Tailieumoi.vn xin giới thiệu đến các quý thầy cô, các em học sinh lớp 8 bài văn mẫu Phân tích truyện ngắn Chiếc lá cuối cùng hay nhất, gồm có dàn ý phân tích chi tiết, sơ đồ tư duy và 16 bài văn phân tích mẫu hay nhất giúp các em học sinh có thêm tài liệu tham khảo trong quá trình ôn tập, củng cố kiến thức và chuẩn bị cho bài thi môn văn sắp tới. Chúc các em học sinh ôn tập thật hiệu quả và đạt được kết quả như mong đợi.
Mời các quý thầy cô và các em học sinh cùng tham khảo và tải về chi tiết tài liệu dưới đây:
PHÂN TÍCH TRUYỆN NGẮN CHIẾC LÁ CUỐI CÙNG
Đề bài: Viết bài văn phân tích tác phẩm (truyện) - Chiếc lá cuối cùng
Phân tích truyện ngắn Chiếc lá cuối cùng – mẫu 1
O’Hen-ri là nhà văn Mĩ, sinh năm 1862, mất năm 1910. Thuở nhỏ, vì nhà nghèo nên ông không được học hành đến nơi đến chốn. Năm mười lăm tuổi, ông đã phải thôi học, đến phụ việc tại hiệu thuốc của người chú ruột. Thời trai trẻ, ông trải qua nhiều nghề khác nhau để kiếm sống như nhân viên kế toán, thủ quỹ ngân hàng, bốc vác… O’Hen-ri sáng tác rất nhiều và phần lớn tác phẩm của ông phản ánh cuộc sống bất hạnh của tầng lớp dân nghèo. Nhiều truyện ngắn đã để lại ấn tượng khó quên trong lòng người đọc, trong đó có truyện Chiếc lá cuối cùng.
Bối cảnh của truyện là ngôi nhà trọ ba tầng cũ kĩ, tồi tàn với những căn phòng cho thuê giá rẻ trong một khu phố nhỏ ở phía Tây công viên Oa-sinh-tơn. Thời điểm xảy ra sự việc là tháng mười một, khi những cơn gió lạnh mùa đông tràn về. Hai nữ họa sĩ trẻ là Xiu và Giôn-xi thuê chung một căn phòng nhỏ trên tầng thượng sát mái. Cụ Bơ-men là một họa sĩ nghèo sống ở tầng hầm.
Giôn-xi bị sưng phổi nặng. Vì nghèo không có tiền thuốc thang nên cô buồn bã không thiết sống nữa. Mặc cho Xiu chăm sóc, động viên, Giôn-xi cứ nằm quay mặt ra phía cửa sổ, nhìn những chiếc lá thường xuân rụng dần từng chiếc một. Mỗi lần có chiếc lá rơi, cô lại cảm thấy mình gần cái chết thêm một chút. Trước khi trời tối, Giôn-xi đếm còn lại bốn chiếc lá và tự nhủ sau khi chiếc lá cuối cùng rụng nốt thì mình cũng lìa đời. Nghe Xiu kể chuyện ấy, cụ Bơ-men bực mình nghĩ rằng tại sao trên đời này lại có người muốn chết chỉ vì một cây dây leo nào đó rụng hết lá?! Rồi Xiu đưa cụ Bơ-men lên gác… Đoạn trích này tiếp nối câu chuyện trên, kể về việc vì thương Giôn-xi mà cụ Bơ-men đã thức trắng đêm để vẽ chiếc lá thường xuân lên tường. Sáng hôm sau thức giấc, Giôn-xi nhìn thấy chiếc lá cuối cùng vẫn còn bám chặt vào cây. Cô như được tiếp thêm sức mạnh và thoát qua cơn hiểm nghèo. Nhưng cũng vì vẽ chiếc lá trong đêm đông giá buốt nên cụ Bơ-men đã bị cảm lạnh rồi qua đời chi sau hai ngày. Qua đoạn trích, tác giả bày tỏ thái độ trân trọng, cảm phục trước tình yêu thương chân thành và lòng vị tha cao cả của những con người nghèo khổ.
Cụ Bơ-men là một hoạ sĩ vô danh. Suốt bốn mươi năm, cụ ấp ủ ý định sẽ vẽ một bức tranh tuyệt tác nhưng chưa bao giờ bắt đầu công việc. Giống như chị Xiu, cụ Bơ-men rất quan tâm đến tình cảnh tội nghiệp của Giôn-xi. Biết cô gái đang tuyệt vọng, muốn tìm đến cái chết để giải thoát, cụ đã nhờ chị Xiu đưa lên gác để thăm. Hai người sợ sệt ngó ra ngoài cửa sổ, nhìn cây thường xuân. Rồi họ nhìn nhau một lát, chẳng nói năng gì vì thấy những chiếc lá thường xuân đang theo nhau rụng, chỉ còn một vài chiếc. Có lẽ trong thâm tâm cả hai đều lo lắng cho số phận của Giôn-xi. Riêng cụ Bơ-men, chắc là cụ đang nghĩ đến cách vẽ chiếc lá cuối cùng để đem lại cho Giôn-xi niềm hi vọng.
Tình thương và lòng trắc ẩn đã khơi dậy trong tâm hồn cụ Bơ-men một ý tưởng sáng tạo tuyệt vời. Cụ lẳng lặng làm theo lời trái tim mách bảo, không hé răng cho ai biết ý định của mình.
Tác giả không tiết lộ ngay việc cụ Bơ-men vẽ chiếc lá trong đêm mưa tuyết ra sao mà đợi đến những dòng cuối cùng của truyện mới cho mọi người biết qua lời của chị Xiu. Cách kể truyện như thế tạo được bất ngờ và hứng thú cho người đọc.
Chiếc lá cụ Bơ-men vẽ lên bức tường gạch đối diện với cửa sổ căn gác nhỏ của Giôn-xi đúng là một kiệt tác vì trước hết trông nó giống y như thật: Ở gần cuống lá còn giữ màu xanh sẫm, nhưng với rìa lá hình răng cưa đã nhuốm màu vàng úa, chiếc lá vẫn dũng cảm treo bám vào cành cách mặt đất chừng hai mươi bộ, khiến Giôn-xi tưởng đấy chính là chiếc lá cuối cùng. Quan trọng hơn cả là chiếc lá do cụ Bơ-men vẽ đã đem lại sự sống cho Giôn-xi. Chiếc lá không phải chỉ được vẽ bằng bút lông, bột màu, mà bằng cả tình cảm chân thành và lòng vị tha cùng đức hy sinh cao cả của cụ Bơ-men. Người hoạ sĩ già đã quên cả tuổi tác lẫn sức khỏe của mình để cố gắng nhen nhóm lại hi vọng sống trong lòng cô gái trẻ đáng thương.
Sơ đồ tư duy
Dàn ý chi tiết
I. Mở bài
- Giới thiệu khái quát về nhà văn Mỹ O Hen-ri.
- Chiếc lá cuối cùng là tác phẩm thể hiện niềm tin mãnh liệt vào sự sống, khẳng định giá trị nhân văn cao cả.
II.Thân bài
- Tóm tắt cốt truyện: ý nghĩa nhân văn gắn với bức vẽ cuối cùng của người hoạ sĩ già Bơ men đã vực cô gái Giôn-xi vượt lên ám ảnh định mệnh.
- Tình huống truyện đảo ngược là nhân tố khơi nguồn cho nội dung cảm động đầy tình người, hướng đến giá trị tốt đẹp của sự sống.
a) Khung cảnh mùa đông và tình cảnh tuyệt vọng của Giôn-xi: nỗi sợ hãi ám ảnh tâm trạng của Xiu và cụ Bơ-men trong đêm mưa gió. Niềm tin kỳ quặc của Giôn-xi khi phó thác cuộc đời vào chiếc lá thường xuân.
b) Tình huống đảo ngược thứ 1:
- Tâm trạng đau khổ và hồi hộp của Xiu khi phải mở cửa cho Giôn-xi. Sự bất ngờ ngoài dự kiến: chiếc lá cuối cùng vẫn còn đó, hy vọng trở lại.
- Tâm trạng chờ đợi héo hắt của Giôn-xi: thể hiện sự tuyệt vọng , thiếu niềm tin vào sự sống. Thời gian là nỗi ám ảnh.
- Chiếc lá vẫn ở trên tường: Thức tỉnh ý chí sống của Giôn-xi , giúp cô tự tin vượt qua bệnh tật. Thiên nhiên thua chiếc lá, bệnh tật thua ý chí con người.
c) Tình huống đảo ngược thứ 2
- Tâm trạng Xiu: từ hồi hộp lo lắng đến khi hiểu rõ sự thật là sự hòa trộn tình yêu thương và cảm phục trước tấm lòng cao cả của cụ Bơ men.
- Sự hy sinh từ một hành động lừa dối cao cả nhưng lại có thể thức tỉnh lòng tin của con người. Trên hết là tình yêu thương đồng loại.
- Lời nói kết lại tác phẩm là sự khẳng định cho ý nghĩa cao cả của sự sống. Là ca ngợi và kính trọng trước nhân cách cao đẹp của người nghệ sĩ dám hy sinh vì đồng loại.
- Nghệ thuật dựng truyện đặc sắc, cách tạo tình huống bất ngờ giúp người đọc cảm nhận sâu sắc hơn ý nghĩa câu chuyện.
III. Kết bài
- Nêu ngắn gọn cảm nhận của bản thân về truyện ngắn, rút ra bài học cho mình.
Các bài văn mẫu khác:
Phân tích truyện ngắn Chiếc lá cuối cùng – mẫu 2
Nói đến văn học Mỹ, người đọc thế giới thường nhắc tới O.Henry như một trong những tác giả viết truyện ngắn có duyên nhất. Với một vốn sống phong phú, O.Henry đã sáng tác hơn 400 truyện ngắn và góp vào nền văn học Mỹ một tiếng nói rất riêng. Văn chương của O.Henry nhẹ nhàng, ngắn gọn đến mức sắc sảo.
Tiếp xúc với thiên truyện ngắn "Chiếc lá cuối cùng", ta sẽ được nhà văn đưa đến phía Tây công viên Oa-sinh-tơn của nước Mĩ. Đó là một địa điểm nhỏ, phố xá nhằng nhịt không có lối ra rõ ràng. Hầu như khu công viên nhỏ này bị một màn xám bao phủ, vây quanh.
Nó đã làm cho cuộc sống của những con người như Xiu, Giôn-xi và bác Ba-men thiếu sinh khí: "Hãy tưởng tượng một tay thu ngân nào đó mang hóa đơn đòi tiền sơn hay giấy và vải vẽ đi qua con đường này, đột nhiên lại gặp ngay chính mình quay trở ra, tiền nợ không thu một xu nhỏ". Cách nói rất hình ảnh của tác giả đã cho ta cảm nhận được cái nghèo nàn, đạm bạc của những con người ở đây.
Ở đây hầu hết là giới nghệ sĩ chung sống với nhau. Họ phải bỏ tiền ra thuê những căn phòng tối om và vẽ những bức vẽ bình thường đổ kiếm sống. Họ chăm chỉ làm ăn là thế mà nghèo vẫn hoàn nghèo, thiếu thốn vẫn hoàn thiếu thốn. Ta tưởng như họ sống trong hôm nay mà chẳng đến hết ngày mai.
Những họa sĩ (Giôn-xi, Xiu, Bơ-men) trong ý thức họ vẫn muốn hẹn một cuộc sống tốt đẹp, một tương lai sáng lạn. Thế nhưng cơ hội lại chưa mỉm cười với họ. Thành ra họ chỉ còn biết chờ đợi với tình cảm mông lung, huyễn tưởng. Rõ ràng ta nhận thấy O. Hen-ri không thi vị hóa cuộc sống. Ngòi bút của ông hướng về hiện thực, tái hiện chân thực những cảnh đời đói khổ.
Câu chuyện xoay quanh một chiếc lá có lẽ không quá nhỏ nhưng chẳng lớn lao gì mấy để cho người ta, qua một cái sân rộng chừng sáu thước có thể quan sát được dễ dàng, Đó là chiếc lá cuối cùng của "một cây leo già cỗi, tàn héo, cạn nhựa sống, rễ đầy những bướu" khẳng khiu trơ trụi bám víu vào cái cây leo gầy guộc kia được bao lâu nữa mới gánh nặng của những cơn gió bấc rét cắt ruột.
Những trận mưa đập ào ạt, dai dẳng trên cửa sổ, trên mái hiên những đợt tuyết rơi..? Trong thực tế, thì chỉ qua bốn ngày gần đây hàng trăm chiếc lá lắt lẻo trên một dây leo héo hắt khiến tôi nghĩ đến một cuộc sống tàn lụi, mong manh, bị vùi dập phũ phàng mà gắng chịu đựng dũng cảm tồn tại.
Phân tích truyện ngắn Chiếc lá cuối cùng – mẫu 3
Ở một xứ sở có hai mùa phân biệt luôn luôn luân chuyển như ở nước ta, nhất là miền Bắc, chúng ta hẳn không ngỡ ngàng gì lắm với cảnh cây thay lá mỗi khi tiết trời thay đổi. Ấy thế mà "Chiếc lá cuối cùng" của O Hen-ri lại không ngớt làm tôi ngạc nhiên thích thú. Bởi đó là một truyện ngắn rất giàu kịch tính. Nó là một chuỗi liên tiếp và là sự đan cài khéo léo, phức tạp các yếu tố bất ngờ mả chỉ đến câu cuối cùng của tác phẩm, cái nút mới được tháo gỡ.
Câu chuyện xoay quanh một chiếc lá, chiếc lá có lẽ không quá nhỏ nhưng cũng chẳng lớn lao gì mấy để cho người ta, qua một cái sân rộng chừng sáu thước, có thể quan sát được dễ dàng. Đó là chiếc lá cuối cùng của "một cây leo già cỗi, tàn héo, cạn nhựa sống, rễ đầy những bướu", khẳng khiu, trơ trụi, bám hững hờ vào lưng chừng bức tường thấp phía trước mặt, qua cửa sổ căn phòng của đôi bạn nữ họa sĩ.
Chiếc lá tội nghiệp ấy liệu còn có thể bám víu vào cái cây leo gầy guộc kia được bao lâu nữa mới gánh nặng của những cơn gió bấc rét cắt ruột, những trận mưa đập ào ạt, dai dẳng trên cửa sổ, trên mái hiên, những đợt tuyết rơi...? Trong thực tế, thì chỉ qua ba, bốn ngày gần đây, hàng trăm chiếc lá của chính cái cây ấy đã vĩnh viễn lìa đời. Hình tượng chiếc lá lắt lẻo trên một dây leo héo hắt khiến tôi nghĩ đến một cuộc sống tàn lụi, mong manh, bị vùi dập phũ phàng mà vẫn gắng chịu đựng, dũng cảm tồn tại.
Chẳng phải là vô tình, khi chiếc lá cuối cùng ấy lọt vào mắt mọi người ở đây - nhất là Xiu lúc này đang lo lắng theo dõi cái nhìn của cô bạn gái. Vì nó gắn liền với cái cây leo thân yêu của Giôn-xi. Cũng vì nó gợi nhớ đến hiện trạng của chính Giôn-xi đang bị đánh gục bởi những ngón tay buốt giá của "gã viêm phổi".
Nó sẽ rụng. Nhưng, vào lúc nào? Sự tồn tại hay không tồn tại của nó có ý nghĩa gì đối với những người đang hằng ngày hằng giờ khắc khoải ngóng nhìn nó? Cái tất nhiên hình như đang treo lại lơ lửng đấy, hứa hẹn những điều bất ngờ khiến ta phải nín thở mà theo dõi.
Bất ngờ đã đến. Nhưng đến theo một cách khác, người dự đoán: qua một đêm mưa to gió lớn, "chiếc lá cuối cùng" vẫn còn đó, nổi bật trên tường gạch, hơn nữa, còn thấy rõ là "chỗ gần cuống lá non xanh thẫm, nhưng đường viền răng cưa xung quanh đã nhuốm màu vàng...".
Hãy quan sát kĩ mà xem! Kì lạ thật, nhưng khó mà nghi ngờ. Hình ảnh hiện ra cụ thể, lặng lẽ như sự thật hiển nhiên không cần biện bạch. Hôm sau thế. Hôm sau nữa vẫn thế. Người ta buộc phải tin. Hầu như chẳng ai băn khoăn về sự tồn tại phi lí đó.
Nhưng, khi mọi tình huống căng thẳng đã dịu bớt - Giôn-xi đã thoát hiểm, bác Bơ-men đã mất sau hai ngày ốm, bất ngờ mới lại xuất hiện, bừng sáng lên và chấm dứt luôn câu chuyện. Bắt đầu từ một sự việc có vẻ chẳng liên quan gì đến chiếc lá của chúng ta: cái chết của ông già Bơ-men. Vì sao bác chết? Những thứ đồ đạc mới dùng xong, còn đế ngổn ngang, chưa kịp thu dọn, có thể gợi lên những suy đoán gì?
Bác đã làm những gì để đến nỗi phải ốm chết? Cái chết của bác có ý nghĩa, giá trị gì? Nhiều câu hỏi đặt ra và sẽ được trả lời đầy đủ. Chỉ biết rằng, từ cái chết của lão họa sĩ này, kết luận cuối cùng về "chiếc lá cuối cùng" kia là: đó là một chiếc lá giả, vẽ thần tình và đặt đúng chỗ đến nỗi nếu không thật tinh thì không tài nào nhận ra.
Vấn đề lúc này không ở chỗ giả hay thật; mà ở chỗ: kiệt tác do con người tạo ra đã kế tục và thay thế rất có hiệu quả kiệt tác của tự nhiên. Kiệt tác ấy, bản thân nó là vô giá. Vả lại, chính nhờ nó, một con người - một tài năng nghệ thuật biết đâu - đã hồi sinh.
Con người ấy là Giôn-xi lúc này đang nằm bất động trên chiếc giường sắt quét sơn, đưa mắt qua những ô cửa nhỏ nhìn sang bức tường trống. Cô gái bé nhỏ này vốn đã khô gầy, lại viêm phổi nặng, xem ra khó hề qua khỏi, mạng sống mười phần chưa chắc đã hi vọng được một.
Đến chỗ dựa là dấu hiệu bình thường nhất của lòng yêu đời - sự quan tâm đến một người đàn ông, đến thời trang của phụ nữ chẳng hạn - cũng lại thiếu nốt. Khát khao về nghệ thuật đối với cô bé này, chỉ nó không thôi, chưa đủ đế cân bằng với chín phần, chắc chắn mà tử thần đã nắm. Ngọn lửa leo lét như đang lụi dần theo thời gian, chỉ chực bùng lên một lần chót trước khi tắt ngấm.
Giôn-xi đã bùng lên thật! Cô mở to mắt. Cô đăm đăm nhìn ra phía cửa sổ. Cô khe khẽ đếm ngược các con số - những chiếc lá còn sót lại trên cây. Với một ý thức rõ ràng, cô đang nhắm đếm những bước tiến đến cái chết đang chực sẵn. Chiếc lá cuối cùng nhất định sẽ rụng nốt. Cái chết nhất định sẽ không thể tránh khỏi đối với Giôn-xi. Nhưng nó sẽ đến vào lúc nào? Có đúng là vào ngày "hôm nay" trước khi trời tối như phỏng đoán của Giôn-xi không? Không khí nặng nề, căng thẳng đến nỗi Xiu phải cố gắng và khéo léo làm dịu bớt.
Cái phải đến đã không chịu đến, đơn giản, chóng vánh như mọi người vẫn tưởng. Phải chăng đấy cũng có thể gọi là một bất ngờ? Dẫu sao, nó làm chùng xuống mọi căng thẳng trong Giôn-xi đến nỗi cô gái muốn rũ bỏ hết - kể cả sự quan tâm đến cái chết. Chính lúc đó cô thật sự chẳng còn thiết tha với cái gì nữa, cô đã được giải phóng khỏi nỗi ám ảnh về cái chết - tác động tâm lí có thể làm giảm đến năm mươi phần trăm công hiệu của thuốc men.
Lại một bất ngờ nữa? Rất có thể. Cái tương quan sống - chết quá chênh lệch ban đầu, Giôn-xi đang tự điều chỉnh dần theo hướng tích cực mà không tự biết, đúng vào thời điểm quan trọng nhất, lúc mà mọi việc có thể hoàn toàn đảo ngược lại theo cái logic chủ quan của cô bé họa sĩ. Cái đôi mắt mở to không hồn như bị hút vào chiếc rèm xanh che cửa sổ, có lẽ không phải chỉ là do ý thức.
Giôn-xi đã ngạc nhiên trước thực tế. Nhưng phải qua thời gian, qua nhiều thử thách nữa, cô mới thốt lên được cái câu nặng ý nghĩa: "Muốn chết, đó là một tội lỗi". Trở lại với những nhu cầu cụ thể hằng ngày (muốn ăn, uống, muốn soi gương, muốn ngồi dậy xem nấu nướng...), những ước mơ, hoài bão chân chính, Giôn-xi bước một bước quyết định qua ranh giới của cái chết để bước vào lãnh địa của cái sống.
Đó là điều không ai dự đoán được, kể từ ông bác sĩ đã chẩn đoán cho Giôn-xi. Cho đến khi Giôn-xi "nằm vui vẻ đan một cái khăn quàng lên để phủ lên vai, màu xanh ngắt và chẳng dùng làm gì được" thì không còn gì để có thế đánh ngã cô được nữa.
Lùi trong hậu trường, mãi gần cuối tác phẩm, ẩn sâu trong cái hang tối mờ mờ - căn gác hai của tòa nhà, là một ông già khoảng lục tuần, râu tóc bờm xờm nửa thần nửa quỷ, đang đương đầu với giá rét bằng bộc một chiếc sơ mi cũ màu xanh. Bác Bơ-men đấy! Nhà nghệ sĩ nghèo cô độc này, say nhiều hơn tính, gần hết cuộc đời chưa sáng tạo nên được một cái gì hẳn hoi.
Cái khung vải căng sẵn trên giá vẽ từ hai mươi nhăm năm nay cơ hồ bị bỏ quên và chắc gì đã không khiến cho nhiều người xung quanh mỉm cười hoài nghi? Cũng may mà đối với ông già tốt bụng, người ta còn chưa nỡ giễu cợt. Còn có gì đáng để ý, còn có gì đáng trông đợi ở con người đáng thương này?
Thậm chí cả đến lúc bác bất bình "đỏ mắt lên, giàn giụa nước mắt", hét tướng lên trước cái ý nghĩa "ngớ ngẩn" của Giôn-xi, của cả Xiu nữa, chẳng ai lấy làm lạ. Huống hồ là cái lúc bác cùng Xiu ngó ra ngoài cửa sổ, "sợ hãi nhìn cái cây leo và lặng lẽ nhìn nhau một lát"... Nhưng mọi chuyện lại bắt đầu chính từ lúc này.
Chỉ sau cái chết thảm vì bệnh viêm phổi của bác, căn cứ vào những dấu tích bác còn để lại - từ chiếc đèn bão còn leo lét cháy, đến chiếc thang đã bị xê dịch, đến những chiếc bút vẽ và bảng pha màu vứt bừa bãi, người ta mới đoán ra: chính bác đã vẽ "chiếc lá cuối cùng" lên bức tường, chỗ cây leo.
Chiếc lá vẽ giống hệt như thật, đặt đúng chỗ chiếc lá thực mới lìa cành. Tất cả được hoàn thành cấp tốc chỉ trong một đêm với một mình bác Bơ-men dưới ánh đèn nhập nhoạng và dưới mưa đêm lạnh thấu xương. Toàn bộ công trình được xếp đặt tài tình đến nỗi, sáng hôm sau, con mắt của những nhà chuyên nghiệp như Xiu, như Giôn-xi, dù đã quan sát kĩ cũng chịu không phân biệt được.
Ngay chính Xiu cũng không kịp nhớ lại để hoài nghi. Cái có bất ngờ nào thú vị hơn? Nhưng, chưa hết! Bất ngờ này mới thực là trọng đại: chiếc lá âm thầm ấy đã đảo ngược tình thế, đã cứu thoát một con người chỉ còn hi vọng sống có một phần mười!
Quả là một kiệt tác vô song. Đấy là hiện thân nỗi khát vọng một đời của bác Bơ-men, hay đấy chính là hóa thân của bác Bơ-men? Bức vẽ chiếc lá trên tường được đánh đổi bằng cuộc sống và cái chết của lão nghệ sĩ đáng kính. Đấy là di sản vô giá kết tinh tấm lòng và tài năng, thứ nghệ thuật phục vụ thiết thực cho đời và tinh thần vị tha không gì sánh kịp của bác Bơ-men.
Truyện ngắn đầy kịch tính, chứa chan ý vị nhân văn cao cả của O Hen-ri đã đột ngột kết thúc sau khi toàn bộ sự việc đã sáng tỏ. Những dư âm của nó như còn ngân vang mãi, nâng thêm lên trong ta khát vọng không cùng sống, và sống có ích, cho người, cho đời…
Phân tích truyện ngắn Chiếc lá cuối cùng – mẫu 4
Chiếc lá cuối cùng thuộc phần cuối của tác phẩm cùng tên của nhà văn người Mĩ O Hen-ri. Truyện là bài ca, ca ngợi vẻ đẹp, sức mạnh tình người giúp con người vượt qua mọi khó khăn, trở ngại của cuộc sống. Đồng thời tác phẩm còn gửi gắm những thông điệp nghệ thuật ý nghĩa.
Trong tác phẩm gồm ba nhân vật chính: Giôn-xi, Xiu và cụ Bơ-men, các nhân vật này được chia làm hai tuyến chính: Giôn-xi sống trong tuyệt vọng, đếm từng chiếc lá để chờ đến lúc mình lìa đời, cụ Bơ-men và Xiu ra sức chăm sóc và giúp đỡ Giôn-xi vượt qua căn bệnh hiểm nghèo.
Giôn-xi là một cô họa sĩ nghèo sống trong một nhà trọ tồi tàn ở ngoại ô, cô sống trong cảnh nghèo khổ và bệnh tật (bệnh sưng phổi), đây không phải là căn bệnh khó chữa, nhưng cô đã mất hết niềm tin vào cuộc sống nên bệnh tình ngày càng xấu đi, cô không buồn uống thuốc, chán nản, chỉ đếm những chiếc lá trên cây thường xuân. Khi chiếc lá cuối cùng rụng xuống cũng là lúc cô lìa xa cuộc sống này.
Qua một đêm mưa gió vùi dập, khi chiếc mành cửa được kéo lên, cô vẫn thấy một chiếc lá bám trên tường gạch. Đó quả là một điều khó tin vì đêm qua mưa gió, bão tuyết lớn, vậy mà chiếc lá vẫn dũng cảm treo bám trên cành cây như vậy. Chính chiếc lá cuối cùng đã làm thay đổi suy nghĩ của Giôn-xi, giúp cô lấy lại được nghị lực, niềm tin vào cuộc sống. Bởi vậy, cô đã vượt qua bệnh tật, tiếp tục mang trong mình những ước mơ, hoài bão.
Xiu là bạn cùng phòng với Giôn-xi, cũng là một họa sĩ nghèo, trong những ngày bạn ốm, Xiu đã hết lòng thương yêu, chăm sóc: nấu cháo, lời nói dịu dàng, cử chỉ ân cần dỗ dành Giôn-xi mong cho bạn lấy lại tinh thần, bệnh tật sớm qua khỏi. Trong những ngày Giôn-xi ốm, điều cô lo sợ nhất chính là mở tấm mành cửa lên và thấy chiếc lá cuối cùng đã rụng xuống.
Vào đêm mưa gió, Xiu không thể ngủ được, cô lo sợ chiếc lá ngoài kia đã bị mưa gió cuốn đi và người bạn Giôn-xi sẽ rời xa mình mãi mãi. Bởi vậy, sáng hôm đó, khi nhận lệnh của Giôn-xi cô chán nản, tuyệt vọng, đầy lo lắng kéo tấm mành lên. Và cô đã vui biết nhường nào khi chiếc lá vẫn còn đó, cô nấu cháo, gọi bác sĩ đến khám bệnh cho Giôn-xi. Chính tình yêu thương, sự quan tâm chân thành của Xiu đã phần nào tiếp thêm động lực sống cho Giôn-xi.
Cụ Bơ-men chỉ xuất hiện thoáng qua trong tác phẩm, nhưng tấm lòng, sự hi sinh của cụ lại có ý nghĩa quan trọng nhất với Giôn-xi. Cụ Bơ-men là một họa sĩ già, đã ngoài sáu mươi tuổi, kiếm sống bằng cách ngồi làm mẫu vẽ cho các họa sĩ trẻ. Hơn bốn mươi năm trong nghề cụ chỉ có một khao khát tột cùng đó là vẽ được một kiệt tác.
Khi biết được tâm trạng chán chường, tuyệt vọng của Giôn-xi cụ hết sức lo lắng và tìm cách cứu sống Giôn-xi. Tình yêu thương của cụ dành cho Giôn-xi thật sâu sắc và cao thượng. Trong đêm tối mưa to gió lớn cụ đã không quản gió lạnh, không lo nghĩ cho sức khỏe, tính mạng mình mà thức suốt đêm bí mật vẽ chiếc lá thường xuân cuối cùng để cứu sống Giôn-xi.
Người họa sĩ già ấy đã quên mình vì người khác – một sự hi sinh thầm lặng, cao cả mà lớn lao. Chiếc lá cuối cùng của cụ xứng đáng là một kiệt tác không chỉ vì nó giống chiếc lá thật đến nỗi khiến cả Giôn-xi và Xiu không nhận ra, mà nó còn chứa đựng niềm hi vọng sống.
Chiếc lá được vẽ bằng cả tài năng và tấm lòng, sự hi sinh cao thượng của cụ Bơ-men. Đồng thời kiệt tác của cụ cũng chứa đựng thông điệp nghệ thuật giàu ý nghĩa: một tác phẩm nghệ thuật thực sự là tác phẩm được tạo ra để phục vụ con người.
Tác phẩm được thuật lại bằng lối kể chuyện hấp dẫn, giàu kịch tính với những chi tiết được lựa chọn kĩ càng, đặc biệt là ở tình huống truyện đảo ngược hai lần. Giôn -xi từ chỗ tuyệt vọng, không còn niềm tin vào cuộc sống đến chỗ lấy lại niềm tin, khỏi bệnh và sống vui vẻ; cụ Bơ-men từ chỗ khỏe mạnh đến chỗ mất đi một cách đột ngột. Nghệ thuật xây dựng nhân vật cũng rất thành công. Ba nhân vật có cảnh ngộ gần gũi, nhưng mỗi người đều có tính cách riêng. Kết thúc bất ngờ, giàu ý nghĩa tạo dư âm sâu đậm trong lòng người đọc.
Với kết cấu truyện đầy kịch tính, bất ngờ tác phẩm đã cho thấy tình yêu thương cao cả có ý nghĩa vô cùng to lớn, giúp con người vượt qua mọi khó khăn, trở ngại trong cuộc đời. Ngoài ra cũng thấy được giá trị của một tác phẩm nghệ thuật chân chính sinh ra là để phục vụ, vì cuộc sống con người.
Phân tích truyện ngắn Chiếc lá cuối cùng – mẫu 5
Nhắc tới O Hen Ri là nhắc tới một nhà văn vĩ đại của thế kỷ 20. Sinh ra tại Mỹ, O Hen Ri rất nổi tiếng với những tác phẩm truyện ngắn. Trong đó đã có những tác phẩm được bình chọn là truyện ngắn hay nhất. Và ông đã để lại cho kho tàng văn học thế giới với những tác phẩm bất hủ. Trong đó tiêu biểu nhất là tác phẩm “Chiếc lá cuối cùng” đã được đưa vào văn học Việt Nam.
Trong tác phẩm, nhà văn O Hen Ri đã xây dựng nên ba nhân vật chính là những họa sĩ nghèo khó là Giôn Xi, Xiu, cụ già Bơ Men. Một tác phẩm với những diễn biến và tình tiết ngắn gọn nhưng rất lưu loát, diễn biến hay để lại rất nhiều cảm xúc cho người đọc. Nổi bật nhất trong toàn tác phẩm là diễn biến về trận ốm của Giôn Xi hay là về cái chết của cụ Bơ Men đầy bất ngờ.
Tác phẩm “Chiếc lá cuối cùng” là một thông điệp kêu gọi về tình yêu và sự sống của con người. Một giá trị nhân văn vô cùng sâu sắc. Truyện Chiếc lá cuối cùng tiêu biểu cho bút pháp nghệ thuật của O Hen-ri. Truyện chỉ có ba nhân vật, những họa sĩ nghèo: Xiu, Giôn-xi và cụ già Bơ-men. Truyện có kết cấu chặt chẽ, hầu như không có chi tiết nào thừa. Diễn biến xúc động như khi nói về trận ốm kéo dài của Giôn-xi và cái chết bất ngờ của cụ Bơ-men.
Có ý kiến cho rằng: Truyện "Chiếc lá cuối cùng" của O Hen-ri là bức thông điệp màu xanh về tình thương và sự sống của con người. Truyện "Chiếc lá cuối cùng" đã thể hiện một tình bạn cao quý cảm động. Giôn-xi và Xiu là hai nữ họa sĩ trẻ, tuy nghèo nhưng nhiều mơ ước, nhiều yêu thương. Họ gắn bó với nhau về những sở thích và về nghệ thuật mà kết thành chị em cùng chung nhau thuê một phòng họa nơi phố nghèo.
Mùa đông năm ấy, chứng viêm phổi hoành hành đã đánh ngã hàng chục nạn nhân. Giôn-xi cũng bị cảm lạnh, nằm liệt giường. Mọi thứ thuốc men, đều trở thành vô dụng, cô yên trí là mình không thể khỏi được. Gion-xi lại bị ám ảnh, một khi chiếc lá cuối cùng của cây thường xuân phía cửa sổ rụng xuống là cô sẽ ra đi. Sự sụp đổ về tinh thần của cô họa sĩ trẻ bất hạnh làm bệnh tình ngày thêm trầm trọng.
Chính trong hoàn cảnh bi đát ấy, tình bạn được thử thách. Xiu thương đứa em nuôi vô cùng. Cô đã khóc đến ướt đẫm cả một chiếc khăn trải bàn Nhật Bản. Xiu lo âu. Xiu săn sóc và hết lòng chạy chữa cho em. Xiu làm việc nhiều hơn để kiếm thêm tiền mua thuốc và thức ăn cho Giôn-xi. Khi đứa em tội nghiệp nằm yên lặng và trắng nhợt như một pho tượng bị đổ thì Xiu vẫn kiên nhẫn an ủi em. Cô nói qua nước mắt:
Em thân yêu, em yêu dấu!… Em hãy hứa với chị là hãy nhắm mắt lại và không nhìn ra ngoài cửa sổ nữa… Em hãy cố ngủ đi… Xiu đã tận tình săn sóc em, lúc thì khuấy nước súp gà, lúc thì pha sữa với rượu Boóc-đô, lúc thì đặt thêm gối, lúc thì mời bác sĩ, lúc thì cầu cứu bác Bơ-men. Xiu đã giành giật với tử thần để chạy chữa cho đứa em nuôi bé bỏng tội nghiệp.
Xiu là hiện thân của tấm lòng trắc ẩn vị tha, là một con người giàu đức hi sinh thầm lặng, có một trái tim nhân hậu mênh mông. Xiu là một nhân vật rất đẹp làm ta xúc động và ngưỡng mộ về một tình bạn, tình chị em thủy chung, cao quý. Nhân vật Xiu tỏa sáng bức thông điệp màu xanh của Chiếc lá cuối cùng.
Tác phẩm đã khắc họa những con người sống trong khó khăn, nhưng vẫn luôn muốn vươn tới những tầm cao mới, không hề sợ chết. Đó là hình ảnh của cụ già Bơ Men, đã hơn 40 năm cầm bút vẽ. Và ở độ tuổi 60 nhưng vẫn chưa đạt tới được đỉnh cao gấu áo vị nữ thần nghệ thuật nhưng vẫn luôn tin tưởng “một ngày kia tôi sẽ vẽ một tác phẩm kiệt xuất” khi chia sẻ với cô Xiu.
Và trong giá rét, cơn mưa lạnh lẽo dai dẳng. Cụ già Bơ-men không còn ngồi đó đó làm mẫu nữa và chỉ mặc trên mình một chiếc áo sơ mi màu xanh mỏng trong đêm để vẽ nên tuyệt tác để đời của cuộc đời mình đó là “Chiếc lá cuối cùng”. Một chiếc lá tượng trưng cho sự dũng cảm. Chiếc lá ấy vẫn vững chắc trong gió bấc dữ dội, bám chặt vào cành cây. Chiếc lá ấy đã cứu vớt cho số phận của cô Giôn Xi. Cụ Bơ Men đã ra đi vĩnh viễn để lại một tác phẩm để đời cứu vớt một sinh mạng nghèo khó. Cụ chính là một tấm gương quên mình với hành động cao cả.
Giôn Xi đã khỏi bệnh và đứng lặng ở đó ngắm nhìn bức tranh đã cứu vớt số mạng của cô. Trong sự xúc động ngập tràn khi nghĩ tới những lời Xiu nói “Cụ vẽ nó ở đấy vào cái đêm mà chiếc lá cuối cùng đã rụng với tất cả tình thương và lòng biết ơn vô hạn”. Và cho đến hơn một thế kỷ nay đã có rất nhiều độc giả trên trái đất này. Đã cảm phục cụ già Bơ-men vì những nghĩa cử cao đẹp, cái chết quên mình vì người khác của cụ.
Tác phẩm “Chiếc lá cuối cùng” có thể nói là một trong những tác phẩm có tính nhân văn sâu sắc nhất của nhân loại. Tác phẩm là một bức tranh tả thực về đời sống của những con người trong khốn khó. Nó đem lại cho độc giả nhiều cảm xúc và tâm tư suy nghĩ. Một thông điệp lớn với những khát khao vươn lên những tầm cao mới. Một thông điệp về sự trân trọng tình yêu thương giữa người với người.
Như một sự nhắn nhủ mỗi chúng ta hãy tôn trọng những giá trị nghệ thuật đem lại hạnh phúc cho con người. Hãy thể hiện tình yêu thương lẫn nhau qua những tác phẩm nghệ thuật. Hình ảnh người nghệ sĩ Bơ-men đã ngã xuống vì nghệ thuật. Vì tình yêu thương sự sống của người khác có lẽ đã trở thành một đỉnh cao của nghệ thuật với những giá trị bền vững nhất.
Cách đây 86 năm, trên bầu trời văn học nước Mĩ, một ngôi sao sáng đã lặn. Ngôi sao ấy là O. Hen-ri. Sự ra đi của ông quả thật, đã để lại cho nhân dân nước Mĩ nhiều tiếc nuối. Thế nhưng, đúng như có người đã nói: "Văn học nằm ngoài những định luật của băng hoại, chỉ mình nó không thừa nhận cái chết".
Mặc dù ngôi sáng ấy lặn khá lâu rồi song dư quang của nó vẫn lấp lánh tỏa sáng trên những trang văn mà ông O. Hen-ri để lại cho đời. Sự nghiệp sáng tác của ông không đồ sộ như M.Gorđki, L.Tônxlôi nhưng hầu hết các tác phẩm mà nhà văn viết ra đều có giá trị lớn. "Chiếc lá cuối cùng" là một trong những tác phẩm như thế.
Tiếp xúc với thiên truyện ngắn Chiếc lá cuối cùng, ta sẽ được nhà văn đưa đến phía Tây công viên Oa-sinh-tơn của nước Mĩ. Đó là một địa điểm nhỏ, phố xá nhằng nhịt không có lối ra rõ ràng. Hầu như khu công viên nhỏ này bị một màn xám bao phủ, vây quanh. Nó đã làm cho cuộc sống của những con người như Xiu, Giôn-xi và bác Ba-men thiếu sinh khí: "Hãy tưởng tượng một tay thu ngàn nào đó mang hoá đơn đòi tiền sơn hay giấy và vải vẽ đi qua con đường này, đột nhiên lại gặp ngay chính mình quay trở ra, tiền nự không thu một xu nhỏ".
Cách nói rất hình ảnh của tác giả đã cho ta cảm nhận được cái nghèo nàn, đạm bạc của những con người ở đây. Ở đây hầu hết là giới nghệ sĩ chung sống với nhau. Họ phải bỏ tiền ra thuê những căn phòng tối om và vẽ những bức vẽ bình thường đổ kiếm sống. Họ chăm chỉ làm ăn là thế mà nghèo vẫn hoàn nghèo, thiếu thốn vẫn hoàn thiếu thốn.
Ta tưởng như họ sống trong hôm nay mà chẳng đến hết ngày mai. Những họa sĩ (Giôn-xi, Xiu, Bơ-men) trong ý thức họ vẫn muốn hẹn một cuộc sống tốt đẹp, một tương lai sáng lạn. Thế nhưng cơ hội lại chưa mỉm cười với họ. Thành ra họ chỉ còn biết chờ đợi với tình cảm mông lung, huyễn tưởng. Rõ ràng ta nhận thấy O. Hen-ri không thi vị hóa cuộc sống. Ngòi bút của ông hướng về hiện thực, tái hiện chân thực những cảnh đời đói khổ.
Nhưng, để tránh hiểu lầm, có lẽ cũng cần phải nói thêm: nhà văn phản ánh hiện thực không chỉ để phản ánh, để phơi bày hiện thực mà cái chính là qua bức ảnh chụp đó, tác giả muốn bày tỏ thái độ đối với con người. Dù chỉ là một góc phố nhỏ thôi - nhà văn cũng lách ngọn bút vào để tìm tòi khám phá. Những tâm tư, tình cảm của Bơ-men, Xiu, Giôn-xi đều được nhà văn chăm chú lắng nghe để rồi khơi lên trong lòng độc giả những tia nước nguồn thương.
Nguồn thương của tác giả rung lên khi nhân vật gặp tình huống éo le. Ông tỏ ra rất quan tâm tới số phận của những con người này. Ông thương cảm cho Giôn-xi, một "phụ nữ nhỏ bé", thiếu máu vì những cơn gió hiu hiu, bị mắc chứng bệnh viêm phổi. Ông đồng tình với ước mơ chính đáng của bác Bơ-men: muốn có một kiệt tác để lại cho đời. Với Bơ-men, tác giả thấy con người này thật đáng thương.
Ông đã "ngoài sáu mươi ", đã "múa cây bút vẽ bốn mươi năm" mà vẫn không "với tới được gấu áo vị nữ thần của mình". Nói chung, cuộc đời cơ cực nào cũng chiếm được trái tim nhân đạo của nhà văn. Ông đã viết về họ như viết về chính mình, cho nên dễ hiểu, dễ đọc, dễ làm xúc động lòng người.
Cái dễ làm xúc động lòng người ấy không phải ngẫu nhiên mà có. Ta thấy trong thực tế, cuộc đời của tác giả cũng gặp nhiều nỗi gieo neo. Ông đã từng trải nghiệm qua rất nhiều nghề để kiếm sống, cảnh đời thật đã cho ông yêu sống phong phú. Khi viết truyện, ông đặt cái tâm nóng hổi của mình lên trang giấy. Từ bác Bơ-men đến Giôn-xi, Xiu, hầu hết đều có sự hóa thân của tác giả...
Cuộc sống sao mà đắng cay đến thế! Nhưng càng trong sự đắng cay, đen tối tâm hồn con người càng toả sáng và ngát hương. Nhà văn đã phát hiện ra trên đầm bùn, trên thảo nguyên hoang dại bỗng rực cháy sáng lên "ngọn lửa Đan- cô" ngọn lửa của tình thương yêu của con người với con người.
Trước hết, ông muốn bày tỏ thái độ ca ngợi về nét đẹp trung trinh của Xiu và Giôn-xi. Với ông, ở họ có một tình hạn rất đẹp đẽ, trong sáng và rất đáng trân trọng. Cuộc sống nghèo khổ, sở thích tương đồng, tình cờ đã giúp họ xích lại gần nhau. Khi Giôn-xi bị bệnh, Xiu không lãnh đạm, không thờ ơ, không bỏ mặc bạn. Ngược lại, cô chăm nom, săn sóc Giôn-xi rất chu đáo. Cô mời bác sĩ về chữa bệnh cho bạn.
Tình cảm của Xiu dành cho Giôn-xi thật là gắn bó, thật là cảm động. Nghe bác sĩ nói bệnh tình của Giôn-xi "mười phần chỉ còn hi vọng được một" thì Xiu đã vào phòng làm việc và "khóc đến ướt đẫm cả một chiếc khăn trải bàn Nhật Bản". Giọt nước mắt ấy là giọt nước mắt của tình thương. Trái tim cô không hề "chai sạn" mà luôn rung lên những nhịp đập đớn đau khi nghĩ đến cảnh: chỉ vài ngày nữa thôi cô bé sẽ mất đi một người bạn yêu quý.
Thương thì thương vậy đấy, thế nhưng cô vẫn muốn kìm nén nỗi đau, cố chạy trên thực tại phũ phàng ("thản nhiên") để Giôn-xi yên tâm. Rồi cô tỏ ra thực sự "lo lắng" khi phải chứng kiến ý nghĩ "kỳ quái" của bạn mình. Xiu luôn muốn được ở "bên cạnh" bạn để săn sóc, luôn tìm cách động viên an ủi Giôn-xi: "Ông bác sĩ đã nói với chị là em sẽ chóng hình phục thôi (...) khả năng khỏe là mười phần chắc chín".
Thực ra, đây là một lời nói dối. Nhưng sự nói dối của Xiu, trong hoàn cảnh này không hề có tội. Sự nói dối của cô chẳng qua chỉ là sự bất đắc dĩ, xuất phát từ tình yêu thương bạn, muốn giúp bạn bớt lo lắng và có niềm tin, niềm hi vọng vào cuộc sống. Tình yêu thương của Xiu không chỉ thể hiện qua lời nói mà còn biểu lộ qua việc làm cụ thể. Cô nấu cháo cho bạn ăn.
Cô dồn tâm sức để vẽ nhiều tranh ảnh để kiếm tiền chăm sóc cho Giôn-xi. Tình cảm của Xiu là tình cảm chân thành. Tình cảm ây làm ta rưng rưng cảm động. Trong thâm tâm Xiu, Giôn-xi là một người em ruột. Cô đã chăm bẵm bạn theo cấp độ tình cảm máu thịt, chân tình ấy.
Bơ-men, người hoạ sĩ già, cũng là nhân vật được tác giả Chiếc lá cuối cùng dành cho những dòng văn ưu ái, trân trọng. Như đã nói, cuộc đời ông thất bại trong nghệ thuật và nghèo khổ trong cuộc sống. Do chí riêng không thoả, cuộc sông tẻ nhạt mà ông thưc ng hay cáu gắt với mọi người. Nhưng điều đó không có nghĩa là ông ta đã mất hết tình người. Ông tự nhận là "con chó xồm lớn chuyên gác cửa bảo vệ hai nữ nghệ sĩ trẻ ở phòng vẽ tầng trên".
Khi nghe Xiu kể chuyện, Bơ-men đã quái lo: "Sao trên đời này lại có những người ngớ ngẩn" vậy. "Lời nói của ông đích thực là một lời coi thường, một tiếng chửi. Thế nhưng trong lời chửi "độc mồm" ấy vẫn tiềm ẩn lòng thương con người "Chà, tội nghiệp cô bé Giôn-xi".
Lòng yêu thương ấy dường như là một điểm gợi hứng, là một điểm khơi nguồn để bác Bơ-men sáng tác lên một bức tranh kiệt tác? Có thể là như thế. Sự nguy kịch có liên quan đến sự sống còn của một con người dường như đã thôi thúc trái tim bác phải làn một điều gì đó để giúp họ. Và thế là trong một đêm khủng khiếp, bất chấp cả mưa gió bác Bơ-men đã âm thầm một mình cùng với chiếc đèn, chiếc thang, chiếc bút lông ngồi hí hoáy vẽ chiếc lá thường xuân.
Cuối cùng với sự cố' gắng, với sức mạnh của tình yêu thương, bác đã vẽ xong bức tranh đó. Tiếc thay, khi bác hoàn thành xong tác phẩm cũng là lúc bác phải vĩnh biệt cõi đời. Sự ra đi của bác chỉ là sự ra đi của xác thịt, còn tâm hồn của bác thì chắc chắn sẽ còn kết tủa lại mãi với thời gian. Với nghị lực của mình, trái tim của mình, bác đã cho đời một kiệt tác.
Kiệt tác ấy chính là kết quả của sự tích lũy tổng hòa hơn 40 năm cầm cọ, là sự dồn tụ cao độ của cái tâm và tài trong đời nghệ sĩ. Đến đây thì ông đã thực hiện được ước mơ, khát vọng cháy bỏng của mình từ trước. "Những rìa lá hình răng cưa đã nhuộm vàng úa" tượng trưng cho tuổi tác, sự ra đi về thân xác của Bơ-men. "Cuống lá còn giữ màu xanh sẫm", tượng trưng cho mảnh tâm hồn sáng trong của cả một đời người họa sĩ già tích góp được.
Kiệt tác của bác có ý nghĩa lớn lao vô cùng. Nó không chỉ là sự mãn nguyện, thoả ước mơ của bác mà nó còn là bức tranh cứu người. Bức tranh đã đem lại sự sống cho Giôn-xi, đã làm cho hồn Giôn-xi sắp chết bỗng được tái sinh. Bức tranh ấy đã đem lại cho Giôn-xi niềm tin vào cuộc sống, giúp cô nhận ra ý nghĩa của đời người: "Mình đã tộ như thế nào, muôn chết là một tội".
Nó chính là điểm cao trào của tình yêu thương con người. Bác Bơ-men đã hi sinh, đã trút cái sức lực còn lại của mình vì sự sống của Giôn-xi. Chiếc lá cuối cùng đúng là điểm sáng toàn truyện. Nó được vẽ giống như thật; nó đã ra đời trong một hoàn cảnh lao động vất vả, nó dũng cảm bất chấp quy luật, vươn lên tất cả để chiến thắng nghèo đói, bệnh tật. Tình người còn lớn hơn cả nghệ thuật, nó làm cho nghệ thuật trở thành sự sống bất tử. Và đó mới là tác phẩm "đáng thờ", xứng đáng tồn tại với thời gian.
Ai đó đã nói rằng: Văn học nghệ thuật của ngôn từ. Nếu không có bơi chèo nghệ thuật thì chiếc thuyền nội dung sẽ đứng im, bất động. Nó sẽ không chuyển tải đến được tâm hồn bạn đọc những bức thông điệp giá trị nhân văn. Ở đây, tác phẩm này có giá trị nghệ thuật rất cao.
Nhà văn đã tạo nên trong tác phẩm một hơi thở riêng độc đáo. Đây là một câu chuyện giàu kịch tính. Nhà văn đã khéo léo đặt nhân vật vào các tình huống, các hoàn cảnh mang tính điển hình để khắc hoạ rõ tính cách của nhân vật. Với cách tạo tình huống này, nhà văn tạo nên sự hấp dẫn ở độc giả (các nhân vật sẽ phản ứng như thế nào, giải quyết như thế nào, buộc họ phải theo dõi tiếp).
Theo dõi câu chuyện, ta thấy cách giải quyết từng tình huống của nhà văn rất hợp lý: Khi Giôn-xi bị bệnh, Xiu không bàng quan mà tìm mọi cách (mời bác sĩ, bán tranh kiếm tiền) để cứu bạn; hoặc khi Giôn-xi có những ý nghĩ kỳ quái, cô tỏ ra lo lắng và cố gắng giảng giải để bạn hiểu ra sai lầm.
Câu chuyện này còn có nhiều chi tiết bất ngờ. Độc giả bị bất ngờ ngay từ lúc Giôn-xi có ý nghĩ kỳ quặc: tại sao cô lại mê tín về điều đó. Tâm trạng lo lắng (Giôn-xi sẽ chết khi chiếc lá cuối cùng rụng xuống) cứ theo độc giả suốt từ đó đến kết thúc chuyện.
Đỉnh điểm của sự thắt nút là chi tiết: Chiếc lá cuối cùng. Trong vô số những chiếc lá thường xuân, vẫn còn một cái trụ lại trên cành. Mạch cảm xúc, suy đoán của người đọc bị đảo ngược: trong cảnh mưa tuyết như thế sao chiếc lá kia không rụng? Sự hồ nghi này được nhà văn cởi nút ở chi tiết cuối truyện: thì ra chiếc lá ấy chính là bức tranh mà bác Bơ-men vẽ, vẽ giống như thật, đến các nhân vật trong truyện cũng không nhận ra đó là chiếc lá giả.
Nội chừng ấy cũng đã đủ nói lên thành công to lớn của tác phẩm. Với "Chiếc lá cuối cùng", O. Hen-ri đã gởi lại cho thế hệ sau bức thông điệp viết trên màu xanh của lá cây: hãy thương yêu con người, hãy vì sự sống của con người. Đó là lẽ tồn tại cao nhất của nghệ thuật vì con người.
O Hen-ri là cây bút truyện ngắn xuất sắc của nền văn học Mỹ đầu thế kỷ 20. Giải thưởng O Hen-ri là giải thưởng văn chương ở Mỹ dành cho những truyện ngắn hay nhất hàng năm. Tên tuổi nhà văn mãi mãi lưu danh hậu thế. Truyện "Chiếc lá cuối cùng" tiêu biểu cho bút pháp nghệ thuật của O Hen-ri.
Truyện chỉ có ba nhân vật, những họa sĩ nghèo: Xiu, Giôn-xi và cụ già Bơ-men. Truyện có kết cấu chặt chẽ, hầu như không có chi tiết nào thừa, diễn biến xúc động như khi nói về trận ốm kéo dài của Giôn-xi và cái chết bất ngờ của cụ Bơ-men. Có ý kiến cho rằng: Truyện Chiếc lá cuối cùng của o Hen-ri là bức thông điệp màu xanh về tình thương và sự sống của con người.
Truyện "Chiếc lá cuối cùng" đã thể hiện một tình bạn cao quý cảm động. Giôn-xi và Xiu là hai nữ họa sĩ trẻ, tuy nghèo nhưng nhiều mơ ước, nhiều yêu thương. Họ gắn bó với nhau về những sở thích và về nghệ thuật mà kết thành chị em cùng chung nhau thuê một phòng họa nơi phố nghèo. Mùa đông năm ấy, chứng viêm phổi hoành hành đã đánh ngã hàng chục nạn nhân.
Giôn-xi cũng bị cảm lạnh, nằm liệt giường. Mọi thứ thuốc men, đều trở thành vô dụng, cô yên trí là mình không thể khỏi được. Gion-xi lại bị ám ảnh, một khi chiếc lá cuối cùng của cây thường xuân phía cửa sổ rụng xuống là cô sẽ ra đi. Sự sụp đổ về tinh thần của cô họa sĩ trẻ bất hạnh làm bệnh tình ngày thêm trầm trọng.
Chính trong hoàn cảnh bi đát ấy, tình bạn được thử thách. Xiu thương đứa em nuôi vô cùng. Cô đã khóc đến sướt đẫm cả một chiếc khăn trải bàn Nhật Bản. Xiu lo âu. Xiu săn sóc và hết lòng chạy chữa cho em. Xiu làm việc nhiều hơn để kiếm thêm tiền mua thuốc và thức ăn cho Giôn-xi.
Khi đứa em tội nghiệp nằm yến lặng và trắng nhợt như một pho tượng bị đổ thì Xiu vẫn kiên nhẫn an ủi em. Cô nói qua nước mắt: Em thân yêu, em yếu dấu!… Em hãy hứa với chị là hãy nhắm mát lại và không nhìn ra ngoài cửa sổ nữa… Em hãy cố ngủ đi…
Xiu đã tận tình săn sóc em, lúc thì khuấy nước súp gà, lúc thì pha sữa với rượu Boóc-đô, lúc thì đặt thêm gối, lúc thì mời bác sĩ, lúc thì cầu cứu bác Bơ-men. Xiu đã giành giật với tử thần để chạy chữa cho đứa em nuôi bé bỏng tội nghiệp.
Xiu là hiện thân của tấm lòng trắc ẩn vị tha, là một con người giàu đức hi sinh thầm lặng, có một trái tim nhân hậu mênh mông. Xiu là một nhân vật rất đẹp làm ta xúc động và ngưỡng mộ về một tình bạn, tình chị em thủy chung, cao quý. Nhân vật Xiu tỏa sáng bức thông điệp màu xanh của Chiếc lá cuối cùng.
Để cứu người khỏi tai họa, có những con người đứng trước cái chết không hề sợ chết. Cụ già Bơ-men, một họa sĩ già là một con người giàu đức hi sinh như vậy. Năm ấy, cụ Bơ-men đã 60 tuổi, khắc khổ, đã 40 năm cầm bút vẽ mà vẫn không với tới được gấu áo vị nữ thần của nghệ thuật. Tuy vậy, cụ đã nói với cô Xiu: Một ngày kia tôi sẽ vẽ một tác phẩm kiệt xuất….
Ông không ngồi làm mẫu nữa, mà đã đứng trong cơn mưa lạnh lẽo, dai dẳng, pha lẫn tuyết đang để xuống, chỉ mặc một cái áo sơ-mi cũ màu xanh, đứng suốt đêm âm thầm sáng tạo nên Chiếc lá cuối cùng, chiếc lá dũng cảm. Gió bấc dữ dội, nhưng chiếc lá thường xuân đơn độc ấy vẫn bám chắc lấy cành. Giày và áo quần cụ họa sĩ đã ướt sũng và lạnh buốt, Cụ Bơ-men đã chết vì sưng phổi.
Chiếc lá cuối cùng do cụ vẽ nên đã đánh lui thần chết, cứu sống cô Giôn-xi. Quên mình để cứu người là một hành động cao cả. Cái chết của cụ già Bơ- men đẹp hơn mọi bài ca. Nếu Chúa bị đóng đinh chịu nạn vì hạnh phúc của con người, thì cụ Bơ-men cao đẹp thay đã xả thân vì sự sống của Giôn-xi. Cụ đã vĩnh viễn ra đi, nhưng chiếc lá cuối cùng là một kiệt tác, cụ để lại cho đời, vì sự sống và hạnh phúc của con người.
Giôn-xi khỏi bệnh, cô lặng ngắm tác phẩm kiệt xuất của cụ Bơ-men, và cô xúc động khi nghĩ tới lời Xiu nói: Cụ vẽ nó ở đấy vào cái đêm mà chiếc lá cuối cùng đã rụng với tất cả tình thương và lòng biết ơn vô hạn. Hơn một thế kỉ nay hàng triệu độc giả trên hành tinh đã cúi đầu nghiêng mình trước nghĩa cử và cái chết của họa sĩ già Bơ-men.
Chiếc lá cuối cùng là một trong những tác phẩm văn học nước ngoài đã đem đến cho chúng ta nhiều say mê và suy nghĩ. Bức thông điệp màu xanh ấy, mãi mãi tươi non trong lòng người. Tình bạn, tình chị em, tấm lòng nhân hậu, đức hi sinh của những họa sĩ trẻ và già ấy làm cho người đọc tin yêu hơn vào lòng tốt của con người. Nó nhắn nhủ nhân loại: hãy phấn đấu cho hạnh phúc của con người, hãy đem nghệ thuật phục vụ con người. Vẻ đẹp nhân vãn, giá trị nhân bản của Chiếc lá cuối cùng đã rung động tâm hồn mỗi chúng ta.
Nghệ sĩ Bơ-men đã ngã xuống vì nghệ thuật, đã hi sinh vì sự sống và hạnh phúc của con người. Nghệ thuật hướng tới con người là nghệ thuật đẹp nhất, lâu bền nhất!
Nhà văn người Mĩ chuyên viết truyện ngắn: O.Hen-ri sáng tác rất nhiều tác phẩm đặc sắc, để lại ấn tượng khó phai trong lòng người đọc, các truyện của ông tuy nhẹ nhàng giản dị nhưng lại thấm đẫm tinh thần nhân đạo, tình thương yêu giữa con người với con người. Trong số đó, truyện ngắn "Chiếc lá cuối cùng" mang đến cho người đọc những rung cảm sâu sắc về lòng nhân ái cao cả giữa những số phận nghèo khổ, đặc biệt hình tượng chiếc lá cuối cùng trong truyện ngắn thực sự là một kiệt tác nghệ thuật.
Câu chuyện xoay quanh cuộc đời và số phận của ba nhân vật Xiu, Giôn-xi và cụ Bơ-men, họ đều là những người họa sĩ nghèo sống trong khu trọ gần công viên Oa-sinh-tơn. Xiu và Giôn-xi là hai nữ họa sĩ còn trẻ, còn cụ Bơ-men thì đã già, cả cuộc đời luôn ước mơ vẽ một kiệt tác nhưng vì còn phải kiếm tiền trang trải cuộc sống nên chưa có cơ hội.
Giôn-xi mắc căn bệnh viêm phổi, khi ấy mùa đông làm cho bệnh tình của cô ngày càng trầm trọng, vốn nghèo khổ lại thêm bệnh tật, điều đó khiến cô tuyệt vọng không còn muốn sống. Từng ngày nằm trên giường bệnh nhìn ra cửa sổ và đếm từng chiếc lá trên cây thường xuân, cô chờ đợi đến khi chiếc lá cuối cùng rụng xuống nghĩa là cô cũng sẽ buông xuôi đi theo cái chết.
Biết được suy nghĩ của Giôn-xi, bằng tình thương chân thành của mình, cụ Bơ-men đã không quản trong đêm bão tuyết mưa rét, không màng tuổi cao sức yếu mà vẽ nên một kiệt tác "Chiếc lá cuối cùng" để phần nào đó giúp cho Giôn-xi có niềm tin và động lực để sống tiếp, vươn lên và chống chọi với bệnh tật.
Có thể nói, cụ Bơ-men qua bức tranh chiếc lá cuối cùng đã thực hiện và có cho mình một kiệt tác để đời. Hình ảnh chiếc lá giống y như thật, đến cả Xiu và Giôn-xi là họa sĩ cũng không nhận ra "cuống lá còn giữ màu xanh sẫm, nhưng với rìa lá hình răng cưa đã nhuốm màu vàng úa", ta cảm nhận được từng đường nét, màu sắc của chiếc lá đều rất rõ nét, chân thật và sống động.
Cụ Bơ-men đã thực hiện kiệt tác của mình trong một hoàn cảnh hết sức đặc biệt, chẳng ai lại xách đèn ra ngoài trời giữa đêm mưa bão tuyết gió lạnh và bắc thang để vẽ bức tranh trên tường gạch. Chỉ có cụ mới làm được điều đó, cụ đã hy sinh tất cả vì nghệ thuật, vì kiệt tác của cuộc đời mình, bất chấp sức khỏe và hoàn cảnh không gian, thời gian, đó chính là thời điểm thích hợp nhất.
Kiệt tác nghệ thuật ấy được sinh ra vì một mục đích tốt đẹp và cao cả, đó là mang lại hy vọng và nghị lực sống cho Giôn-xi, cô còn quá trẻ không thể cứ phó mặc cuộc đời vào chiếc lá vô tri vô giác, phải mạnh mẽ và làm chủ cuộc đời của mình. Hình tượng chiếc lá cuối cùng còn là đại diện cho giá trị nhân đạo cao cả, lòng nhân ái giữa con người với con người.
Nếu không vì tình thương với Giôn-xi, sự cảm thông và lòng nhân ái bao la, cụ Bơ-men đã không hy sinh cả tính mạng của mình để vẽ nên hình ảnh chiếc lá cuối cùng. Chiếc lá cuối cùng có ý nghĩa đặc biệt đối với tinh thần và sự sống của Giôn-xi. Cuộc đời của cô gái này có lẽ đã khác đi nếu cô nhìn thấy chiếc lá cuối cùng đã rụng xuống, chỉ nhờ có hình ảnh chiếc lá, cô mới vực dậy được niềm tin sự sống trong tâm hồn mình.
"Có một cái gì đấy đã làm cho chiếc lá cuối cùng vẫn còn đó để cho em thấy rằng mình đã tệ như thế nào. Muốn chết là một tội". Trong con người Giôn-xi đã có nhựa sống mới, cô bắt đầu hi vọng và có cho mình những ước mơ "Chị Xiu thân yêu ơi, một ngày nào đó em hi vọng sẽ được vẽ vịnh Na-plơ".
Như vậy, hình tượng chiếc lá cuối cùng không chỉ là một kiệt tác nghệ thuật đơn thuần mà còn giàu giá trị nhân văn cao cả, chính hình tượng chiếc lá cuối cùng đã cho chúng ta nhận ra được một điều rằng sức mạnh của nghệ thuật chân chính xuất phát từ chính tình yêu thương giữa con người, sức mạnh ấy còn đặc biệt hơn khi đó là tình thương giữa những con người nghèo khổ khốn cùng.
O.Hen-ri là một nhà văn chuyên viết truyện ngắn xuất sắc của nền văn học Mỹ. Ông có nhiều tác phẩm truyện ngắn nổi tiếng với giá trị nội dung sâu sắc như: Tên cảnh sát và gã lang thang, Quà tặng của các đạo sĩ, ... Và truyện ngắn Chiếc lá cuối cùng là một trong những tác phẩm như thế. Câu chuyện chứa đựng nhiều hình tượng giàu ý nghĩa, đặc biệt là hình ảnh chiếc lá cuối cùng. Đó là một hình ảnh giàu ý nghĩa không chỉ về mặt nghệ thuật mà còn cả về tinh thần nhân đạo cao cả nữa.
Truyện ngắn "Chiếc lá cuối cùng" kể về tình bạn của những người họa sĩ nghèo sống tại một khu nhà chung. Họ là những con người có cùng niềm đam mê nghệ thuật hội họa, mong muốn cống hiến cho đời những kiệt tác đẹp nhất của mình. Trong đó, nổi bật lên là tình bạn của hai người nghệ sĩ trẻ Xiu và Giôn-xi cùng với người nghệ sĩ già Bơ-men. Xiu và Giôn-xi sống cùng nhau trong một căn hộ nhỏ, cùng nhau trải qua những khó khăn về "cơm áo gạo tiền".
Cùng sống trong khu nhà đó, có cụ Bơ-men, cụ cũng là một người họa sĩ. Nhưng những chật vật về cuộc sống không cho phép cụ theo đuổi mơ ước của mình, để cụ chỉ có thể ngồi làm mẫu vẽ cho những họa sĩ trẻ. Cả cuộc đời cụ mơ ước mình sẽ vẽ được một kiệt tác để đời mà vẫn chưa thực hiện được cho đến khi Giôn-xi mắc căn bệnh viêm phổi nặng rồi mất hết hi vọng khiến cụ và Xiu vô cùng lo lắng.
O.Hen-ri đã làm nổi bật lên trong câu chuyện của mình tình bạn giữa những con người nghèo khổ. Một Xiu hết lòng lo lắng cho người bạn của mình, chăm sóc, kiếm tiền chữa bệnh, thuốc thang, động viên Giôn-xi; một cụ Bơ-men với tình yêu thương vô bờ bến dành cho cô gái nghèo Giôn-xi. Và chính tình yêu đó đã giúp cụ vẽ lên một kiệt tác để đời: Một chiếc lá thường xuân cuối cùng. Chính chiếc lá ấy đã vực dậy, làm hồi sinh một con người đã mơ tưởng đến "những nơi xa xôi" - Giôn-xi.
Hình ảnh chiếc lá cuối cùng mà O.Hen-ri tạo ra vô cùng giàu ý nghĩa, không chỉ về mặt nghệ thuật mà còn chứa đựng trong đó cả những giá trị nhân đạo vô cùng sâu sắc nữa.
Về mặt nghệ thuật, chiếc lá cuối cùng trên tường ấy là một kiệt tác để đời của cụ Bơ-men - một người nghệ sĩ. Kiệt tác tức là một tác phẩm nghệ thuật hết sức độc đáo, hết sức tuyệt vời, giàu ý nghĩa. Người ta thường nhắc tới các kiệt tác nổi tiếng thế giới như bức tranh nàng Mona Lisa của De Vinci, Sáng tạo của Adam - Michelangelo...
Nhưng kiệt tác được tạo nên trong tác phẩm "Chiếc lá cuối cùng" của Ô Henri lại chỉ là một tác phẩm nghệ thuật vô cùng bình thường trên một bức tường. Thế nhưng ẩn sâu trong nó lại chứa đựng một tấm lòng cao cả, lớn lao, một sự hy sinh thầm lặng, không cầu báo đáp.
Về giá trị nhân đạo, Chiếc lá cuối cùng là niềm hy vọng sống cuối cùng gieo vào lòng Giôn-xi - một cô gái đã mất hết niềm tin vào cuộc sống. Chiếc lá ấy đã thực hiện ý nghĩa cuối cùng nhưng vô cùng to lớn của mình là gieo lại niềm hi vọng sống cho một con người, cứu con người ấy thoát khỏi vòng tay của tử thần. Không chỉ thế, nó còn mang trong mình tình yêu thương bao la, vô bờ bến của người họa sĩ nghèo, già cả - Bơ-men đối với Giôn-xi.
Tình cảm đó là tình yêu giữa con người với con người với nhau, là sự đồng cảm, yêu thương sâu sắc giữa những người có cùng cảnh ngộ với nhau. Và hơn thế nữa, chiếc là đó được vẽ lên bởi tâm huyết cũng như sự hy sinh cao cả của một con người. Tất cả những giá trị đó đã tạo nên ý nghĩa nhân đạo sâu sắc của chiếc lá thường xuân cuối cùng trên tường - kiệt tác để đời của cụ Bơ-men.
Cuối cùng, cụ Bơ-men - người vẽ lên kiệt tác chiếc lá ấy đã không qua khỏi được căn bệnh viêm phổi nặng. Vậy nhưng chiếc lá mà cụ đã vẽ ấy đã giúp hồi sinh một con người. Sự hi sinh thầm lặng mà cao cả của cụ thật đáng trân trọng biết nhường nào. Qua hình ảnh chiếc lá và sự hi sinh của người nghệ sĩ già, tác giả Ô Henri muốn nhấn mạnh với chúng ta mục đích cao cả của nghệ thuật.
Nhà văn O.Hen-ri là một nhà văn nổi tiếng của đất nước Mỹ, ông có nhiều sáng tác thu hút và gây được tiếng vang lớn với người đọc. Tác phẩm "Chiếc lá cuối cùng" là một tác phẩm có sức hút vô cùng lớn với người đọc thể hiện khát vọng hướng tới những điều tốt đẹp, hoàn mỹ trong cuộc sống của tác giả một cách vô cùng mãnh liệt cháy bỏng.
Hình ảnh "Chiếc lá cuối cùng" trong kiệt tác cuối cùng của người họa sĩ già Bơ-men đã để lại trong lòng độc giả nhiều xúc động. Nó là một kiệt tác giàu tính nhân văn, cao cả, tính nghệ thuật sâu sắc. Hình ảnh "Chiếc lá cuối cùng" xoay quanh những số phận họa sĩ nghèo cùng sống chung trong một ngôi nhà trọ. Hai cô họa sĩ trẻ mới vào trường mỹ thuật tên là Giôn-xi và Xiu, cùng ông họa sĩ già tên Bơ-men.
Không may, Giôn-xi mắc bệnh viêm phổi cô luôn có cảm giác rằng mình sắp chết. Năm đó mùa đông vô cùng lạnh lẽo, tuyết rơi phủ trắng đường, những trận bão tuyết làm cho căn bệnh của Giôn-xi càng nên nặng hơn. Cuộc sống của ba người họ vô cùng buồn bã, nó diễn ra lặp đi lặp lại mỗi ngày tẻ nhạt, xung quanh ngôi nhà họ ở có một cái cây, và những bụi dây leo quanh.
Chiếc lá trên những cánh thường xuyên kia được tượng trưng cho số phận của cô gái xấu số Giôn-xi, bởi cô cho rằng khi nào chiếc lá cuối cùng rơi xuống thì lúc đó cô cũng sẽ chết. Giôn-xi hoàn toàn tuyệt vọng vào cuộc sống, và cô gái Giôn-xi này phó mặc đời mình vào những chiếc lá.
Cả ba người họ đều là nghệ sĩ, chính là những người đi tìm niềm vui trong cái đẹp, luôn hướng tới cái đẹp và vì cái đẹp mà hoàn thiện bản thân mình tới sự chân-thiện-mỹ. Ông cụ Bơ-men là người sống vì nghệ thuật, ông luôn mơ ước mình có thể vẽ được một tác phẩm để đời, một kiệt tác mà người đời sau phải trầm trồ ngưỡng mộ. Nhưng vì cuộc sống mưu sinh để kiếm vào đô la một giờ ông cụ buộc lòng phải ngồi làm mẫu vẽ cho những sinh viên trường mỹ thuật.
Chính vì vậy, ước mơ về một tác phẩm để đời của ông vẫn chưa thực hiện được. Ông cụ Bơ-men thường thương cho Giôn-xi khi cô tuyệt vọng ngồi đếm những chiếc lá rơi rồi lo lắng khi những chiếc lá còn lại trên cây ngày càng ít đi. Chính nhờ tình thương với cô gái trẻ này mà ông cụ Bơ-men đã sáng tác ra một bức tranh kiệt xuất đó chính là bức tranh chiếc lá cuối cùng, bởi ông biết nó có ý nghĩa vô cùng to lớn với cô gái Giôn-xi tội nghiệp của chúng ta.
Có thể nói rằng bức tranh Chiếc lá cuối cùng vừa bắt đầu cho một cuộc sống mới vừa kết thúc một đời người. Bức tranh chiếc lá cuối cùng của ông lão Bơ-men chính là điểm nhấn là tia sáng của toàn bộ tác phẩm này. Nó là cho câu chuyện rẽ sang một hướng khác, thể hiện sự đồng cảm nhân văn của tác giả.
Bức tranh chiếc lá cuối cùng là biểu tượng giàu tính giá trị nghệ thuật, đồng thời cũng giàu giá trị nhân văn nhân đạo sâu sắc. Khi chúng ta xét về phương diện nghệ thuật có thể thấy rằng đây chính là một bức tranh vô cùng xuất sắc của ngành mỹ thuật, khi ông Bơ-men vẽ thành công bức tranh mà Giôn-xi một sinh viên trường mỹ thuật nhìn chiếc lá trên cái cây ấy hoàn toàn không phát hiện ra nó chỉ là một bức tranh được vẽ nên. Vậy thì bức tranh đó phải vô cùng xuất sắc giống y như thật.
Chính bức tranh kiệt tác này tạo nên điểm nhấn cho toàn bộ tác phẩm, nó thể hiện sự tài hoa, sâu sắc tinh tế của nhà văn O.Hen-ri, dẫn dắt người đọc sang một lối rẽ khác của câu chuyện. Kiệt tác bức tranh chiếc lá cuối cùng của ông lão Bơ-men đã giúp cho nhân vật Giôn-xi có hy vọng vào cuộc sống, có ý chí chiến đấu với bệnh tật mà không buông bỏ mạng sống của mình.
Bức tranh Chiếc lá cuối cùng được ông lão Bơ-men vẽ trong một đêm mưa gió, một đêm mà những chiếc lá thường xuân đã rụng hết rồi. Và bức tranh của ông kịp thời cứu sống một linh hồn. Nhưng vì muốn kéo dài sự sống cho cô gái Giôn-xi mà ông cụ Bơ-men đã sinh bệnh rồi qua đời vào sáng hôm sau vì lạnh cóng. Một sự hy sinh vô cùng cao đẹp của một con người có trái tim nhân hậu ấm áp.
Sự hy sinh của ông cụ Bơ-men khiến người đọc vô cùng xúc động rưng rưng dòng lệ. Ông cụ đã hy sinh mạng sống của mình cho nhân vật Giôn-xi có thêm động lực sống tiếp. Một sự hy sinh vô cùng nhân văn cao cả.
Hình ảnh chiếc lá cuối cùng của cụ Bơ-men chính là một kiệt tác hoàn hảo chứng minh cho sự sáng tạo không ngừng nghỉ của nhà văn O.Hen-ri và những người làm những nghề nghiệp liên quan tới nghệ thuật. Nó thể hiện tinh thần nhân văn, nhân đạo của tác giả. Nó thể hiện một triết lý sống vô cùng cao đẹp, đáng quý của cuộc đời.
Phân tích truyện ngắn Chiếc lá cuối cùng – mẫu 11
Chiếc lá cuối cùng là một truyện ngắn xuất sắc của nhà văn đầy ắp tình thương yêu và niềm tin với con người, một bức thông điệp khẳng định sứ mạng và sức mạnh của nghệ thuật chân chính.
Câu chuyện kể về cuộc sống chật vật của những người hoạ sĩ nghèo: hai nữ họa sĩ trẻ Xiu và Giôn-xi sống cùng căn hộ với người họa sĩ già Bơ-men. Những khó khăn về vật chất đã vắt kiệt sức sáng tạo, khiến họ lâm vào cảnh bi đát. Cụ Bơ-men suốt bốn chục năm mơ ước vẽ một bức kiệt tác mà không thực hiện được, đành phải ngồi làm mẫu cho các họa sĩ trẻ để kiếm chút tiền còm nuôi thân. Giôn-xi bị sưng phổi, bệnh tật và nghèo túng đã lấy nốt của cô niềm tin vào cuộc sống. Chỉ còn lại Xiu mòn mỏi với những bức vẽ và ám ảnh bởi suy nghĩ của Giôn-xi: cô gái bệnh tật ấy đang đếm từng chiếc lá rơi để chờ định mệnh phán quyết mạng sống của chính mình, với niềm tin khi chiếc lá cuối cùng rụng xuống thì cô sẽ ra đi… Không gian cuộc sống của những con người khốn khổ ấy lạnh lẽo u ám như mùa đông, nặng trĩu những buồn lo.
Đáng sợ làm sao khi mỗi ngày trôi đi trong gió tuyết và những cơn mưa lạnh lẽo dai dẳng, những chiếc lá thường xuân tiếp tục rơi xuống, chỉ còn lại một chiếc lá cuối cùng để Giôn-xi như nhìn thấy cái chết của mình đang đến gần. Có lẽ ai trong chúng ta cũng cảm thấy rối lòng, bất lực trước một con người đã buông xuôi, chán sống. Bởi thế nhà văn đã tập trung miêu tả khoảnh khắc căng thẳng của Xiu và cụ Bơ-men lúc Giôn-xi đang ngủ: “Họ sợ sệt ngó ra ngoài cửa sổ, nhìn cây thường xuân. Rồi họ nhìn nhau một lát, chẳng nói năng gì”. Có lẽ trong giây phút đó, họ đã nhìn thấy nhánh thường xuân cuối cùng trụi lá rồi chăng? Dường như cùng với cái khắc nghiệt của trời đông, mưa gió, họ có thể đoán trước được điều gì khi Giôn-xi tỉnh dậy vào sáng hôm sau và thấy chiếc lá cuối cùng đã rụng.
Trong hoàn cảnh này, người đau khổ nhất không phải là Giôn-xi mà chính là cô gái trẻ Xiu. Bởi lẽ, cô là người sẽ phải chứng kiến toàn bộ tấn bi kịch sắp diễn ra vào sáng hôm sau khi Giôn-xi lại nhìn ra cửa sổ. Nhà văn không mô tả cụ thể tâm trạng Xiu, chỉ cho biết cô “tỉnh dậy sau khi chợp mắt được một tiếng đồng hồ”, như vậy có nghĩa là cô đã phải trải qua một đêm trắng đầy âu lo thổn thức, trong sự bồn chồn và bất lực. Một đêm mưa gió ngoài trời dữ dội, một chiếc lá mong manh bám trên bức tường gạch chắc chắn sẽ bị vùi dập tơi tả, không chống chọi nổi sự tàn phá của tự nhiên. Điều đó có nghĩa là sau phút kéo mành lên, Giôn-xi sẽ nhìn thấy cái chết của chính mình. Nhưng Xiu cũng không thể chịu được khoảnh khắc nhìn thấy “Giôn-xi đang mở to cặp mắt thẫn thờ nhìn tấm mành mành màu xanh đã kéo xuống”. Không kéo mành lên cũng không được, vì như vậy Xiu sẽ mang mặc cảm chính mình mới là người gây ra cái chết của Giôn-xi. Ta hiểu tâm trạng của cô khi làm theo một cách chán nản, bản thân cô cũng không còn phương cách nào giúp cho người đồng nghiệp, người em gái kia từ bỏ suy nghĩ điên rồ đáng sợ kia.
Chính vào lúc ấy, một hình ảnh bất ngờ đã làm đảo lộn mọi dự đoán, đảo ngược cả tình huống tưởng như chắc chắn trong dự định của Giôn-xi, trong nỗi lo của Xiu và trong sự thất vọng của mọi người. Tình huống ấy đã thắp lại niềm hy vọng như một phép màu: vẫn còn một chiếc lá thường xuân bám trên bức tường gạch. Có lẽ người vui mừng nhất lúc này là Xiu, vì chiếc lá cô nhìn thấy không phải là một ảo ảnh: “Đó là chiếc lá cuối cùng trên cây. Ở gần cuống lá còn giữ màu xanh sẫm, nhưng với rìa lá hình răng cưa đã nhuốm màu vàng úa, chiếc lá vẫn dũng cảm treo bám vào cành cách mặt đất chừng hai mươi bộ”. Còn Giôn-xi? Cô cũng nhận ra: “Đó là chiếc lá cuối cùng”, thừa nhận sự thật một cách miễn cưỡng và tiếp tục suy nghĩ: “Hôm nay nó sẽ rụng thôi và cùng lúc đó thì em sẽ chết”.
Giôn-xi thật đáng thương nhưng cô cũng thật đáng trách khi vẫn đeo đuổi ý định từ bỏ cuộc sống. Cô chìm đắm trong ý nghĩ kỳ quặc của mình, mặc kệ những sợi dây ràng buộc cô với tình bạn và với thế gian cứ lơi lỏng dần từng sợi một.Cô đã phụ lòng của Xiu, bởi lẽ cô đã xem nỗi đau của mình lớn hơn tất cả mọi sự quan tâm lo lắng của mọi người. Trong thời điểm ấy, sẽ không ai có thể giúp đỡ cô, ngoại trừ chính bản thân cô. Thời gian một ngày kéo dài đằng đẵng để Giôn-xi chứng kiến chiếc lá thường xuân chống chọi với mùa đông khắc nghiệt. Chiếc lá bướng bỉnh ấy không chấp nhận sự buông xuôi của một cô gái còn quá trẻ. Thế nhưng, khi con người ấy đã chấp nhận đầu hàng số phận, thì sức mạnh của màn đêm buông xuống, gió bấc ào ào, mưa đập mạnh vào cửa sổ lại có một uy lực khiến cho Giôn-xi không còn một niềm tin nào vào sự sống của chính mình. Sự cố chấp ấy quả thật đáng chê trách.
Nhà văn đã tạo ra một tình huống thử thách trước số phận của Giôn-xi, để rồi, cuối cùng người đọc có thể thở phào nhẹ nhõm: “chiếc lá thường xuân vẫn còn đó”. Chiếc lá mong manh ấy đã chiến thắng được thời tiết khắc nghiệt, để tạo ra một bước ngoặt trong nhận thức của Giôn-xi. Cuối cùng, cô gái ấy đã nhận ra sự ích kỷ tồi tệ của bản thân mình. Chiếc lá cuối cùng đã cứu sống một sinh linh. Trước hết là thức tỉnh khát vọng sống tiềm ẩn trong tâm hồn của Giôn-xi, để cô nhận ra: “có một cái gì đấy đã làm cho chiếc lá cuối cùng vẫn còn đó để cho em thấy rằng mình đã tệ như thế nào. Muốn chết là một tội.”. Phép nhiệm màu đã xảy ra, vượt qua tất cả những quy luật thường tình của thiên nhiên tạo hoá, khiến Giôn-xi không hiểu và không sao hiểu được. Phải chăng, Thượng đế chí công và nhân từ không nỡ để một cô gái trẻ phải sớm giã từ cuộc sống? Không những thế, sau thời khắc bừng tỉnh, cô gái Giôn-xi đã lại bắt đầu mơ ước về tương lai: “một ngày nào đó em sẽ vẽ được vịnh Na- plơ”. Thượng đế thật công bằng, vị thượng đế ấy có tên là… Bơ-men.
Người hoạ sĩ già khốn khổ ấy không có quyền năng tối thượng của Thượng đế, nhưng ông có một trái tim giàu lòng thương cảm. Hoá ra, trong thời điểm làm mẫu cho Xiu, con người ấy đã đi đến một quyết định táo bạo, đoạt quyền của Đấng-toàn-năng bằng chính khả năng của mình. Con người đã bốn mươi năm theo đuổi kiệt tác mà không thành công đã tạo nên một kiệt tác cuối cùng của đời mình: chiếc lá cuối cùng! Khi bắt tay vào công việc, người nghệ sĩ chân chính ấy đã âm thầm hành động với ước nguyện thật cao cả: trả lại niềm tin vào sự sống cho Giôn-xi. Không ai được biết có bao nhiêu tinh hoa đã phát tiết trong giờ phút vẽ nên chiếc lá trên tường của cụ Bơ-men. Tất cả đều diễn ra quá bất ngờ, đến nỗi cả Xiu là người đã chứng kiến giờ phút chiếc lá cuối cùng rụng xuống cùng cụ Bơ-men cũng phải bàng hoàng. Ta chợt hiểu những lời nói hối hả của cô với Giôn-xi: “Em thân yêu, thân yêu. Em hãy nghĩ đến chị, nếu như em không còn muốn nghĩ đến mình nữa. Chị sẽ làm gì đây?”. Cô đã hiểu tất cả, nhưng không dám nói rõ cho Giôn-xi, bởi lẽ cô chưa thể hình dung ra phản ứng của Giôn-xi trước một sự lừa dối bắt nguồn từ lòng tốt của người hoạ sĩ già. Lời nói ấy còn bộc lộ một niềm sung sướng vô biên của Xiu trước giải pháp tình thế mà cụ Bơ-men đã nghĩ ra trong đêm chiếc lá cuối cùng thực sự đã rụng xuống. Bởi thế, lần kéo mành vào hôm sau, ta không còn gặp tâm trạng chán nản đến cùng cực của Xiu nữa.
Vì sự sống của một cô gái, cụ Bơ-men đã bất chấp thử thách của thời tiết khắc nghiệt, quên đi sự sống của bản thân mình. Có lẽ bản thân cụ cũng không ngờ đó là bức vẽ cuối cùng của cuộc đời mình, nhưng chắc chắn một điều khi người hoạ sĩ ấy vẽ chiếc lá, bức vẽ ấy không nhằm để lưu lại tên tuổi nghệ sĩ với đời. Điều đáng quan tâm lúc đó là sự sống đã tắt trong tâm hồn một cô gái trẻ, làm thế nào để cô thôi không bị ám ảnh bởi quy luật lạnh lùng của tạo hoá, để rồi vươn lên giữa cuộc đời bằng chính sức sống tiềm tàng trong tâm hồn cô. Đó là lúc người hoạ sĩ già ấy hiểu thấu sứ mệnh vinh quang và cao cả của nghệ thuật: hướng về con người chứ không phải là nhằm tạo chút danh tiếng hão huyền, nghệ thuật chỉ thật sự bắt đầu khi sáng tạo của người nghệ sĩ giúp ích cho đời.
Cuối cùng thì Giôn-xi đã vượt qua cửa ải của chính mình, trở lại với niềm tin sự sống nhờ niềm tin vào sức sống mãnh liệt từ chiếc lá cuối cùng – tác phẩm của cụ Bơ-men. Nhưng người nghệ sĩ già ấy đã phải trả một cái giá quá đắt bằng chính mạng sống của mình. Giôn-xi chỉ được biết điều ấy khi đã thật sự bình phục bằng nghị lực của chính mình. Qua lời thuật lại của Xiu, ta hiểu được lòng biết ơn của Xiu đối với người hoạ sĩ cao cả ấy, và cô muốn nhắc nhở Giôn-xi không thể vô ơn trước sự hy sinh của một con người chân chính, vì sự sống của đồng loại đã không ngần ngại xả thân. Cụ Bơ-men đã nhiễm chính căn bệnh sưng phổi của Giôn-xi vào lúc tạo nên chiếc lá cuối cùng giữa một đêm đông mưa gió lạnh lẽo. Chi tiết xúc động này khiến ta tin rằng Giôn-xi dù biết rằng chiếc lá ấy là một sản phẩm nhân tạo, nhưng chắc chắn cô sẽ không bao giờ hối hận trước một sự lừa dối cao cả như thế, Người hoạ sĩ già Bơ-men là hiện thân của sự cao thượng, lòng vị tha, đức hy sinh của một con người chân chính.
Câu chuyện kết thúc bằng một sự đảo ngược tình huống lần thứ hai. Chiếc lá cuối cùng là một sự lừa dối, nhưng lại là một sự lừa dối cao cả để đem lại niềm tin vào sự sống cho con người. Kiệt tác cuối cùng của người họa sĩ già đã được ra đời nằm ngoài tất cả mọi dự đoán của công chúng. Nhưng chiếc lá cuối cùng ấy mãi mãi là bằng chứng của tấm lòng yêu thương con người. Bởi thế, Chiếc lá cuối cùng sẽ mãi bất tử với thời gian.
Phân tích truyện ngắn Chiếc lá cuối cùng – mẫu 12
Ai đã từng đọc những truyện ngắn của nhà văn người Mỹ O’Hen-ri (1862 –1910) hẳn sẽ cảm nhận một điều: từ hiện thực cuộc sống đầy rẫy những bất công vô lý, đem đến bao bất hạnh cho những cuộc đời nghèo khổ, nhà văn luôn khơi dậy được vẻ đẹp tâm hồn những con người qua những tình huống truyện bất ngờ, cảm động. “Chiếc lá cuối cùng” là một truyện ngắn xuất sắc của nhà văn đầy ắp tình thương yêu và niềm tin với con người, một bức thông điệp “tình đời trong chiếc lá “khẳng định sứ mạng và sức mạnh của nghệ thuật chân chính. Tình người ấy trước hết biểu hiện ở nhân vật cụ Bơ-men, rồi đến nhân vật Xiu.
Cụ Bơ-men không phải là nhân vật chính, cũng không xuất hiện nhiều trong tác phẩm. Suốt đời cầm bút, cụ luôn mơ ước vẽ được một kiệt tác, nhưng chưa bao giờ bắt đầu và tự cho mình là “một người thất bại trong nghệ thuật”. Vậy mà lần này cụ đã làm được một việc kì diệu, đã sáng tạo được một tác phẩm hội họa đích thực. Khi lên gác, cảm nhận rõ giấc ngủ yếu đuối của Giôn-xi, rồi nhìn qua cửa sổ, thấy những chiếc lá trên cây thường xuân rụng gần hết, cụ Bơ-men đã nhìn Xiu, cô chị kết nghĩa của Giôn-xi, lặng lẽ chẳng nói năng gì. Tuy không nói nhưng hẳn trong tâm trí ông cụ đang nung nấu một ý nghĩ, một quyết định nào đó vô cùng quan trọng. Đối với cụ Bơ-men, hai cô họa sĩ nghèo hàng xóm là những người thân yêu gần gũi như ruột thịt. Cụ hiểu rất rõ tình trạng bệnh tật và tâm hồn yếu đuối của Giôn-xi. Nhà văn đã không kể tiếp cụ Bơ-men đã làm gì trong đêm mưa gió ấy, mà dùng thủ pháp buông thả nhân vật, giấu kín sự việc, ngắt đoạn, đảo ngược thời gian để kể câu chuyện về hai chị em Giôn-xi. Cho đến giây phút quan trọng nhất của cuộc đời Giôn-xi, giây phút chiến thắng cái chết, dần dần trở về với sự sống, người đọc mới biết rõ công việc của cụ Bơ-men. Thì ra trong cái đêm lạnh giá, gió bấc ào ào, mưa đập mạnh vào cửa sổ, người họa sĩ già ấy đã vẽ chiếc lá thường xuân thay cho chiếc lá cuối cùng vừa lìa cành trên bức tường đối diện ở phòng của Giôn-xi. Một mình ông cụ đã bắc thang trèo lên tường, cầm đèn bão, mang đầy đủ bút lông và bảng pha màu…để sáng tác tác phẩm của mình. Tuổi cao, sức yếu mà dám đương đầu với thiên nhiên khắc nghiệt, làm việc âm thầm như thế quả là một người dũng cảm. Nhưng không chỉ là một hành động dũng cảm, vẽ chiếc lá thường xuân trên tường giữa đêm mưa gió thực sự là một quá trình sáng tạo đầy gian khổ mà hào hứng của cụ Bơ-men. Ngỡ như người nghệ sĩ đã dồn hết tâm hồn, khát vọng và sức lực của đời mình cho tác phẩm. Do đó đúng như lời nhận xét của Xiu, hình ảnh chiếc lá thường xuân trên bức tường kia “chính là kiệt tác của cụ Bơ-men”. Gọi đó là kiệt tác vì chiếc lá y như thật, thậm chí còn hơn cả một chiếc lá thật. Nó đã dũng cảm bám vào cuống lá, bám chắc trên tường, mặc cho mưa tuôn, bão thổi. Chính sức sống kiên cường của chiếc lá đã thổi vào tâm hồn cô nghệ sĩ Giôn-xi hơi ấm của niềm tin và nghị lực, kéo cô từ vực thẳm của bệnh tật vươn lên chiến thắng, vượt qua cái chết, trở về sự sống.
Cùng với nhân vật cụ Bơ-men, nhân vật Xiu, cô họa sĩ nghèo, cũng được nhà văn khắc họa và ngợi ca bằng những sự việc, chi tiết truyện thật cảm động. Tuy chỉ là chị em kết nghĩa nhưng đối với Giôn-xi, Xiu đã yêu thương chăm sóc như đứa em ruột thịt. Ngày ngày thấy Giôn-xi đếm từng chiếc lá rụng, Xiu tưởng như thần chết đang đến gần căn phòng của hai chị em. Cho đến ngày cuối cùng, ngó ra ngoài cửa sổ nhìn cây tầm xuân – chắc rằng trên cành chỉ còn lơ thơ một hai chiếc lá, Xiu thực sự sợ sệt, nhìn cụ Bơ-men một lát mà chẳng biết nói năng gì. Khi Xiu kéo tấm mành lên, cô thấy “chiếc lá thường xuân vẫn còn đó” và cô sung sướng vô ngần khi nghe Giôn-xi gọi lại đòi ăn cháo, uống sữa, pha rượu vang, hẹn sẽ “vẽ vịnh Na-plơ”. Sung sướng hơn nữa là nghe bác sĩ báo “Chăm sóc chu đáo thì sẽ chiến thắng”. Phải chăng cùng với sự khích lệ của chiếc lá dũng cảm – kiệt tác của cụ Bơ-men, tình thương và sự chăm sóc tận tụy của Xiu, đã giúp cho Giôn-xi chiến thắng bệnh tật, chiến thắng những mềm yếu trong tâm hồn. Rõ ràng cùng với nhân vật cụ Bơ-men, nhân vật Xiu cũng góp những sắc màu nhỏ nhẹ, trong sáng làm đẹp thêm bức tranh tình người bao la, kì diệu của câu chuyện “Chiếc lá cuối cùng” độc đáo.
“Tình đời trong chiếc lá” đó là bức thông điệp mà O Hen-ri muốn gửi gắm qua truyện ngắn của mình. Qua đó nhà văn đã cơ ngợi tình yêu thương, tình bạn thiêng liêng, cao quý đã giúp con người vượt qua được mọi khó khăn trong cuộc sống.
Cách đây 86 năm, trên bầu trời văn học nước Mĩ, một ngôi sao sáng đã lặn. Ngôi sao ấy là O. Hen-ri. Sự ra đi của ông quả thật, đã để lại cho nhân dân nước Mĩ nhiều tiếc nuối. Thế nhưng, đúng như có người đã nói: "Văn học nằm ngoài những định luật của băng hoại, chỉ mình nó không thừa nhận cái chết" Mặc dù ngôi sáng ấy lặn khá lâu rồi song dư quang của nó vẫn lấp lánh toả sáng trên những trang văn mà ông O. Hen-ri để lại cho đời. Sự nghiệp sáng tác của ông không đồ sộ như M.Gorđki, L.Tônxlôi nhưng hầu hết các tác phẩm mà nhà văn viết ra đều có giá trị lớn. Chiếc lá cuối cùng là một trong những tác phẩm như thế.
Tiếp xúc với thiên truyện ngắn Chiếc lá cuối cùng, ta sẽ được nhà văn đưa đến phía Tây công viên Oa-sinh-tơn của nước Mĩ. Đó là một địa điểm nhỏ, phố xá nhằng nhịt không có lối ra rõ ràng. Hầu như khu công viên nhỏ này bị một màn xám bao phủ, vây quanh. Nó đã làm cho cuộc sống của những con người như Xiu, Giôn-xi và bác Ba-men thiếu sinh khí: "Hãy tưởng tượng một tay thu ngàn nào đó mang hoá đơn đòi tiền sơn hay giấy và vải vẽ đi qua con đường này, đột nhiên lại gặp ngay chính mình quay trở ra, tiền nợ không thu một xu nhỏ". Cách nói rất hình ảnh của tác giả đã cho ta cảm nhận được cái nghèo nàn, đạm bạc của những con người ở đây. Ở đây hầu hết là giới nghệ sĩ chung sống với nhau. Họ phải bỏ tiền ra thuê những căn phòng tối om và vẽ những bức vẽ bình thường đổ kiếm sống. Họ chăm chỉ làm ăn là thế mà nghèo vẫn hoàn nghèo, thiếu thốn vẫn hoàn thiếu thốn. Ta tưởng như họ sống trong hôm nay mà chẳng đến hết ngày mai. Những họa sĩ (Giôn-xi, Xiu, Bơ-men) trong ý thức họ vẫn muốn hẹn một cuộc sống tốt đẹp, một tương lai sáng lạn. Thế nhưng cơ hội lại chưa mỉm cười với họ. Thành ra họ chỉ còn biết chờ đợi với tình cảm mông lung, huyễn tưởng. Rõ ràng ta nhận thấy O. Hen-ri không thi vị hoá cuộc sống. Ngòi bút của ông hướng về hiện thực, tái hiện chân thực những cảnh đời đói khổ.
Nhưng, để tránh hiểu lầm, có lẽ cũng cần phải nói thêm: nhà văn phản ánh hiện thực không chỉ để phản ánh, để phơi bày hiện thực mà cái chính là qua bức ảnh chụp đó, tác giả muốn bày tỏ thái độ đối với con người. Dù chỉ là một góc phố nhỏ thôi - nhà văn cũng lách ngọn bút vào để tìm tòi khám phá. Những tâm tư, tình cảm của Bơ-men, Xiu, Giôn-xi đều được nhà văn chăm chú lắng nghe để rồi khơi lên trong lòng độc giả những tia nước nguồn thương. Nguồn thương của tác giả rung lên khi nhân vật gặp tình huống éo le. Ông tỏ ra rất quan tâm tới số phận của những con người này. Ông thương cảm cho Giôn-xi, một "phụ nữ nhỏ bé", thiếu máu vì những cơn gió hiu hiu, bị mắc chứng bệnh viêm phổi. Ông đồng tình với ước mơ chính đáng của bác Bơ-men: muốn có một kiệt tác để lại cho đời. Với Bơ-men, tác giả thấy con người này thật đáng thương. Ông đã "ngoài sáu mươi ", đã "múa cây bút vẽ bốn mươi năm" mà vẫn không "với tới được gấu áo vị nữ thần của mình". Nói chung, cuộc đời cơ cực nào cũng chiếm được trái tim nhân đạo của nhà văn. Ông đã viết về họ như viết về chính mình, cho nên dễ hiểu, dễ đọc, dễ làm xúc động lòng người. Cái dễ làm xúc động lòng người ấy không phải ngẫu nhiên mà có. Ta thấy trong thực tế, cuộc đời của tác giả cũng gặp nhiều nỗi gieo neo. Ông đã từng trải nghiệm qua rất nhiều nghề để kiếm sống, cảnh đời thật đã cho ông yêu sống phong phú. Khi viết truyện, ông đặt cái tâm nóng hổi của mình lên trang giấy. Từ bác Bơ-mcn đến Giôn-xi, Xiu, hầu hết đều có sự hoá thân của tác giả...
Cuộc sống sao mà đắng cay đến thế! Nhưng càng trong sự đắng cay, đen tối tâm hồn con người càng toả sáng và ngát hương. Nhà văn đã phát hiện ra trên đầm bùn, trên thảo nguyên hoang dại bỗng rực cháy sáng lên "ngọn lửa Đan- cô" ngọn lửa của tình thương yêu của con người với con người.
Trước hết, ông muốn bày tỏ thái độ ca ngợi về nét đẹp trung trinh của Xiu và Giôn-xi. Với ông, ở họ có một tình hạn rất đẹp đẽ, trong sáng và rất đáng trân trọng. Cuộc sống nghèo khổ, sở thích tương đồng, tình cờ đã giúp họ xích lại gần nhau. Khi Giôn-xi bị bệnh, Xiu không lãnh đạm, không thờ ơ, không bỏ mặc bạn. Ngược lại, cô chăm nom, săn sóc Giôn-xi rất chu đáo. Cô mời bác sĩ về chữa bệnh cho bạn. Tình cảm của Xiu dành cho Giôn-xi thật là gắn bó, thật là cảm động. Nghe bác sĩ nói bệnh tình của Giôn-xi "mười phần chỉ còn hi vọng được một" thì Xiu đã vào phòng làm việc và "khóc đến ướt đẫm cả một chiếc khăn trải bàn Nhật Bản". Giọt nước mắt ấy là giọt nước mắt của tình thương. Trái tim cô không hề "chai sạn" mà luôn rung lên những nhịp đập đớn đau khi nghĩ đến cảnh: chỉ vài ngày nữa thôi cô bé sẽ mất đi một người bạn yêu quý. Thương thì thương vậy đấy, thế nhưng cô vẫn muốn kìm nén nỗi đau, cố chạy trên thực tại phũ phàng ("thản nhiên") để Giôn-xi yên tâm. Rồi cô tỏ ra thực sự "lo lắng" khi phải chứng kiến ý nghĩ "kỳ quái" của bạn mình. Xiu luôn muốn được ở "bên cạnh" bạn để săn sóc, luôn tìm cách động viên an ủi Giôn-xi: "Ông bác sĩ đã nói với chị là em sẽ chóng hình phục thôi (...) khả năng khỏe là mười phần chắc chín". Thực ra, đây là một lời nói dối. Nhưng sự nói dối của Xiu, trong hoàn cảnh này không hề có tội. Sự nói dối của cô chẳng qua chỉ là sự bất đắc dĩ, xuất phát từ tình yêu thương bạn, muốn giúp bạn bớt lo lắng và có niềm tin, niềm hi vọng vào cuộc sống. Tình yêu thương của Xiu không chỉ thể hiện qua lời nói mà còn biểu lộ qua việc làm cụ thể. Cô nấu cháo cho bạn ăn. Cô dồn tâm sức để vẽ nhiều tranh ảnh để kiếm tiền chăm sóc cho Giôn-xi. Tình cảm của Xiu là tình cảm chân thành. Tình cảm ấy làm ta rưng rưng cảm động. Trong thâm tâm Xiu, Giôn-xi là một người em ruột. Cô đã chăm bẵm bạn theo cấp độ tình cảm máu thịt, chân tình ấy.
Bơ-men, người hoạ sĩ già, cũng là nhân vật được tác giả Chiếc lá cuối cùng dành cho những dòng văn ưu ái, trân trọng. Như đã nói, cuộc đời ông thất bại trong nghệ thuật và nghèo khổ trong cuộc sống. Do chí riêng không thoả, cuộc sống tẻ nhạt mà ông thường hay cáu gắt với mọi người. Nhưng điều đó không có nghĩa là ông ta đã mất hết tình người. Ông tự nhận là "con chó xồm lớn chuyên gác cửa bảo vệ hai nữ nghệ sĩ trẻ ở phòng vẽ tầng trên". Khi nghe Xiu kể chuyện, Bơ-men đã quá lo: "Sao trên đời này lại có những người ngớ ngẩn" vậy. "Lời nói của ông đích thực là một lời coi thường, một tiếng chửi. Thế nhưng trong lời chửi "độc mồm" ấy vẫn tiềm ẩn lòng thương con người "Chà, tội nghiệp cô bé Giôn-xi".
Lòng yêu thương ấy dường như là một điểm gợi hứng, là một điểm khơi nguồn để bác Bơ-men sáng tác lên một bức tranh kiệt tác? Có thể là như thế. Sự nguy kịch có liên quan đến sự sống còn của một con người dường như đã thôi thúc trái tim bác phải làm một điều gì đó để giúp họ. Và thế là trong một đêm khủng khiếp, bất chấp cả mưa gió bác Bơ-men đã âm thầm một mình cùng với chiếc đèn, chiếc thang, chiếc bút lông ngồi hí hoáy vẽ chiếc lá thường xuân. Cuối cùng với sự cố' gắng, với sức mạnh của tình yêu thương, bác đã vẽ xong bức tranh đó. Tiếc thay, khi bác hoàn thành xong tác phẩm cũng là lúc bác phải vĩnh biệt cõi đời. Sự ra đi của bác chỉ là sự ra đi của xác thịt, còn tâm hồn của bác thì chắc chắn sẽ còn kết tủa lại mãi với thời gian. Với nghị lực của mình, trái tim của mình, bác đã cho đời một kiệt tác. Kiệt tác ấy chính là kết quả của sự tích luỹ tổng hoà hơn 40 năm cầm cọ, là sự dồn tụ cao độ của cái tâm và tài trong đời nghệ sĩ. Đốn đây thì ông đã thực hiện được ước mơ, khát vọng cháy bỏng của mình từ trước. "Những rìa lá hình răng cưa đã nhuộm vàng úa" tượng trưng cho tuổi tác, sự ra đi về thân xác của Bơ-men. "Cuống lá còn giữ màu xanh sẫm", tượng trưng cho mảnh tâm hồn sáng trong của cả một đời người hoạ sĩ già tích góp được. Kiệt tác của bác có ý nghĩa lớn lao vô cùng. Nó không chỉ là sự mãn nguyện, thoả ước mơ của bác mà nó còn là bức tranh cứu người. Bức tranh đã đem lại sự sống cho Giôn-xi, đã làm cho hồn Giôn-xi sắp chết bỗng được tái sinh. Bức tranh ấy đã đem lại cho Giôn-xi niềm tin vào cuộc sống, giúp cô nhận ra ý nghĩa của đời người: "Mình đã tộ như thế nào, muôn chết là một tội". Nó chính là điểm cao trào của tình yêu thương con người. Bác Bơ-men đã hi sinh, đã trút cái sức lực còn lại của mình vì sự sống của Giôn-xi. Chiếc lá cuối cùng đúng là điểm sáng toàn truyện. Nó được vẽ giống như thật; nó đã ra đời trong một hoàn cảnh lao động vất vả, nó dũng cảm bất chấp quy luật, vươn lên tất cả để chiến thắng nghèo đói, bệnh tật. Tình người còn lớn hơn cả nghệ thuật, nó làm cho nghệ thuật trở thành sự sống bất tử. Và đó mới là tác phẩm "đáng thờ", xứng đáng tồn tại với thời gian.
Ai đó đã nói rằng: Văn học nghệ thuật của ngôn từ. Nếu không có bơi chèo nghệ thuật thì chiếc thuyền nội dung sẽ đứng im, bất động. Nó sẽ không chuyển tải đến được tâm hồn bạn đọc những bức thông điệp giá trị nhân văn.
Ở đây, tác phẩm này có giá trị nghệ thuật rất cao.
Nhà văn đã tạo nên trong tác phẩm một hơi thở riêng độc đáo. Đây là một câu chuyện giàu kịch tính. Nhà văn đã khéo léo đặt nhân vật vào các tình huống, các hoàn cảnh mang tính điển hình để khắc họa rõ tính cách của nhân vật. Với cách tạo tình huống này, nhà văn tạo nên sự hấp dẫn ở độc giả (các nhân vật sẽ phản ứng như thế nào, giải quyết như thế nào, buộc họ phải theo dõi tiếp). Theo dõi câu chuyện, ta thấy cách giải quyết từng tình huống của nhà văn rất hợp lý: Khi Giôn-xi bị bệnh, Xiu không bàng quan mà tìm mọi cách (mời bác sĩ, bán tranh kiếm tiền) để cứu bạn; hoặc khi Giôn-xi có những ý nghĩ kỳ quái, cô tỏ ra lo lắng và cố gắng giảng giải để bạn hiểu ra sai lầm.
Câu chuyện này còn có nhiều chi tiết bất ngờ. Độc giả bị bất ngờ ngay từ lúc Giôn-xi có ý nghĩ kỳ quặc: tại sao cô lại mê tín về điều đó. Tâm trạng lo lắng (Giôn-xi sẽ chết khi chiếc lá cuối cùng rụng xuống) cứ theo độc giả suốt từ đó đến kết thúc chuyện.
Đỉnh điểm của sự thắt nút là chi tiết: Chiếc lá cuối cùng. Trong vô số những chiếc lá thường xuân, vẫn còn một cái trụ lại trên cành. Mạch cảm xúc, suy đoán của người đọc bị đảo ngược: trong cảnh mưa tuyết như thế sao chiếc lá kia không rụng? Sự hồ nghi này được nhà văn cởi nút ở chi tiết cuối truyện: thì ra chiếc lá ấy chính là bức tranh mà bác Bơ-men vẽ, vẽ giống như thật, đến các nhân vật trong truyện cũng không nhận ra đó là chiếc lá giả.
Nội chừng ấy cũng đã đủ nói lên thành công to lớn của tác phẩm.
Với Chiếc lá cuối cùng, O. Hen-ri đã gửi lại cho thế hệ sau bức thông điệp viết trên màu xanh của lá cây: Hãy thương yêu con người, hãy vì sự sống của con người. Đó là lẽ tồn tại cao nhất của nghệ thuật vì con người.
Phân tích nhân vật Xiu, Giôn-xi và cụ Bơ-men trong Chiếc lá cuối cùng – mẫu 2
O.Hen-ri là nhà văn Mỹ nổi tiếng với những tác phẩm văn học nhẹ nhàng, sâu lắng, giàu giá trị nhân văn. Đọc những trang viết của ông người đọc có cảm giác như đang được sống trong những bức tranh được vẽ bằng ngôn từ của ông. “Chiếc lá cuối cùng” trích trong tác phẩm cùng tên của O.Hen-ri thực sự có sức ám ảnh lớn, lay động đến tâm can người đọc vì tình thương yêu cao cả vĩ đại của những con người ông khắc họa nên.
“Chiếc lá cuối cùng” có thể xem là kiệt tác để đời của nhà văn Mỹ này, ông đã tái hiện thành công hiện thực xã hội Mỹ thời bấy giờ, có những con người cùng cực, nghèo khổ, ước mơ và khát vọng vẫn còn đó nhưng bị vùi dập. Tuy nhiên đọc những trang viết của ông người đọc nhận ra sự kiên cường, tinh thần bất diệt không chịu đầu hàng số phận, và cả những người chịu hi sinh bản thân mình vì ước mơ và sự sống của người khác. Đoạn trích cùng tên “chiếc lá cuối cùng” có thể xem là đã lột tả được hết những điều đó. Một đoạn trích giàu giá trị nhân văn và nghệ thuật, xứng là là tác phẩm sống mãi trong lòng người đọc.
“Chiếc lá cuối cùng” kể về cuộc sống nghèo khổ của ba người nghệ sĩ: Giôn xi, cụ Bơ men, Xiu. Họ đều là những người tài hoa, luôn đi tìm kiếm cái đẹp và mong muốn có những tác phẩm nghệ thuật để đời. Nhưng cuộc sống khắc nghiệt, nghèo đói và bệnh tật khiến họ rơi vào hố sâu của tuyệt vọng. Giôn xi phát hiện ra mình bị mắc bệnh viêm phổi nặng, cô nằm trên giường bệnh, tuyệt vọng đếm những chiếc lá bám trên dây thường xuân ngoài tường rơi rụng, khi nào chiếc lá cuối cùng rơi đồng nghĩa với việc cô đã chết. Xiu là người bạn của Giôn xi, bất lực nhìn người bạn mình tiều tụy từng ngày. Ông cụ già Bơ men là người họa sĩ sống ở tầng dưới, cả cuộc đời ông vẫn luôn trằn trọc và khát vọng có một tác phẩm để đời, đã 40 năm rồi nhưng ông vẫn chưa làm được điều đó. Cả ba con người họ, đều chung một ước mơ, chung một số phận nhưng cuộc đời trớ trêu đều đẩy họ vào con đường cùng.
O.Hen-ri đã rất thành công khi khắc họa diễn biến tâm lý của nhân vât, đặc biệt là nghệ thuật xây dựng tình huống truyện và đảo tình huống truyện cực kỳ độc đáo. Hiếm có nhà văn nào có thể làm được điều này.
Mỗi ngày Giôn xi đều nhìn ra ngoài khung cửa sổ mà đếm lá rơi, niềm tin trong cô vơi cạn dần, hi vọng càng trở nên mong manh. Chính điều này khiến cho XIu và cụ Bơ men buồn bã “Họ sợ sệt ngó ra ngoài cửa sổ, nhìn cây thường xuân. Rồi họ nhìn nhau một lát, chẳng nói năng gì”. Sự im lặng khiến cho cả căn phòng rơi vào trạng thái mất cân bằng. Mọi thứ dường như trở nên tồi tệ hơn rất nhiều.
Hình ảnh cô gái trẻ Giôn xi vì bệnh tật mà cự tuyệt tất cả, phó mặc cho số phận, nói đúng hơn là phó mặc cho những chiếc lá vô tri vô giác ở ngoài kia. Cô đã để cho tuổi trẻ, để cho ước mơ và khát vọng của mình không còn một con đường nào để đi nữa. Cô khiến người đọc trở nên xung đột với mình, cô có đáng trách không, hay cô đáng thương. Thực ra cô là cô gái có khát vọng nhưng vì hiện thực khắc nghiệt nên mới rơi vào tình trạng này. Cô vẫn luôn có ước mơ “được vẽ vịnh Na-Plo”.
O.Hen-ri khiến người đọc hồi hộp, chờ đợi tình huống truyện tiếp theo xảy ra như thế nào. Trên dây thường xuân chỉ còn lại một chiếc lá cuối cùng, chiếc lá ấy chính là niềm hi vọng cũng là sự tuyệt vọng của Giôn xi. Gion xi thất vọng “hôm nay nó sẽ rụng thôi và cùng lúc đó em sẽ chết”. Nhưng có một tình huống bất ngờ xảy ra như một phép nhiệm màu. Đêm hôm ấy gió mưa tràn về nhưng kỳ lạ thay “chiếc lá vẫn còn đó”, bất chấp sự khắc nghiệt của thời tiết. Giôn xi cảm thấy rất khó hiểu nhưng cũng tràn đầy niềm tin. Hóa ra sau tất cả sự khắc nghiệt và khó khăn thì chiếc lá ấy vẫn còn.
Tình huống truyện đảo ngược ở cuối truyện thực sự đã khiến trái tim của một cô gái tuyệt vòng trở nên có niềm tin hơn. Nhưng sự thật tì chiếc lá cuối cùng bám lại trên tường ấy chính là kiệt tác của cụ Bơ men, cụ đã bất chấp thời tiết nắng mưa ấy làm một việc vô cùng nhân văn, tạo niềm tin và nghị lực cho chính cô gái trẻ. Chi tiết “chiếc lá cuối cùng” chính là chi tiết đắt giá, đậm chất nhân văn cũng như giàu tính nghệ thuật, mang đến cho người đọc nhiều suy nghĩ. Đây chính là bức tranh cuối cùng, là kiệt tác trong cả một đời làm họa sĩ của cụ Bơ men. Không bất kỳ ai biết được sự thật đó, chỉ sau khi cụ Bơ men ra đi thì mọi người mới bừng tỉnh. Suốt cả cuộc đời nghệ sĩ của mình thực sự cụ Bơ men đã có được kiệt tác để đời. Một kiệt tác không chỉ có giá trị nghệ thuật mà còn thấm đẫm tình người.
Tấm lòng của một con người thật đáng quý, ông hi sinh bản thân mình để tạo tin yêu và hi vọng cho người khác, khiến người khác ngưỡng mộ và trân trọng.
O.Hen-ri với cách xây dựng tình huống truyện ngược cùng cách khắc họa tâm lý nhân vật cực kỳ sâu sắc đã mang đến cho tác phẩm này một sức sống mãnh liệt nhất, đó là tình yêu thương người với người vô bờ bến.
“Chiếc lá cuối cùng” của O.Hen-ri thực sự là những trang viết ám ảnh với ngược đọc bởi tình nhân văn sâu sắc và tính nghệ thuật cực kỳ độc đáo. Với thông điệp “hãy yêu thương mọi người và không ngừng hi vọng vượt lên số phận” thì tác giả đã làm được một điều kỳ diệu và thành công nhất.
Phân tích nhân vật Xiu, Giôn-xi và cụ Bơ-men trong Chiếc lá cuối cùng – mẫu 3
O.Hen-ri là nhà văn Mĩ, sinh năm 1862, mất năm 1910. Thuở nhỏ, vì nhà nghèo nên ông không được học hành đến nơi đến chốn. Năm mười lăm tuổi, ông đã phải thôi học, đến phụ việc tại hiệu thuốc của người chú ruột. Thời trai trẻ, ông trải qua nhiều nghề khác nhau để kiếm sống như nhân viên kế toán, thủ quỹ ngân hàng, bốc vác… O.Hen-ri sáng tác rất nhiều và phần lớn tác phẩm của ông phản ánh cuộc sống bất hạnh của tầng lớp dân nghèo. Nhiều truyện ngắn đã để lại ấn tượng khó quên trong lòng người đọc, trong đó có truyện Chiếc lá cuối cùng.
Bối cảnh của truyện là ngôi nhà trọ ba tầng cũ kĩ, tồi tàn với những căn phòng cho thuê giá rẻ trong một khu phố nhỏ ở phía Tây công viên Oa-sinh-tơn. Thời điểm xảy ra sự việc là tháng mười một, khi những cơn gió lạnh mùa đông tràn về. Hai nữ họa sĩ trẻ là Xiu và Giôn-xi thuê chung một căn phòng nhỏ trên tầng thượng sát mái. Cụ Bơ-men là một họa sĩ nghèo sống ở tầng hầm.
Giôn-xi bị sưng phổi nặng. Vì nghèo không có tiền thuốc thang nên cô buồn bã không thiết sống nữa. Mặc cho Xiu chăm sóc, động viên, Giôn-xi cứ nằm quay mặt ra phía cửa sổ, nhìn những chiếc lá thường xuân rụng dần từng chiếc một. Mỗi lần có chiếc lá rơi, cô lại cảm thấy mình gần cái chết thêm một chút. Trước khi trời tối, Giôn-xi đếm còn lại bốn chiếc lá và tự nhủ sau khi chiếc lá cuối cùng rụng nốt thì mình cũng lìa đời. Nghe Xiu kể chuyện ấy, cụ Bơ-men bực mình nghĩ rằng tại sao trên đời này lại có người muốn chết chỉ vì một cây dây leo nào đó rụng hết lá?! Rồi Xiu đưa cụ Bơ-men lên gác… Đoạn trích này tiếp nối câu chuyện trên, kể về việc vì thương Giôn-xi mà cụ Bơ-men đã thức trắng đêm để vẽ chiếc lá thường xuân lên tường. Sáng hôm sau thức giấc, Giôn-xi nhìn thấy chiếc lá cuối cùng vẫn còn bám chặt vào cây. Cô như được tiếp thêm sức mạnh và thoát qua cơn hiểm nghèo. Nhưng cũng vì vẽ chiếc lá trong đêm đông giá buốt nên cụ Bơ-men đã bị cảm lạnh rồi qua đời chi sau hai ngày. Qua đoạn trích, tác giả bày tỏ thái độ trân trọng, cảm phục trước tình yêu thương chân thành và lòng vị tha cao cả của những con người nghèo khổ.
Cụ Bơ-men là một hoạ sĩ vô danh. Suốt bốn mươi năm, cụ ấp ủ ý định sẽ vẽ một bức tranh tuyệt tác nhưng chưa bao giờ bắt đầu công việc. Giống như chị Xiu, cụ Bơ-men rất quan tâm đến tình cảnh tội nghiệp của Giôn-xi. Biết cô gái đang tuyệt vọng, muốn tìm đến cái chết để giải thoát, cụ đã nhờ chị Xiu đưa lên gác để thăm. Hai người sợ sệt ngó ra ngoài cửa sổ, nhìn cây thường xuân. Rồi họ nhìn nhau một lát, chẳng nói năng gì vì thấy những chiếc lá thường xuân đang theo nhau rụng, chỉ còn một vài chiếc. Có lẽ trong thâm tâm cả hai đều lo lắng cho số phận của Giôn-xi. Riêng cụ Bơ-men, chắc là cụ đang nghĩ đến cách vẽ chiếc lá cuối cùng để đem lại cho Giôn-xi niềm hi vọng.
Tình thương và lòng trắc ẩn đã khơi dậy trong tâm hồn cụ Bơ-men một ý tưởng sáng tạo tuyệt vời. Cụ lẳng lặng làm theo lời trái tim mách bảo, không hé răng cho ai biết ý định của mình.
Tác giả không tiết lộ ngay việc cụ Bơ-men vẽ chiếc lá trong đêm mưa tuyết ra sao mà đợi đến những dòng cuối cùng của truyện mới cho mọi người biết qua lời của chị Xiu. Cách kể truyện như thế tạo được bất ngờ và hứng thú cho người đọc.
Chiếc lá cụ Bơ-men vẽ lên bức tường gạch đối diện với cửa sổ căn gác nhỏ của Giôn-xi đúng là một kiệt tác vì trước hết trông nó giống y như thật : Ở gần cuống lá còn giữ màu xanh sẫm, nhưng với rìa lá hình răng cưa đã nhuốm màu vàng úa, chiếc lá vẫn dũng cảm treo bám vào cành cách mặt đất chừng hai mươi bộ, khiến Giôn-xi tưởng đấy chính là chiếc lá cuối cùng. Quan trọng hơn cả là chiếc lá do cụ Bơ-men vẽ đã đem lại sự sống cho Giôn-xi. Chiếc lá không phải chỉ được vẽ bằng bút lông, bột màu, mà bằng cả tình cảm chân thành và lòng vị tha cùng đức hy sinh cao cả của cụ Bơ-men. Người hoạ sĩ già đã quên cả tuổi tác lẫn sức khỏe của mình để cố gắng nhen nhóm lại hi vọng sống trong lòng cô gái trẻ đáng thương.
Tình thương yêu của Xiu đối với Giôn-xi biểu hiện qua thái độ quan tâm, chăm sóc và động viên người bệnh và qua nỗi lo sợ khi thấy chị còn lác đác mấy chiếc lá thường xuân bám lại trên tường. Chị Xiu luôn ở bên cạnh Giôn-xi và sẵn sàng chiều theo ý muốn của bạn.
Chị Xiu không biết ý định của cụ Bơ-men là sẽ vẽ chiếc lá vào đúng chỗ chiếc lá cuối cùng vừa rụng nốt trong đêm. Cho nên khi Giôn-xi nhờ kéo mành lên, Xiu đã làm theo với tâm trạng lo lắng cực độ: Em thân yêu, thân yêu! Xiu nói, cúi khuôn mặt hốc hác xuống gần gối, “Em hãy nghĩ đến chị, nếu em không còn muốn nghĩ đến mình nữa. Chị sẽ làm gì đây?”.
Khi chiếc mành được kéo lên, từ trong phòng đã có thể nhìn rõ cảnh vật bên ngoài thì chính chị Xiu cũng ngạc nhiên bởi không ngờ chiếc lá cuối cùng vẫn còn bám chặt vào cành sau một đêm mưa gió phũ phàng. Chị không hề biết đấy chỉ là chiếc lá vẽ và tâm trạng lo lắng vẫn đeo đẳng chị cho tới khi biết được sự thật.
Hôm sau, khi trời vừa hửng sáng thì Giôn-xi lại ra lệnh kéo mành lên. Chiếc lá thường xuân vẫn còn đó.
Ngắm chiếc lá cuối cùng, trong lòng Giôn-xi bất chợt rộn lên ý nghĩ yêu đời và ham sống. Giôn-xi nằm nhìn chiếc lá hồi lâu. Rồi cô gọi Xiu đang quấy món cháo gà trên lò hơi đốt.
“Em thật là một con bé hư, chị Xiu thân yêu ơi!”, Giôn-xi nói. “Có một cái gì đấy đã làm cho chiếc lá cuối cùng vẫn còn đó để cho em thấy rằng mình đã tệ như thế nào. Muốn chết là một tội. Giờ thì chị có thể cho em xin tí cháo và chút sữa pha ít rượu vang đỏ và – khoan – đưa cho em chiếc gương tay trước đã, rồi xếp mấy chiếc gối lại quanh em, để em ngồi dậy xem chị nấu nướng”.
Chiếc lá cuối cùng đã thắp sáng trong cô những ước mơ và niềm hy vọng. Cô vui vẻ bày tỏ nguyện vọng của mình: Chị Xiu thân yêu ơi, một ngày nào đó em hi vọng sẽ được vẽ vịnh Na-plơ”.
Đọc đến đoạn này, người đọc cũng có tâm trạng căng thẳng, hồi hộp giống như tâm trạng của chị Xiu khi hai lần Giôn-xi bảo kéo mành lên. Tối hôm trước, dây thường xuân chỉ còn một chiếc lá. Nếu sau đêm mưa tuyết, chiếc lá ấy rụng nốt thì Giôn-xi sẽ ra sao? Làm sao để chiếc lá cuối cùng ấy vẫn còn?! Tâm trạng lo lắng của Xiu chi diễn ra ở lần kéo mành đầu tiên, vì ngày hôm đó, chắc cô đã biết chuyện cụ Bơ-men làm gì trong đêm mưa tuyết. Còn đối với Giôn-xi, khi nhờ Xiu kéo mành lên, chắc là cô thản nhiên đón nhận cái chết, nếu chẳng còn thấy chiếc lá nào. Nhưng lạ lùng thay, chiếc lá vẫn còn nguyên đó. Ngắm chiếc lá cuối cùng, như có phép màu kì diệu, sức sống đã trở lại với Giôn-xi. Hôm sau, bác sĩ bảo Xiu : “Cô ấy khỏi nguy hiểm rồi… Giờ chỉ còn việc bồi dưỡng và chăm nom – thế thôi”.
Động lực thúc đẩy mạnh mẽ sự hồi sinh của Giôn-xi chính là chiếc lá cuối cùng (cô không biết đấy là chiếc lá vẽ). Tuy bé nhỏ, mong manh nhưng nó đã gan góc chống chọi với gió mưa, buốt giá, cố bám chặt lấy thân cây. Điều đó trái ngược hẳn với thái độ tiêu cực, yếu đuối, muốn tìm đến cái chết của Giôn-xi. Cô ngẫm nghĩ, so sánh và xấu hổ, thấy mình thật tệ, không bằng chiếc lá thường xuân bé nhỏ.
Nhà văn kết thúc câu chuyện bằng đoạn văn chân thực và cảm động:
Và buổi chiều hôm đó, Xiu tới bên giường Giôn-xi nằm, thấy Giôn-xi đang vui vẻ đan một chiếc khăn choàng len màu xanh thẫm , chị ôm lấy cả người Giôn-xi lẫn những chiếc gối.
Chị có chuyện này muốn nói với em, con chuột bạch của chị, cô nói, "Cụ Bơ-men đã chết vì sưng phổi hôm nay ở bệnh viện rồi. Cụ ốm chỉ có hai ngày. Buổi sáng ngày thứ nhất, bác gác cổng thấy cụ ốm nặng trong căn phòng của cụ ở tầng dưới. Giày và áo quần của cụ ướt sũng và lạnh buốt. Chẳng ai hình dung nổi cụ đã ở đâu trong một đêm khủng khiếp như thế. Nhưng rồi người ta tìm thấy một chiếc đèn bão vẫn còn thắp sáng và một chiếc thang đã bị lôi ra khỏi chỗ để của nó, và vài chiếc bút lông rơi vung vãi, và một bảng pha màu có màu xanh và màu vàng trộn lẫn với nhau, và – em thân yêu ơi, em hãy nhìn ra ngoài cửa sổ, nhìn chiếc lá thường xuân cuối cùng ở trên tường. Em có lấy làm lạ tại sao chẳng bao giờ nó rung rinh hoặc lay động khi gió thổi không? Ồ, em thân yêu, đó chính là kiệt tác của cụ Bơ-men, cụ vẽ nó ở đấy vào cái đêm mà chiếc lá cuối cùng đã rụng”:
Lời kết thúc này là vừa đủ, không cần phải kể thêm về phản ứng của Giôn-xi, do đó mà dư âm của câu chuyện lắng đọng trong lòng người đọc và gây xúc động thấm thía.
Mở đầu đoạn trích, Giôn-xi sống trong đau buồn, tuyệt vọng, ngày càng tiến dần đến cái chết khiến mọi người xung quanh thương cảm. Nhưng lúc gần kết thúc thì Giôn-xi đã thoát khỏi cơn nguy hiểm, hồi phục rất nhanh và yêu đời trở lại. Mọi người thở phào, trút được gánh nặng lo âu.
Cụ Bơ-men đang khỏe mạnh thì lại chết rất nhanh, chi sau hai ngày bị viêm phổi nặng. Cái chết của cụ khiến cho mọi người hết sức ngạc nhiên. Tình huống của hai nhân vật trẻ và già hoàn toàn trái ngược với nhau. Cô gái tưởng không tránh khỏi cái chết thì lại sống; người họa sĩ già đang khỏe mạnh lại chết bất ngờ. Số phận của họ đều liên quan đến bệnh sưng phổi và chiếc lá cuối cùng. Giôn-xi bị bệnh sưng phổi nặng và sự sống của cô tùy thuộc vào chiếc lá cuối cùng. Cụ Bơ-men vẽ chiếc lá cuối cùng trong đêm mưa tuyết với hi vọng níu kéo Giôn-xi về với cuộc sống, vì thế mà cụ đã bị chết vì bệnh sưng phổi. Nhà văn đã sử dụng rất thành công thủ pháp nghệ thuật vừa tương phản vừa tường đồng để tạo nên sự hấp dẫn của truyện.
Chiếc lá cuối cùng là câu chuyện đời thường giản dị mà xiết bao cảm động. Tình thương yêu giữa người với người đã đem lại giá trị lâu dài cho tác phẩm và vinh quang cho tôn tuổi nhà văn O.Hen-ri. Ngoài ra, tác phẩm còn chứa đựng một quan điểm đúng đắn về mục đích của sáng tạo nghệ thuật: Nghệ thuật đích thực trước hết phải phục vụ con người và cuộc sống.
Bản thân trong cuộc đời mỗi người nghệ sĩ, ai cũng đều khao khát có ít nhất một lần trong đời tạo ra được một kiệt tác nghệ thuật có thể coi là bất hủ. Đó là ước muốn chung của tất cả những con người đi theo lĩnh vực nghệ thuật, nhận lấy trách nhiệm gìn giữ và tạo ra những tinh hoa văn hóa cho thế giới tinh thần đầy màu sắc của nhân loại. Bất kể đó là hội họa, âm nhạc hay văn học, người nghệ sĩ nào cũng đều mong ước đứa con tinh thần của mình có thể vươn tới những ánh hào quang rực rỡ của nữ thần kiệt tác, được cả thế giới công nhận và yêu mến. Nhưng trong những cuộc hành trình tạo ra cái đẹp ấy, không phải ai cũng đủ kiên trì và may mắn để bước tới được con đường cuối cùng huy hoàng và thắng lợi. Có đôi khi, cái đẹp của nghệ thuật không phải nằm ở dáng vẻ bóng bảy, hào nhoáng bề ngoài mà nằm ở giá trị và ý nghĩa của nó đối với cuộc sống con người. Chung quy lại, cái đích mà mọi lĩnh vực nghệ thuật đều muốn hướng tới đó là làm cho cuộc sống thêm lạc quan và tích cực.
Đó cũng là những giá trị nhân văn, nhân đạo sâu sắc mà tác giả người Mĩ O'Henry muốn gửi gắm đến tất cả chúng ta qua tác phẩm truyện ngắn "Chiếc lá cuối cùng". Được rút ra từ tập truyện ngắn cùng tên, "Chiếc lá cuối cùng" là một câu chuyện đầy cảm động và giàu giá trị suy ngẫm cho tất cả chúng ta và đặc biệt là những người nghệ sĩ đang rong ruổi trên con đường sáng tạo nghệ thuật nói riêng. "Chiếc lá cuối cùng" như là bức thông điệp màu xanh mà tác giả gửi đến người đọc để ca ngọi tình bạn thủy chung cao quý, nhắn nhủ mọi người, hãy yêu thương con người, hãy biết hy sinh vì sự sống của con người.
Mở đầu tác phẩm, nhà văn O' Henry đã vẽ nên một bức tranh toàn cảnh về những con phố ngoằn nghèo được gọi là "biệt khu" - nơi sinh sống của những con người lao động nghèo khổ. Tôi chợt nghĩ đến hình ảnh của những khu nhà trọ tồi tàn, ẩm ướt với những mái nhà cũ rích, run lẩy bẩy giữa bão tố sau mỗi cơn mưa. Trong cái khu phố nghèo nàn ấy, có những con người cháy rực ngọn lửa đam mê đối với nghệ thuật nhưng lại chưa đủ may mắn để tạo nên những kì tích. Họ vẫn ở đó, ngày ngày nuôi lớn khát vọng có một ngày, những đứa con tinh thần ấy được mọi người biết đến, tài năng của họ được người khác công nhận. Họ vẫn chờ đợi trong cái vòng đời và số phận nghiệt ngã bởi chính tình yêu nghệ thuật.
Ở đâu đấy qua hình ảnh của Xiu và ông lão Bơ - men chợt hiện ra hình ảnh của những người nghệ sĩ lang thang trên con đường mòn mỏi để kiếm tìm một vùng đất hào quang cho riêng mình. Hẳn Xiu và ông lão Bơ - men cũng đã nung nấu, ấm ủ trong lòng mình hy vọng sẽ tạo nên một ác phẩn nghệ thuật - một kiệt tác dành cho đời. Cho dù có người hiểu thì thông cảm, có người không hiểu thì cho rằng những người nghệ sĩ thường hay mơ mộng mà với cao. Nhưng đó là tất cả những tình cảm yêu thương chân thành và thiêng liêng nhất của họ đối với những đứa con của mình.
Có thể họ không cần sự nổi tiếng. Mà họ cần là một sự quan tâm và đánh giá đúng mực đối với niềm đam mê của chính bản thân mình. Đó là một khát vọng chính đáng mà có lẽ không chỉ riêng tôi, không chỉ riêng các nhà văn hay họa sĩ, mà của tất cả những người đang có niềm đam mê và nhiệt huyết theo đuổi những ước mơ chân chính. Đoạn tác giả O'Henry miêu tả cô bạn Xiu khi cô nói chuyện với Giôn - xi mà cảm thấy có chút gì đó cay đắng, ngậm ngùi. Cô dựng bảng vẽ và bắt đầu vẽ bức minh họa cho câu chuyện tạp chí bằng bút sắt. Những họa sĩ trẻ phải lát con đường đến nghệ thuật bằng các bức tranh minh họa cho những truyện trên tạp chí do các cây bút trẻ đã lát xuống để đến với văn học. Những họa sĩ trẻ phải lát con đường đến nghệ thuật bằng các bức tranh minh họa cho những truyện trên tạp chí do các cây bút trẻ đã lát xuống để đến với văn học.Con đường để đến với thành công đôi khi không công bằng với những nghệ sĩ trẻ, và không phải ai cũng thật sự được khởi đầu từ những tấm thảm đã được trải sẵn hoa.
Thế rồi, cô gái Giôn - xi ở trong tác phẩm, dường như cô ấy đã bước ra từ trong truyện mà bước chân vào cả trong thế giới đời thường này. Khi cô ấy đã quá mệt mỏi và tuyệt vọng, Giôn - xi đã buông xuôi, bỏ cuộc, đã phó mặc cho thần chết và đã đưa ra một dấu chấm hết mà không một lần chịu đứng dậy đấu tranh, bảo vệ lấy cuộc sống của chính mình. Những người như cô gái ấy, yếu đuối nhưng lại không thể làm cho người ta thương hại, luôn lẩn tránh cuộc sống, chỉ muốn thu mình vào cái vỏ ốc bé tí tẹo mà chết dần chết mòn. Cô ấy đã nói với Xiu "Khi chiếc lá lìa cành thì chắc chắn em cũng lìa đời". Cô diễn tả tâm trạng của mình trong tuyệt vọng "chờ đợi làm em chán lắm rồi. Nghĩ ngợi cũng làm em chán lắm rồi. Em muốn buông tay ra khỏi tất cả ...hệt như một trong những chiếc lá mệt mỏi đáng thương đó". Đến đây người đọc cảm thấy nghẹt thở tưởng như vô phương cứu chữa trước một con người không còn một tơ vương nào vào cuộc sống. Nhưng kì diệu thay, chiếc lá cuối cùng không rụng. Nó còn đó mãi mãi như sự bất tử của cuộc đời. Rồi Giôn- xi bắt đầu bình phục.
Nếu như không có một người bạn nhiệt tình giống như Xiu, một người cha, người chú cao thượng giống như bác họa sĩ già Bơ - men giúp Giôn - xi tìm lại niềm tin giành lấy sự sống, cũng không thể biết được, cô ta sẽ chết vì căn bệnh viêm phổi hay sẽ chết vì đói khát, chết vì chẳng còn ý chí sinh tồn. Cuối cùng thì bài học về giá trị của cuộc sống, về khát vọng tồn tại, cô ta cũng học được. Nhưng cái sự nhận thức muộn màng ấy, chẳng phải là nguyên nhân gián tiếp gây ra cái chết của bác họa sĩ già vô tội hay sao?
Nếu cô ta biết mạnh mẽ hơn, biết đương đầu với bệnh tật bằng chính ý chí của mình để chiến thắng nó ngay từ đầu thì có lẽ sẽ không có câu chuyện đau lòng mà chúng ta nhận ra sau đó. Càng đọc, càng ngẫm và càng thấm thía. Dưới ngòi bút tài tình của O'Henry, bạn sẽ khó có thể rời bỏ trang sách khi chưa đọc hết toàn bộ câu chuyện, và cũng thật khó để sau khi gấp trang sách lại, bạn không có điều gì để suy ngẫm.
Nhân vật ấn tượng nhất chính là bác họa sĩ già Bơ - men, một điển hình tiêu biểu cho chính hình ảnh của những con người với khát khao vươn tới nghệ thuật chân chính. Lão đã ngoài sáu mươi, có bộ râu xoăn như bức tượng Moses của Michael Angelo, lượn như tóc từ đầu của thần Satyr xuống thân hình một con quỷ nhỏ. Bơ - men không thành công trong nghệ thuật. Ðã bốn mươi năm múa bút mà lão chưa hề chạm tới được gấu áo Nữ thần của mình. Lão luôn ấp ủ ý định vẽ một kiệt tác, nhưng vẫn chưa bắt đầu. Suốt nhiều năm nay, lão chẳng vẽ được gì ngoại trừ thỉnh thoảng làm mấy đường quảng cáo hay chào hàng. Lão kiếm được ít tiền bằng cách ngồi mẫu cho mấy nghệ sĩ trẻ trong khu "hoạ sĩ" ấy, những người không đủ tiền thuê người mẫu chuyên nghiệp. Lão uống rượu gin quá độ, nhưng vẫn nói về kiệt tác sắp vẽ của mình. Còn những lúc khác, lão là một lão già nhỏ thó hung tợn, luôn chế nhạo tính nhu mì của bất kì ai và luôn tự xem mình như loại khuyển đặc biệt, canh phòng bảo vệ hai nghệ sĩ trẻ ở xưởng vẽ bên trên. Trên con đường nghệ thuật của mình, ông là một người không may mắn. Già nua, nghèo khó, nhưng bên trong con người của ông họa sĩ ấy, tình yêu nghệ thuật luôn cháy bỏng và mãnh liệt. Tôi chợt nhớ đến những con người giống như ông trong cái xã hội đời thường này. Họ lặng thầm cống hiến, hoặc chỉ đơn giản là say mê theo đuổi những ước mơ của mình. Có những người sớm thành công, nhưng cũng có những người kém may mắn hơn, họ vẫn kiên trì trên con đường mình đã chọn. Có đến hàng trăm nhà văn, nhà thơ, đến hàng nghìn, hàng vạn tác phẩm, làm thế nào để người ta có thể chọn riêng được chúng, để chúng không lẫn lộn với những tác phẩm tương tự, người nghệ sĩ làm được điều đó sẽ tạo nên kiệt tác. Và để làm được điều đó, không gì hợp lí hơn là biến nó thành một thứ làm cho cuộc sống này tốt đẹp hơn. Cái cách mà O'Henry xây dựng tình tiết không chỉ khiến chúng ta bị lôi cuốn vào những xung đột kịch tính trong diễn biến tâm lí của các nhân vật mà còn ngay từ đầu đã gieo vào ý thức của chúng ta những suy nghĩ đồng cảm cho từng nhân vật. Còn gì kích thích hơn khi bạn đọc một tác phẩm mà các nhân vật trong đó, bạn đều bắt gặp được bóng dáng của họ đâu đấy ngoài đời thực. Cái đời thực được đưa vào cái nghệ thuật, cả hai cùng hòa quyện tạo nên chính cái giá trị giáo dục và nhân văn trong đó.
Cái cách mà O'Henry để câu chuyện kết thúc qua lời kể của cô bạn Xiu thật khiến mọi người phải suy ngẫm. Không ai được nhìn thấy cái cảnh bác Bơ - men cặm cụi trong cái đêm bão táp dữ dội ấy để vẽ thêm một chiếc lá cuối cùng cho cây thường xuân. Nhưng chúng ta lại có thể hình dung được rõ mồn một, chiếc lá ấy nằm trên bức tường mạnh mẽ và hiên ngang đến mức nào. Có lẽ O'Henry cũng cố tình không miêu tả cảnh ấy là vì thế. Bác họa sĩ già trong cái đêm tối tăm bão táp ấy đã âm thầm và lặng lẽ vẽ nên bức họa cuối cùng của đời mình. Để rồi, khi người con gái bé nhỏ và yếu đuối Giôn - xi vượt qua cơn hiểm nghèo thì chính bác lại âm thầm ra đi trong cô độc. Hôm nay, bác Bơ - men mất vì viêm phổi ở bệnh viện. Bác chỉ ốm có hai ngày. Sáng hôm đầu tiên, người gác cổng đã thấy bác quằn quại đau trong phòng của bác nơi tầng trệt. Giày và quần áo bác ướt sũng, lạnh băng. Họ không thể hình dung bác đã ở đâu vào cái đêm khủng khiếp như thế. Rồi khi họ tìm thấy chiếc đèn lồng, hãy còn sáng và cái thang đã bị kéo khỏi chỗ của nó, mấy chiếc bút lông vương vãi và một bảng pha mầu với xanh vàng hòa lẫn. Khi đọc tới trích đoạn này, mắt tôi đã thật sự nhòe đi lúc nào không hay. Bởi vì cái kết thúc ấy quá éo le và nghiệt ngã. Éo le ở chỗ cả cuộc đời người họa sĩ đó mải miết đi tìm kiếm thành công, cuối cùng khi quả ngọt ở ngay trước mắt thì ông lại không thể thấy được. Bức kiệt tác cuối cùng đó của ông, trở thành giá trị nghệ thuật đối với người khác, nhưng đối với chính bản thân ông, nó lại được trả giả bởi chính sinh mạng. Nhưng cuối cùng, cái kết ấy lại làm cho tôi có thể yên lòng thanh thản. Bởi lẽ nó cũng có thể đem trả về một sinh mạng khác cho Giôn - xi. Hóa ra, nghệ thuật lại có lúc có tác dụng lớn lao đến vậy.
Như vậy kiệt tác "Chiếc lá cuối cùng" của cụ Bơ - men chính là một hình ảnh, một minh chứng cho sự sáng tạo không ngừng của O'Henry cũng như những người làm nghệ thuật. Kiệt tác ấy giàu giá trị nhân văn, mang đến cho người đọc nhiều cảm xúc khó quên. Tôi khép lại trang sách, mân mê đến từng con chữ cuối cùng, giống như vừa trải qua một cuộc hành trình dài đầy mê hoặc. Đó là cuộc trải nghiệm đầy ý nghĩa của chính bản thân tôi, khi đang loay hoay tìm đủ mọi cách để thực hiện một tác phẩm để đời để rồi ngỡ ngàng mà phát hiện ra khái niệm nghệ thuật chân chính. Cho đến bây giờ, nếu có ai đó hỏi tôi: Nghệ thuật là gì? Có lẽ tôi sẽ không cần phân vân mà đáp lại ngay rằng: Nghệ thuật chính là cuộc sống.
Đôi nét về tác giả, tác phẩm
1. Tác giả
- Ô Hen-ri sinh năm 1862, mất năm 1910, tên thật của ông là William Sydney Porter
- Quê quán: là nhà văn người Mĩ
- Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác:
+ Ông sinh ra trong một gia đình có cha là thầy thuốc, mẹ ông qua đời khi ông mới lên ba tuổi
+ Ông bỏ dở việc học tập năm 15 tuổi do gia cảnh nghèo khó. Ông đi nhiều nơi và làm nhiều nghề khác nhau: nhân viên, kế toán, thủ quỹ ngân hàng…
+ Sau này, khi bắt đầu với sự nghiệp văn chương, ông trở thành một nhà văn chuyên viết truyện ngắn
+ Nhiều truyện của ông đã để lại dư âm trong lòng bạn đọc như: Căn gác xép, Tên cảnh sát và gã lang thang, Qùa tặng của các đạo sĩ…
- Phong cách sáng tác:
+ Những sáng tác của ông nhẹ nhàng nhưng toát lên tinh thần nhân đạo cao cả
1. Hoàn cảnh sáng tác
- Chiếc lá cuối cùng là một trong số 600 truyện ngắn của nhà văn Ô Hen-ri. Đoạn trích này nằm ở phần cuối truyện
2. Bố cục
- Đoạn 1: (từ đầu đến “mái hiên thấp kiểu Hà Lan”): Tâm trạng tuyệt vọng của Xiu
- Đoạn 2: (tiếp đến “bồi dưỡng và chăm nom”): Sự hồi sinh của Giôn-xi
- Đoạn 3: còn lại: Sự hi sinh cao cả của cụ Bơ-men để cứu Giôn-xi
3. Giá trị nội dung
- Truyện ngắn chứa đựng giá trị nhân văn sâu sắc, câu chuyện nói về tình bạn, tình yêu thương giữa những con người với nhau. Qua đó nhà văn mang tới một bức thông điệp: Hãy luôn thắp sáng ngọn lửa của khát khao hi vọng hãy luôn yeu thương, mang nghệ thuật phjc vụ con người, nghệ thuật chan chính lâu bền nhất là nghệ thuật hướng tới con người và vì con người.
4. Giá trị nghệ thuật
- Truyện với nhiều tình huống hấp dẫn, cách sắp xếp chặt chẽ, đặc biệt là đảo ngược tình huống lần lần tạo sự hứng thú cho người đọc.