự chuyển biến về tâm trạng của nhân vật trữ tình – người mang một tâm trạng nặng trĩu.
Mỗi con người Việt Nam chắc hẳn đều biết đến lời rao trăng nổi tiếng của nhà thơ đậm chất trữ tình lãng mạn Hàn Mặc Tử trong những năm 30 của thế kỉ XIX và lời rao trăng đó đã in sâu vào lòng độc giả. Ông là một thiên tài như những ngôi sao sáng lóa trong bầu trời thơ mới nhưng cuộc đời ông cũng chứa đầy bất hạnh, ông luôn đau đớn quằn quại bên chiếc giường trong trại phong quy hòa và nơi đó có sự vật lộn và giằng xé giữ dội giữa linh hồn và xác thịt của ông với căn bệnh quái gở. Và chính nơi đây ông đã tạo ra cho mình một thế giới nghệ thuật điên loạn, ma quái. Chính "chất điên" ấy đã làm nên phong cách nghệ thuật độc đáo, riêng biệt, mới mẻ của Hàn Mặc Tử.
Thơ của ông như trào ra máu và nước mắt, tuy vậy bên trong những dòng thơ ấy vẫn có những dòng thơ trong sáng, thanh khuyết đến lạ thường. Đây thôn Vĩ Dạ trích trong tập thơ điên là tác phẩm như thế. Đây chính là sản phẩm của nguồn thơ lạ lùng kia, là một lời tỏ tình với cuộc đời của một tình yêu tuyệt vọng, yêu đơn phương nhưng ẩn bên dưới mỗi hàng chữ tươi sáng là cả một khối u hoài của tác giả. Bài thơ còn là tình yêu thiên nhiên, yêu con người Vĩ Dạ một cách nồng cháy – nơi chất chứa biết bao kỉ niệm và luôn sống mãi trong hồi tưởng của ông. Chính vì thế đọc bài thơ này ta thấy được một phương diện rất đẹp của tâm hồn nhà thơ.
Xứ Huế mộng mơ đã từng là nơi khơi nguồn cảm hứng cho nhiều nhà văn nhà thơ. Có lẽ trong đó xuất sắc nhất là tập thơ điên của Hàn Mặc Tử với chất điên loạn ấy, ông mở đầu với câu hỏi:
"Sao anh không về chơi thôn Vĩ?"
Trong chính câu hỏi đó đã mang nhiều sắc thái biểu cảm như là vừa hỏi vừa nhắc nhở, vừa trách móc, vừa như là một lời giới thiệu và mời gọi mọi người. Câu thơ bảy chữ nhưng có đến sáu thanh bằng làm cho giọng thơ êm dịu và tình tứ đi, chính sự êm dịu đã làm cho lời trách móc dịu nhẹ đi. nhưng ở đây không phải là lời trách của hoàng cúc mà là của chủ thể trữ tình Hàn Mặc Tử, từ nỗi lòng da diết đối với xứ Huế trong tâm trạng tuyệt vọng nhưng đầy khát khao của Hàn Mặc Tử, đã vẽ ra khung cảnh thôn Vĩ tuyệt đẹp như trong chuyện thần tiên trong ba câu tiếp theo:
"Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền"
Thôn Vĩ hiện lên trong thơ Hàn Mặc Tử thật giản dị mà sao đẹp quá! Bằng tình yêu thiên nhiên của mình, tác giả đã mở ra trước mắt ta một bức tranh thiên nhiên tuyệt tác, đẹp một cách lộng lẫy. Thôn Vĩ nói riêng và Huế nói chung được đặc tả bằng ánh sáng của buổi bình minh và một vườn cây quen thuộc. đó là hàng cao thẳng tắp đang tắm mình dưới nắng. Hàng cau như đón chào người thân thương sau bao ngày xa cách. Hàng cau cao vút là hình ảnh thân thuộc thôn Vĩ Dạ từ bao đời nay. Quên sao được màu xanh cây lá nơi đây. Nhà thơ trầm trồ thốt lên khi đứng trước một màu xanh mơn mởn ở thôn Vĩ Dạ: “vườn ai mướt quá xanh như ngọc”. Ở đây cho ta thấy sự vươn lên mạnh mẽ, tràn trề, đấy sức sống và làm ta thấy sự tươi trẻ, yêu đời. trong không gian tươi trẻ đó lại hiện lên gương mặt chữ điền, phúc hậu. với lá trúc che ngang gương mặt phúc hậu đã tô đậm vẽ đẹp của cô gái Huế duyên dáng, dịu dàng, kín đáo, tình tứ đáng yêu.
Câu thơ đẹp vì sự hài hòa giữa cảnh vật và con người. tâm trạng nhân vật trong đoạn thơ này là niềm vui, vui đến say mê như lạc vào cõi tiên, cõi mộng khi được trở về với cảnh và người thôn Vĩ.
Thế nhưng cũng cùng không gian là thôn Vĩ Dạ nhưng thời gian có sự biến đổi từ bình minh lên chiều tà và thi nhân đã vạch ra một không gian mênh mông, to lớn có đủ gió, mây, sông, nước, trăng, hoa. Với không gian to lớn đó thi nhân đã miêu tả hai thực thể luôn gắn bó trong trạng thái chia lìa:
"Gió theo lối gió mây đường mây"
Điều này là ngang trái, phi hiện thực và phi lí. Qua đó cho thấy, thi nhân tạo ra hình ảnh này không phải bằng thị giác mà bằng cái nhìn của mặc cảm. Đó là mặc cảm của một người gắn bó thiết tha với đời mà đang có nguy cơ phải chia lìa với cõi đời nên nhìn đâu cũng thấy chia lìa.
Vốn dĩ thi nhân đang vui sướng khi về thôn Vĩ Dạ trong buổi ban mai lại đột ngột trở nên buồn, u uất. Có lẽ nỗi buồn là do bởi mối tình đơn phương và kỉ niệm đẹp với cảnh và người xứ Huế mộng mơ tạo nên. quả thật người buồn cảnh có vui bao giờ. Huế vốn thơ mộng, êm đềm - thi nhân lại làm cho nó trở nên vô tình, xa lạ.
"Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay”
Dòng Hương Giang vốn đẹp, thơ mộng đã bao đời đi vào thơ ca Việt Nam thế mà bây giờ lại buồn thiu, lòng sông buồn, bãi bờ của nó cũng buồn, hoa bắp vô hương vô sắc đang đưa nhẹ trong gió. Cảnh buồn chỉ đến đó, thế nhưng đêm xuống trăng lên lại là con người hoàn toàn mới. Với tính cách lãng mạn thi nhân đã tạo nên một không gian tràn ngập ánh trăng, một dòng sông trăng, một bến đò trăng, một con thuyền đầy trăng, tất cả đều lung linh, huyền ảo … trăng đã đi vào tâm thức của con người Việt Nam từ lâu nhưng trăng ở đây lại khác trăng của thế hệ trước và đương thời. Nào có con thuyền nào chở được trăng nhưng ở đây thi nhân lại thấy con thuyền trở trăng. Điều đó làm cho mọi vật nơi đây trở nên huyền ảo, đầy lãng mạn. Tuy nhiên đối diện với trăng thi nhân vẫn mang một tâm trạng bất an.
Bằng 2 khổ thơ đầu thôi nhưng Hàn Mạc Tử dường như đã cho chúng ta thấy tất cả về người và cảnh của thôn Vĩ Dạ đề qua đó hiểu sâu sắc hơn tâm trạng nặng trĩu của nhân vật trữ tình. Thấy được một tâm hồn nhạy cảm với đời, với tình yêu, cuộc sống của tác giả.
Hàn Mặc Tử là một trong những nhà thơ tiêu biểu nhất của phong trào thơ mới. Ông là một con người tài hoa nhưng mệnh bạc khi ông mắc phải căn bệnh phong quái ác từ khi còn rất trẻ. Có lẽ vì vậy mà trong thơ của ông luôn có hai thế giới song hành, một là sự tươi sáng, thanh khiết, một thế giới đầy ma quái, cuồng loạn. Đây thôn Vĩ Dạ được ra đời năm 1938 khi ông đang bị căn bệnh phong quái ác dày vò. Bài thơ được bắt nguồn cảm xúc từ tấm bưu thiếp có bức tranh phong cảnh xứ Huế và lời hỏi thăm của Hoàng Cúc, người con gái mà Hàn Mặc Tử từng tương tư. Đặc biệt, qua hai khổ thơ đầu, tình yêu thiên nhiên, con người Vĩ Dạ cùng những tâm sự thầm kín của nhà thơ được bộc lộ rõ nét.
Hai khổ đầu của bài thơ bức tranh phong cảnh của Vĩ Dạ xứ Huế cùng nỗi lòng cô đơn, lạc lõng, trống rộng của tác giả khi phải xa cách thế giới, con người.
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ
Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên
Vườn ai mướt quá, xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền
Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”
Mở đầu bài thơ là một câu hỏi mang âm điệu da diết, dường như là lời người thôn Vĩ đang mời gọi, đang hờn trách thi nhân sao không lại thăm.
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ”
Thế nhưng thực ra đây chỉ là câu hỏi tự vấn của nhà thơ bởi trong tâm ông luôn mong ngóng được thêm một lần “về chơi thôn Vĩ”. Hai chữ “về chơi” đã khiến Vĩ Dạ trở thành một nơi chốn thân thương với nhà thơ, là nơi mà ông gắn bó bằng cả tâm hồn mình.
Trở về Vĩ Dạ, nhà thơ muốn được ngắm nhìn những “hàng cau” cao vút, những vườn tược ngập tràn cỏ cây, để ngắm gương mặt ai thẹn thùng qua hàng lá trúc.
“Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên
Vườn ai mướt quá, xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền”
Khung cảnh Vĩ Dạ được mở ra từ xa tới gần, từ cao tới thấp, mỗi góc độ một vẻ đẹp nhưng đều thơ mộng và tràn trề sức sống trong ban mai. Trong hành trình “thăm” Vĩ Dạ bằng tâm tưởng, cái nhìn đầu tiên của nhà thơ dừng lại trên hình ảnh của “nắng hàng cau, nắng mới lên”. Hai từ “nắng” trong cùng một câu thơ khiến ta cảm nhận được cả một không gian tràn ngập sắc nắng sớm, mới mẻ và tinh khôi vô cùng. “Nắng hàng cau” là thứ nắng đặc trưng của Vĩ Dạ và Hàn Mặc Tử đã đặc biệt tinh tế phát hiện ra bởi Vĩ Dạ là nơi trồng rất nhiều cau. Những hàng cau cao vút, thẳng tắp vươn lên bầu trời đón những giọt nắng mai đầu tiên buông xuống và đó cũng là lúc cả thành phố Huế cựa mình thức dậy trong sự mát lành và tinh khôi.
Trong ánh nắng ban mai tinh khôi đó, khu vườn của “ai” hiện lên đầy sức sống, tràn trề nhựa mật.
“Vườn ai mướt quá, xanh như ngọc”
Đại từ “ai” phiếm chỉ, không biết rõ là của người nào bởi khu vườn đó là khu vườn trong tâm tưởng của nhà thơ. Khu vườn đầy những cỏ cây xanh “mướt”. Chỉ một từ “mướt” thôi mà khiến cho người đọc cảm thấy cỏ cả một khu vườn tươi tốt, mơn mởn hiện ra trước mắt. Thêm vào đó, hình ảnh so sánh “xanh như ngọc” cũng gợi cho ta hình ảnh về một khu vườn còn đẫm sương đêm đang được mặt trời soi tỏ. Mỗi nhành cây, phiến lá đều hiện lên lung linh, lóng lánh tựa như một khối ngọc bích khổng lồ. Lời thơ không chỉ là lời tả cảnh mà còn là sự trầm trồ của thi nhân khi ngợi ca cảnh vườn Vĩ Dạ với một tình yêu tha thiết.
Không chỉ say sưa ngắm nhìn vườn cây, ngắm nhìn ánh ban mai, Hàn Mặc Tử còn đắm mình trong ánh mắt của người Vĩ Dạ:
“Lá trúc che ngang mặt chữ điền”
Hẳn phải là một nét vẽ cách điệu của nhà thơ, bởi khuôn mặt người hiện lên sau lá trúc, vừa thực vừa hư ảo vô cùng. Đường nét trong bức tranh thơ không chỉ có mình thiên nhiên mà còn có cả con người khiến cảnh vườn Vĩ Dạ chợt trở nên ấm áp, sinh động lạ thường.
Khuôn mặt người sau vòm lá thấp thoáng, ẩn hiện gợi ra dáng vẻ e ấp, thẹn thùng với tính cách kín đáo vốn là một nét rất riêng của người con gái xứ Huế. Câu thơ của Hàn Mặc Tử chắc hẳn được gợi ra từ một câu ca dao rất quen thuộc của người dân Huế:
“Mặt em vuông tựa chữ điền
Da em thì trắng, áo đen mặc ngoài
Lòng em có đất có trời
Có câu nhân nghĩa, có lời thuỷ chung”
Thế nên, câu thơ của Hàn Mặc Tử không chỉ mang đậm phong vị dân gian của xứ Huế mà còn gợi ra được cả vẻ đẹp tâm hồn của con người nơi đây vừa chất phác lại giàu tình nghĩa thuỷ chung.
Khổ thơ đầu đã dựng lại bức tranh phong cảnh của Vĩ Dạ vừa đẹp đẽ, ấm áp lại tràn trề sức sống. Đồng thời cũng thể hiện tấm lòng gắn bó tha thiết với quê hương Vĩ Dạ của thi nhân và khát khao muốn được giao cảm với cuộc đời dù bệnh tật ngăn trở.
Bước sang khổ thơ thứ hai, phong cảnh, không gian của Vĩ Dạ không còn tĩnh tại mà có cả sự vận động, chuyển biến. Vẫn là những cảnh đẹp mang nét đặc trưng của xứ Huế nhưng giờ đây là cảnh sông nước mây trời:
“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”
Bức tranh thơ được mở rộng với trời mây gió và dòng Hương giang lững lờ vừa đẹp hùng vĩ lại phóng khoáng mênh mông. Dòng sông, hoa bắp, gió, mây, tất cả đều mang đậm linh hồn của xứ Huế, gợi ra nét yên bình, êm ả rất riêng của nơi đây.
Nhà thơ đã đặc tả dòng sông Hương dưới trăng khuya. Đó là một dòng sông lấp lánh những ánh vàng lộng lẫy, và còn thuyền cũng chở đầy ánh trăng đang đậu tại bến sông trăng. Ánh trăng đã khiến dòng sông Hương càng thơ mộng hơn bội phần, vừa hư ảo, vừa tĩnh lặng trong mà đêm để ai một lần bắt gặp thì khó có thể nào quên!
Đằng sau bức tranh ngoại cảnh là tâm trạng mà thi nhân muốn gửi gắm. “Mây, gió” vốn là hai thứ luôn song hành nhưng ở đây Hàn Mặc Tử đã nhân hoá chúng và miêu tả chúng đang trong cuộc chia ly. Mây một đường còn gió thì một nẻo, chúng đang xa cách, đang chia lìa. Đó phải chăng cũng là tâm trạng của nhà thơ lúc này khi ông đang ở trong một mối tình đơn phương xa cách và phải chia lìa với cuộc đời vì bệnh tật. Nỗi buồn của nhà thơ đã lan toả, đã hoà lẫn vào thiên nhiên.
Nỗi buồn ấy cũng hoà lẫn vào dòng nước. Nhìn dòng sông lững lờ trôi mà Hàn Mặc Tử cảm thấy dòng sông cũng đang “buồn thiu”. Dòng sông Hương chở bao tâm tình của nhà thơ, nó cũng mang nặng một nỗi buồn thương da diết. Đó là tâm trạng của một cái tôi cô đơn giữa đất trời, giữa cuộc đời, khi mà nhìn quanh bốn phía chỉ thấy hoa bắp lay động, dòng sông quạnh vắng, đìu hiu.
Nỗi buồn cô đơn của nhà thơ còn thấm thía hơn hết khi ông đặt mình giữa trời, trăng, nước. Dòng nước mênh mang, ánh trăng lạnh lẽo, đêm khuya tĩnh mịch, khung cảnh ấy như một cõi cô đơn pha thêm sự quái dị bởi chính ông cũng đang cô độc, lạc lõng giữa cuộc đời vì bệnh tật dày vò.
Thế nhưng, trên tất cả là nỗi khao khát được giao cảm với cuộc đời, là khát vọng tình người sẽ hoá giải nỗi đau. Có lẽ vì vậy mà trên dòng sông cô đơn ấy thấp thoáng chiếc bóng của “thuyền ai”:
“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”
Khát khao hi vọng, khát khao chờ mong thế nhưng Hàn Mặc Tử đã nhận ra hiện thực phũ phàng: chẳng có ai, chẳng có người nào có thể làm ấm áp một trái tim đang cô đơn, lạc lõng, vậy nên, nhà thơ mới mong có người “chở trăng về kịp tối nay”.
Trăng muôn đời là nguồn cảm hứng vô tận, là cái đẹp vĩnh hằng là ai cũng hướng tới. Với thi nhân, trăng còn là người bạn, người tri kỉ, tri âm và với Hàn Mặc Tử, trăng còn hơn thế. Ông khát khao hướng tới trăng, hướng tới sự tươi đẹp mà ánh trăng mang lại, thế mới hiểu, dù đau đớn vì bệnh tất, Hàn Mặc Tử vẫn luôn hướng về cái đẹp của cuộc đời, của nghệ thuật. Đọc thơ Hàn Mặc Tử, người ta cảm thấy bội phục một tài năng và cả một nghị lực sống phi thường của một con người biết vượt lên hoàn cảnh để cống hiến cho cuộc đời.
Bốn câu thơ là bức tranh sông nước, mây trời nhưng thấm đượm tâm trạng buồn thương của tác giả, nỗi cô đơn, khát khao được giao cảm với cuộc đời.
Hai khổ thơ đầu của bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ là kế thừa thơ ca truyền thống với thể thơ thất ngôn đồng thời cũng thể hiện nỗ lực cách tân thơ của Hàn Mặc Tử. Những hình ảnh thơ rất mộc mạc, giản dị, đời thường, ngôn từ như lời ăn tiếng nói thường ngày, tất cả đều tạo nên một nét thơ rất hiện đại.
Qua hai khổ thơ, người đọc không chỉ cảm nhận được bức tranh phong cảnh của thôn Vĩ Dạ vừa đẹp đẽ lại rất bình yên, mang nét đặc trưng của xứ Huế mà chúng ta còn cảm nhận được một nỗi buồn cô đơn của Hàn Mặc Tử khi phải xa cách cuộc đời vì bệnh tật và trong một mối tình vô vọng.
Nhắc đến phong trào thơ Mới không thể không nhắc tới Hàn Mặc Tử- nhà thơ Điên của nền văn học Việt. Bài thơ "Đây thôn Vĩ Dạ" là một tuyệt phẩm tiêu biểu của ông. Hai khổ thơ đầu bài thơ như một khúc ngân nga trữ tình đẹp đẽ và giàu sức gợi:
"Sao anh không về chơi thôn Vĩ
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
...
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay"
Vĩ Dạ- chốn thiên đường nơi trần gian của Huế mộng mơ. Câu hỏi tu từ thiết tha, vừa như lời trách móc lại vừa như lời mời gọi:"Sao anh không về chơi thôn Vĩ" nghe sao mà chân thành và dịu dàng đến thế. Giọng thơ trầm lắng nhẹ nhàng khôn tả qua việc gieo kết hợp các vần bằng trong câu đầy tinh tế. Câu thơ như một lời đề gợi mở ra những vẻ đẹp về thiên nhiên và con người nơi đây:
"Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền"
Hàng cau thẳng tắp vươn mình đón nắng, gió thoảng thoảng hơi mây, "nắng mới lên" mang nét gì đó tinh khôi, trong sáng, kiều diễm. Vẻ đẹp của ánh nắng vàng tươi mới, không gây gắt như trưa hè, không đượm buồn như chiều hoàng hôn mà đó là ánh nắng trong veo vô ngần của buổi sớm mai. Hàng cau xanh trong nắng vàng nhè nhẹ hiện lên đẹp đẽ biết bao. Trong bầu không gian ấy còn có vườn "mướt quá, xanh như ngọc". Bằng những tính từ gợi cảm, chỉ màu sắc độc đáo tác giả đã tái hiện khung cảnh vườn đầy non tơ, mang sức sống mới , tươi tốt và đầy hy vọng. Một vài giọt sương đọng trên lá trở nên lung linh hơn, cành non mơn mởn trong sắc xanh của lá cành tràn nhựa sống, ngời sáng, trong ngần. "Lá trúc che ngang mặt chữ điền" - Gương mặt người thiếu nữ thoáng ẩn hiện trong bầu không gian tuyệt diệu. Gương mặt chữ điền ấy thật thành tú sau lá trúc xanh mềm mại. Tất cả tạo nên vẻ đẹp ấn tượng, độc đáo, vẻ đẹp kín đáo, dịu dàng, thanh tao, nhã nhặn của người con gái xứ Huế hiện lên thật duyên dáng,ý nhị. Cảnh và người như hòa chung, mang nét hồn của một thì nhân đang bâng khuâng, rạo rực trước vẻ đẹp của thiên nhiên
Nếu trong khổ đầu là cảnh lúc bình minh thì sáng khổ hai đó là bức tranh thôn Vĩ trong cảnh chiều về, đêm xuống.
"Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước luồn quanh hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay"
Dường như thiên nhiên đang nhuốm màu buồn của sự chia ly, mây và gió thường song hành với nhau nay lại về đôi ngả" gió theo lối gió, mây đường mây", mây gió lang thang vô định giữa bầu trời kia cảm giác sao cô đơn và buồn đến vậy. Dòng nước cũng được nhân hoá mang bầu tâm sự "buồn thiu" lững lờ trôi , hoa bắp nhẹ "lay" trong gió cũng có gì đó yếu ớt, phảng phất nét buồn hoài niệm. Cảnh mang nỗi lòng của hồn người, dường như đâu đây ta nghe được tiếng lòng của người thi sĩ đang đơn côi trước nỗi nhớ mong, buồn đau trước cảnh chia xa ngậm ngùi. Để vơi đi nỗi lòng, người thi sĩ ngắm nhìn dòng sông Hương huyền diệu, sông nước soi ánh trăng mờ, chiếc thuyền thong thả nằm im bên bến sông thương. Bến trăng, sông trăng, thuyền trăng, non nước mây trời đang tràn ngập ánh trăng chứa đựng nỗi niềm gì khôn thấu. Trăng có đẹp đấy thôi nhưng trăng cũng đượm buồn, bóng tối tĩnh mịch, yên ả giữa trời đêm. "Có chở trăng về kịp tối nay" -câu thơ như một lời tâm sự, một câu hỏi mà cũng là nỗi mong chờ, hy vọng chở ánh trăng về kịp như người thi sĩ đang mong ngóng người thương tới cho vơi bớt nỗi sầu cô đơn vậy, bởi trăng vốn như người bạn tâm tình tri kỉ của thi nhân.
Bằng những hình ảnh thơ độc đáo, tuy quen thuộc, bình dị nhưng qua tài năng trong ngòi bút của mình, Hàn Mặc Tử đã biến cái quen thành những nét mới lạ mà hấp dẫn. Cảnh mang tâm tình, dư vị hoài niệm của thi nhân bằng cái nhìn đầy tinh tế và sâu sắc, chỉ qua hai khổ thơ thôi mà ta thấy được một tâm hồn yêu cuộc sống, yêu thiên nhiên tha thiết của nhà thơ.
Đây thôn Vĩ Dạ là tác phẩm tiêu biểu trong sự nghiệp sáng tác của Hàn Mặc Tử. Bài thơ được lấy cảm hứng từ một tấm thiệp in hình phong cảnh của Hoàng Cúc - người mà Hàn Mặc Tử thầm thương trộm nhớ- tác phẩm được viết vào những năm tháng cuối đời khi nhà thơ đang điều trị căn bệnh hiểm nghèo tại trại Phong Tuy Hòa.
Hai khổ đầu bài thơ là bức tranh về cảnh và con người xứ Huế vừa trong trẻo, thanh bình lại vừa đượm nỗi buồn tâm trạng.
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền”
Bài thơ được mở đầu bằng câu hỏi tu từ “Sao anh không về chơi thôn Vĩ”. Câu hỏi vừa như nhắc nhở, lại vừa như mời mọc, cũng có thể là lời trách móc nhẹ nhàng. Dường như, tác giả đang tự phân thân để hỏi chính lòng mình về một việc đáng ra phải thực hiện bấy lâu nhưng chưa thể thực hiện: Về thăm lại thôn Vĩ Dạ. Những sắc thái đan xen gói gọn trong một câu hỏi tu từ nhẹ nhàng ấy lại cho thấy được nỗi khát khao mãnh liệt được trở về Vĩ Dạ của thi nhân, câu hỏi thốt ra mang cả một nỗi niềm thầm kín không dễ dàng bày tỏ.
Sau câu hỏi thiết tha ấy là những ấn tượng về một thôn Vĩ êm đềm, thanh bình dần hiện về trong ký ức nhà thơ:
“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền”
Trong khu vườn xinh đẹp ấy, “nắng hàng cau” tinh khôi, trong trẻo đã thu hút, hấp dẫn sự chú ý của nhà thơ. Những cây cau vươn mình đón những tia nắng đầu tiên mà thiên nhiên ban tặng, khoe vẻ thanh khiết của mình dưới sắc nắng lung linh. Vẻ đẹp của khu vườn đẹp đến nao lòng, nhà thơ chợt thốt lên trong vẻ ngạc nhiên nhưng cũng đầy vui mừng, phấn khởi: “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”. Tính từ “mướt” kết hợp với từ chỉ mức độ “quá” gợi vẻ đẹp mượt mà, láng bóng, tươi tắn, đầy sức sống của cây cối trong vườn. Hình ảnh so sánh “xanh như ngọc” gợi lên vẻ đẹp kiều diễm, quý phái của khu vườn, những chiếc lá xanh mướt, mượt mà được “nắng hàng cau” chiếu rọi ánh lên màu xanh ngọc bích tươi đẹp. Cả khu vườn không chỉ được tưới tắm bởi sương đêm, nắng trời mà con nhận được bàn tay chăm sóc đầy khéo léo của con người nên càng thêm đẹp, thêm tươi.
Giữa cảnh vật tươi đẹp là hình ảnh người con gái Huế xuất hiện với nét đẹp duyên dáng mà đầy kín đáo:
“Lá trúc che ngang mặt chữ điền”
Gương mặt chữ điền phúc hậu thấp thoáng sau những chiếc lá trúc mảnh mai gợi vẻ đẹp dịu dàng, phúc hậu. Sự xuất hiện của con người thật kín đáo, tinh tế mà nhẹ nhàng như chính bản tính của con người Huế vậy. Phải yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống đến nhường nào thì tác giả mới lưu giữ trong tâm trí mình những hình ảnh đầy đẹp đẽ và sống động đến như thế.
Đằng sau bức tranh hài hòa giữa cảnh và người ấy có lẽ là một nỗi khắc khoải đến khôn nguôi của một cái “tôi” chất chứa những tâm sự:
“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay"
Nghệ thuật nhân hóa được tác giả vận dụng đầy khéo léo để diễn tả tả sự vận động và trạng trái của cảnh vật “Gió theo lối gió, mây đường mây”. Cách ngắt nhịp 4/3 như cắt đôi câu thơ tựa như chia li ngang trái. Hình ảnh gió, mây trong tự nhiên vốn đi đôi với nhau, mây theo chiều gió, gió có thổi thì mây mới bay, gió mây đi cùng nhau gắn bó cùng nhau nào thể tách rời. Vậy gió- mây trong câu thơ xuất hiện với cảnh chia phôi, gió- mây ngược lối, hai đường hai ngả. Với tạo hóa, điều đó thật phi lý, nhưng với một cái tôi đầy mặc cảm chìa lìa của nhân vật trữ tình lúc ấy thì lại là điệu hợp ý.
Nước sông Hương như hiểu tâm tình người thi nhân cũng mang nỗi buồn trĩu nặng tâm can “buồn thiu”. Dòng nước lặng lẽ trôi, hoa bắp lay nhẹ bên bờ, nước chảy hoa trôi- cảnh vật như không, động mà như tĩnh, tất cả dường như đều vương nỗi sầu trong đó. Có lẽ bởi lúc này đây tác giả đã cảm nhận cảnh vật không phải bằng con mắt thông thường nữa mà bằng chính dòng tâm trạng của lòng mình. Đó là nỗi lòng của một người mang nặng mặc cảm về sự ra đi, tạm biệt trần thế khi tâm hồn vẫn còn tha thiết sống.
“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”
Không gian đêm trăng trên sông nước mở ra đầy huyền ảo, như thực, như mộng. Trăng hòa mình vào dòng nước xanh tạo nên vẻ lung linh, thơ mộng. Sông trăng đang đưa đò cập bến, bến trăng đang đợi đò dừng chân, liệu đò có chở trăng về kịp với bến đêm nay? Câu hỏi tha thiết, vừa chứa đựng nỗi khắc khoải, đợi chờ lại chất chứa bao lo âu, phấp phỏng. Một từ “kịp” bình dị ấy thôi mà mở ra cho ta biết bao nghĩ suy về chàng thi sĩ trẻ tuổi. Hơn ai hết Hàn Mặc Tử hiểu rõ thực tại ngắn ngủi, cái chết đang cận kề nên phải tranh thủ từng phút, từng giây, chạy đua với thời gian, với cuộc sống. Nếu thuyền còn “kịp” chở trăng về bến thì "ta" còn được tâm sự giãi bày, còn chừng như không “kịp” thì thi sĩ tội nghiệp ấy rơi vào cảnh cô đơn, đau thương vĩnh viễn. Câu thơ cuối bài nghe sao thật xót xa, thương cảm, có lẽ với Hàn Mặc Tử được sống không thôi cũng là hạnh phúc lắm rồi.
Cảnh sắc thiên nhiên và niềm tha thiết với cuộc sống của thi nhân được thể hiện qua hai khổ thơ thật trong sáng, độc đáo và giàu sức biểu cảm. Qua đó, ta thấy được một tâm hồn cuộc đời, tha thiết với cuộc sống mãnh liệt của tác giả, từ đó biết trân quý cuộc sống, trân quý những phút giây của hiện tại đừng để hối tiếc.
Hàn Mặc Tử là một nhà thơ có số phận đau thương nhưng lại là một nhà thơ có sức sáng tạo mạnh mẽ nhất trong phong trào Thơ mới. Ông để lại cho làng thơ Việt Nam nhiều tác phẩm có giá trị như: “Gái quê”, “Thơ điên”,…Đặc sắc và gây xúc động nhất là bài “Đây thôn Vĩ Dạ”. Bài thơ là bức tranh tuyệt đẹp về miền quê đất nước và là tiếng lòng của một con người tha thiết yêu đời, yêu người. Tất cả những vẻ đẹp ấy của bài thơ đã được ngòi bút Hàn Mặc Tử khắc họa một cách tinh tế và sâu lắng qua hai khổ thơ đầu:
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ
…
Có chở trăng về kịp tối nay”
Theo thi sĩ Quách Tấn – bạn thơ của Hàn Mặc Tử thì bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” được gợi cảm hứng từ tấm bưu ảnh do cô gái Huế có tên Hoàng Cúc gửi tặng. Đó là tấm bưu thiếp vẽ cảnh Huế với dòng sông, con đò, bến trăng hay một buổi bình minh. Khi ấy Hàn Mặc Tử đang điều trị bệnh phong tại Quy Nhơn. Nhận được tấm bưu ảnh cùng những lời thăm hỏi của cô gái xứ Huế, ông đã xúc động viết bài thơ này. “Đây thôn Vĩ Dạ” sau đó được in trong tập thơ “Đau thương”.
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”.
Câu hỏi ấy chính là sự phân thân của nhà thơ, sự hóa thân của nhà thơ vào cô gái Huế. Chỉ một câu thôi, câu hỏi nhưng lại chan chứa yêu thương. Tại sao lâu rồi anh không về chơi thôn Vĩ bên bờ sông Hương thơ mộng, có người con gái anh thương? Mặt khác, sắc thái tu từ trong câu thơ đầu còn là lời tự hỏi, tự trách mình: “sao anh không về”? Sao cảnh Huế đẹp vậy mà mình không trở về? Đó là một câu hỏi đớn đau, khắc khoải vì trở về Huế là điều không thể bởi nhà thơ đang ở giai đoạn cuối của cơn bạo bệnh. Nhưng cũng chính câu hỏi tu từ ấy là nguyên cớ để khơi dậy những khát khao, hoài niệm. Vì không thể trở về nên nhà thơ đã làm một cuộc hành hương trong tâm tưởng. Thôn Vĩ, vì thế hiện ra lung linh trong hoài niệm.
“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên”
Điệp từ “nắng” được nhắc lại hai lần gợi ra bức tranh thơ thật lãng mạn về cảnh vườn quê xứ Huế. Nhớ đến thôn Vĩ, nhà thơ nhớ ngay đến hình ảnh hàng cau đầu tiên – “nắng hàng cau”. Bởi lẽ hàng cau là hình ảnh quá đỗi thân thuộc với mỗi người dân thôn Vĩ. Cau là loài cây cao nên đón ánh nắng đầu tiên của ngày mới. Không gian thôn Vĩ vì thế như được đẩy lên cao, thoáng đãng, khoáng đạt. Đặc biệt sau một đêm tắm gội dưới làn sương, những tàu cau trở nên xanh biếc hơn dưới ánh mặt trời. Cụm từ “nắng mới lên” cho ta một cảm nhận đẹp về ánh nắng của buổi ban mai thật rực rỡ, sáng trong. Câu thơ vẽ nên một hàng cau đầy sức sống đang vươn lên mãnh liệt đón ánh nắng đầu tiên của buổi sớm. Ánh nắng mới mẻ, tinh khôi như làm sáng bừng lên không gian khoáng đạt, rộng lớn.
“Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”
“Một câu thơ hay là một câu thơ giàu sức gợi” (Lưu Trọng Lư). Quả đúng như vậy, câu thơ đã gợi ra một khoảng không gian xanh của thiên nhiên Vĩ Dạ, cái màu xanh mượt mà, mỡ màng của hàng cây khiến cho người đọc cảm nhận được một sức sống tràn trề, mơn mởn. Tác giả dùng phép so sánh “xanh như ngọc” để diễn tả sức sống, vẻ đẹp của thiên nhiên thôn Vĩ, một sắc màu cao quý, lấp lánh và trong trẻo. Nếu không có một tình yêu nồng nàn đối với đất và người Vĩ Dạ, có lẽ thi sĩ họ Hàn không thể gieo được những vần thơ trong trẻo đến như vậy. Bài viết của thầy Phan Danh Hiếu
“Vườn ai”? không xác định nhưng ngầm hiểu đó là khu vườn cô gái Huế. “Mướt” là một tính từ khác với “mượt” bởi “mượt” chỉ gợi lên mịn màng mà “mướt” thì gợi sự sáng lên, tươi mới của cảnh vật. Bốn chữ “vườn ai mướt quá” như một lời trầm trồ, thán phục, ngợi ca cũng như lời thầm cảm ơn chủ nhân của khu vườn đã dày công chăm bẵm cho khu vườn thêm đẹp.
“Lá trúc che ngang mặt chữ điền”.
Phải chăng trong tâm tưởng của thi nhân bất chợt hiện về khuôn mặt chữ điền lấp ló sau hàng trúc. Câu thơ có sự giao hòa giữa hai hình ảnh thiên nhiên và con người. Lá trúc thì mảnh mai, mặt chữ điền gợi vẻ đẹp phúc hậu, kín đáo, duyên dáng, e ấp rất thiếu nữ, rất Huế.. Tất cả tạo nên sự hài hòa giữa con người và cảnh vật.
Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Câu thơ bắt đúng thần thái của xứ Huế. Sông Hương, núi Ngự hiện lên với vẻ đẹp đặc trưng của xứ Huế, dòng sông Hương luôn chảy lững lờ, chậm rãi như “điệu Slow tình cảm dành riêng cho Huế” (Hoàng Phủ Ngọc Tường). Hai bên bờ sông là những vườn bắp với những bông hoa nhẹ nhàng lay động. Thế mà trong đôi mắt Hàn Mặc Tử thì cảnh vật hiện lên chia lìa: “Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay”. Phép nhân hoá làm dòng sông như chở nặng nỗi sầu thương chất ngất của nhà thơ. Đó là lúc tâm cảnh đã nhuốm vào ngoại cảnh. Nỗi buồn của thi nhân dường như phủ khắp cảnh vật: gió, mây, dòng sông, hoa bắp… Nhìn lên trời cao thấy gió mây chia lìa; nhìn xuống dòng sông, thấy dòng sông trở nên “buồn thiu”; nhìn quanh cảnh vật chỉ thấy hoa bắp khẽ “lay”. “Lay” là một động từ gợi tả những cử động hết sức nhẹ, phải là sự quan sát tinh tế lắm mới có thể cảm nhận được cái nét vẽ thần tình ấy. Ca dao xưa cũng có câu:
“Ai về Giồng Dứa qua truông
Gió lay bông sậy bỏ buồn cho em”
Vâng! đằng sau những cảnh vật ấy là tâm trạng của một con người mang nặng một nỗi buồn xa cách, một mối tình vô vọng, đơn phương.
“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay”
Đọc câu thơ, người đọc có cảm tưởng như đang trôi vào cõi mộng. Ở đó là bến trăng, một dòng sông trăng, một con thuyền chở đầy trăng. Trăng dưới ngòi bút tài hoa của Hàn Mặc Tử bỗng trở nên huyền ảo, tràn đầy vũ trụ, tạo nên một không khí nửa thực nửa hư, như trong cõi mộng. Trăng vốn là biểu tượng cho cái đẹp, cho hạnh phúc, niềm vui. Với Hàn Mặc Tử, trong bối cảnh lúc đó, trăng có ý nghĩa như “một bám víu duy nhất, như người bạn tri âm, tri kỉ”, giờ chỉ còn là nỗi ước ao, khát khao gặp gỡ và nỗi niềm lo âu về sự muộn màng, dang dở. Vì thế, câu thơ của Tử cất lên như một câu hỏi đau đáu, một nỗi niềm day dứt đầy phấp phỏng “Có chở trăng về kịp tối nay?”.
“Tối nay” là tối nào, phải chăng đây là giới hạn cuối cùng của cuộc đời nhà thơ – khi mà cuộc sống của con người ấy là cuộc chạy đua với thời gian. “Tối nay” phải chăng chính là ranh giới của sự sống và cái chết. Có phải vì thế mà câu hỏi tu từ vang lên khẩn thiết: “Có chở trăng về kịp tối nay?”. Liệu rồi con thuyền ấy có cập bến bờ trước lúc Hàn Mặc Tử trở về với cõi vĩnh hằng hay không? Từ “kịp” vì thế mà chất chứa tâm trạng hoài mong và cả tin yêu lẫn bi kịch và hoài nghi của con người.
“Có chở trăng về kịp tối nay?” là câu hỏi ẩn chứa một sự day dứt, mong ước và lo sợ. Một niềm hy vọng đầy khắc khoải và phấp phỏng trong tâm trạng thi nhân. Hàn Mặc Tử cảm nhận thời gian đang trôi chảy trong lúc mình bất lực. Chính vì vậy mà người đọc càng thấu hiểu hơn cái giục giã trong lời mời gọi ở câu thơ đầu, càng đồng cảm hơn với khát vọng sống mãnh liệt của nhà thơ khi cái chết đang kề cận.
Thành công của đoạn thơ nói riêng và bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” nói chung chính là nhờ vào một số yếu tố nghệ thuật đã được Hàn Mặc Tử sử dụng sáng tạo: nhiều biện pháp tu từ tăng sức gợi cho hình ảnh như: so sánh, điệp từ, câu hỏi tu từ, tương phản đối lập; ngôn ngữ thơ mộc mạc bình dị; giọng thơ thiết tha, trìu mến. Tất cả đã hòa quyện lại chắp cánh cho ngòi bút của nhà thơ thăng hoa cùng cảm xúc.
Ai mua trăng tôi bán trăng cho
Trăng nằm yên trên cành liễu đợi chờ
Ai mua trăng tôi bán trăng cho
Chẳng bán tình duyên ước hẹn thề
Ai đã từng sinh ra và lớn lên trên cõi đời này mà không biết đến “lời rao trăng” nổi tiếng ấy của một nhà thơ cũng rất nổi tiếng trong những năm ba mươi của thế kỉ XIX, vâng đó chính là Hàn Mặc Tử - một tên tuổi mãi mãi in đậm trong tấm lòng đọc giả. Ông là “một hồn thơ mãnh liệt nhưng luôn quằn quại, đau đớn, dường như có một cuộc vật lộn và giằng xé dữ dội giữa linh hồn và xác thịt”. Ông “đã tạo ra cho thơ mình một thế giới nghệ thuật điên loạn, ma quái và xa lạ với cuộc đời thực”. Bài thơ còn là tình yêu thiên nhiên, yêu con người Vĩ Dạ một cách nồng cháy – nơi chất chứa biết bao kỉ niệm và luôn sống mãi trong hồi tưởng của ông. Chính vì thế đọc bài thơ này ta thấy được một phương diện rất đẹp của tâm hồn nhà thơ.
Với lời trách cứ nhẹ nhàng dịu ngọt vừa như một lời mời, Hàn Mặc Tử trở về với thôn Vĩ Dạ trong mộng tưởng:
Sao anh không về chơi thôn Vĩ
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền
Cảnh vật ở thôn Vĩ Dạ với những vườn cây trái, hoa lá sum suê hiện lên thật nên thơ, tươi mát làm sao. Đó là một hàng cau thẳng tắp đang tắm mình dưới ánh “nắng mới lên” trong lành. Chưa hết, rất xa là hình ảnh “nắng hàng cau nắng mới lên” còn rất gần lại là “vườn ai mướt quá xanh như ngọc”. “Mướt quá” gợi cả cây nhung non tràn trề sức sống xanh tốt. Thiên nhiên và con người hoà hợp với nhau. Tạo một tâm trạng buồn và tiếc nuối cho tác giả.
Khổ thơ thứ hai đột ngột chuyển sắc thái của cảnh:
Gió theo lối gió mây đường mây
Cũng cùng không gian là thôn Vĩ Dạ nhưng thời gian có sự biến đổi từ “nắng mới lên” sang chiều tà. Tâm trạng của nhân vật trữ tình cũng có sự biến đổi lớn. Trong mắt thi nhân, bầu trời hiện lên “Gió theo lối gió mây đường mây” trong cảnh chia li, uất hận. Biện pháp nhân hoá cho chúng ta thấy điều đó. “Gió theo lối gió” theo không gian riêng của mình và mây cũng thế. Câu thơ tách thành hai vế đối nhau; mở đầu vế thứ nhất là hình ảnh “gió”, khép lại cũng bằng gió; mở đầu vế thứ hai là “mây”, kết thúc cũng là “mây”. Trong mộng tưởng, Hàn Mặc Tử đã trở về với thôn Vĩ nhưng lòng lại buồn chắc có lẽ bởi mối tình đơn phương và những kỉ niệm đẹp với cảnh và người con gái xứ Huế mộng mơ làm nên tâm trạng ấy. Bầu trời buồn, mặt đất cũng chẳng vui gì hơn khi:
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay.
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Sông Hương “buồn thiu” lúc chiều dưới ánh trăng đã trở thành “sông trăng” thơ mộng. Cắm xào đậu bên trên con sông đó là “thuyền ai đậu bến”, là bức tranh càng trữ tình, lãng mạn. Hình ảnh “thuyền” và “sông trăng” đẹp, hài hoà biết bao.
Có chở trăng về kịp tối nay?
Câu hỏi tu từ vang lên như một nỗi lòng khắc khoải, chờ đợi, ngóng trông được gặp gương mặt sáng như “trăng’ của người thôn Vĩ trong lòng thi nhân. Như thế mới biết nỗi lòng của nhà thơ dành cho cô em gái xứ Huế tha thiết biết nhường nào. Tác giả đang rất cô đơn cần người tâm sự chỉ có ánh trăng mới thấu hiểu nỗi lòng của nhà thơ. Hàn Mặc Tử rất yêu xứ Huế dường như Huế và cảnh Huế ko đón đáp lại tình yêu của tác giả, chúng xa cách, trống vắng và xa cách biết bao.
Mơ khách đường xa khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?
Vẫn là một tâm trạng vui sướng được đón “khách đường xa” - người thôn Vĩ đến với mình, tâm trạng nhân vật trữ tình lại khép lại trong một nỗi đau đớn, hoài nghi “Ai biết tình ai có đậm đà?”. “Ai” ở đây vừa chỉ người thôn Vĩ vừa chỉ chính tác giả. Chẳng biết người thôn Vĩ có còn nặng tình với mình không? Và chẳng biết chính mình còn mặn mà với “áo em trắng quá” hay không? Nỗi đau đớn trong tình yêu chính là sự hoài nghi, không tin tưởng về nhau. Nhân vật trữ tình rơi vào tình trạng ấy và đã bộc bạch lòng mình để mọi người hiểu và thông cảm. Cái mới của thơ ca lãng mạn giai đoạn 1932 - 1945 cũng ở đó.
Đây thôn Vĩ Dạ là một bức tranh đẹp về cảnh và người của một miền quê đất nước qua tâm hồn thơ mộng, giàu trí tưởng tượng và đầy yêu thương của một nhà thơ đa tình đa cảm Trải qua bao năm tháng, cái tình của Hàn Mặc Tử vẫn còn tươi nguyên, nóng hổi và day dứt trong lòng người đọc. “Tình yêu trong ước mơ của con người đau đớn ấy có sức bay bổng kì lạ” nhưng nó cũng giản dị, trong sáng và tươi đẹp như làng quê Vĩ Dạ. Đây là một nghệ sĩ tài hoa, một trái tim suốt cuộc đời luôn thổn thức tình yêu, một tâm hồn thi sĩ đã biến những nỗi đau thương, bất hạnh của đời mình thành những đoá hoa thơ, mà trong đó thơm ngát nhất, thanh khiết nhất là Đây thôn Vĩ Dạ.
Hàn Mặc Tử là nhà thơ có tâm hồn nhạy cảm, những sáng tác của ông được sáng tác và đi vào lòng người cũng một cách rất tự nhiên sâu lắng, để lại nhiều suy ngẫm cho độc giả. Một trong những bài thơ như thế chính là bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”, bài thơ nhắc tới miền quê xứ Huế thơ mộng, với vẻ đẹp vừa giản dị vừa yêu kiều như chính người con gái mà tác giả đang thầm thương trộm nhớ. Không những thế, bài thơ còn nói lên niềm khát khao, tình yêu quê và sự gắn bó thiết tha của thi sĩ.
Không giống với các bài thơ khác,mở đầu bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” lại không phải là một câu miêu tả hay câu cảm thán, mà là câu hỏi tu từ: "Sao anh không về chơi thôn Vĩ”. Cảm hứng của bài thơ được khơi nguồn từ bức thư của Hoàng Thị Kim Cúc, viết cho Hàn Mặc Tử, những lời thơ khiến cảm xúc của tác giả ùa về, lại khơi gợi ra những nỗi nhớ về một miền thơ mộng hữu tình
Câu đầu của bài thơ, mở đầu một câu hỏi đã lạ, lại mở đầu với câu hỏi mà không có người trả lời,khiến mạch cảm xúc của bài thơ trở nên bâng khuâng khó tả. Tuy không ở gần, không được một lần về thăm Vĩ Dạ, nhưng bằng với nỗi nhớ diết da đã đưa Hàn Mặc Tử về với quê hương. Câu hỏi tu từ như một lời trách móc,hờn dỗi của một cô gái như thủ thỉ ràng, sao lâu rồi mà tác giả không về thăm quê lấy một lần. Câu hỏi vốn đưa ra không phải để trả lời, mà gợi ra cảm giác bâng khuâng, khó tả. Nó giống như một lời mời gọi, vừa như là một lời giới thiệu mà cũng là sự tiếc nuối của chính tác giả lâu không về thăm thôn Vĩ. “Sao anh không về chơi thôn Vĩ” như một lời tự vẫn, tự trách móc mình.
Khung cảnh Vĩ Dạ dần hiện ra với bao nhiêu cảnh, vừa có nắng vừa màu sắc rực rỡ, lại vừa có hình ảnh của những cành trúc đung đưa trước ngõ nhà ai. Cái tài cái độc đáo của tác giả là gợi ra sự tưởng tượng mới lạ cho chính người đọc
Không trực tiếp ở Vĩ Dạ, nhưng với nỗi niềm nhớ Vĩ Dạ tha thiết khiến tác giả có thể tưởng tượng ra cảnh chính mình đang đặt bước chân về với quê hương thân yêu. Mỗi câu thơ như dẫn ra một vẻ đẹp của nơi đây, không những thế, ngôn từ dùng để miêu tả khung cảnh, không chỉ đẹp mà còn có tính gợi. Mọi thứ như đều hòa hợp và ánh lên một vẻ đẹp thanh tú, thuần khiết. Hình ảnh hàng cau gợi ra những vẻ đẹp thanh thoát, cao vút và vươn lên đón ánh nắng sớm mai. Len lỏi vào đó là những tia nắng bình minh vừa rực rỡ lại vừa dịu dàng, như trải lên cho Vĩ Dạ một vẻ thân thiện lại đầy sự mời mọc. Nắng ở đây càng trở nên đẹp hơn, kì lạ hơn khi tác giả khoác cho nó với ngôn từ “nắng mới lên thật tinh khiết mà cũng thật trong trẻo,không một chút gợn của một ngày dài đã trải qua
Tác giả như dẫn dắt người đọc đi sâu hơn vào khung cảnh của thôn Vĩ, và với biện pháp so sánh, những vườn tược nơi đây đã trở thành những thứ mà dưới con mắt của một người nghệ sĩ được hóa thành chốn hữu tình: "vườn ai mướt quá xanh như ngọc” . dường như cây cối ở thôn Vĩ quanh năm tốt tưới, từ “ mướt” được sử dụng ở đây quả thật không quá chút nào, xanh mướt, mơn mởn và đầy sức sống. Nhịp thơ uyển chuyển kết hợp với từ ngữ mang tính tượng hình cao, cảnh vật nơi đây như càng thêm huyền bí,đẹp đẽ, vừa có màu của nắng mới lên, vừa có màu xanh mướt của những khu vườn, mọi thứ đều tươi mới, đầy nhựa sống. Câu cuối của khổ 1 gợi ra nhiều suy nghĩ và liên tưởng nhất: "Lá trúc che ngang mặt chữ điền”. Phải chăng là hình ảnh lá trúc đang sà xuống những khu vườn vuông vắn tươi đẹp của xứ Huế, hay những cành trúc đang buông mình trước cửa của những ngôi nhà xứ Huế. Đâu đấy lại gợi ra vẻ e ấp của cô gái Huế với khuôn mặt phúc hậu, gợi ra vẻ đẹp duyên dáng mà cũng kín đáo.
Những câu thơ tiếp theo cho tôi thấy một nét khác của Huế, một sự chuyển biến về tâm trạng của nhân vật trữ tình:
“Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay”
“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay”
Những câu thơ cho ta thấy tâm trạng nặng trĩu của Hàn Mặc Tử, hai câu thơ đầu gợi cảnh chia li sầu não buồn đến sâu thẳm. Điệp từ "gió” và “mây” cùng với nhịp điệu của câu thơ càng khiến cho khung cảnh chia li hiện rõ. Gió mây thường là một cặp, thường quấn quýt bên nhau nhưng ở đây “gió theo lối gió, mây đường mây”. Hoa rơi nước cuốn là điều hiển nhiên nhưng lại ẩn chứa một tâm sự buồn bã đến não lòng, sự chia li chia lìa ngày một hiện hữu. Nhìn cảnh hoa trôi gió cuốn mà chúng ta lại nhìn ra cả tâm trạng của thi nhân. Lòng buồn thiu, không có một nỗi niềm nào chất chứa. Hình ảnh trăng hiện ra, không chỉ ở bài thơ này mà còn nhiều bài thơ nổi tiếng của các nhà thơ khác. Ánh trăng là biểu tượng cho cái đẹp, tượng trưng cho hạnh phúc và thanh bình. Đối với Hàn Mặc Tử hình ảnh trăng trong thơ gợi cho người đọc một niềm hi vọng, một niềm tin. Chỉ có trong thơ mới có thể có sông trăng và thuyền chở trăng. Nghệ thuật ẩn dụ của tác giả ở đây thật thơ mộng, mang đến cho ta niềm khao khát, đợi chờ. Nhưng lại mang một dự báo, hay một nỗi phân vân rằng “Có chở trăng về kịp tối nay”. Lời thơ cất lên như một câu hỏi không có đáp án. Hai câu thơ đặc tả tâm trạng khát khao gặp gỡ nhưng đồng thời cũng thể hiện nỗi lo lắng khôn nguôi.
Mặc Dù đã ra đời từ lâu nhưng bài thơ đã lấy nhiều cảm xúc của người đọc cả lúc ấy và cả độc giả thời đại hiện nay. Nó không chỉ gợi mở vẻ đẹp thiên nhiên tuyệt đẹp mà còn là những cảm xúc sâu lắng, với niềm khát khao yêu đời, yêu người. Bài thơ là một trong những tác phẩm tiêu biểu cho hồn thơ Hàn Mặc tử, một tâm hồn nhạy cảm với đời, với tình yêu, cuộc sống.
Vĩ Dạ một làng cổ đẹp nổi tiếng bên bờ Hương Giang, ngoại ô cố đô Huế. Phong cảnh êm đềm thơ mộng. Với Hàn Mặc Tử chắc là có nhiều kỷ niệm đẹp? Câu mở bài như một lời chào mời, như một tiếng nhẹ nhàng trách móc:
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?"
Đồng thời cũng là câu hỏi HMT tự hỏi mình, tự trách mình. Đây cũng chính là hình thức bày tỏ một cái cớ để tác giả nói về thôn vĩ, nhớ về thôn Vĩ cũng như con người nơi thôn Vĩ.
" Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên,
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền"
Cảnh Vĩ Dạ được nói đến là hàng cau với nắng mới lên, một bình minh rạng ngời. Là màu xanh cây trái của “vườn ai”, ngỡ ngàng bâng khuâng, rồi thốt lên “mướt quá xanh như ngọc”. Sắc xanh mượt mà, láng bóng ngời lên. Một so sánh rất đắt gợi tả sắc xuân, sắc xuân của “vườn ai”?Thiên nhiên thôn Vĩ hiện lên những hình ảnh tươi đẹp, ấm áp, rực rỡ, tinh khôi như chính tình cảm của tác giả dành cho nơi đây.
Ánh lên giữa nét đẹp của thiên nhiên, bóng người xuất hiện thấp thoáng sau hàng trúc: “gương mặt chữ điền”. Nét vẽ “lá trúc che ngang” là một nét vẽ thần tình gợi tả vẻ kín đáo, duyên dáng của người con gái thôn Vĩ. Và cho biết “vườn ai”, ấy là vườn xuân thiếu nữ. Cau, nắng, màu xanh như ngọc của vườn ai, lá trúc và cả gương mặt chữ điền, một bức tranh thiên nhiên với môn màu sắc, nét vẽ đầy chất hội hoạ của tác giả, nét nào cũng tinh tế, tao nhã, gợi nhiều thương mến bâng khuâng.
Thiên nhiên cảnh vật thôn Vĩ có sự thay đổi, dường như đã trở nên buồn hơn, mọi thứ như chia lìa đôi ngả. Một miền quê thoáng đãng, thơ mộng. Có gió, mây, cỏ hoa, có dòng nước. Cảnh đẹp đầy thi vị, cổ điển. Gió mây đôi ngả phân li. Dòng nước buồn thiu, buồn xa vắng mơ hồ. Hoa bắp nhè nhẹ “lay” cũng gợi buồn. Những hình ảnh ấy cùng với nhịp thơ chậm nhẹ tạo nên một vẻ buồn riêng của Huế, đồng thời cũng chính là nỗi buồn của tác giả.
“Gió theo lối gió, mây đường mây,
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay”
Khổ một nói đến “nắng mới lên”, nắng bình minh. Khổ 2, nói đến “bến sông trăng”, bến đò trong hoài niệm. Vầng trăng của thương nhớ đợi chờ. “Thuyền ai” có lẽ là con thuyền thiếu nữ? Vần thơ trăng đẹp nhất trong thơ Hàn Mặc Tử. Có bến sông trăng, có con thuyền trăng. Thật thơ mộng, tình tứ:
“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”
Bến và thuyền như tắm mình trong ánh trăng dịu nhạt, có vẻ thơ mộng, mơ hồ, huyền ảo." Có chở trăng về kịp tối nay", câu thơ đầy ám ảnh, như lời cầu khẩn, một niềm hy vọng thuyền sẽ kịp về, nếu không về kịp, số phận kia sẽ bị bỏ rơi, sẽ lâm vào tuyệt vọng và vĩnh viễn đau thương.
Câu thơ của Hàn Mặc Tử về bến sông trăng và thuyền ai gợi nhớ đến vần ca dao "thuyền ơi có nhớ bến chăng, bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền ". Và do đó cảm nhận 2 khổ đầu bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ thấm đẫm một mối tình thương nhớ, đợi chờ man mác, mơ hồ, bâng khuâng.
Hàn Mặc Tử là nhà thơ có tâm hồn nhạy cảm, những sáng tác của ông được sáng tác và đi vào lòng cũng một cách rất tự nhiên, sâu lắng, để lại nhiều suy ngẫm cho độc giả. Một trong những bài thơ như thế chính là bài Đây thôn Vĩ Dạ, bài thơ nhắc nhiều đến xứ Huế thơ mộng, với vẻ đẹp vừa giản dị vừa yêu kiều như chính người con gái mà tác giả đang thầm thương trộm nhớ.
Không những thế bài thơ còn nói lên niềm khát khao được sống, được yêu một cách tha thiết của thi sĩ. Trong đó, hai khổ thơ đầu đã diễn tả một khung cảnh bình yên, hình ảnh con người đẹp e ấp bên lá trúc cùng diễn biến tâm trạng của nhân vật trữ tình trong bài thơ.
Không giống với các bài thơ khác, mở đầu bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ lại không phải là một câu miêu tả hay một câu cảm thán, mà là một câu hỏi tu từ:
Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Cảm hứng của bài thơ được khơi gợi từ một tấm thiếp của Hoàng Thị Kim Cúc viết cho Hàn Mặc Tử, những lời thơ khiến cảm xúc của tác giả lại ùa về, gợi nhắc về một miền quê xứ Huế thơ một hữu tình. Câu đầu của bài thơ, mở đầu bằng một câu hỏi đã lạ mà đằng này lại còn là một câu hỏi tu từ không có người trả lời càng khiến cho mạch cảm xúc của bài thơ trở nên bâng khuâng khó tả. Tuy không được ở gần, không được một lần về thăm lại Vĩ Dạ nhưng với nỗi nhớ da diết đã đưa Hàn Mặc Tử trở về với xứ Huế. Câu hỏi tu từ như một lời trách móc, hờn dỗi của một cô gái muốn thủ thỉ rằng: sao lâu rồi mà anh không về thăm xứ Dạ lấy một lần.
Câu hỏi đưa ra vốn không để tìm câu trả lời nên nó gợi lên cảm giác bâng khuâng, khó tả. Nói giống như một lời mời gọi, vừa như một lời giới thiệu mà cũng là sự tiếc nuối của chính tác giả đã lâu không có dịp về thăm chốn xưa : “Sao anh không về thăm thôn Vĩ?” – một lời tự vấn, tự trách bản thân mình.
Khung cảnh Vĩ Dạ dần hiện ra với bao nhiêu cảnh, vừa có nắng vừa có màu sắc rực rỡ lại vừa có hình ảnh của những lá trúc đung đưa trước ngõ nhà ai. Cái tài cái độc đáo của tác giả là gợi ra sự tưởng tượng mới lạ cho chính người đọc.
Không trực tiếp sống ở Vĩ Dạ nhưng với nỗi niềm nhớ Vĩ Dạ tha thiết đã khiến cho tác giả có thể tự phân thân mình đang đặt bước về thăm thôn Vĩ thân thương. Mỗi câu thơ như dẫn ra một vẻ đẹp của nơi đây, không những thế ngôn từ dùng để miêu tả khung cảnh vừa đẹp mà còn vừa có tính gợi. Mọi thứ đều hòa hợp và ánh lên một vẻ đẹp thanh tú, thuần khiết. Hình ảnh hàng cau gợi ra những vẻ đẹp thanh thoát, cao vút và vươn lên đón ánh sớm mai. Len lỏi vào đó là những tia nắng bình minh vừa rực rỡ vừa dịu dàng như trải lên cho Vĩ Dạ một vẻ thân thiện lại đầy sự mời gọi. Nắng ở đây càng trở nên đẹp hơn, kì lạ hơn khi tác giả khoác cho nó một chiếc áo ngôn từ “nắng mới lên”. Cái nắng ấy thật tinh khiết mà cũng thật trong trẻo, không một chút gợn của một đêm dài đã trải qua.
Tác giả như dẫn dắt người đọc đi sâu hơn vào khung cảnh của thôn Vĩ. Với biện pháp so sánh, những khu vườn nơi đây đã trở nên hữu tình trước mắt người đọc thông qua con mắt nghệ sĩ của Hàn Mặc Tử: “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”. Dường như cây cối ở thôn Vĩ quanh năm đều tốt tươi. Từ “mướt” được sử dụng ở đây quả thực không quá chút nào, xanh mướt, mơn mởn và đầy sức sống. Nhịp thơ uyển chuyển kết hợp với từ ngữ mang tính tượng hình cao, cảnh vật nơi đây như càng thêm huyền bí, đẹp đẽ, vừa có màu của nắng mới lên, vừa có màu xanh mướt của những khu vườn, mọi thứ đều tươi mới và tràn trề nhựa sống.
Hình ảnh trăng hiện ra không chỉ ở bài thơ này mà còn còn là thi liệu của nhiều bài thơ của nhiều thi sĩ khác. Ánh trăng là biểu tượng cho cái đẹp, tượng trưng cho hạnh phúc và thanh bình. Đối với Hàn Mặc Tử hình ảnh trong thơ gợi cho người đọc một niềm tin yêu, một niềm hi vọng. Chỉ có trong thơ mới có sông trăng và hình ảnh thuyền chở trăng thi vị đến vậy. Nghệ thuật ẩn dụ này đã mang đến một cảm giác được chờ đợi, được khao khát nhưng đồng thời nó cũng như một sự dự cảm, một nỗi phân vân: “có chở trăng về kịp tối nay?”. Lời thơ cất lên như một câu hỏi không có đáp án. Hai câu thơ đặc tả tâm trạng khát khao được gặp gỡ nhưng đồng thời cũng thể hiện nỗi lo lắng khôn nguôi.
Mặc dù bài thơ đã ra đời từ cách đây rất lâu, nhưng bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ nói chung và cảm nhận của em về hai khổ thơ đầu bài Đây thôn Vĩ Dạ nói riêng đã tạo nên nhiều cảm xúc của độc giả từ cổ chí kim. Nó không chỉ gợi mở vẻ đẹp thiên nhiên mà còn là những tác phẩm tiêu biểu cho hồn thơ Hàn Mặc Tử, một tâm hồn thơ nhạy cảm muốn giao hòa với đời và với người.