TOP 10 bài Phân tích bài thơ Đề đền Sầm Nghi Đống 2024 SIÊU HAY

11 K

Tailieumoi.vn xin giới thiệu bài văn mẫu Phân tích bài thơ Đề đền Sầm Nghi Đống Ngữ văn 8 Kết nối tri thức gồm 4 bài văn phân tích mẫu hay nhất giúp các em học sinh có thêm tài liệu tham khảo trong quá trình ôn tập, củng cố kiến thức và chuẩn bị cho bài thi sắp tới. 

Phân tích bài thơ Đề đền Sầm Nghi Đống

Đề bài: Phân tích bài thơ Đề đền Sầm Nghi Đống

Phân tích bài thơ Đề đền Sầm Nghi Đống - Mẫu 1

Hồ Xuân Hương là một nữ sĩ phóng khoáng, thích thăm thú, du ngoan, cũng thường vung bút đề thơ. Đây là trường hợp hiếm có đối với một người phụ nữ trong xa hội phong kiến. Bài thơ đề nơi nào phải đúng với tình cảm, sự tích nơi đó, xem như cảm nghĩ về nơi được đề.

Đề thơ là một phong tục của Trung Quốc xưa, đến đời Đường đã rất thịnh hành. Khách du sơn ngoạn thủy, thăm thú thắng cảnh đền đài, hứng làm thơ, vung bút đề thơ để lưu bút tích và bày tỏ cảm xúc, chí khí của mình. Ta đã biết tương truyền bài thơ Hoàng Hạc Lâu của Thôi Liệu để ở lầu Hoàng Hạc đã làm thơ tiên Lý Bạch bối rối. Hoặc Đề Đô thánh nam trang của Thôi Hộ đề trên cánh của một trang văn vắng bóng người dep. Ở nước ta, tục này cũng thịnh hành, trên nhiều hang động đẹp đều lưu bút tích thi nhân.

Hồ Xuân Hương là một nữ sĩ phóng khoáng, thích thăm thú, du ngoan, cũng thường vung bút đề thơ. Đây là trường hợp hiếm có đối với một người phụ nữ trong xa hội phong kiến. Bài thơ đề nơi nào phải đúng với tình cảm, sự tích nơi đó, xem như cảm nghĩ về nơi được đề.

Sầm Nghi Đống là thái thú đất Diễn Châu, Trung Quốc, tùy tướng của Tôn Sĩ Nghị trong cuộc xâm lược Việt Nam năm 1789. Ông được giao giữ đồn Khương Thượng, Đống Đa. Khi bị quân Tây Sơn đánh, ông không chống cự được nên đã thắt cổ tự tử. Để giữ mối quan hệ bang giao hai nước, Quang Trung cho người Hoa lập miếu thờ Sầm Nghi Đống tại phía sau phố Hàng Buồm ngày nay. Theo sách Hợp tuyển thơ văn Việt Nam cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX, thì ghi chú có hơi khác: Đống được giao trấn thủ Ngọc Hồi, đồn Ngọc Hồi thất thủ, Đống tự tử. Về sau có đền thờ ở gò láng Ngọc Hồi.

Nhân một dịp đi qua, Hồ Xuân Hương đã làm bài thơ này. Mở đầu bài thơ, Hồ Xuân Hương đã biểu thị một cái nhìn thiếu trân trọng đối với ngôi đền:

Ghé mát trong ngang thấy bảng treo

Kìa đền thái thú đứng cheo leo

Những ai được lập đền, dù là quân giặc, đều được coi là thần, đề mọi người đến thắp hương cúng bái, cầu vọng. Nhưng Hồ Xuân Hương thì chỉ ghé mắt trông ngang. Ghé mắt, theo Từ điển Tiếng Việt, là nghiêng đầu và đưa mắt nhìn, chỉ thuần tuý là động tác, không hàm ý kính trọng. Ghé mắt trông ngang chớ không phải trông lên, đã thể hiện một thái độ bất kính đối với vị thần xâm lược thất bại. Đền Thái, thú đứng cheo leo hẳn là đền xây trên gò, và người ta không dễ trông ngang. Rõ ràng Hồ Xuân Hương cố tình chọn một cái nhìn coi thường đối với vị Thái thú ở nơi tha hương này. Chữ cheo leo là một từ đặc sắc, nó chỉ một thế đứng cao nhưng không có nơi bấu víu, dễ đổ ụp xuống. Chữ kìa cũng hàm ý bất kính, bởi nó kèm theo các động tác chỉ trỏ, mà đối với các nơi đền đài linh thiêng người đến viếng không được nói to, giơ tay chỉ trỏ như đối với đồ vật. Với hai câu thơ ấy, Hồ Xuân Hương đã tước bỏ hết tính chất thiêng liêng, cung kính của một ngôi đền.

Hồ Xuân Hương không chỉ nhìn ngang chỉ trỏ trước một ngôi đền, bà lại còn tự ví mình, so sánh mình với người được thờ nữa:

Ví đây đổi phận làm trai được

Sự nghiệp anh hùng há bấy nhiêu

Cái ý nghĩa đổi phận làm trai đã thể hiện cái mặc cảm phụ nữ đối với nam giới trong xã hội phong kiến đã áp đặt vào ý thức nhà thơ. Nhưng mặt khác, nó cũng thế hiện nhu cầu đổi phận, không chịu an phận của bà. Cái cách bà tự xưng là đây để đổi lại với Sầm Nghi Đống là đấy, thì dù bà chưa đổi phận được, bà cũng đã rất coi thường vị nam nhi họ sầm. Câu kết há bấy nhiêu có thể nghĩ rằng Hồ Xuân Hương tự cho mình có thể làm gấp nhiều lần, so với sự nghiệp của sầm, song đúng hơn, nên biểu hiện một lời dè bỉu: sự nghiệp của ông có bấy nhiêu thôi ư, nó quá ít đối với một đấng nam nhi đấy!

Bài thơ là một khái vọng được bình đẳng, khát vọng lập nên sự nghiệp anh hùng vẻ vang của một người phụ nữ. Thái độ "bất kính” của bà là một thách thức đối với ý thức trọng nam khinh nữ, thách thức với các "sự nghiệp anh hùng" của nam nhi, thách thức đối với thần linh. Bài thơ thể hiện mạnh mẽ nhu cầu giải phóng cá tính của con người, bất chấp các ước lệ ràng buộc của xã hội phong kiến.

TOP 10 bài Phân tích bài thơ Đề đền Sầm Nghi Đống 2023 SIÊU HAY (ảnh 1)

Phân tích bài thơ Đề đền Sầm Nghi Đống - Mẫu 2

Sầm Nghi Đống là một tướng trong đội quân xâm lược nhà Thanh do Tôn Sĩ Nghị thống lĩnh sang đánh nước ta. Mùa xuân 1789, khi vua Quang Trung tiến quân vào Thăng Long, sầm Nghi Đống đang trấn thủ ở đồn Ngọc Hồi bị đánh tan tành. Y đã treo cổ tự tử, kết thúc đời làm tướng của mình. Thể theo nguyện vọng của Hoa kiều, và truyền thống nhân đạo của dân tộc ta, vua Quãng Trung cho phép lập một đền thờ. Trước khi chết, hẳn viên tướng họ Sam không ngờ rằng mấy chục năm sau có một người phụ nữ Việt Nam đã ngạo mạn đề vào đền mấy câu thơ sau:

Ghé mắt trông ngang thấy bảng treo

Kìa đền Thái thú đứng cheo leo

Ví đây đổi phận làm trai được

Thì sự anh hùng há bấy nhiễu.

Bài thơ không những thể hiện cái nhìn khinh rẻ một viên tướng xâm lược, mà còn nói lên khát vọng của bản thân tác giả và phụ nữ nói chung về sự bình đẳng nam nữ.

Hai câu đầu của bài thơ nói về ngôi đền. Đền là một nơi để thờ, lễ bái thành kính. Nhưng  đây nhà thơ tỏ ra mình không hề có ý định đến vãn cảnh, càng không phải để lễ đền. Vì một lí do nào tình cờ bà đi ngang và tiện thể nhìn qua:

Ghé mắt trông ngang thấy bảng treo.

“Ghé mắt” nghĩa là không phải quay sang để nhìn cho rõ mà chỉ là nhìn nghiêng, nhìn chéo, có thể chỉ “liếc” qua. Đã “ghé mắt” lại “trông ngang”! Trông ngang vì nó chỉ ngang tầm với mình thôi mặc dù đó la “viên tướng”. Nhờ cái bảng treo, nữ sĩ mới biết đây là đền của “Thái thú”. Cách nhìn, cách thấy của Hồ Xuân Hương tỏ ra khinh thị, ngạo mạn. Ngôi đền dưới con mắt của Hồ Xuân Hương tiếp tục hiện ra với những nhận xét thật độc đáo:

Kìa đền Thái thú đứng cheo leo.

Nhà thơ có vẻ ngạc nhiên: “Kìa”. Hóa ra đó là đền sầm Nghi Đống, quan Thái thú xâm lược. Ngôi đền được xây trên cao, nhưng nó chẳng tạo ra được sự uy nghi, hùng vĩ đối với nữ sĩ, không thể khiến bà đứng ngước lên một cách kính cẩn mà bà chỉ thấy nó “đứng cheo leo”. Câu thơ đem đến cho người đọc cảm giác ngôi đền đó chẳng có gì vững chãi, đàng hoàng. Chữ “kìa” đầu câu, còn nói lên điều kinh ngạc của nhà thơ: đối với con người này, tại sao lại lập đền thờ? Tại sao lại biến ông ta thành “thần thánh’? Thực ra ở y có gì đáng để thờ như vậy đâu!... Tiếp đến hai câu sau, Hồ Xuân Hương không còn úp mở gì nữa và tỏ rõ thái độ “khinh ra mặt”:

Ví đây đổi phận làm trai được

Thì sự anh hùng há bấy nhiêu.

Đem chính mình ra so sánh với một ông thần là một điều “báng bổ bất kính”, nhưng còn coi mình hơn ông thần ấy thì sự bất kính lên đến đĩnh cao. Đại từ ngôi thứ nhất “đây” thường chỉ dùng để xưng hô trong trường hợp những người ngang hàng, hoặc là thân mật hoặc là coi thường. Đối với những người được thờ cúng coi như thánh, thần mà xưng như thế thì rất “xược”. Ý thơ thật là độc đáo và táo bạo! Nhà thơ đã lột trần chân tướng và giá trị thật của sầm Nghi Đống rằng hắn không đáng măt nam nhi! Chưa cần nói đến tội xâm lược mà ngay việc cầm quân, hẩn cũng tỏ ra không đủ tài, đủ sức chỉ huy, đến nỗi quân sĩ bị đối phương đánh tan tác, cuối cùng phải treo cổ tự tử cho khỏi nhục! Kẻ “anh hùng” đã tùng ra trận mạc đang được thờ trong đền kia thực ra còn không có tài không bằng một người đàn bà! Chỉ can dùng cụm từ “há bấy nhiêu”, Hồ Xuân Hương đã chỉ ra sự nghiệp một đời của “quan Thái thú” thảm hại đến nhường nào.

Với bốn câu thơ, Hồ Xuân Hương đã hạ bệ được một ông thần gọn gàng, duyên dáng mà cũng đanh đá, nghịch ngợm làm sao!

Hồ Xuân Hương luôn tự ý thức được tài năng, phẩm chất, giá trị của mình, ngay trong thái độ đối với các bậc mày râu. Với phong cách trào phúng, bà đã phê phán sự bất tài, sự kém cỏi của các bậc tự xưng là “quân tử”, “anh hùng”. Giá trị tư tưởng và nghệ thuật của bài thơ nằm ở chỗ, nó không dừng ở việc đánh giá, chê bai một viên tướng giăc mà nhà thơ muốn nói lên một tâm sự bức thiết hơn: khát vọng bình đắng nam và nữ.

Đề đền Sầm Nghi Đống là một bài thơ độc đáo không chỉ vì giá trị tư tưởng và cách đặt vấn đề táo bạo của nó, mà còn vì nghệ thuật thơ xuất sắc... Bài thơ này xứng là thơ của “bà chúa thơ Nôm”. Cẩch sử dụng từ thuần Việt, sắc sảo, sinh động, có sức gợi tả sâu sắc, kết cấu chặt chẽ, đầy kịch tính, gây nhiều hứng thú cho người đọc.

TOP 10 bài Phân tích bài thơ Đề đền Sầm Nghi Đống 2023 SIÊU HAY (ảnh 2)

Phân tích bài thơ Đề đền Sầm Nghi Đống - Mẫu 3

Đề thơ đã trở thành một phong tục thịnh hành ở Trung Quốc thời xưa, đặc biệt phát triển trong thời đại Đường. Những du khách đi tham quan thiên nhiên, ngắm cảnh đền đài hoặc đến thăm các hang động đẹp đều thường không quên viết những bài thơ để lưu lại cảm xúc và trải nghiệm của mình. Ta cũng có thể kể đến truyền thuyết về bài thơ “Hoàng Hạc Lâu” của Thôi Liệu, được viết tại lầu Hoàng Hạc và tạo ra nhiều cảm xúc cho tiên Lý Bạch. Hoặc bài thơ “Đề Đô thánh nam trang” của Thôi Hộ, ghi chép trên một trang văn không còn thấy bóng dáng của một người đẹp. Tại nước ta, phong tục này cũng được ưa chuộng, nhiều thi nhân đã để lại những bài thơ tại các hang động tuyệt đẹp.

Hồ Xuân Hương, một nữ sĩ phóng khoáng, thích khám phá, du ngoạn, và thường xuyên viết thơ. Điều này thực sự hiếm có đối với phụ nữ trong xã hội phong kiến. Bài thơ được viết tùy theo cảm xúc và suy nghĩ của người viết về địa điểm cụ thể.

Sầm Nghi Đống là một tùy tướng Trung Quốc thuộc đất Diễn Châu, nổi tiếng trong cuộc xâm lược Việt Nam vào năm 1789 dưới thời Tôn Sĩ Nghị. Ông đã được giao nhiệm vụ bảo vệ đồn Khương Thượng tại Đống Đa. Trong trận đánh với quân Tây Sơn, ông không thể chống cự và buộc phải tự vẫn. Để duy trì quan hệ hữu nghị giữa hai nước, Quang Trung cho người Hoa xây dựng miếu thờ Sầm Nghi Đống phía sau phố Hàng Buồm ngày nay. Tuy nhiên, theo sách “Hợp tuyển thơ văn Việt Nam cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX”, có chút khác biệt: Đống được giao trấn thủ Ngọc Hồi, đồn Ngọc Hồi bị thất thủ, và Đống đã tự vẫn. Sau này, có một đền thờ được xây dựng trên gò láng Ngọc Hồi.

Một lần đi qua, Hồ Xuân Hương đã sáng tác bài thơ này. Trong phần mở đầu, cô đã thể hiện sự thiếu trân trọng đối với ngôi đền:

Ghé mát trong ngang thấy bảng treo

Kìa đền thái thú đứng cheo leo

Ai được xây đền, dù là kẻ thù, đều được coi như thần thánh. Mọi người đến đây cầu nguyện và thắp hương. Nhưng Hồ Xuân Hương chỉ nghiêng đầu nhìn qua. Nghiêng đầu, theo từ điển Tiếng Việt, đơn thuần chỉ hành động của việc nhìn qua, không mang ý nghĩa kính trọng. Hành động nghiêng đầu nhìn qua, không phải nhìn lên trên, thể hiện thái độ không tôn trọng đối với vị thần đã thất bại trong cuộc xâm lược. Đền Thái thú nằm trên ngọn đồi cao, không dễ để nhìn qua. Rõ ràng Hồ Xuân Hương chủ đích lựa chọn một cách nhìn coi thường vị Thái thú tại nơi tôn thờ này. Cụm từ “đứng cheo leo” là một cách mô tả độ cao không có điểm bám vững, dễ bị sụp đổ. Từ “kìa” cũng mang ý nghĩa không tôn trọng, bởi nó đi kèm với cử chỉ chỉ trỏ, trong khi đối với những nơi linh thiêng, người viếng thăm không được phép nói lớn hoặc chỉ trỏ như với vật thể. Bằng hai câu thơ đó, Hồ Xuân Hương đã loại bỏ hết sự thần thánh và tôn kính của ngôi đền.

Hồ Xuân Hương không chỉ nhìn qua mà còn tự so sánh bản thân với người được thờ:

Ví đây đổi phận làm trai được

Sự nghiệp anh hùng há bấy nhiêu

Ý nghĩa của việc thay đổi số phận nam giới đã được thể hiện sự nhạy cảm của phụ nữ đối với nam giới trong xã hội phong kiến, điều này đã được áp đặt vào tâm hồn của nhà thơ. Nhưng hơn nữa, điều này cũng phản ánh nhu cầu thay đổi số phận, không thể chịu nỗi sự dừng lại của bà. Cách bà gọi mình là “đây để đổi lại với Sầm Nghi Đống” thể hiện rằng, ngay khi bà chưa thực sự thay đổi số phận, bà đã khinh thường vị nam nhân Sầm Nghi Đống. Câu kết thúc có thể khiến ta nghĩ rằng Hồ Xuân Hương tự tin mình có thể vượt bậc hơn nhiều so với thành tựu của Sầm. Nhưng thực tế, điều đó chỉ là một lời nói trêu chọc: “Thành tựu của ngươi thì còn quá ít, chẳng đáng bao nhiêu với một người đàn ông đích thực!”

Phân tích bài thơ Đề đền Sầm Nghi Đống - Mẫu 4

Bài thơ mang lại một hình ảnh rõ nét về một sự kiện lịch sử quan trọng và hùng tráng của dân tộc Việt Nam. Vào Tết Kỷ Dậu năm 1789, vua Quang Trung đã dũng cảm đánh bại quân Thanh, góp phần thúc đẩy sự thống nhất và độc lập cho nước ta. Cảnh tượng xác quân Thanh chất cao như núi tại gò Đống Đa thể hiện sức mạnh và quyết tâm của dân tộc.

Sự diễn tả về việc Hồ Xuân Hương đi qua ngôi đền do tướng giặc Hoá Kiều xây dựng là một tình huống đầy ý nghĩa. Bài thơ tiếp tục phác họa một thái độ khinh rẻ, thể hiện sự mỉa mai thông qua lời thơ sắc bén và mùi hài hước.

Hồ Xuân Hương, trong một tình huống tình cờ, đã “nhìn ngang” và bất ngờ “nhìn thấy” ngôi đền của tướng quân Thái thú. Cái cách bà tả ngôi đền với “bảng treo” và thế đứng “cheo leo” tạo ra một hình ảnh mạnh mẽ về sự vụng về và thất thế của ngôi đền này.

Bài thơ cũng đưa ra một lời nhắc nhở sâu sắc về tính nhân bản và khí thế của một dân tộc không ngừng vươn lên vượt qua những khó khăn và thử thách.

“Kìa đền Thái thú đứng cheo leo”

“Kìa” lời dùng để chỉ vật ở phía xa. Trong bối cảnh này, “kìa” thể hiện sự ngạc nhiên và thắc mắc. Làm sao Sầm Nghi Đống, người từng trải qua bi kịch và thất thế, lại được tôn thờ và lập đền? Điều này thực sự khó hiểu và mang nhiều yếu tố hài hước.

Những câu đầu tiên phản ánh quan điểm khinh rẻ và phủ nhận, trong khi hai câu cuối đưa ra một sự giả định sâu sắc và thú vị. Hồ Xuân Hương đã sử dụng lối nói mỉa mai, châm biếm của dân gian để gỉa định nhân cách tầm thường và hèn hạ của vị “tướng quân” trong triều đình.

“Ví đây đổi phận làm trai được,

Thì sự anh hùng há bấy nhiêu?”

Nhận thức của Hồ Xuân Hương về việc sử dụng từ ngôn trong bài thơ “Đề đền Sầm Nghi Đống” là khá sâu xa. Bà sử dụng từ “đây” trong đối thoại để thể hiện sự suồng sã và thân mật, nhưng khi nói chuyện với quan Thái thú thần linh, cách bà xưng tỏ đã thể hiện sự xược xệch và coi thường. Điều này thật đáng ngạc nhiên và đầy ngang tàng.

Nữ sĩ còn so sánh bản thân, một người phụ nữ Giao Chỉ, với tướng Thiên triều về khía cạnh “sự anh hùng”. Hồ Xuân Hương không dùng cụm từ trang trọng “sự nghiệp anh hùng”, mà thay vào đó, bà hỏi một cách nhẹ nhàng: “Thì sự anh hùng há bấy nhiêu?”. Điều này nhấn mạnh lại cái chết đắng lòng, nhục nhã và đầy hèn hạ của tướng giặc. Câu hỏi này đầy ý nghĩa, xuất phát từ sự giễu cợt và mang tính hài hước tăng lên mười lần.

Bài thơ cũng chứa đựng một ý nghĩa sâu xa hơn. Hồ Xuân Hương muốn đánh giá nhân cách và phẩm hạnh “sự anh hùng” của Sầm Nghi Đống, đồng thời tôn vinh tài năng và phẩm chất của phụ nữ miền Nam. Bà đã sử dụng lời nói mỉa mai để châm biếm nhân cách và cách cư xử bình thường của những người đàn ông, những “trang nam nhi”, “bậc quân tử” không có tài năng và vô hạnh trong xã hội.

Bài thơ “Đề đền Sầm Nghi Đống” thực sự là một tác phẩm độc đáo, nơi ngôn ngữ thất ngôn tứ tuyệt được thể hiện với độ sâu đặc biệt. Hồ Xuân Hương đã đứng trên quan điểm dân tộc để viết ra bức tranh sắc nét của cuộc đời tướng giặc Sầm Nghi Đống.

Đánh giá

5

1 đánh giá

1