Tailieumoi.vn xin giới thiệu đến các quý thầy cô, các em học sinh lớp 8 bài văn mẫu Phân tích truyện ngắn Cô bé bán diêm 2022 hay nhất, gồm có dàn ý phân tích chi tiết, sơ đồ tư duy và 20 bài văn phân tích mẫu hay nhất giúp các em học sinh có thêm tài liệu tham khảo trong quá trình ôn tập, củng cố kiến thức và chuẩn bị cho bài thi môn văn sắp tới. Chúc các em học sinh ôn tập thật hiệu quả và đạt được kết quả như mong đợi.
Mời các quý thầy cô và các em học sinh cùng tham khảo và tải về chi tiết tài liệu dưới đây:
PHÂN TÍCH TRUYỆN NGẮN CÔ BÉ BÁN DIÊM
Đề bài: Phân tích truyện ngắn Cô bé bán diêm
Dàn ý Phân tích truyện ngắn Cô bé bán diêm
I. Mở bài:
- “Cô bé bán diêm” là truyện ngắn nổi tiếng của nhà văn người Đan Mạch An-đéc-xen, thể hiện tấm lòng nhân đạo sâu sắc của tác giả trước hoàn cảnh đáng thương của cô bé bán diêm bất hạnh.
II. Thân bài:
* Luận điểm 1: Phần đầu tác phẩm khắc họa hình ảnh cô bé bán diêm trong đêm giao thừa.
- Mở đầu tác phẩm là hoàn cảnh của cô bé bán diêm: nhà nghèo, mồ côi mẹ, chân đất, bụng đói. Dưới trời rét mướt của đêm giao thừa, cô vẫn phải lang thang đi bán diêm kiếm tiền.
- Tác giả xây dựng nên 2 hoàn cảnh đối lập nhau
+ Một bên là khung cảnh đêm giao thừa: nhà nhà sáng rực ánh đèn, sực nức mùi thơm của thức ăn.
+ Một bên là hình ảnh cô bé “ngồi nép trong góc tường”, “mỗi lúc em càng thấy rét buốt hơn”, “đôi bàn tay cứng đờ ra” . Đến cả ngôi nhà tồi tàn của cô hiện tại cũng không thể chắn nổi từng đợt gió rét cắt da cắt thịt
⇒ Sự đối lập ấy đã nhấn mạnh hoàn cảnh đáng thương, khổ sở của cô bé khi vừa phải chịu cái rét, vừa phải chịu cái đói, đau buốt chân tay. Nhưng bên cạnh đó, chúng ta cũng thấy được phần nào sự vô cảm, thờ ơ của xã hội khi không có ai đưa tay ra giúp đỡ em khỏi đêm rét buốt đó.
* Luận điểm 2: Hiện thực và mộng tưởng trong ánh mắt trẻ thơ của cô bé
- Giữa cái giá rét, cô bé quyết định quẹt diêm để sưởi ấm cho chính mình. Mỗi lần quẹt diêm là một ước mơ giản dị, chân thành và đầy ngây thơ của cô bé:
+ Lần quẹt thứ 1: cô mơ thấy một lò sưởi to ⇒ ước được sưởi ấm, thoát khỏi cái giá rét
+ Lần quẹt thứ 2: cô mơ thấy một bàn ăn thịnh soạn với những món ăn hoành tráng ⇒ ước được ăn no, thoát khỏi cái đói, cái nghèo.
+ Lần quẹt thứ 3: cô nhìn thấy cây thông Nô-en thật to và đầy màu sắc ⇒ ước được đón lễ giáng sinh như bao người khác
+ Lần quẹt thứ 4: bà hiện ra ⇒ ước được đoàn tụ với người bà thân yêu của mình.
- Mỗi lần quẹt diêm là một khung cảnh trong mơ hiện ra trước mặt cô bé, nhưng những giấc mộng đó chỉ kéo dài trong vài giây và sau khi diêm tắt, mọi thứ lại trở về với tối tăm, rét mướt, đói khổ. Sự đan xen giữa mộng tưởng và hiện thực như một nhát dao cứa vào lòng người đọc khi cảm nhận được nỗi bất hạnh, sự cô đơn, lạc lõng của cô gái bé nhỏ giữa xã hội.
- Ở lần quẹt diêm thứ 4, cô đã nhất quyết níu tay người bà và cầu xin bà cho cô đi cùng. Đây được coi là chi tiết cảm động nhất. Nó không chỉ thể hiện tình yêu, lòng quý trọng, nhớ thương của cô với người bà quá cố, mà còn là sự níu kéo lại những phút giây hạnh phúc mỏng manh duy nhất của cuộc đời, cũng là ước muốn được giải thoát khỏi khổ đau trong tâm hồn non nớt ấy.
* Luận điểm 3: Cái chết của cô bé bán diêm trong đêm giá lạnh
- Cuối cùng, Chúa cũng xót thương cho số phận bất hạnh của cô bé và đưa cô về với người bà của mình nơi Thiên đường. Hình ảnh cô bé chết với đôi má hồng và đôi môi đang mỉm cười như xoáy sâu vào lòng người đọc một nỗi bàng hoàng, xúc động và một câu hỏi về sự vô tâm, vô cảm của xã hội xung quanh.
* Luận điểm 4: Thành công nghệ thuật:
- Nghệ thuật kể hấp dẫn người đọc với các tình tiết hợp lí, logic, sự đan xen giữa hiện thực và mộng tưởng làm tăng thêm hiệu quả nghệ thuật và thành công cho truyện.
- Nghệ thuật khắc họa tâm trạng nhân vật và diễn biến tâm lí nhân vật tinh tế, sâu sắc.
III. Kết bài:
- Khẳng định lại giá trị tác phẩm: Tác phẩm khắc họa lại tình ảnh đáng thương và những ước mơ giản dị, trong sáng, xúc động của cô bé bán diêm.
- Liên hệ: Qua đó thể hiện tấm lòng nhân đạo cao cả của tác giả.
Sơ đồ tư duy
Phân tích truyện ngắn Cô bé bán diêm – mẫu 1
An-đéc-xen là nhà kể chuyện cổ tích nổi tiếng của thế giới phương Tây. Ngoài việc sưu tầm ông còn sáng tạo. Cô bé bán diêm là một sáng tác độc đáo, một câu chuyện cổ tích về thời hiện đại, thể hiện tài năng kể chuyện bậc thầy của ông. Thời hiện đại ở đây chính là thời đại mà tác giả sống, thời đại mà con người đã biết chế tạo và sử dụng diêm, con người biết đi lại bằng những cỗ xe song mã, biết tổ chức đón giao thừa với những cây thông Noel lộng lẫy. Câu chuyện Cô bé bán diêm kể về xã hội ấy, kể lại cái chết thương tâm của một cô bé nghèo khổ.
Mở đầu câu chuyện, tác giả giới thiệu một bối cảnh khắc nghiệt và khác thường. Khắc nghiệt bởi vì "trời đã tối hẳn" mà "tuyết rơi" không ngừng, và "rét dữ dội". Khác thường là vì: "Đêm nay là đêm giao thừa" nghĩa là một thời điểm đặc biệt đối với mỗi gia đình và đối với mỗi người. Đêm giao thừa ở đâu cũng vậy, đều là thời điểm mà năm cũ với những buồn vui lẫn lộn lùi vào quá khứ và một năm mới với những hi vọng tràn trề đang chờ đợi mọi người được mở ra. Nhưng đêm giao thừa ở phương Tây rất rét, vì lúc này đang giữa mùa đông. Khắp nơi đầy tuyết phủ, khắp nơi đầy giá lạnh. Ấy thế mà trong cái giá lạnh đó, trong cái đêm giao thừa đó "một em gái nhỏ đầu trần, chân đi đất, đang dò dẫm trong đêm tối". Em bé đi đâu vậy? Em phải đi bán diêm vì "nếu không bán được ít bao diêm, hay không ai bố thí cho một đồng xu nào" thì "em không thể nào về nhà", bởi lẽ khi đó "nhất định là cha em sẽ đánh em". Bởi vì từ khi "Thần Chết đã đến cướp bà em đi mất, gia sản tiêu tan, và gia đình em đã phải lìa ngôi nhà xinh xắn có dây trường xuân bao quanh, nơi em đã sống những ngày đầm ấm, để đến chui rúc trong một xó tối tăm, luôn luôn nghe những lời mắng nhiếc chửi rủa". Hơn nữa "ở nhà cũng rét thế thôi. Cha con em ở trên gác sát mái nhũ vã mặc dầu đã nhét giẻ rách vào các kẽ hở lớn trên vách, gió vẫn thổi ríu vào trong nhà". Như vậy em bé bán diêm này là một em bé có hoàn cảnh nghèo khổ.
Em bé đáng thương không tên tuổi này giống như kẻ lạc loài, bơ vơ trên mặt đất đầy tuyết phủ. "Em cố kiếm một nơi có nhiều người qua lại. Nhưng trời rét quá, khách qua đường đều rảo bước rất nhanh, chẳng ai đoái hoài đến lời chào hàng của em cả". Vì thế "suốt ngày em chẳng bán được gì cả và chẳng ai bố thí cho em chút đỉnh. Em bé đáng thương vẫn bụng đói cật rét lang thang trên đường". Em đi dưới trời mưa tuyết tới mức: "bông tuyết bám đầy trên mái tóc dài thành từng búp trên lưng em, em cũng không để ý" và những người qua đường cũng không ai để ý đến một đứa trẻ đang bị tuyết phủ dần dần. Chắc chắn là em đã đi trong mưa tuyết như vậy rất lâu. Giờ đây em không còn đi được nữa. "Em ngồi nép vào một góc tường giữa hai ngôi nhà, một cái xây lùi vào chút ít", Đó là một nơi mà ai đi qua cũng phải tránh nhưng cũng buộc mọi người phải chú ý. Em bé ngồi chỗ đó với hy vọng sẽ có người chú ý đến em, sẽ có người mua diêm cho em. Xung quanh em "cửa sổ mọi nhà đều sáng rực ánh đèn và trong phố sực nức mùi ngỗng quay". Mùi ngỗng quay nhắc em "đêm nay là đêm giao thừa". Mùi ngỗng quay còn nhắc em nhớ tới thời kỳ đầm ấm của gia đình em trước đây. Còn hiện tại em đang ngập chìm trong tuyết lạnh. "Em thu đôi chân vào người, nhưng mỗi lúc em cảm thấy rét buốt hơn". "Lúc này đôi bàn tay của em bé bán diêm tội nghiệp "đã cứng đờ ra". Em bé nghĩ tới việc đánh diêm để "hơ ngón tay". Và "em đánh liều một que". Ngọn lửa bùng lên trong đêm giao thừa giá lạnh, mang lại cho em một niềm vui. "Ngọn lửa lúc đầu xanh lam, dần dần biến đi, trắng ra, rực hồng lên quanh que gỗ, sáng chói trông đến vui mắt". Em bé hơ bàn tay giá lạnh trên ánh lửa nhỏ nhoi của que diêm mà tưởng tượng rằng em đang ngồi trước một cái lò sưởi nơi đó đang "tỏa ra một hơi nóng dịu dàng". Nhưng đây chỉ là một điều mong ước chỉ là một điều mộng tưởng. Bởi lẽ "em vừa duỗi chân ra sưởi thì lửa vụt tắt, lò sưởi biến mất". "Em bần thần cả người và chợt nghĩ ra rằng cha em đã giao cho em bán diêm". Thật đặng buồn biết bao vì giữa ước mơ và hiện thực là một khoảng cách xa vời. Một cái lò sưởi trong đêm đông giá rét một mái nhà ấm cũng mãi mãi là ước mơ, là khát vọng của em bé.
Cùng với cái rét, cái đói cũng hiện về. Que diêm thứ hai "cháy và sáng rực lên". Que diêm cho em thấỵ: "bàn ăn đã dọn, khăn trải bàn trắng tinh, trên bàn toàn bát đĩa sứ quý giá, và có cả một con ngỗng quay. Nhưng điều kỳ diệu nhất là ngỗng ta nhảy ra khỏi đĩa và mang cả dao ăn, phuốc-sét cắm trên lưng, tiến về phía em bé". Thật hấp dẫn biết bao. Một bữa ăn vừa ngon vừa sang dành cho em bởi vì em đói lắm rồi, song bữa ăn đó cũng chỉ là ước mơ, mộng tưởng. Vì thế khi que diêm vừa tắt thì "thực tế đã thay cho mộng mị: chẳng có bàn ăn thịnh soạn nào cả, chỉ có phố xá vắng teo, lạnh buốt, tuyết phủ trắng xóa, gió bấc vi vu và mấy người khách qua đường quần áo ấm êm vội vã đi đến những nơi hẹn hò, hoàn toàn lãnh đạm với cảnh nghèo khổ của em bé bán diêm". Bên cạnh em giờ đây chỉ có đói và rét, và để chống lại em dùng ánh sáng và hơi ấm của que diêm. Trong ánh sáng ngắn ngủi của que diêm, em tưởng tượng ra những thứ mình cần, em tạo ra thế giới cho riêng em, bởi lẽ gió rét ngăn cản mọi người đến với em, cái đói cũng ngăn cản những người khác đến với em, trước mặt em cũng như sau lưng em chỉ còn lại "những bức tường dày đặc và lạnh lẽo". Những bức tường câm lặng, những bức tường không biết nói do chính con người tạo ra để che chở cho người này và để tạo ra sự cách ngăn với người khác.
Em bé còn lại một mình trong cái thế giới của em, thế giới đó bị tuyết trắng và đêm đen bao phủ. Để xua đi màn đêm và giá rét, "em bé quẹt que diêm thứ ba". "Em thấy hiện ra một cây thông Nô en", "cây này lớn và trang trí lộng lẫy" với "hàng ngàn ngọn nến sáng rực, lấp lánh trên cành lá xanh tươi, và rất nhiều bức tranh màu sắc rực rỡ"... Cây thông Noel gợi nhớ một truyền thông tặng quà và quan tâm đến trẻ em của phong tục phương Tây, nhưng có lẽ câu chuyện về ông già Nô en cũng chỉ là một huyền thoại xa vời còn trong thực tại em bé bán diêm còn đang ngập chìm trong tuyết lạnh. Em cũng chẳng cần đến những món quà của ông già Tuyết nữa bởi lẽ tuyết và giá rét quanh em đã quá thừa rồi. Que diêm thứ ba cũng tắt. Sự sống của nó cũng quá ngắn ngủi. Nó không xua đi được màn đêm, nhưng màn đêm không thắng nổi nó. Que diêm tắt thì tất cả những ngọn nến mà cô bé bán diêm thấy trên cây thông Nô en cũng "bay lên, bay lên mãi rồi biến thành những ngôi sao trên trời". Khi đó em nghĩ tới cái chết, vì bà em, "người hiền hậu độc nhất đối với em" thường nói: "Khi có một vì sao đổi ngôi là có một linh hồn bay lên trời với Thượng đế". Nhưng thật buồn vì bà em đã chết từ lâu. Nhưng cũng chẳng hề gì bởi những người đang sống không ai nghĩ về em, không ai nghĩ đến em thì em đi tìm nguồn an ủi nơi người bà yêu quý. Và thế là em quẹt diêm. "Em thấy rõ ràng là bà em đang cười với em", "em reo lên" và van xin bà "cho cháu đi với", "cháu van bà, bà xin Thượng đế chí nhân, cho cháu về với bà. Chắc người không từ chối đâu.
Thật đau đớn xiết bao khi em bé bán diêm bị xã hội bỏ rơi, bỏ quên trong tuyết phủ đã quyết khước từ cuộc sống, quyết tâm tìm về thế giới bên kia. Trong thế giới của những người sống em không có chỗ đứng, không có điều kiện để sống. Bởi lẽ chỉ cần bán được vài bao diêm thôi cũng đủ mang lại cho em cuộc sống, nhưng cả cái thế giới đi xe song mã ấy, cả cái thế giới nấp sau những cánh cửa sổ sáng rực ánh đèn ấy "chẳng ai đoái hoài đến lời chào hàng của em". Không giao tiếp được với thế giới những người đang sống, em bé bán diêm tìm cách xác lập mối quan hệ giao tiếp với bà em "Em quẹt tất cả những que diêm còn lại trong bao để níu bà em lại". Kết quả là "Chưa bao giờ em thấy bà em to lớn và đẹp lão như thế này. Bà cụ cầm tay em, rồi hai bà cháu bay vụt lên cao, cao mãi, chẳng còn đói rét đau buồn nào đe dọa họ nữa".
Em bé đã chết một cách thê lương như vậy trong đêm giao thừa. Cái chết mang trong nó sức mạnh tố cáo xã hội. Cho dù người ta nhìn thấy trong xó tường "một em bé gái có đôi má hồng và đôi môi đang mỉm cười. Bên cạnh "một bao diêm đã đốt hết nhẵn" thì những người đang sống cũng không thể nào biết được "những cái kỳ diệu mà em bé đã trông thấy, nhất là cảnh huy hoàng lúc hai bà cháu bay lên để đón những niềm vui đầu năm'. Bởi vì những người đó ngoài việc sử dụng cái đói, cái rét để tạo sự ngăn cách của họ với em bé thì họ còn xây dựng những bức tường hoặc hữu hình hoặc vô hình để tạo ra sự ngăn cách mới giữa họ và em bé. Họ không có quyền được nhìn thấy, được tận hưởng những gì do mộng tưởng của em tạo ra. Bởi vì em thuộc về một thế giới khác. Cái chết của em bé còn là sự phê phán lối sống ích kỷ, có cụm, chỉ biết mình của thế giới hiện đại. Đó là sự cảm thông sâu sắc của nhà kể chuyện thiên tài.
Phân tích truyện ngắn Cô bé bán diêm – mẫu 2
An-đéc-xen nhà văn nổi tiếng với những câu chuyện dành cho thiếu nhi. Các tác phẩm của ông luôn để lại những ấn tượng sâu đậm, những bài học sâu sắc cho các bạn nhỏ. Khi nhắc đến kho tàng truyện của ông ta không thể không nhắc đến truyện Cô bé bán diêm, một câu chuyện giàu giá trị nhân văn, nhân bản.
Truyện kể về số phận bi thương, bất hạnh của cô bé bán diêm. Cô bé vốn cũng có một gia đình hết sức êm ấm, hạnh phúc, với người bà hiện hậu, trong “ngôi nhà xinh xắn có dây thường xuân bao quanh”, nhưng tất cả chỉ còn là quá khứ xa xôi. Người bà, người mẹ yêu thương em lần lượt đã qua đời, em sống với người bố trong cảnh nghèo khổ, túng quẫn trên một căn gác tồi tàn, em phải đi bán diêm để kiếm sống.
Sự khốn cùng của em được tác giả đậm tô hơn nữa trong đêm giao thừa. Trong đêm đông lạnh giá, từng cơn gió thấu xương vù vù thổi, cô bé đầu trần, chân đất, bụng đói đang mang những phong diêm đi bán. Em không dám về nhà vì người cha nghiện rượu sẵn sàng đánh em nếu em chưa bán được gì. Em ngồi sát góc tường, mong mỏi mọi người rủ lòng thương mà mua cho mình.
An-đéc-xen đã xây dựng một loạt các hình ảnh tương phản, đối lập để làm nổi bật lên hoàn cảnh đáng thương của cô bé: ngôi nhà xinh xắn, ngập tình yêu thương chỉ còn trong quá khứ, hiện tại chỉ là tầng áp mái tồi tàn, với người cha luôn mắng chửi, đánh đập em; mọi người đang ngồi trong ngôi nhà sáng ánh đèn còn em một mình với bóng đêm, lạnh giá; trong mỗi căn nhà sực nức mùi ngỗng quay, mùi của gia đình hạnh phúc còn cô bé bụng đói cả ngày, cô đơn, buồn tủi. Với nghệ thuật tương phản tác giả đã làm rõ hơn nỗi bất hạnh của em. Cô bé không chỉ thiếu thốn, khốn khổ về vật chất mà con sống trong cảnh bị mọi người hờ hững, trong đó có cả bố - người đã sinh ra em.
Tác giả có sự kết hợp hài hòa giữa hiện thực và mộng tưởng thông qua các lần quẹt diêm của cô bé. Trong tác phẩm, cô bé quẹt diêm tất cả năm lần: lần một thấy chiếc lò sưởi, lần hai thấy ngỗng quay, lần thứ ba thấy cây thông, lần bốn thấy bà, lần năm em quẹt tất cả các que diêm còn lại để níu kéo người bà ở lại với mình. Trình tự quẹt diêm của em là hoàn toàn hợp lí, đi từ vật chất đến tinh thần: em muốn có lò sưởi, ngỗng quay bởi em đang phải chịu cái đói, cái lạnh; em thấy cây thông, người bà bởi nó gợi ra không khí gia đình ấm áp, tràn ngập tình yêu thương. Sự đan cài giữa hiện thực và mộng tưởng đem đến cho người đọc niềm xót xa, cảm thông sâu sắc trước số phận em bé. Những mộng tưởng của em bé đều xuất phát từ thực tế khổ đau: em mơ lò sưởi, bữa tiệc, cây thông,… vì em phải sống trong cảnh thiếu thốn, nghèo khổ. Em mơ thấy bà vì khi bà mất, em luôn sống trong cảnh thiếu tình yêu thương. Sau mỗi lần que diêm tắt là thực tế khắc nghiệt đổ ập vào em, khiến cho số phận của cô bé càng trở nên bất hạnh. Bởi vậy, em cố gắng quẹt những que diêm cuối cùng để níu kéo bà ở lại, để em được sống trong tình yêu thương. Nhưng cô bé cũng hiểu rằng, chỉ cần que diêm tắt đi thì hình ảnh bà cũng mất như tất cả những sự vật trước đó. Bởi vậy, em đã ước mình được đi cùng bà mãi mãi. Niềm mong ước của em vừa phản ánh khát khao được sống trong tình yêu thương, vừa thể hiện số phận bi kịch, bất hạnh của cô gái bé nhỏ, tội nghiệp.
Cái chết của cô bé cũng vô cùng thương tâm, gây ám ảnh với bạn đọc. Buổi sáng đầu tiên của năm mới, mọi người ai cũng vui vẻ, rạng rỡ nhưng em bé lại một mình chết ở xó tường, em chết vì lạnh, vì lòng người vô cảm không ai quan tâm, giúp đỡ em. Nhưng khi chết trên mặt em đôi má vẫn hồng, đôi môi như đang mỉm cười, vì em đã thoát khỏi cuộc sống bất hạnh, được đến với người bà yêu quý của mình. Thực tế đây là một cái kết mang tính chất bi kịch. Hạnh phúc với mỗi con người là ở thực tại, ở trần thế này nhưng em phải đến thế giới khác mới được hưởng trọn vẹn niềm hạnh phúc ấy.
Tác phẩm được xây dựng một kết cấu phù hợp với diễn biến sự việc và tâm lí nhân vật. Nghệ thuật tương phản đối lập càng làm nổi bật hơn nỗi bất hạnh của em bé: mồ côi, trong đêm tối một mình lang thang bán diêm đối lập với đường phố rực rỡ ánh đèn, những người xung quanh vui vẻ, hạnh phúc. Sự đan xen hài hòa hợp lí giữa hiện thực và mộng tưởng vừa làm rõ số phận bi thương, vừa khắc họa khát khao hạnh phúc của cô bé bán diêm.
Truyện Cô bé bán diêm thể hiện tình yêu thương sâu sắc của nhà văn đối với những số phận bất hạnh. Truyện truyền tải đến người đọc thông điệp giàu ý nghĩa, thấm đẫm giá trị nhân đạo: hãy yêu thương trẻ thơ và để cho chúng được sống một cuộc sống đủ đầy, hạnh phúc.
Phân tích truyện ngắn Cô bé bán diêm – mẫu 3
Nhắc đến truyện cổ tích ta không chỉ nhớ đến anh em nhà Grim mà còn nhớ đến một An-đéc-xen thiên tài, với những thiên truyện chứa đựng giá trị nhân văn cao cả. Trong những tác phẩm của ông chắn hẳn ta không thể quên truyện Cô bé bán diêm gây nhiều xúc động và bài học ý nghĩa cho người đọc.
Mở đầu tác phẩm là hoàn cảnh cuộc sống đầy khắc nghiệt của cô bé bán diêm. Trời đã tối, nhưng tuyết vẫn không ngừng rơi, cô bé bán diêm lầm lũi bán những hộp diêm của mình. Bối cảnh đó càng trở nên đặc biệt hơn khi đó là đêm giao thừa, ai cũng được ở trong căn nhà ấm cúng, quay quần bên gia đình, chỉ có mình em là phải đối mặt với cái lạnh thấu xương của những cơn gió lạnh lẽo ùa về. Cô bé đầu trần, chân đất, mò mẫm đi trong đêm tối, cô bé không dám về nhà vì: “nếu không bán dược bao nào sẽ bị cha em mắng chửi”.
Sau khung cảnh khắc nghiệt đó, ngược về quá khứ, tác giả vẽ nên một khung cảnh cuộc sống hoàn toàn trái ngược với hiện tại. Khi ấy em được ở trong căn nhà khang trang, đẹp đẽ, có bà và mẹ luôn yêu thương. Nhưng “Thần chết đã đến cướp bà em đi mất, gia sản tiêu tan, và gia đình em phải lìa xa ngôi nhà xinh xăn có dây trường xuân bao quanh, nơi em đã sống những ngày đầm ấm” , hạnh phúc và giờ đầy phải “chui rúc trong một xó tối tăm, luôn luôn nghe những lời mắng nhiếc chửi rủa” . Cô bé không những không được yêu thương mà còn bị đối xử tàn tệ, tuổi còn nhỏ nhưng bố em đã bắt em ra đường mưu sinh.
Cả một ngày dài em miệt mài trên những con phố, hòng mong tấm lòng thương cảm của một người, nhưng không một ai giúp đỡ em. Đêm đã về khuya, cô bé ngồi nép mình dưới một góc tường để tránh cái lạnh lẽo giá rét. Xung quanh khung cảnh đều sáng rực, các nhà đang chuẩn bị cho đêm giao thừa thật ấm áp và hạnh phúc.
Lúc này toàn thân em đã lạnh cóng, cô bé đánh liều lấy một que diêm ra để hơ bàn tay cho đỡ lạnh. Ngọn lửa bùng lên mới vui mắt làm sao, em tưởng tượng rằng mình đang ngồi trước một lò sưởi ấm áp. Nhưng khi em vừa duỗi chân ra thì ngọn lửa vụt tắt, cái lạnh lại ùa về, bao trùm lấy cơ thể em. Không chỉ phải chịu đựng cái rét,em còn phải chịu đứng cái đói cồn cào, que diêm thứ hai bùng cháy, trước mắt em là: “bàn ăn đã dọn, khăn trải bàn trắng tinh, trên bàn toàn bát đĩa sứ quý giá, và có cả một con ngỗng quay. Nhưng điều kì diệu nhất là ngỗng ta nhảy ra khỏi đĩa và mang cả dao ăn, phuốc-sét cắm trên lưng, tiến về phía em” . Bữa tiệc thật thịnh soạn, hấp dẫn, chắc chắn nó sẽ làm vơi bớt cái đói cồn cào trong em. Nhưng thực tế đó cũng chỉ là bữa ăn trong tưởng tượng mà thôi. Bởi vậy khi que diêm tắt, mọi cảnh tượng huy hoàng, bữa ăn thịnh soạn cũng đều biến mất.
Que diêm thứ ba bật sáng, hình ảnh cây thông noel lấp lánh, được trang hoàng lung linh hiện lên trước mắt em. Và que diêm thứ tư bật lên là khuôn mặt thân thương của người bà mà em hằng yêu quý. Em vui sướng reo lên và mong mỏi được đi theo bà, để thoát khỏi cuộc sống khổ sở, đau đớn này. Lời em van xin đáng thương, và tội nghiệp quá. Một đứa bé ngây thơ, non nớt, mà lại có suy nghĩ về cái chết để trốn tránh hiện thực đầy khổ đau. Em khước từ cuộc sống để tìm về với cõi thanh thản, nơi đó có bà, có tình yêu thương: “Chưa bao giờ em thấy bà em to lớn và đẹp lão như thế này. Bà cụ cầm tay em, rồi hai bà cháu bay vụt lên cao, cao mãi, chẳng còn đói rét đau buồn nào đe dọa họ nữa”.
Cô bé đã chết, trên gương mặt vẫn nở nụ cười tươi, đôi má hồng hồng đầy mãn nguyện. Bởi em đã thoát khỏi cuộc sống đầy đau khổ và vô cảm này. Thực ra cô bé vẫn có thể sống nếu cha em biết chăm lo làm ăn, nếu những con người qua đường động lòng thương cảm giúp đỡ em mua lấy một bao diêm. Nhưng tuyệt nhiên không một bàn tay yêu thương nào đưa ra để cứu vớt số phận của cô bé tội nghiệp. Cái kết của tác phẩm như gióng lên hồi chuông về lối sống thờ ơ, vô trách nhiệm, vô cảm của con người.
Với mô tip quen thuộc trong truyện cổ tích về cô bé mồ côi nghèo khổ, cùng các chi tiết kỉ ảo, nhưng tác phẩm vẫn thấm đẫm tinh thần hiện đại. Bởi cô bé không có cái kết viên mãn, hạnh phúc ở trần thế mà phải chết đi mới được hưởng hạnh phúc. Giá trị nhân văn, nhân đạo sâu sắc của tác phẩm cũng chính là ở chỗ đó.
Phân tích truyện ngắn Cô bé bán diêm – mẫu 4
Cô bé bán diêm của nhà văn An-đéc-xen đã để lại những dư âm, ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc. Không chỉ vậy đó còn là niềm cảm thương vô hạn cho số phận bất hạnh, đầy bi thương của nhà văn với cô bé bán diêm.
Hoàn cảnh của cô bé vô cùng thương cảm, ngay từ những lời đầu tiên giới thiệu về hoàn cảnh của cô bé đã khiến người đọc phải rơi nước mắt: bà và mẹ những người yêu thương em nhất đều đã qua đời, em sống chui rúc với bố trong một căn gác tối tăm, chật chội. Người bố có lẽ vì cuộc sống nghèo túng, khó khăn nên đâm ra khó tính, đối xử tệ bạc với em: hay mắng nhiếc, chửi rủa em.
Trong đêm đông giá rét em phải mang những phong diêm đi bán để kiếm sống nuôi bản thân. Mặc dù có nhà song em không dám về vì nếu về mà không mang được đồng xu nào tất sẽ bị cha em mắng chửi. Người cha vô lương tâm, lời lẽ hành động thiếu tình thương đã khiến cô bé bất hạnh phải ở bên ngoài trong đêm đông giá lạnh, trong gió và mưa tuyết mỗi lúc một nhiều.
Xót thương biết bao trong ngày cuối cùng của năm ai ai cũng được quay quần bên gia đình còn cô bé thì đầu trần, chân đất lang thang ngoài trời đông giá rét, tuyết phủ trắng xóa. Xung quanh em đường phố, nhà cửa đã lên đèn, không gian thật ấm cúng, hạnh phúc, mùi ngỗng sực nức khắp nơi, còn em đã đi cả ngày mà không bán được bao diêm nào. Những hình ảnh tương phản không chỉ làm nổi bật thiếu thốn, khó khăn về vật chất của em mà còn nói đến những mất mát, thiếu thốn về mặt tinh thần.
Trong cái giá rét của mùa đông, cô bé liều mình quẹt từng que diêm để sưởi ấm cơ thể. Hình ảnh ngọn lửa diêm mang nhiều ý nghĩa sâu sắc. Trước hết ngọn lửa diêm xua tan cái lạnh lẽo, tăm tối để em bé có thể quên đi những bất hạnh, cay đắng của cuộc đời.
Ngọn lửa diêm đã thắp sáng những mơ ước đẹp đẽ, những khao khát mãnh liệt, đem đến thế giới mộng tưởng với niềm vui, hạnh phúc. Đó còn là ngọn lửa của mơ ước về cuộc sống gia đình hạnh phúc, được sống trong tình yêu thương của cha mẹ, ông bà. Hình ảnh ngọn lửa diêm như con thuyền đầy tinh thần nhân văn của tác giả, thể hiện sự cảm thông, trân trọng những ước mơ giản dị, diệu kì của trẻ nhỏ.
Mỗi lần quẹt diêm, cô bé tội nghiệp lại được sống trong giây phút hạnh phúc, chìm đắm trong thế giới cổ tích, thoát khỏi thực tại tăm tối. Lần quẹt diêm thứ nhất, em thấy lò sưởi, vì trong đêm đông giá lạnh em cần được sưởi ấm. Khi que diêm vụt tắt, lò sưởi biến mất, nỗi sợ hãi mơ hồ lại xâm chiếm em “đêm nay về nhà thế nào cũng bị cha mắng”. Em lại lấy can đảm quẹt diêm lần thứ 2, lần này em thấy một bàn ăn thịnh soạn,… sự tưởng tượng của em thật hài hước, cho thấy mơ ước lớn nhất lúc này của em là được ăn no.
Trong đêm giao thừa gia đình nào cũng quây quần bên mâm cơm, còn em lại đói lả đi trong cái giá lạnh. Chi tiết gây xúc động sâu sắc đến người đọc, nó gợi lên những ám ảnh day dứt khôn nguôi. Lần thứ ba, trong không khí đêm giáng sinh, em thấy hình ảnh của cây thông. Đó chính là biểu tượng của mái ấm gia đình hạnh phúc, là những ước mơ trong sáng của tuổi thơ.
Lần thứ 4, giữa cái đói rét và cô độc, em khao khát có tình yêu thương và chỉ có bà là người yêu thương em nhất. Trong giây phút đó bà hiện lên thật ấm áp, đẹp đẽ. Cô bé khẩn thiết van xin bà cho đi cùng, bởi cô bé hiểu khi ngọn lửa diêm tắt đi bà cũng biến mất. Ước nguyện của cô bé thật đáng thương, cô bé muốn được che chở, được yêu thương biết nhường nào.
Lần cuối cùng em quẹt hết số diêm còn lại để nhìn thấy bà và thật kì lạ ước nguyện cuối cùng của em đã trở thành hiện thực. Em không còn phải đối mặt với đòn roi, những lời mắng nhiếc, sự đói rét, nỗi buồn nữa, em đã được đến một thế giới khác, thế giới có bà ở bên. Qua những lần mộng tưởng của cô bé ta thấy cô bé là người có tâm hồn trong sáng, ngây thơ.
Trong đói rét em không hề oán trách một ai vì đã thờ ơ trước cảnh ngộ của mình. Tâm hồn em thật trong sáng và nhân hậu biết chừng nào. Đó là một cô bé giàu mơ ước, vượt lên hoàn cảnh thực tại đói rét, cô đơn. Những mơ ước ấy giản dị mà cũng thật lãng mạn, diệu kì.
Phân tích truyện ngắn Cô bé bán diêm – mẫu 5
Ai đã từng đọc Cô bé bán diêm của nhà văn Đan Mạch An-đéc-xen hẳn sẽ không thể nào quên những ánh lửa diêm nhỏ nhoi bùng lên giữa đêm giao thừa giá rét gắn với một thế giới mộng tưởng thật đẹp của cô bé nghèo khổ. Kết cục câu chuyện thật buồn nhưng sức ám ảnh của những giấc mơ tuyệt đẹp vẫn ắp đầy tâm trí người đọc, người nghe qua những lời kể và sự miêu tả rất cuốn hút của An-đéc-xen.
Trong bóng tối và cái rét cắt thịt da của xứ sở Đan Mạch, ta như nhìn thấy rõ một cô bé đôi môi tím tái, bụng đói cồn cào đang lần từng bước chân trần trên hè phố. Một cô bé mồ côi khốn khổ, không dám về nhà vì chưa bán được bao diêm nào thì sẽ bị cha đánh. Nhà văn đã tạo ra cảm giác thật sống động khi ông nhập vào những khoảnh khắc tâm trạng của cô bé.
Ấn tượng đậm nét đầu tiên khơi lên mối cảm thương chính là hình ảnh cô bé như lọt thỏm giữa cái mênh mông của bóng đêm vào thời khắc sắp giao thừa. Khi “mọi nhà đều sáng rực ánh đèn và trong phố sực nức mùi ngỗng quay”, cô bé đã hồi tưởng lại quá khứ tươi đẹp khi bà nội hiền hậu còn sống.
Ngôi nhà xinh xắn với những dây thường xuân trong những ngày đầm ấm tương phản với thực tại cuộc sống của hai cha con trong một xó tối tăm, sự nghèo khổ kéo theo những lời mắng nhiếc chửi rủa của người cha khi gia sản đã tiêu tán. Để nguôi cảm giác lạnh, em đã “ngồi nép trong một góc tường”, “thu đôi chân vào người” nhưng có lẽ chính nỗi sợ hãi còn mạnh hơn giá rét đã khiến em “càng thấy rét buốt hơn”.
Em không thể về vì biết “nhất định cha em sẽ đánh em”. “Ở nhà cũng rét thế thôi”, điều đáng sợ nhất đối với cô bé không phải là thiếu hơi ấm mà là thiếu tình thương. Thật đáng thương khi thân hình bé nhỏ của em phải chống chọi vô vọng với cảm giác giá buốt bên ngoài và cái lạnh từ trong trái tim khiến “đôi bàn tay em đã cứng đờ ra”.
Lúc ấy, em chỉ ao ước một điều thật nhỏ nhoi: “Chà! Giá quẹt một que diêm mà sưởi cho đỡ rét một chút nhỉ?” nhưng dường như em cũng không đủ can đảm vì làm như vậy em sẽ làm hỏng một bao diêm không bán được. Nhưng rồi cô bé ấy cũng “đánh liều quẹt một que”, để bắt đầu cho một hành trình mộng tưởng vượt lên thực tại khắc nghiệt.
Giấc mơ của em bắt đầu từ lúc nhìn vào ngọn lửa: “lúc đầu xanh lam, dần dần biến đi, trắng ra, rực hồng lên quanh que gỗ, sáng chói trông đến vui mắt”. Ánh sáng ấy đã lấn át đi cảm giác của bóng tối mênh mông, để hiện lên hình ảnh “một lò sưởi bằng sắt có những hình nổi bằng đồng bóng nhoáng”.
Niềm vui thích của em đến trong ảo giác “lửa cháy non đến vui mắt và tỏa ra hơi nóng dịu dàng”. Đó là ước mơ thật đơn giản trong khi thực tế lại phũ phàng “tuyết phủ kín mặt đất, gió bấc thổi vun vút… trong đêm đông rét buốt”. Ước ao được ngồi hàng giờ “trước một lò sưởi” cũng biến tan khi “lửa vụt tắt, lò sưởi biến mất”. Khoảnh khắc em “bần thần cả người” khi hình dung ra những lời mắng chửi của cha khiến ta phải nao lòng. Bóng tối lại phủ lên màu u ám trong tâm hồn em
Có lẽ vì vậy, nhà văn đã để em tiếp tục thắp lên que diêm thứ hai, thắp lên niềm vui nhỏ nhoi dù chỉ là trong mộng tưởng. Không chỉ phải chống chọi với cái rét, cô bé còn phải cầm cự với cơn đói khi cả ngày chưa có miếng nào vào bụng. Bởi thế, ánh sáng rực lên của ngọn lửa diêm đã biến bức tường xám xịt thành “tấm rèm bằng vải màu”.
Cái hạnh phúc trong những ngôi nhà ấm áp đã đến với em, khi em nhìn thấy: “Bàn ăn đã dọn, khăn trải bàn trắng tinh, trên bàn toàn bát đĩa bằng sứ quý giá, và có cả một con ngỗng quay”. Giá như tất cả những hình ảnh tưởng tượng biến thành hiện thực thì em sẽ vui sướng biết bao, khi “ngỗng nhảy ra khỏi đĩa” sẽ mang đến cho em bữa ăn thịnh soạn để vượt lên phút đói lả người.
Nhưng một lần nữa, ảo ảnh lại vụt biến, em lại phải đối mặt với “phố xá vắng teo, lạnh buốt, tuyết phủ trắng xóa, gió bấc vi vu”. Không những thế, em còn chứng kiến sự thờ ơ ghẻ lạnh của những người qua đường, hình ảnh tương phản được nhà văn khắc họa làm ta nhói đau trước em bé bất hạnh.
Và một lần nữa, que diêm tiếp theo lại sáng bừng lên, để em được sống trong những giấc mơ đẹp nhất của một em bé. Trong một cuộc sống phải từng phút từng giây vật lộn mưu sinh, em đã phải từ giã những niềm vui được đùa chơi của con trẻ. Ánh sáng từ que diêm đã tỏa ra vầng hào quang lộng lẫy, cho em “một cây thông Nô-en”, như đem đến cho em một thiên đường của tuổi thơ: “Hàng ngàn ngọn nến sáng rực, lấp lánh trên cành lá xanh tươi và rất nhiều bức tranh màu sắc rực rỡ như những bức bày trong tủ hàng”.
Điều trớ trêu nghiệt ngã là tất cả những hình ảnh tươi đẹp ấy em chỉ kịp nhìn nhưng không thể chạm tay vào, bởi lẽ tất cả chỉ là ảo ảnh, như những ngôi sao trên trời mà em không thể với tới. Trái tim ta như nghẹn lại cùng lời kể của nhà văn, bởi lẽ em bé đang dần kiệt sức và sắp phải gục ngã trước cái lạnh chết người của xứ sở bà chúa Tuyết.
Andersen là nhà văn nổi tiếng người Đan Mạch với các tác phẩm chuyên dành cho thiếu nhi, từ thời thơ bé Andersen đã dành một tình yêu nồng nhiệt đối với các tác phẩm văn học nổi tiếng. Mặc dù phải hứng chịu nhiều thăng trầm trong cuộc sống từ khi chưa trưởng thành, trải qua đủ các nghề kiếm sống từ công nhân nhà máy thuốc lá, hoạt động trong nhà hát hoàng gia, sáng tác thơ, nhưng đến cuối cùng đầu óc nhạy bén, giàu sức tưởng tượng đã đưa tài năng của Andersen đạt đến độ chín khi trở thành một nhà văn chuyên sáng tác truyện cho thiếu nhi, được rất nhiều độc giả nhí trên thế giới yêu thích. Một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất của Andersen phải kể đến Cô bé bán diêm, bộc lộ sẽ những khao khát, ước mơ bé nhỏ của nhiều đứa trẻ có số phận bất hạnh, đồng thời cũng thể hiện được tấm lòng nhân ái, yêu thương con người của Andersen.
Nhân vật trung tâm của tác phẩm là một cô bé bán diêm, không tên, không tuổi, thay vào đó tác giả tập trung làm nổi bật hoàn cảnh đáng thương của cô bé tội nghiệp, cũng là hoàn cảnh bất hạnh chung của hàng ngàn, hàng vạn những đứa trẻ bất hạnh khác nhau trên thế giới này. Sự bất hạnh của cô bé được khắc họa rõ nét với hình ảnh một bé gái, ngay giữa đêm giao thừa rét mướt, nhưng đầu trần, chân đất, bụng thì đói meo, đang dò dẫm trong bóng tối với hi vọng bán được vài bao diêm. Trái ngược với cảnh khốn khổ ấy, thì khắp nơi trong thành phố, người ta đang nô nức, quây quần chờ đón giáng sinh, những đứa trẻ khác đang hạnh phúc trong quần áo ấm, bên mâm bàn thịnh soạn. Mà sự bất hạnh của cô bé lạ bắt nguồn từ việc em mồ côi mẹ, người bà thân yêu đã qua đời, người thân duy nhất còn lại của em là bố thì lại không yêu thương em, suốt ngày rượu chè, bài bạc, đánh mắng em. Em sợ hãi khi phải trở về căn gác tối om, lạnh buốt, bởi ở đó cũng chẳng khác gì lang thang ngoài đường, khi mà từ sáng đến giờ em vẫn chưa bán được bao diêm nào, em biết chắc chắn điều gì đang chờ em nếu em trở về nhà với hai bàn tay không. Sự tủi thân và tuyệt vọng khiến cô bé tuyệt vọng chán nản ngồi xuống một góc hẹp giữa hai căn nhà để bớt đi những cơn gió rét buốt. Cũng trong giây phút ấy em nhớ lại những ký ức hạnh phúc và vui vẻ khi người bà còn sống, em cũng từng có một gia đình hạnh phúc, ấm êm, đủ đầy, nhưng khi bà đi rồi cuộc sống của em bỗng chốc trở thành địa ngục.
Càng nghĩ em càng thấy xót xa, tủi phận mình, ngay lúc này đây em cần một chút hơi ấm, để xua đi cái giá lạnh đã làm đôi bàn tay em đông cứng. Đêm giao thừa, nỗi khốn khổ, tuyệt vọng đã khiến cô bé dũng cảm hơn, mặc dù biết rằng dùng diêm để sưởi ấm thì sẽ không tránh khỏi trận đòn từ người cha độc ác. Thế nhưng khao khát tìm hơi ấm giữa đêm đông và sự cô đơn tột cùng đã thôi thúc em quẹt một que diêm. Ngọn lửa bừng sáng, ban đầu xanh lam màu của hi vọng sau đó biến trắng rực rỡ, thật đẹp, giấc mơ đầu tiên của cô bé bắt đầu. Em hơ nhẹ tay mình bên ánh lửa, mà tưởng như mình đang ngồi cạnh một lò sưởi ấm áp, thật khoan khoái dễ chịu biết bao, thế nhưng niềm hạnh phúc trong mơ ấy cũng chẳng kéo dài được bao lâu, que diêm vụt tắt, kéo theo những tưởng tượng tốt đẹp trả cô bé về lại với thực tại lạnh lẽo, đói rét, và cơn giận của người cha độc ác. Sự thật phũ phàng ấy càng khiến người ta thấy thương cảm cho một số phận bất hạnh, dù chỉ là một nhu cầu cấp thiết nhất giữa đêm đông như sưởi ấm mà cô bé hằng khao khát cũng thật khó khăn và xa vời.
Nuối tiếc làn hơi ấm mà que diêm đầu tiên mang lại, cô bé quẹt tiếp que diêm thứ hai, khi ánh lửa vừa bùng lên bức tường lạnh giá đã biến thành một bức rèm xinh đẹp, bên trong căn phòng sáng trưng, có một bàn thức ăn bày biện thịnh soạn, còn có một con ngỗng quay - món ăn truyền thống đêm giao thừa. Và kỳ diệu thay em thấy con ngỗng nhảy ra khỏi đĩa, trên lưng cắm dao nĩa tiến dần về phía mình... Rồi que diêm phụt tắt trả lại em bức tường lạnh lẽo, những cơn gió rét thấu xương, chẳng có ngỗng, chẳng có bàn ăn nào cả, tất cả đều chỉ là do em tự tưởng tượng ra, lần nữa cô bé lại rơi vào hụt hẫng tuyệt vọng. Cũng từ đó chúng ta nhận ra rằng, việc tưởng tượng ra bàn thức ăn và căn phòng ấm áp chính là những khao khát mãnh liệt từ sâu trong đáy lòng cô bé. Là những nhu cầu bình thường nhất của những đứa trẻ đang tuổi ăn tuổi lớn, được ăn no, được ở trong một căn phòng ấm áp, được bảo vệ che chở, chứ không phải là lăn lộn kiếm sống, bán từng bao diêm ngay giữa trời đông buốt giá.
Que diêm thứ ba vụt sáng, lần này cô bé nhìn thấy một cây thông Nô-en được trang trí rực rỡ, bên cạnh đó là những bức tranh đầy màu sắc được bày trong những tủ hàng, thứ mà biết bao lâu rồi êm không được chạm vào. Thế nhưng ánh diêm vụt tắt cũng mang theo tất cả những tráng lệ rực rỡ, không có cây thông, không có ánh nến, chỉ còn lại màn đêm đen tối, cùng dòng người vội vã tìm về tổ ấm, để lại một mình em. Ở giấc mơ thứ ba, mọi thứ diễn ra thật ngắn ngủi, nhưng nó đã bộc lộ rất rõ một khao khát, một nhu cầu khác trong tâm hồn cô bé tội nghiệp ấy là nhu cầu được thỏa mãn những giá trị tinh thần. Với một đứa trẻ đang trong tầm phát triển, ngoài việc được ăn no, mặc ấm, chúng còn cần những niềm vui mang giá trị tinh thần, như được vui chơi, được ngắm nhìn những thứ đẹp mắt. Mà đối với cô bé bán diêm, em chẳng được nhận bất cứ một thứ gì cả, ngoài những cơn gió lạnh buốt, cái bụng đói meo, sự khắc nghiệt đến từ chính người cha ruột.
Và để kết thúc hết những đau khổ, bất hạnh trên cuộc đời, hình ảnh que diêm thứ tư được quẹt lên, ngọn lửa bừng sáng, em nhìn thấy người bà yêu quý đã rời bỏ em đi từ lâu. Có thể nhận thấy ở lần quẹt diêm này là khao khát được yêu thương, được chăm sóc, thứ mà cô bé bán diêm đã rất lâu rồi không còn cảm nhận được. Trong thâm tâm cô bé, chỉ có ở trong vòng tay bà, cô mới được hạnh phúc, điều đó vượt lên trên tất cả những khao khát vật chất tầm thường khác. Niềm khao khát mãnh liệt ấy được bộc lộ rất rõ khi mà cô bé điên cuồng quẹt hết tất cả số diêm còn lại trong bao, chỉ mong níu giữ được hình ảnh của người bà đã mất. Và khi que diêm cuối cùng vụt tắt cũng là lúc cô bé rời bỏ hết những tối tăm, đau khổ ở thế giới này, theo bà về một thế giới khác tốt đẹp hơn bớt đau khổ hơn. Cô bé chết vì cái giá rét đêm giao thừa đã để lại trong lòng người đọc nhiều suy ngẫm, có lẽ rằng chỉ khi chết đi em mới hoàn toàn thoát khỏi hết tất thảy những bất hạnh mà em phải gánh chịu. Điều đó không khỏi khiến người ta xót xa cho một số phận con người, và ở thế giới ngoài kia còn biết bao nhiêu những mảnh đời cơ cực, khổ sở như thế nữa.
Truyện ngắn Cô bé bán diêm đã mở ra cho chúng ta một bài học sâu sắc về tầm quan trọng của gia đình đối với trẻ em, mỗi đứa trẻ trên thế giới đều xứng đáng có một gia đình đầy đủ, được hưởng những nền giáo dục tốt đẹp nhất, được thỏa mãn cả nhu cầu vật chất và tinh thần để phát triển và trưởng thành trong xã hội. Đồng thời tác phẩm cũng thể hiện tấm lòng nhân ái, đồng cảm với những số phận bất hạnh, đặc biệt là với những trẻ em có cuộc sống không may mắn của tác giả, bộc lộ mong muốn rằng tất cả trẻ em trên thế này này đều được hưởng một cuộc sống hạnh phúc, đủ đầy.
Xưa nay vẫn có những cảnh đời tuổi thơ bất hạnh, bất cứ nơi nào trên trái đất. Những cảnh đời mồ côi, hoặc mất cha hay mất mẹ không chỉ có trong truyện cổ mà còn được đưa vào những trang văn hiện đại. Ngay trong chương trình Ngữ văn lớp 8, chúng ta biết nỗi bất hạnh của cậu bé Hồng trong Những ngày thơ ấu (đoạn trích Trong lòng mẹ) thì nay chúng ta lại gặp một cảnh đời bất hạnh khác ở xứ sở Đan Mạch trong truyện Cô bé bán diêm của An-đéc-xen để cảm thông với những ước mơ đẹp, và ngậm ngùi trước cái chết vì giá rét trong đêm giao thừa của cô.
Truyện kể về đêm giao thừa, người rét mướt, một cô bé bán diêm nhà nghèo, mồ côi mẹ, đầu trần, chân đi đất, bụng đói, đang dò dẫm trong bóng tối. Suốt cả ngày em không bán được bao diêm nào. Nhà văn đã miêu tả hình ảnh của em lúc đêm về càng lúc càng rét buốt, “em ngồi nép trong một góc tường... thu đôi chân vào người...”. Miêu tả ngắn thôi, chỉ 12 từ, nhưng người đọc thấy rõ trong trí tưởng tượng của mình dáng cô bé ngồi co ro, cố thu mình lại càng tốt để ngăn bớt cơn lạnh.
Cô bé đang ở ngoài đường, sát tường hai ngôi nhà đóng kín cửa, giữa cái lạnh cắt đa của đêm giao thừa. Mắt cô nhìn lên “Cửa sổ mọi nhà đều sáng rực ánh đèn” mũi cô ngửi “trong phố sực nức mùi ngỗng quay”. Hình ảnh ấm cúng ấy, mùi vị thơm tho ấy, gợi lại trong ký ức cô bé hoàn cảnh sống ngày trước của mình “Em tưởng nhớ lại năm xưa, khi bà nội hiền hậu của em còn sống, em cũng được đón giao thừa ở nhà.
Nhưng Thần Chết đã đến cướp bà em đi mất, gia sản tiêu tán, và gia đình em phải lìa ngôi nhà xinh xắn”. An-đéc-xen đặt nỗi nhớ của cô bé vào đúng lúc, đúng chỗ vừa giới thiệu được hai hoàn cảnh sống đối nghịch vừa giải thích nguyên nhân của sự đổi thay khiến em phải sống đời bất hạnh hiện tại: Thần Chết! Thần Chết đã cướp đi người bà hiền hậu. Thần Chết đã đuổi cha con cô ra khỏi ngôi nhà xinh xắn đến ở căn gác xép sát mái nhà không ngăn nổi gió sương.
Và bất hạnh lớn nhất là Thần Chết đã biến đổi tính nết của người cha, thay vì thương yêu và chăm sóc con cái thì lại buộc con gái nhỏ dại đi bán diêm, “nếu không bán được ít bao diêm, hay không ai bố thí cho một đồng xu nào đem về; nhất định là cha em sẽ đánh em”. Sự việc diễn ra như thế nào thì kể lại như thế chứ không hề chen vào một lời oán trách hay kết tội người cha đứng với hoàn cảnh sống và tính cách phụ thuộc của tuổi thơ.
Một mình, bụng đói giữa đêm giao thừa gió rét, đôi bàn tay đã cứng đờ ra, muốn đốt một que diêm mà hơ ngón tay em cũng chần chừ đôi lần ba lượt. Ánh sáng, hơi ấm từ que diêm đã giúp dòng suy nghĩ của em thoát khỏi hiện thực lạnh giá, bẽ bàng. “Em tưởng chừng như đang ngồi trước lò sưởi bằng sắt có những hình nổi bằng đồng bóng nhoáng. Trong lò, lửa cháy non đến vui mắt và tỏa ra hơi nóng dịu dàng”.
Dòng mơ tưởng này đã chi phối hành vi của em. Em hành động theo “Em tưởng chừng như...”. Bởi vậy, “em vừa duỗi chân ra sưởi thì lửa vụt tắt, lò sưởi biến mất. Em ngồi đó, tay cầm que diêm đã tàn hẳn”. Dòng mơ tưởng về lò sưởi tỏa hơi nóng dịu dàng kia đã biến mất theo ngọn lửa cháy nhanh và chóng tàn của que diêm. Hiện thực giá rét kéo em về cùng nỗi lo “bị cha mắng”. Đêm tối với cái lạnh cắt da, que diêm với ánh sáng và hơi ấm.
Hai hình ảnh tương phản ấy đã được nhà văn đặt cạnh nhau như muốn khơi thêm nguồn ao ước ở trong em. Nếu quẹt que diêm lần thứ nhất, ánh sáng của nó khiến em “tưởng chừng như...” thì khi quẹt que diêm thứ hai “em nhìn thấy vào tận trong nhà” và thấy một bàn ăn sang trọng đã được dọn sẵn, có cả một con ngỗng quay. “Nhưng điều kì diệu nhất là ngỗng ta nhảy ra khỏi đĩa và mang cả dao ăn, phuốc-sét cắm trên lưng, tiến về phía em bé”.
Mộng tưởng lúc này đã có tính huyền ảo. Tội nghiệp cô bé bán diêm. Có lẽ lúc này cô đói lắm rồi. Mơ ước được no khiến hiện thực “sực nức mùi ngỗng quay” khu phố" biến thành con ngỗng như trong mộng tưởng của cô bé bán diêm. Nhưng khi “que diêm vụt tắt” thì “ngỗng ta” cũng biến mất khi đang tiến về phía cô bé bán diêm, hiện thực khắc nghiệt với “phố xá vắng teo, lạnh buốt” và mấy người khách quần áo ấm áp nhưng lãnh đạm tình người xuất hiện trước mắt em.
Lần quẹt diêm thứ ba, em thấy hiện ra cây thông Nô-en rất lớn và lộng lẫy với hàng ngàn ngọn nến, rất nhiều bức tranh màu sắc rực rỡ. Khi em với đôi tay về phía cây thì ánh sáng que diêm... tắt. “Tất cả các ngọn nến bay lên, bay lên mãi rồi biến thành những ngôi sao trên trời”. Mộng tưởng này gợi cho em nhớ lại lời của người bà hiền hậu thường nói với em lúc bà còn sống rằng: “Khi có một vì sao đổi ngôi là có một linh hồn bay lên trời với Thượng đế”.
Nỗi nhớ này làm cô bé bán diêm ao ước được thấy bà nội của cô. Cô quẹt một que diêm nữa vàọ tường, ánh sáng xanh tỏa ra chung quanh, và em thấy rõ bà đang mỉm cười với em. Em reo lên và xin bà cho em cùng theo bà. Điều lạ lùng và cảm động là nhà văn đã đặt cô bé vào vị trí của con người rất tỉnh táo. Cô bé đã nói với bà: “Cháu biết rằng diêm tắt thì bà cũng biến đi mất như lò sưởi, ngỗng quay và cây Nô-en ban nãy, nhưng xỉn bà đừng bỏ cháu ở nơi này”.
Có lẽ những lần quẹt diêm trước đã giúp cô bé nhận ra cảnh thật và cảnh ảo. Thêm vào đó thể xác của cô bé thì đói và lạnh, còn tâm hồn thì rất cô độc. Về nhà ư? về căn gác xép sát mái, tường nứt không ngăn được luồng gió rét kia ư? về nơi thường nghe những lời mắng nhiếc và chửi rủa kia ư?
Sức cô bé đã cùng, lực cô bé đã kiệt. Thông thường, trong hoàn cảnh đó, chỉ có tình thương yêu cha mẹ, anh em., giúp cô bé thêm sức mạnh để quay về. Nhưng thực tế thì cô không có động lực ấy, ngược lại có thể là nỗi sợ hãi ngày càng lớn càng nặng nề hơn. Bởi vậy mà em sống với ảo ảnh và không muốn rời xa nó.
Em đã quẹt tất cả những que diêm còn lại ở trong bao để thấy bà, gần bà, cho tới lúc “Bà cụ cầm lấy tay em, rồi hai bà cháu bay vụt lên cao, cao mãi, chẳng còn đói rét, đau buồn nào đe dọa đó nữa. Họ đã về chầu Thượng đế”. Đọc hai câu văn ấy ai cũng nhận ra cô bé bán diêm đã chết. Cô bé đã chọn cái chết cùng một ảo giác đẹp, dù ở phần thể xác em chết vì đói và lạnh.
Và nhà văn đã tô điểm cho nét đẹp của em bằng hình ảnh đối nghịch giữa cảnh và người: “Trong buổi sáng lạnh lẽo ấy, ở một xó tường, người ta thấy một em gái có đôi má hồng và đôi môi đang mỉm cười”. Cô bé bán diêm đã chết theo cách của người đang thiếp ngủ trong giấc mơ đẹp.
Nhìn hình ảnh những bao diêm, trong đó có một bao đã đốt hết nhàn, người ta có thể đoán đúng hành vi của cô bé trước khi chết: “Chắc nó muốn sưởi cho ấm! ”, những hình ảnh “đôi má hồng và đôi môi đang mỉm cười ” kia thì khó có thể đoán ra điều gì khiến khuôn mặt cô bé biểu hiện nên hình ảnh có vẻ vui sướng và thỏa nguyện ấy.
Về cái chết của những người bất hạnh, nói chung nhiều nhà văn đã miêu tả, mà phần lớn là buồn thảm, hoặc vật vã dữ dội (như cái chết của lão Hạc). Duy cái chết của cô bé bán diêm thì người đọc có cảm giác buồn thương nhưng thanh thản, nhẹ nhàng và thấm sâu. Tạo được cảm giác khác lạ ấy có lẽ nhờ vào cách xây dựng tính cách nhân vật (cô bé bán diêm) của An-đéc-xen, một cô bé bán diêm bất hạnh nhưng không giận đời.
Giữa hiện thực đen tối, cô bé sống với những mộng tưởng đẹp cho tới hơi thở cuối cùng. Cô bé bán diêm sống mãi với người đọc là ở tính cách ấy của em qua tài kể chuyện của nhà văn.
Chắc hẳn những ai được cắp sách đến trường đều biết đến An-đéc-xen. Ông sinh ra trong một gia đình nghèo khó tại Đan Mạch, ông vốn là người đa cảm và có năng khiếu viết văn và rồi ông trở thành nhà văn nổi tiếng với loại truyện dành cho thiếu nhi. Cô bé bán diêm là câu chuyện vô cùng cảm động về số phận bất hạnh của một cô bé nghèo khổ trong xã hội tư bản đương thời. Tình yêu thương con người và niềm tin vào thắng lợi cuối cùng của điều thiện là nội dung bao trùm lên toàn bộ sáng tác của An-đéc-xen.
Câu chuyện được chia làm ba phần,phần thứ nhất tác giả giới thiệu hoàn cảnh cơ cực của cô bé bán diêm. Phần thứ hai kể về những lần quẹt diêm và bao hình ảnh đẹp đẽ hiện lên trong trí tưởng tượng của cô bé. Phần thứ ba là phần miêu tả cái chết thương tâm của cô bé trong đêm đông giá lạnh.
Thời gian xảy ra câu chuyện là vào đêm giao thừa, đáng nhẽ ra là mọi người phải được sum họp bên gia đình để cùng nhau đưa tiễn năm cũ và chào đón mọi thứ tốt đẹp từ năm mới trong không khí thiêng liêng, ngập tràn hạnh phúc. Nhưng chỉ riêng cô bé mồ côi mẹ, đầu trần chân đất, váy áo đều rách,bụng đói meo vẫn đang lần mò trong bóng tối.Suốt ngày hôm nay,cô lang thang khắp nơi mà không bán được bao diêm nào.
Xung quanh là không khí tràn đầy ấm áp của sổ mọi nhà đều sáng rực đèn và mùi ngỗng quay thơm phức. Những hình ảnh gợi nhớ lại những ngày tháng năm xưa khi được đón giao thừa bên bà nội trong căn nhà xinh xắn có cây thường xuân bao quanh. Ở đây tác giả đã sử dụng biện pháp đối lập tương phản để làm nổi bật tình cảnh hết sức tội nghiệp của cô bé.
Em đang rét và có lẽ càng rét hơn khi thấy mọi nhà sáng rực đèn. Chẳng có điều gì tốt đẹp đang chờ cô bé ngoài cái xó xỉnh tối tăm, rét mướt những lời mắng chửi của người cha thô lỗ cộc cằn. Những lần đón giao thừa năm xưa vui vẻ cùng bà và mẹ đã đi vào di vãng. Tai họa đã làm cho gia đình cô tan nát.
Giờ đây, cô bé ngồi nép trong một góc tường giữa hai ngôi nhà để ngăn gió cho đỡ lạnh.Không bán được diêm, sợ bị cha đánh đòn nên cô chẳng dám về nhà và cho dù có ở nhà cũng lạnh chẳng kém ở đây.
Giữa đêm giao thừa rét buốt cô bé lủi thủi một mình với chiếc giỏ đựng diêm. Lúc em ngồi nép vào chiếc bờ tường kia cũng là lúc những khao khát cháy bỏng bùng lên trong trái tim nhỏ bé ấy. Đôi bàn tay em cứng đơ vì lạnh em ao ước được sưởi ấm bằng một que diêm và cuối cùng em cũng đánh liều và quẹt một que diêm.
Diêm bén lửa thật là nhạy ngọn lửa lúc đầu xanh, dần dần biến mất đi,trắng ra,rực hồng lên quanh que gỗ, sáng chói trông đến vui mắt. Thật là dễ chịu đôi bàn tay em hơ trên ngọn lửa, bên tay cầm diêm ngón cái nóng bỏng lên. Em ao ước lúc này mà được ngồi gần một cái lò sưởi thì sung sướng biết bao.
Em vừa duỗi chân ra thì lửa vụt tắt,lò sưởi biến mất. Em ngồi đó nhìn que diêm đã tàn hẳn em bần thần cả người và nghĩ rằng cha em đã giao cho em đi bán diêm đêm nay về nhà thế nào cũng bị ăn mắng. Em quẹt que diêm thứ hai, diêm cháy và sáng rực lên, bức tường như biến thành một bức tường vải màu. Em nhìn thấu vào tận trong nhà bàn ăn đã dọn, khăn trải bàn trắng tinh, trên bàn toàn đĩa bằng sứ quý giá và có cả một con ngỗng quay nhưng điều kì lạ là con ngỗng nhảy ra khỏi đĩa và mang cả dao ăn, tiến về phía em.
Đáng buồn thay những hình ảnh đó chỉ hiện lên trong chốc lát khi lửa tắt xung quanh em là một màu đen tối mịt, chỉ còn lại những màn sương đêm lạnh buốt, cái đói rã rời và đáng sợ hơn cả nỗi cô đơn không ai chia sẻ. Không có bàn ăn thịnh soạn nào cả, cũng chẳng có ngỗng quay mà chỉ toàn một màu đen với cánh lạnh giá của đêm đông bao trùm lấy cô bé.
Tuy vậy em không tuyệt vọng. Trí tưởng tượng đã đem lại cho em những ao ước mới em muốn đêm Nô-en phải có cây thông nên quyết định quẹt que thứ ba và bỗng hiện lên một cây thông Nô-en cây được trang trí thật lộng lẫy cùng với hàng ngàn ngọn nến sáng rực.
Và que diêm nữa vào tường một ánh sáng xanh tỏa ra xung quanh và em thấy bà đang mỉm cười với em, em reo lên cho cháu đi với. Và em biết khi que diêm tắt thì hình ảnh bà cũng mất đi như những lần khác và em đã quyết định quẹt toàn bộ những que diêm còn lại để níu kéo bà để được bà cho đi theo đến một thế giới không đói rét và đau khổ.
Kết thúc câu chuyện là sự đối lập giữa cảnh đời vui vẻ và cái chết bi thảm của cô bé bán diêm. Sáng hôm sau tuyết đã phủ kín mặt đất, nhưng mặt trời lên, trong sáng, chói chang trên bầu trời xanh mọi người vẫn vui vẻ ra khỏi nhà. Trong buổi sáng lạnh lẽo ấy ở một xó tường người ta thấy một em bé gái có đôi má hồng và đôi môi đang mỉm cười em đã chết vì giá rét trong đêm giao thừa.
Em bé thật đáng thương. Trong xã hội tư bản thiếu sự đồng cảm và tình yêu thương giữa người với người nhà văn An-đéc-xen đã viết truyện này với niềm xót thương vô hạn đối với cô bé không may mắn. Tuy vậy nội dung câu chuyện Cô bé bán diêm với kết thúc thương tâm của nó vẫn khiến người đọc rơi nước mắt.
An-đéc-xen một nhà văn có lẽ không còn lạ lẫm gì đối với nhiều người. Đây là một nhà văn của Đan Mạch với những tác phẩm truyện ngắn, truyện thiếu nhi gắn liền với tuổi thơ cắp sách tới trường của mỗi người. Ông sinh ra trong một gia đình nghèo khó. Chính từ sự nghèo khó với những nỗ lực vươn lên. Cùng với năng khiếu viết văn ông đã cho ra đời những tác phẩm truyện vô cùng đặc sắc.
Trong đó truyện ngắn “Cô bé bán diêm” có thể nói là một tác phẩm để đời của ông. Đây là một tác phẩm nói về số phận bất hạnh của một cô bé nghèo khổ trong xã hội tư bản đương thời. Tác phẩm cũng toát lên những giá trị nhân văn vô cùng sâu sắc.
Một tác phẩm với bố cục rõ ràng gồm ba phần chính. Phần thứ nhất nói về hoàn cảnh khó khăn, cơ cực của cô bé bán diêm. Phần thứ hai kể về những lần quẹt diêm với những hình ảnh hiện lên trong trí tưởng tượng của cô bé. Phần thứ ba nói về cái chết đầy thương cảm của cô bé bán diêm trong đêm đông lạnh giá.
Trong cái đêm giao thừa, đáng lý ra những đứa trẻ phải được sum họp cùng gia đình. Cùng cha mẹ để đón chào một cái năm mới với bao lời chúc tốt đẹp, với những giây phút ngập tràn hạnh phúc. Nhưng không trong cái tiết trời lạnh lẽo đó một mình em “cô bé bán diêm” không cha, không mẹ, không người thân vẫn chân trần, trong chiếc váy mỏng rách bung, bụng đói cồn cào vẫn lững thững lần mò trong bóng tối.
Xung quanh là không khí tràn đầy ấm áp của sổ mọi nhà đều sáng rực đèn và mùi ngỗng quay thơm phức. Những hình ảnh gợi nhớ lại những ngày tháng năm xưa khi được đón giao thừa bên bà nội trong căn nhà xinh xắn có cây thường xuân bao quanh. Ở đây tác giả đã sử dụng biện pháp đối lập tương phản để làm nổi bật tình cảnh hết sức tội nghiệp của cô bé.
Em đang rét và có lẽ càng rét hơn khi thấy mọi nhà sáng rực đèn. Chẳng có điều gì tốt đẹp đang chờ cô bé ngoài cái xó xỉnh tối tăm, rét mướt. Những lời mắng chửi của người cha thô lỗ cộc cằn. Những lần đón giao thừa năm xưa vui vẻ cùng bà và mẹ đã đi vào dĩ vãng. Tai họa đã làm cho gia đình cô tan nát.
Giữa đêm giao thừa rét buốt cô bé lủi thủi một mình với chiếc giỏ đựng diêm. Lúc em ngồi nép vào chiếc bờ tường kia cũng là lúc những khao khát cháy bỏng bùng lên trong trái tim nhỏ bé ấy. Đôi bàn tay em cứng đơ vì lạnh em ao ước được sưởi ấm bằng một que diêm và cuối cùng em cũng đánh liều và quẹt một que diêm. Diêm bén lửa thật là nhạy ngọn lửa lúc đầu xanh, dần dần biến mất đi, trắng ra, rực hồng lên quanh que gỗ, sáng chói trông đến vui mắt. Thật là dễ chịu đôi bàn tay em hơ trên ngọn lửa, bên tay cầm diêm ngón cái nóng bỏng lên.
Em vừa duỗi chân ra thì lửa vụt tắt, lò sưởi biến mất, em ngồi đó nhìn que diêm đã tàn hẳn. Em bần thần cả người và nghĩ rằng cha em đã giao cho em đi bán diêm đêm nay về nhà thế nào cũng bị ăn mắng. Em quẹt que diêm thứ hai, diêm cháy và sáng rực lên, bức tường như biến thành một bức tường vải màu.
Em nhìn thấu vào tận trong nhà bàn ăn đã dọn, khăn trải bàn trắng tinh. Trên bàn toàn đĩa bằng sứ quý giá và có cả một con ngỗng quay nhưng điều kì lạ là con ngỗng nhảy ra khỏi đĩa và mang cả dao ăn, tiến về phía em. Đáng buồn thay những hình ảnh đó chỉ hiện lên trong chốc lát khi lửa tắt xung quanh em là một màu đen tối mịt. Chỉ còn lại những màn sương đêm lạnh buốt, cái đói rã rời và đáng sợ hơn cả nỗi cô đơn không ai chia sẻ.
Không bán được bao diêm nào, trời vẫn lạnh lẽo. Nhưng sự lạc quan vẫn trong em, và những tưởng tượng phong phú trong tâm trí của một đứa trẻ thơ trong em đã trỗi dậy. Em ước ao có một cây thông Nô-en. Và em đã quẹt que diêm thứ ba và một cây thông Nô-en trang hoàng lộng lẫy với hàng ngàn ngọn nến sáng rực đã hiện ra trong trí óc em.
Và em quẹt thêm một que diêm nữa và thấy được một ánh sáng xanh ấm áp tỏa ra xung quanh, bà của em đã hiện ra mỉm cười với em và em reo lên “cho cháu đi với”. Đến khi que diêm tắt mọi thứ lại tối tăm lạnh lẽo trở lại.
Kết thúc câu chuyện là sự đối lập giữa cảnh đời vui vẻ và cái chết bi thảm của cô bé bán diêm. Sáng hôm sau tuyết đã phủ kín mặt đất. Nhưng mặt trời lên, trong sáng, chói chang trên bầu trời xanh mọi người vẫn vui vẻ ra khỏi nhà. Trong buổi sáng lạnh lẽo ấy ở một xó tường người ta thấy một em bé gái có đôi má hồng và đôi môi đang mỉm cười em đã chết vì giá rét trong đêm giao thừa.
Trong cái xã hội tư bản nghiệt ngã đó, đâu có chỗ cho tình thương giữa những con người lạ lẫm nhau. Xã hội dường như là một sự thờ ơ với những số phận bi thương. Cô bé bán diêm là một trong những con người khốn cùng của xã hội đó. Chỉ khi cái chết của em xảy ra, người ta mới để ý tới một cô bé chân trần bán diêm trong đêm đã ra đi trong cái đêm tối lạnh lẽo với bao niềm chua xót. Và người đọc cũng không thể nào cầm được nước mắt.
Tuổi trẻ chúng ta, ai đã từng cắp sách đến trường hẳn đều biết đến H.C. An-đéc-xen, người viết truyện kể cho trẻ em nổi tiếng thế giới. Ông là nhà văn Đan Mạch, sống và viết trong thế kỉ XIX (1805 - 1875). Bạn đọc khắp năm châu đã rất quen thuộc với các tác phẩm của ông như Nàng tiên cá, Bầy chim thiên nga, Bộ quần áo mới của hoàng đế, Cô bé bán diêm,...
Truyện của An-đéc-xen nhẹ nhàng, trong trẻo, toát lèn lòng thương yêu con người - nhất là những người nghèo khổ và niềm tin, khát vọng những điều tốt đẹp nhất trên thế gian này sẽ thuộc về con người. Truyện Cô bé bán diêm đưa người đọc chúng ta vào khung cảnh một đêm giao thừa giá rét ở đất nước Đan Mạch, Bắc Âu cách đây hơn một trăm năm.
Em bé gái ấy nhà nghèo, mồ côi mẹ, bà vừa mất, bố sai đi bán diêm kiếm từng đồng xu nhỏ độ thân. Suốt cả ngày cuối năm, cho đến đêm giao thừa, em chẳng bán được bao diêm nào. Vừa đói, vừa rét, em bé thu mình lại trong xó tường của một tòa nhà lớn để... ước ao, mơ tưởng.
Những khát vọng tuổi thơ ấy cứ sáng lên, sáng lên đẹp đẽ, kì ảo làm sao và đau khổ làm sao!. Thể hiện điều này, nhà văn đã xây dựng những hình ảnh đối lập, thực tế và mộng tưởng, mộng tưởng và thực tế cứ đan cài vào nhau, tranh chấp với nhau, lôi cuốn người đọc...
Phần mở đầu tác phẩm kể rõ cảnh ngộ éo le của cô bé bán diêm với những chi tiết đối lập rõ nét : "Trời đông giá rét, tuyết rơi", nhưng "cô bé đầu trần, chân đất" bước đi. Ngoài đường lạnh buốt và tối đen, nhưng "cửa sổ mọi nhà đều sáng rực ánh đèn". Cô bé "bụng đói", cả ngày chưa ăn uống gì, mà "trong phố sực nức mùi ngỗng quay"...
Những chi tiết tương phản đó khiến người đọc thấy tình cảnh em bé thật tội nghiệp, đáng thương. Cái rét, cái đói, công việc kiếm sống giày vò, đày đọa em. Em đã rét, đã khổ, có lẽ càng rét khổ hơn khi thấy mọi nhà rực ánh đèn. Em đã đói, có lẽ càng đói hơn khi ngửi thấy mùi ngỗng quay sực nức... Đi vào đoạn trích trong sách giáo khoa, từ câu mở đầu "Cửa sổ mọi nhà đều sáng rực ánh đèn..." đến câu "... đôi bàn tay em đã cứng đờ ra", người đọc thấy ngay tình cảnh khốn khó của cô bé.
Năm xưa, "khi bà nội hiền hậu của em còn sống", "em được đón giao thừa trong căn nhà xinh xắn có dây trường xuân bao quanh, em đã sống những ngày đầm ấm". Giờ đây, giữa đêm giao thừa này, "em ngồi nép trong một góc tường, thu đôi chân vào người, mỗi lúc càng thấy rét hơn". Đây cũng là hai hình ảnh tương phản, đối lập giữa hiện tại và quá khứ.
Trước kia, cô bé được sống hạnh phúc bao nhiêu thì bây-giờ bơ vơ, côi cút bấy nhiêu. Cả nhà, chỉ có bà là người thương yêu em nhất, là chỗ dựa tinh thần vững chắc nhất giờ không còn nữa. Trước kia, đêm giao thừa, em được vui chơi quây quần trong nhà, giờ em phải bơ vơ ngoài phố kiếm sống. Mường tượng hình ảnh cô bé bán diêm côi cút, đói khổ giữa đêm giao thừa, ta chợt thấy nhớ mấy câu thơ trong bài Mồ côi của Tố Hữu:
Con chim non rũ cánh
Đi tìm tổ bơ vơ
Quanh nẻo rừng hiu quạnh
Lướt mướt dưới dòng mưa.
Cảnh ngộ em bé Đan Mạch trong đêm giao thừa vẫn phải đi kiếm sống tuy có khác cảnh ngộ em bé Việt Nam mồ côi tìm mẹ, nhưng đọc văn, nhớ lại thơ, hình dung thân phận hai kiếp người thơ dại ấy, ai mà chẳng não lòng, rớm lệ!
Phần thứ hai của câu chuyện, từ câu "Chà ! Giá quẹt một que diêm..." đến "Họ đã về chầu Thượng đế", kể về những lần cô bé quẹt diêm đốt lửa, đốt sáng lên những ước mơ, khát vọng. Ở phần này, những hình ảnh đối lập, tương phản càng lúc càng gay gắt, thực tế và mộng tưởng, cuộc đời và ảo ảnh cứ sóng đôi hiển hiện, đang cài, tranh chấp nhau, nâng dần lên, bay cao lên...
Cô bé quẹt que diêm thứ nhất: diêm sáng rực như than hồng. Em tưởng chừng như "đang ngồi trước một lò sưởi bằng sắt có những hình nổi bằng đồng bóng nhoáng... Lửa cháy non đến vui mắt và tỏa ra hơi nóng dịu dàng". Nhưng, em vừa duỗi chân ra thì "lửa vụt tắt, lò sưởi biến mất". Niềm vui của em cũng vụt tắt.
Em bần thần nghĩ đến nhiệm vụ bán diêm và lời cha quở mắng. Cô bé quẹt que diêm thứ hai: "Bức tường như biến thành một tấm rèm bằng vải màu. Bàn ăn đã dọn, khăn trải bàn trắng tinh, trên bàn toàn bát đĩa bằng sứ quý giá, và có cả một con ngỗng quay... Ngỗng ta nhảy ra khỏi đĩa và mang cả dao ăn, phuốc-sét cắm trên lưng, tiến về phía em bé". Nhưng diêm vụt tắt.
Trước mặt em chỉ còn là những bức tường dày đặc và lạnh lẽo. Phố xá vắng teo. Mấy người khách qua đường vội vã hoàn toàn lãnh đạm với em. Em bé cố tìm lại ngọn lửa để tiếp tục sưởi ấm, xua đi bóng tối và giá lạnh. Em quẹt que diêm thứ ba: Một cây thông Nô-en hiện lên, "Cây này lớn và trang trí lộng lẫy hơn cây thông mà em đã được thấy năm ngoái qua cửa kính một nhà buôn giàu có. Hàng ngàn ngọn nến sáng rực...". Nhưng diêm lại vụt tắt. Tất cả các ngọn nến bay lên, bay lên mãi, rồi biến thành những ngôi sao trên trời.
Từ lần quẹt diêm thứ nhất, đến lần thứ hai, thực tế đã xóa nhòa đi mộng tưởng của em bé. Nhưng đến ngọn nến thứ ba thì dường như mộng tướng đã vươn dậy, cố vượt lên trên thực tế. Vì thế, sau khi diêm tắt, em bé thấy tất cả các ngọn nến bay lên, biến thành những ngôi sao trên trời. Dường như em bé đang ngẩng đầu nhìn sao trời, rồi nhớ tới người bà thân yêu.
Em liền quẹt luôn que diêm thứ tư thì... bà em hiện lên. Em sung sướng reo lên, trò chuyện với bà, xin bà cho đi theo..."cho cháu về với bà". Có thể đến phút này, cô bé tội nghiệp ấy đã sức tàn, lực kiệt dần" gục xuống cạnh bức tường giá buốt. Em lịm dần, lịm dần và trôi vào trong một giấc mơ đẹp. Diêm vụt tắt. Ánh sáng, hơi ấm vụt tắt, "ảo ảnh" biến mất. Nhưng em bé bừng tỉnh, như ngọn lửa trước khi tắt hẳn đã sáng lóe lên. Thế là cô bé quên hết mọi thực tế phũ phàng, quên nhiệm vụ bán diêm, quên sự quở mắng của cha.
Những que diêm thứ năm, thứ sáu, thứ bảy... và tất cả những que diêm trong bao được đốt sáng lên, nối ánh sáng, chiếu sáng như ban ngày. Em bé thực sự được sống trong một giấc mơ kì diệu. Em thấy "bà em to lớn và đẹp lão... Bà cụ cầm lấy tay em, rồi hai bà cháu bay vụt lên cao, cao mãi, chẳng còn đói rét, đau buồn nào đe dọa họ nữa...".
Rõ ràng, mỗi lần quẹt diêm, đốt lửa là một lần cô bé đói khổ kia ước mơ, khát vọng. Những ước mơ của em thật giản dị và ngây thơ, gắn liền với tuổi thơ trong sáng và nhân hậu của em. Em khao khát có cuộc sống vật chất đầy đủ, được hưởng những thú vui tinh thần, được sống trong hạnh phúc gia đình ấm êm, được bà - người thân yêu nhất - chăm sóc, chiều chuộng. Đó cũng là những ước mơ khát vọng chính đáng, muôn đời của các em bé nói riêng và của con người nói chung.
Thể hiện khát vọng, ước mơ của một em bé cụ thể trong câu chuyện này, nhà văn Đan Mạch ấy hẳn đã cháy lòng mong muốn các em bé và mọi người, trước hết là những kiếp người đói khổ, vượt qua được những thực tế phũ phàng để vươn tới cuộc sống ấm no, hạnh phúc, có miếng ăn no đủ, có áo ấm, được yêu thương, chăm sóc. Mỗi lần em bé quẹt diêm đốt lửa dường như cũng là một lần ngọn lửa tin yêu, khát vọng trong trái tim nhà văn cháy lên, sáng lên, động viên con người, giục giã con người...
Nhưng thực tế phũ phàng - thực tế cuộc sống nước Đan Mạch những năm giữa thế kỉ XIX, khi nhà văn viết tác phẩm này và thực tế ngày nay của không ít đất nước đói nghèo trên trái đất, đã xoá đi mộng tưởng của em bé bán diêm và biết bao người nghèo khổ khác nữa.
Vì thế, khi em bé được gặp lại bà cũng là lúc em giã từ cõi đời. Đoạn kết thúc tác phẩm, từ câu "Sáng hôm sau..." đến hết, kể về cái chết của cô bé bán diêm. Từ những dòng văn bay lượn, chói sáng đầy chất lãng mạn ở cuối đoạn trên, đến đây, ngôn từ như trĩu xuống, nhẹ nhàng, thấm thía một âm điệu buồn thương. Có buồn, có thương nhưng không bi luỵ mà vẫn trong sáng và nồng ấm, đúng như ánh sáng và hơi ấm của một ngày đầu năm. "Em đã chết vì giá rét trong đêm giao thừa".
Vâng, cho đến những dòng cuối cùng của tác phẩm, nhà văn vẫn dùng những hình ảnh đối lập, tương phản rất đặc sắc. Giữa ngày đầu năm hứa hẹn những mầm sống mới mọc lên, có một em bé chết. Người chết trong băng giá từ đêm khuya mà đến rạng sáng đôi má vẫn hồng, đôi môi đang "mỉm cười".
Mọi người bảo nhau: "Chắc nó muốn sưởi cho ấm", một công việc bình thường, nhưng thực ra em bé đã sống những phút kì diệu, giữa cảnh "huy hoàng lúc hai bà cháu bay lên để đón lấy những niềm vui đầu năm"... Miêu tả "một cảnh tượng thương tâm" về cái chết của cô bé bán diêm, ngòi bút của An-đéc-xen vừa thực, vừa mộng. Sự thực là em bé khốn khổ kia đã chết.
Nhưng đây là một cái chết đẹp, hình hài thể xác chết mà linh hồn, khát vọng của em bé vẫn sống, sống trên đôi má hồng, đôi môi đang mỉm cười, sống trong cảnh tượng huy hoàng cùng bà bay lên đón năm mới. Nói về cái chết, người ta hay nghĩ tới bi kịch. Nhưng viết về cái chết của cô bé bán diêm như thế, tác phẩm của An-đéc-xen là một bi kịch lạc quan.
Rõ ràng, đến những dòng cuối của áng văn, tình thương, niềm tin con người và khát vọng những điều tốt đẹp nhất cho con người trong cõi lòng nhà văn Đan Mạch - ông già kể chuyện cổ tích nổi tiếng ấy, thấm đẫm chất nhân đạo, nhân văn.
Có thể nói, An-đéc-xen "biết khám phá những khía cạnh thần kì, bất ngờ ngay trong những sự việc đơn giản hằng ngày, đưa chúng vào thế giới thần thoại đầy chất thơ, nhưng vẫn giải quyết chúng phù hợp với những quan niệm nhân sinh và xã hội tiến bộ của mình".
Truyện Cô bé bán diêm có nghệ thuật kể chuyện hấp dẫn, đan xen giữa hiện thực và mộng tưởng, với các chi tiết tương phản, diễn biến hợp lí, truyền cho chúng ta lòng thương cảm đối với một em bé bất hạnh, lay động trong ta tình thương và niềm tin ở con người, nhất là những con người phải đối mặt với những khó khăn thử thách ở đời vẫn không nguôi mong muốn, khát vọng những điều tốt đẹp nhất.
Phân tích truyện ngắn Cô bé bán diêm – mẫu 11
An-đéc-xen là nhà văn người Đan Mạch. Ông có nhiều tác phẩm hay, trong đó có Cô bé bán diêm. Nổi bật trong truyện là nhân vật cô bé bán diêm.
Ở phần đầu, An-đéc-xen giới thiệu hoàn cảnh của nhân vật. Cô bé bán diêm đã mồ côi mẹ, bà nội - người yêu thương nhất cũng vừa qua đời. Cô bé phải sống cùng người bố độc ác. Trong đêm giao thừa lạnh giá, cô bé phải đi bán diêm, nêu không có tiền mang về sẽ bị đánh đập. Tác giả đã khắc họa hình ảnh nhân vật rất chân thực, sinh động. Một cô bé đầu trần, chân đi đất, bụng đói, đang dò dẫm trong bóng tối bán diêm. Những vị khách qua đường đều rảo bước rất nhanh, chẳng ai đoái hoài đến lời chào hàng của em, chẳng ai bố thí cho em chút đỉnh.
Với khao khát được sưởi ấm, cô bé bán diêm đã đánh liều quẹt những que diêm. Que diêm thứ nhất cho em có cảm giác ấm áp như ngồi bên lò sưởi. Que diêm thứ hai với một bàn ăn thịnh soạn hiện lên. Que diêm thứ ba sáng thì cây thông Nô-en xuất hiện. Quẹt que diêm thứ tư được thắp lên, lần này là bà nội với khuôn mặt hiền từ hiện ra. Nhưng những ảo ảnh đó nhanh chóng tan đi sau sự vụt tắt của que diêm. Em vội vàng quẹt hết cả bao diêm để mong níu bà nội lại. Sự xuất hiện của lò sưởi, bàn ăn, cây thông và bà nội rất đúng với mong muốn của cô bé bán diêm trong hoàn cảnh bấy giờ: được sửa ấm - no bụng - niềm vui đêm giao thừa - tình yêu thương của bà).
Ở cuối truyện, nhân vật cô bé bán diêm phải nhận một kết thúc buồn bã. Sáng sớm hôm sau, mọi người thấy em nằm ở một góc tường. Tuy nhiên, hình ảnh cô bé chết nhưng vẫn mỉm cười - nụ cười khi được đoàn tụ với bà được tác giả tưởng tượng nhằm giảm bớt nỗi đau cho câu chuyện. Kết thúc này đã phản ánh được ước mơ về một cuộc sống hạnh phúc của con người.
Hình ảnh cô bé bán diêm đã gửi gắm thông điệp về tình yêu thương dành cho những số phận bất hạnh, đặc biệt là trẻ em.
Phân tích truyện ngắn Cô bé bán diêm – mẫu 12
Truyện cô bé bán diêm" là một tác phẩm tiêu biểu của An-đéc-xen. Dưới ngòi bút đầy chất thơ của nhà văn, cô bé bán diêm đã phải chết. Em bé đã chết mà đôi má vẫn hồng và đôi môi đang mỉm cười. Hình ảnh cái chết đấy thật đẹp đã thể hiện sự hạnh phúc, mãn nguyện của cô bé, có lẽ em đã thanh thản, tại nguyện vì chỉ mình em được sống trong những điều huy hoàng, kì diệu. Cái chết của em bé bán diêm thể hiện tấm lòng nhân hậu, nhân ái của nhà văn dành cho số phận trẻ thơ, đó là sự cảm thông yêu thương và trân trọng thế giới tâm hồn. Thực tế em bé đã chết rất tội nghiệp, đó là cái chết bi thảm, làm nhức nhối trong lòng người đọc, em đã chết trong đêm giao thừa rét mướt, em nằm ngoài đường sáng mùng một đầu năm trong khi mọi người vui vẻ ra khỏi nhà, kẻ qua người lại mà không hề ai quan tâm đến em, em đã chết vì lạnh, vì đói ở một xó tường, đó là cái chết đau đớn nhưng chắc chắn sẽ thanh thản về tâm hồn. Như vậy, bằng ngòi bút nhân ái lãng mạn của nhà văn, qua cái chết của cô bé bán diêm tác giả muốn tố cáo phê phán xã hội thờ ơ lạnh lùng với những nỗi bất hạnh của những người nghèo khổ bất hạnh, đặc biệt đối với trẻ thơ. Đồng thời, nhà văn còn muốn gửi gắm thông điệp tới người đọc: đó là hãy biết san sẻ yêu thương đừng phũ phàng hoặc vô tình trước nỗi đau bất hạnh, cay đắng của các em bé. Cái chết của em sẽ mãi ám ảnh trong lòng người đọc, khơi dậy cho ta về tình yêu thương con người.
Trên đây là một số đoạn văn mẫu nêu cảm nghĩ về cô bé bán diêm. Tác phẩm khiến người đọc cảm thấy bi thương cho số phận cô bé, nhưng đồng thời qua ngòi bút nhân văn của nhà văn An-đéc-xen, người đọc cảm thấy sự thanh thản với nụ cười vẫn mãi trên môi em.
Phân tích truyện ngắn Cô bé bán diêm – mẫu 13
Truyện Cô bé bán diêm của An-đéc-xen đã gợi cho em một nỗi cảm thương đến xót xa trước cảnh ngộ và cái chết vô cùng thương tâm của cô bé bán diêm.
Trong đêm giao thừa rét mướt, một cô bé đầu trần, chân đi đất, bụng đói nhưng phải đi bán diêm. Cô bé ấy đã mồ côi mẹ và ngay cả bà nội - người yêu thương em nhất cũng đã qua đời. Em không dám về nhà vì sợ bố sẽ đánh em. Vừa lạnh vừa đói, cô bé ngồi nép vào một góc tường rồi khẽ quẹt một que diêm để sưởi ấm.
Que diêm thứ nhất cho em có cảm giác ấm áp như ngồi bên lò sưởi. Em vội quẹt que diêm thứ hai, một bàn ăn thịnh soạn hiện lên. Đến quẹt que diêm thứ ba thì một cây thông Noel. Quẹt que diêm thứ tư được thắp lên, lần này là bà nội với khuôn mặt hiền từ hiện ra. Những ảo ảnh đó nhanh chóng tan đi sau sự vụt tắt của que diêm. Em vội vàng quẹt hết cả bao diêm để mong níu bà nội lại. Cuối cùng, cô bé bán diêm đã chết rét trong đêm giao thừa lạnh giá.
Thật xót xa cho một tâm hồn trẻ thơ cô độc, một mình em phải đương đầu với cuộc sống khó khăn khi tuổi em còn quá nhỏ. Em đã chết vì giá lạnh trong đêm giao thừa hay chính vì sự vô tâm của những người lớn. Câu chuyện khiến chúng ta không khỏi xót xa cho thân phận những em bé mồ côi tội nghiệp, phải lang thang kiếm sống nơi đường phố.
Truyện cũng gửi đi thông điệp đầy tính nhân văn: Hãy yêu thương, quan tâm để trẻ thơ có một cuộc sống hạnh phúc.
Phân tích truyện ngắn Cô bé bán diêm – mẫu 14
H.C. An-đéc-xen là nhà văn Đan Mạch, sống và viết trong thế kỉ XIX (1805 – 1875). Là một trong những nhà văn viết truyện thiếu nhi nổi tiếng thế giới. Các bạn thiếu nhi trên khắp thế giới hẳn đều rất quen thuộc với các tác phẩm của ông như Nàng tiên cá, Bầy chim thiên nga, Bộ quần áo mới của hoàng đế, Cô bé bán diêm… Trong đó câu chuyện Cô bé bán diêm được biết đến phổ biến tại Việt Nam hơn cả.
Truyện Cô bé bán diêm đưa người đọc chúng ta vào khung cảnh một đêm giao thừa giá rét ở đất nước Đan Mạch, Bắc Âu cách đây hơn một trăm năm. Em bé gái ấy nhà nghèo, mồ côi mẹ, bà vừa mất, bố sai đi bán diêm kiếm tiền. Nhưng với một đứa trẻ, kiếm được đồng tiền thật quá gian nan. Đêm giao thừa, em chẳng bán được bao diêm nào. Vừa đói:” Em đã đói, có lẽ càng đói hơn khi ngửi thấy mùi ngỗng quay sực nức”… vừa rét: "Cửa sổ mọi nhà đều sáng rực ánh đèn…" đến câu "… đôi bàn tay em đã cứng đờ ra", em bé thu mình lại trong xó tường"em ngồi nép trong một góc tường, thu đôi chân vào người, mỗi lúc càng thấy rét hơn" của một toà nhà lớn để… ước ao, mơ tưởng. Trước kia, cô bé được sống hạnh phúc bao nhiêu thì bây-giờ bơ vơ, côi cút bấy nhiêu. Cả nhà, chỉ có bà là người thương yêu em nhất, là chỗ dựa tinh thần vững chắc nhất giờ không còn nữa. Trước kia, đêm giao thừa, em được vui chơi quây quần trong nhà, giờ em phải bơ vơ ngoài phố kiếm sống. … Cô bé quẹt que diêm thứ nhất: diêm sáng rực như than hồng. Em tưởng chừng như "đang ngồi trước một lò sưởi bằng sắt có những hình nổi bằng đồng bóng nhoáng… Lửa cháy nom đến vui mắt và toả ra hơi nóng dịu dàng". Nhưng, em vừa duỗi chân ra thì "lửa vụt tắt, lò sưởi biến mất". Niềm vui của em cũng vụt tắt. Em bần thần quẹt que diêm thứ hai: "Bức tường như biến thành một tấm rèm bằng vải màu. Bàn ăn đã dọn, khăn trải bàn trắng tinh, trên bàn toàn bát đĩa bằng sứ quý giá, và có cả một con ngỗng quay… Ngỗng ta nhảy ra khỏi đĩa và mang cả dao ăn, phuốc-sét cắm trên lưng, tiến về phía em bé". Nhưng diêm vụt tắt, trước mặt em chỉ còn là những bức tường dày đặc và lạnh lẽo. Em quẹt tiếp que diêm thứ ba: Một cây thông Nô-en hiện lên, "Cây này lớn và trang trí lộng lẫy hơn cây thông mà em đã được thấy năm ngoái qua cửa kính một nhà buôn giàu có. Hàng ngàn ngọn nến sáng rực…". Nhưng diêm vụt tắt. Tất cả các ngọn nến bay lên, bay lên mãi, rồi biến thành những ngôi sao trên trời.
Em liền quẹt luôn que diêm thứ tư thì… bà em hiện lên. Em sung sướng reo lên, trò chuyện với bà, xin bà cho đi theo…"cho cháu về với bà, đến giờ phút này, cô bé tội nghiệp ấy đã hết hơi hết sức nhưng ánh sáng và hơi ấm nhỏ bé của những que diêm đã giúp em có ít phút giây được sống trong một giấc mơ kì diệu. Mỗi lần quẹt diêm, đốt lửa là một lần cô bé đói khổ kia ước mơ, khát vọng, những ước mơ của em thật giản dị và ngây thơ, gắn liền với tuổi thơ trong sáng và nhân hậu của em. Đó cũng là những ước mơ khát vọng chính đáng mà đáng nhẽ ra em phải có được. Nhưng bất hạnh thay, khi em bé được gặp lại bà cũng là lúc em giã từ cõi đời. Đoạn kết thúc tác phẩm kể về cái chết của cô bé bán diêm, thật khiến con người ta đau đớn khôn cùng. "Em đã chết vì giá rét trong đêm giao thừa". Người chết trong băng giá từ đêm khuya mà đến rạng sáng đôi má vẫn hồng, đôi môi đang "mỉm cười". Mọi người bảo nhau: "Chắc nó muốn sưởi cho ấm”. Đúng vậy, cô bé bán diêm đã chết nhưng đây là một cái chết đẹp, hình hài thể xác chết mà linh hồn, khát vọng của em bé vẫn sống, sống trên đôi má hồng, đôi môi đang mỉm cười, sống trong cánh tượng huy hoàng cùng bà bay lên đón năm mới. Cái chết có lẽ sẽ giúp em giải thoát cho những khốn khổ của cuộc đời mà em phải gánh chịu.
Những câu chuyện của An-dec-xen luôn nhẹ nhàng, trong trẻo, toát lên sâu sắc lòng yêu thương con người-nhất là những con người nghèo khổ như cô bé bán diêm. Niềm tin, khát vọng về những điều tốt đẹp nhất trên thế gian này sẽ thuộc về con người.
Phân tích truyện ngắn Cô bé bán diêm – mẫu 15
Truyện của An-đéc- xen luôn chiếm được sự yêu thương của các bạn nhỏ trên toàn thế giới. Trong những câu chuyện mà tác giả An- đéc- xen viết đều có một kết thúc vô cùng có hậu. Nhưng trong truyện “Cô bé bán diêm” kết thúc câu chuyện khiến cho người đọc vô cùng xót xa khiến cho người đọc ám ảnh mãi.
Nhân vật xuyên suốt một truyện “Cô bé bán diêm” là nhân vật cô gái bán diêm. Một cô bé bất hạnh không được nhận tình yêu thương trong cuộc sống. Cô bé bán diêm không được học hành tới trường như những người bạn cùng trang lứa, mà cô phải ra đường mưu sinh trong thời tiết vô cùng lạnh giá. Cô bé bán diêm không phải trẻ mồ côi nhưng lại bất hạnh hơn cảm trẻ mồ côi. Cô bé còn ba nhưng ba không yêu thương cô bé. Ba của cô bé luôn đánh đập cô mỗi khi cô không bán được diêm không mang tiền về cho ông ta đi uống rượu. Người thân yêu thương duy nhất của cô bé là bà ngoại thì bà đã mất từ năm ngoái. Nên cô bé bán diêm vô cùng bơ vơ trong cuộc đời này.
Hình ảnh cô bé bán diêm xuất hiện trong một thời gian vô cùng đặc biệt càng làm cho câu chuyện trở nên vô cùng đặc sắc. Trong đêm giao thừa cuối năm, trong khoảnh khắc mà nhà nhà người người đang chờ đón giây phút đặc biệt của năm. Ai cũng vội vàng muốn về nhà thật nhanh để cùng người thân của mình dùng bữa tối và cùng chào đón khoảnh khắc năm mới đang tới. Cô bé bán diêm đi bán diêm trong tuyết rơi. Chân cô không mang giày, đầu không có mũ, một chiếc áo mỏng khoác thân. Từ sáng tới giờ cô bé tội nghiệp của chúng ta chưa có gì bỏ bụng bởi không ai cho cô một cái gì dù chỉ là một mẩu bánh mì. Cũng không ai mua giúp cho cô một bao diêm nào. Cô bé có nghĩ tới việc quay về nhà nhưng cô lại sợ bị ba mình đánh nếu không có tiền cho ông ta đi uống rượu. Một cô bé nhỏ bé tuổi còn quá nhỏ để phải tự mình nuôi thân, nhưng em lại phải chịu quá nhiều đau khổ. Số phận của em thật bất hạnh gợi lên trong lòng người đọc thật nhiều cảm xúc vô cùng xót xa.
Trong màn tuyết phủ ngày càng nhiều, nhưng cơn gió tuyết thổi vào mặt lạnh buốt cô bé bán diêm đi trong đêm tối với chiếc bụng trống rỗng của mình. Cô bé mời mọi người mua diêm nhưng không ai có thời gian để quan tâm tới thân phận của cô bé. Cô bé bán diêm nhìn vào trong những ngôi nhà sang trọng, đèn sáng trưng. Trong mỗi ngôi nhà đều có cây thông nô en với đèn lấp lánh. Trên những chiếc bàn ăn mọi người cùng vui vẻ thưởng thức bữa tối có ngỗng quay, súp nóng, và họ có lò sưởi thật ấm áp và hạnh phúc. Cô bé bán diêm đã dừng lại và ngồi ở một khe nhỏ giữa hai ngôi nhà sát nhau để tránh những cơn gió rét thổi vào người mình. Cô bắt đầu cảm thấy lạnh cóng và rút những bao diêm nhỏ ra và quẹt lên những ánh sáng nhỏ nhoi sưởi ấm cho bàn tay của mình.
Trong que diêm thứ nhất cô bé nhìn thấy một chiếc lò sưởi thật ấm áp. Với một cô bé đang đói và lạnh thì việc được sưởi ấm cơ thể là một mong ước vô cùng chính đáng vào lúc này. Khi que diêm vụt tắt trả lại cô bé tội nghiệp trở lại với khoảng không gian tối đen. Trong que diêm thứ hai cô bé nhìn thấy mình ngồi trên một bàn ăn sang trọng và được ăn một bữa tối thịnh soạn với món ngỗng quay. Trên bàn ăn còn được bày nhiều đồ dùng dao dĩa sáng loáng bằng bạc. Trong que diêm thứ ba cô bé bán diêm của chúng ta nhìn thấy một cây thông noel vô cùng lấp lánh được trang hoàng thật đẹp mắt. Cô bé nhìn thấy những hộp quà treo trên đó vô cùng đẹp mắt. Một cây thông noel mà chưa bao giờ cô bé nhìn thấy.
Trong que diêm thứ tư cô bé bán diêm đã nhìn thấy bà ngoại của mình. Người luôn yêu thương bao bọc cho cô bé bán diêm. Nhưng bà của cô bé đã lên thiên đàng, cô bé đã nhìn thấy bà của mình xuất hiện và bà ôm cô bé vào lòng vỗ về che chở. Cô bé bán diêm đã khóc rất nhiều vào đòi đi theo bà của mình. Sáng hôm sau người ta tìm thấy xác của một em bé tội nghiệp bị lạnh cóng và xung quanh vẫn còn tàn của những que diêm. Đối với những người bình thường thì đó thật sự là sự ám ảnh. Nhưng đối với cô bé đó là sự giải thoát cô bé được đi gặp bà mình và thoát khỏi cuộc sống đau khổ.
Nhân vật cô bé bán diêm đã để lại trong lòng người đọc vô cùng nhiều ám ảnh bởi một kết thúc vô cùng đáng suy nghĩ cho chúng ta, sự lạnh lùng của con người chúng ta đã làm cho một cô bé ra đi trong tủi hờn, buồn khổ.
Phân tích truyện ngắn Cô bé bán diêm – mẫu 16
Tác phẩm "Cô bé bán diêm" của An- Đéc- Xen là một tác phẩm vô cùng sâu sắc thể hiện cái nhìn nhân sinh vô cùng nhân văn của tác giả An- Đéc-Xen một con người luôn gắn liền với những đứa trẻ trên toàn thế giới. Câu chuyện gợi lên một thế giới mà trong đó những đứa trẻ phải chịu cuộc sống lam lũ, lầm than, chịu nghèo khổ cơ cực, mà không ai đoái thương, giúp đỡ, dẫn tới cái chết thương tâm của cô bé tội nghiệp đó.
Cô bé bán diêm khốn khổ của chúng ta đã chịu những tổn thương về thể chất cũng như tinh thần một cách nặng nề. Trong cuộc sống không có gì buồn bã, tủi hổ hơn việc bị bỏ rơi, bơ vơ lạc lõng trước cuộc đời này. Truyện ngắn "Cô bé bán diêm" của nhà văn An- Đéc- Xen đã gợi lên trong lòng người đọc những xót xa nghẹn ngào trước những cảnh đời lầm than cơ nhỡ.
Câu chuyện xoay quanh đêm cuối năm, vào đêm giao thừa giây phút thiêng liêng của một năm. Khi mà năm mới sắp bước sang và năm cũ qua đi mang theo những hy vọng mới cho con người về những điều tốt đẹp trong cuộc sống. Trong bão tuyết, mưa gió, trong cái rét cắt da cắt thịt của mùa đông. Có một cô bé bán diêm vô cùng tội nghiệp. Cô bé ấy đi chân không dưới nền tuyết lạnh giá, đầu không có mũ, chiếc áo khoác mỏng manh. Em đi trong mưa tuyết, những cơn gió thổi qua rét run cầm cập.
Em luôn miệng mời những người qua đường mua cho mình những bao diêm nhỏ. Nhưng không có ai đoái thương, mua giúp em một bao diêm nhỏ. Từ sáng tới giờ em cũng chưa được bố thí cho mẩu bánh mì hay vài đồng tiền lẻ nào, bụng em cồn cào vì đói, hai bàn tay lạnh cóng, tê cứng. Em nhìn vào những ô cửa sổ trong những ngôi nhà sáng đèn kia. Họ đang vui vẻ sum vầy bên nhau bên mâm cơm gia đình thật hạnh phúc, cạnh đó có lò sưởi, có cây thông nô-en lung linh sắc màu. Trên bàn ăn có rất nhiều món ngon, có súp nóng và thịt ngỗng quay, béo ngậy…
Hai hình ảnh vô cùng đối lập khiến cho câu chuyện càng thêm bi kịch. Nếu trước đây An- Đéc- Xen đã từng viết rất nhiều câu chuyện cổ tích hay dành cho các bạn nhỏ. Trong những câu chuyện cổ tích đều kết thúc vô cùng có hậu, người hiền lành sẽ gặp may mắn, kẻ độc ác gian ngoan sẽ phải trả giá. Nhưng trong câu chuyện này dường như tác giả An-Đéc- Xen muốn khai thác một khía cạnh khác của xã hội, một khía cạnh hiện thực đáng phê phán đó chính là sự vô tâm của con người trước nỗi đau của đồng loại. Sự hờ hững của người lớn với những mảnh đời bất hạnh éo le như cô bé bán diêm.
Cảnh ngộ của cô bé bán diêm trong đêm cuối năm khiến cho trái tim người đọc thắt lại vì đau đớn. Trong khi mọi người, mọi nhà đều hưởng niềm vui quây quần hạnh phúc bên nhau thì em bé bán diêm tội nghiệp của chúng ta phải chịu đói chịu rét ngoài kia trong đêm giao thừa. Đường đêm càng lúc càng vắng người bởi chẳng ai muốn ra đường vào giờ này. Nếu có phải đi thì tất cả đều rất vội vàng mau mau chóng chóng để trở về nhà, nên chẳng ai quan tâm tới em bé khốn khổ của chúng ta.
Em cũng không thể về nhà khi chưa bán được đồng nào. Nếu bây giờ em quay trở về nhà em sẽ bị cha mình đánh đập bởi em không mang tiền về thì ông ấy không có gì mua rượu uống. Cô bé bán diêm ngồi thu mình vào trong khe nhỏ của hai ngôi nhà. Cô bé nghĩ mình thử bật một que diêm sưởi ấm đôi tay đang lạnh cóng. Khi ánh sáng que diêm vút lên cô bé của chúng ta nhìn thấy một bàn đầy thức ăn, có đủ các món ngon chưa từng thấy. Với cái bụng trống rỗng vì đói, thì việc cô bé đáng thương của chúng ta mơ một bữa ăn nó là điều vô cùng dễ hiểu.
Rồi khi que diêm vụt tắt trả cô bé lại với khoảng đường tối tăm, những cơn gió tuyết thổi qua mặt. Cô bé lại quẹt que diêm thứ hai lên, trong lần này cô nhìn thấy một cái lò sưởi, ánh sáng và hơi nóng của nó làm em vô cùng thích thú vì ấm áp. Nó sưởi ấm cơ thể và tâm hồn đang buốt lạnh của em. Rồi que diêm thứ ba được quẹt, em nhìn thấy một cây thông nô-en lung linh trên đó có treo rất nhiều món quà to nhỏ khác nhau, rồi có cả đèn xanh đỏ nhấp nháy vô cùng đẹp mắt.
Cô bé quẹt que diêm thứ tư trong lần này cô bé của chúng ta nhìn thấy người yêu thương duy nhất của mình. Đó chính là bà ngoại của em. Bà là người luôn thương em, nhường phần ăn của mình cho em, sưởi ấm tâm hồn cô đơn của em. Nhưng từ năm ngoái bà đã qua đời bỏ lại em với ông bố độc tài, suốt ngày chỉ biết say rượu rồi đánh đập em. Em nhìn thấy bà, em muốn đi theo bà nên em đã gọi lớn "Bà ơi đợi cháu với" Trong giây phút đó em thấy bà mỉm cười với mình bà ôm em vào lòng rồi nắm lấy tay em. Hai bà cháu cùng nhau bay lên trời.
Mỗi que diêm đều thể hiện một mong muốn ước mơ của cô bé bán diêm tội nghiệp. Ánh sáng của que diêm đã sưởi ấm tâm hồn em. Nó mang lại cho em những niềm hạnh phúc nhỏ nhoi ngắn ngủi rồi vụt tan biến. Sáng hôm sau, ngày đầu tiên của năm mới người ta nhìn thấy xác một đứa bé lang thang nằm trong khe tường của hai ngôi nhà. Trên môi cô bé vẫn nở nụ cười mãn nguyện.
Cho dù tác giả An- Đéc- Xen đã cho cô bé bán diêm của chúng ta một cái chết vô cùng nhẹ nhàng mãn nguyện, nhưng đâu đó chúng ta vẫn cảm nhận được sự tàn nhẫn của con người đối với nhau. Chính sự tàn nhẫn của người xung quanh, sự lãnh cảm của mọi người mà em bé của chúng ta đã phải rời khỏi trần gian tìm nơi nương náu ở miền cực lạc nào đó.
Hình ảnh cô bé bán diêm để lại cho chúng ta rất nhiều suy nghĩ về những số phận bất hạnh trong cuộc sống.
Phân tích truyện ngắn Cô bé bán diêm – mẫu 17
Một trong những nhà văn gắn liền tuổi thơ với trẻ em toàn thế giới mà chúng ta không thể không nhắc đến chính là nhà văn Đan Mạch nổi tiếng An-dec-xen. Và chắc hẳn trong chúng ta đều nhớ đến hình ảnh cô bé bán diêm, dường như khắc sâu tâm trí mỗi người. Cô bé bán diêm nhưng chất chứa trong nhân vật ấy là những bài học đầy giá trị về cuộc sống và con người.
Nhân vật cô bé bán diêm là hình ảnh trung tâm, xuyên suốt toàn tác phẩm. nhà văn dựa vào đó mà truyền tải những thông điệp về cuộc sống đến người đọc. Nhà văn đã thành công khi xây dựng nên nhân vật điển hình cùng với bối cảnh trong tác phẩm một cách rất sinh động. Đó là hình ảnh ám ảnh về một cô bé tội nghiệp không nơi nương tự trong bầu không khí giá lạnh cắt da giữa đường phố tuyết, và càng cô độc hơn khi cô được đặt cạnh bầu không khí sum vầy của các gia đình. Trong không gian “Mọi nhà đều sáng rực ánh đèn và trong phố sực nức mùi ngỗng quay” ấy thì cô bé bán diêm lại hồi tưởng lại những ngày sống trong quá khứ, khoảng thời gian bà còn sống, có dây thường xuân bám quanh ngôi nhà gợi lên sự ấm áp, hạnh phúc.
Và cuộc sống ngày xưa đó hoàn toàn đối lập với cuộc sống hiện tại em trải qua, cuộc sống với người cha đầy sự tối tăm và mùi của địa ngục. Dù lạnh đấy, đói đấy em rất muốn về nhà nhưng lại sợ bị cha đánh đòn vì chưa bán được hộp diêm nào. Cô bé hiện lên với đầy sự trẻ thơ nhưng sớm sống trong cảnh thiếu thốn cả vật chất lẫn tinh thần. Chính thực tại đối lập ấy khiến em càng khao khát mãnh liệt một sự sum vầy đầm ấm trong những ngày đông: “chà! Bây giờ mà được quẹt một que diêm để sưởi ấm cho đỡ buốt nhỉ”.
Đối với ta đó chỉ một ước mơ nhỏ nhoi giữa chốn phồn hoa đô thị ngoài kia, nhưng chính chi tiết ấy cũng đủ để lấy đi nước mắt vì xót xa cho một đứa trẻ thơ mà bất hạnh. Và em đánh liều quẹt một que diêm “lúc đầu xanh lam,dần dần biến đi, trắng ra, rực hồng lên quanh que gỗ, sang chói trông đến vui mắt”, thứ ánh sáng nhỏ nhoi ấy làm em hạnh phúc phần nào. Nhưng sự khắc nghiệt của cái giá lạnh đã dập tắt đi ngọn lửa nhỏ đó.
Em tiếp tục quẹt que thứ hai với ước muốn có cuộc sống ấm no. khung cảnh “hàng ngọn lửa nến sáng rực, lấp lánh trên cành lá xanh tươi và rất nhiều bức tranh màu sắc rực rỡ như những bức bày trong tủ hàng” hiện lên tươi đẹp nhưng vẫn bị thời tiết kia làm lụi tàn mất.
Chỉ là một ngọn lửa bé nhỏ để sưởi ấm, chỉ là một chút ước mơ bé nhỏ để cuộc đời em có chút hi vọng nhưng tất cả đều bị chính môi trường bên ngoài, xã hội ngoài kia cùng với cái xô bồ…tất cả đã nhẫn tâm mà tước đi niềm hạnh phúc nhỏ nhoi ấy. thật xót thương cho số phận trẻ thơ sớm đã phải lớn, sớm phải chịu cảnh đày đọa của cuộc sống. và cuối cùng thì em chỉ muốn được tin tưởng dựa dẫm vào chính người bà tin yêu đã mất của mình. Que diêm thứ ba xuất hiện chính là hình ảnh người bà cùng cánh tay đang chào đón em. Và em đã đi cùng bà về một miền của sự hạnh phúc, đi để không phải bị cuộc đời này vùi dập nữa. đó chính là giây phút em từ giã trần đời, nhà văn An-dec-xen đã nhân hóa, phóng đại hóa cái chết của em cũng chính là tấm lòng xót thương, xúc động, tình cảm thương mến dành cho em, dành cho bao đứa trẻ thơ bất hạnh ngoài cuộc đời kia nữa.
Bằng lối viết văn rất giản dị, ngôn ngữ trong sang mà nhà văn thiếu nhi An-dec-xen đã xây dựng thành công nhân vật cô bé bán diêm với tất cả niềm xót thương, yêu mến. Qua đó ta thêm hiểu hơn, biết trân trọng hơn về hạnh phúc dành cho con trẻ ngày nay.
Phân tích truyện ngắn Cô bé bán diêm – mẫu 18
Truyện ngắn Cô bé bán diêm của nhà văn An-đéc-xen đã để lại những dư âm, ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc. Không chỉ vậy đó còn là niềm cảm thương vô hạn cho số phận bất hạnh, đầy bi thương của nhà văn với cô bé bán diêm.
Hoàn cảnh của cô bé vô cùng thương cảm, ngay từ những lời đầu tiên giới thiệu về hoàn cảnh của cô bé đã khiến người đọc phải rơi nước mắt: bà và mẹ những người yêu thương em nhất đều đã qua đời, em sống chui rúc với bố trong một căn gác tối tăm, chật chội. Người bố có lẽ vì cuộc sống nghèo túng, khó khăn nên đâm ra khó tính, đối xử tệ bạc với em: hay mắng nhiếc, chửi rủa em. Trong đêm đông giá rét em phải mang những phong diêm đi bán để kiếm sống nuôi bản thân. Mặc dù có nhà song em không dám về vì nếu về mà không mang được đồng xu nào tất sẽ bị cha em mắng chửi. Người cha vô lương tâm, lời lẽ hành động thiếu tình thương đã khiến cô bé bất hạnh phải ở bên ngoài trong đêm đông giá lạnh, trong gió và mưa tuyết mỗi lúc một nhiều.
Xót thương biết bao trong ngày cuối cùng của năm ai ai cũng được quay quần bên gia đình còn cô bé thì đầu trần, chân đất lang thang ngoài trời đông giá rét, tuyết phủ trắng xóa. Xung quanh em đường phố, nhà cửa đã lên đèn, không gian thật ấm cúng, hạnh phúc, mùi ngỗng sực nức khắp nơi, còn em đã đi cả ngày mà không bán được bao diêm nào. Những hình ảnh tương phản không chỉ làm nổi bật thiếu thốn, khó khăn về vật chất của em mà còn nói đến những mất mát, thiếu thốn về mặt tinh thần.
Trong cái giá rét của mùa đông, cô bé liều mình quẹt từng que diêm để sưởi ấm cơ thể. Hình ảnh ngọn lửa diêm mang nhiều ý nghĩa sâu sắc. Trước hết ngọn lửa diêm xua tan cái lạnh lẽo, tăm tối để em bé có thể quên đi những bất hạnh, cay đắng của cuộc đời. Ngọn lửa diêm đã thắp sáng những mơ ước đẹp đẽ, những khao khát mãnh liệt, đem đến thế giới mộng tưởng với niềm vui, hạnh phúc. Đó còn là ngọn lửa của mơ ước về cuộc sống gia đình hạnh phúc, được sống trong tình yêu thương của cha mẹ, ông bà. Hình ảnh ngọn lửa diêm như con thuyền đầy tinh thần nhân văn của tác giả, thể hiện sự cảm thông, trân trọng những ước mơ giản dị, diệu kì của trẻ nhỏ.
Mỗi lần quẹt diêm, cô bé tội nghiệp lại được sống trong giây phút hạnh phúc, chìm đắm trong thế giới cổ tích, thoát khỏi thực tại tăm tối. Lần quẹt diêm thứ nhất, em thấy lò sưởi, vì trong đêm đông giá lạnh em cần được sưởi ấm. Khi que diêm vụt tắt, lò sưởi biến mất, nỗi sợ hãi mơ hồ lại xâm chiếm em “đêm nay về nhà thế nào cũng bị cha mắng”. Em lại lấy can đảm quẹt diêm lần thứ 2, lần này em thấy một bàn ăn thịnh soạn,… sự tưởng tượng của em thật hài hước, cho thấy mơ ước lớn nhất lúc này của em là được ăn no. Trong đêm giao thừa gia đình nào cũng quây quần bên mâm cơm, còn em lại đói lả đi trong cái giá lạnh. Chi tiết gây xúc động sâu sắc đến người đọc, nó gợi lên những ám ảnh day dứt khôn nguôi. Lần thứ ba, trong không khí đêm giáng sinh, em thấy hình ảnh của cây thông. Đó chính là biểu tượng của mái ấm gia đình hạnh phúc, là những ước mơ trong sáng của tuổi thơ. Lần thứ 4, giữa cái đói rét và cô độc, em khao khát có tình yêu thương và chỉ có bà là người yêu thương em nhất. Trong giây phút đó bà hiện lên thật ấm áp, đẹp đẽ. Cô bé khẩn thiết van xin bà cho đi cùng, bởi cô bé hiểu khi ngọn lửa diêm tắt đi bà cũng biến mất. Ước nguyện của cô bé thật đáng thương, cô bé muốn được che chở, được yêu thương biết nhường nào. Lần cuối cùng em quẹt hết số diêm còn lại để nhìn thấy bà và thật kì lạ ước nguyện cuối cùng của em đã trở thành hiện thực. Em không còn phải đối mặt với đòn roi, những lời mắng nhiếc, sự đói rét, nỗi buồn nữa, em đã được đến một thế giới khác, thế giới có bà ở bên. Qua những lần mộng tưởng của cô bé ta thấy cô bé là người có tâm hồn trong sáng, ngây thơ. Trong đói rét em không hề oán trách một ai vì đã thờ ơ trước cảnh ngộ của mình. Tâm hồn em thật trong sáng và nhân hậu biết chừng nào. Đó là một cô bé giàu mơ ước, vượt lên hoàn cảnh thực tại đói rét, cô đơn. Những mơ ước ấy giản dị mà cũng thật lãng mạn, diệu kì.
Phân tích truyện ngắn Cô bé bán diêm – mẫu 19
Tuổi thơ của mỗi người luôn gắn liền với những câu chuyện cổ tích huyền diệu, kỳ thú với những bà tiên xinh đẹp, những vùng đất nhiệm màu, những hoàn cảnh bất hạnh, éo le nhưng luôn giữ cho mình một trái tim nhân hậu, ấm áp. Câu chuyện "Cô bé bán diêm" của nhà văn Adersen được đánh giá là một trong những truyện cổ tích hay nhất mọi thời đại, là hành trang đầu tiên của mọi trẻ em trên thế giới. Trong đó, nổi bật lên là nhân vật cô bé bán diêm với hoàn cảnh đáng thương nhưng có một niềm tin mãnh liệt vào cuộc đời hạnh phúc với những ước mơ hồn nhiên, giản dị.
Câu chuyện kể về một em bé mồ côi mẹ, bà mới mất, em phải sống trong căn gác chật hẹp, tối tăm cùng người bố nghiện rượu suốt ngày chỉ biết đánh đập, chửi mắng. Trong đêm Giáng Sinh, khi nhà nhà quây quần bên mâm cơm đầm ấm thì cô bé phải đi bán diêm, nếu không có tiền sẽ không được về nhà. Quá lạnh lẽo, cô bé đành quẹt diêm lên sưởi ấm, mỗi lần quẹt diêm, cô lại nhìn thấy một cảnh tượng hạnh phúc cô hằng ao ước: lò sưởi bập bùng, bữa ăn thịnh soạn, cây thông sặc sỡ và cuối cùng là người bà hiền hậu em hằng nhớ nhung đã xuất hiện, đưa em bay cùng đến Thiên đàng.
Hoàn cảnh của cô bé bán diêm vô cùng đáng thương. Gia cảnh sa sút, mồ côi mẹ, bà ngoại mất, sống với người bố hay mắng nhiếc, chửi rủa trên căn gác xép tối tăm, chật chội. Trong đêm Giáng Sinh giá lạnh, khi người người nhà nhà sum vầy hạnh phúc chào đón năm mới trong căn nhà ấm áp, cô bé bán diêm "đầu trần, chân đất, bụng đói, dò dẫm trên đường", "cả ngày không bán được bao diêm nào". Đường phố lạnh lẽo đối lập hoàn toàn với khung cảnh ấm áp, mọi nhà đều sáng rực đèn, "cửa sổ mọi nhà sáng rực, ấm áp" đối lập với "ngoài đường phố tối tăm", "góc tường lạnh lẽo giữa hai ngôi nhà". "Trong phố sực nức mùi ngỗng quay" đối lập với cô bé bán diêm cả ngày chẳng có gì lót dạ. "Ngôi nhà xinh đẹp, nơi em từng sống có hàng cây thường xuân bao quanh" đối lập với nơi gác mái gió lùa lạnh lẽo. Hàng loạt hình ảnh đối lập đã làm nổi bật hoàn cảnh tội nghiệp, bất hạnh của cô bé. Một đứa trẻ đáng ra phải được đón Giáng sinh cùng gia đình, được bóc những gói quà xinh xắn và mong đợi món quà từ ông già Noel thì ở đây, cô bé đáng thương chỉ có một mình chống chọi với cái giá rét, cô độc.
Khổ đau, đáng thương là vậy nhưng những khó khăn ấy chẳng thể dập tắt niềm tin của em vào cuộc sống với những ước mơ giản dị, hồn nhiên. Từng lần quẹt diêm sưởi ấm là từng lần em được sống trong ước mơ của mình, rời xa hiện thực tàn khốc. Lần quẹt diêm thứ nhất, em nhìn thấy một lò sưởi bập bùng lửa cháy, ấm sực để em có thể sưởi ấm giữa hoàn cảnh lạnh giá này. Ước mơ quá đỗi bình dị và giản đơn, chỉ mong được ấm áp giữa đêm đông, tưởng như đó là điều hiển nhiên mà đứa trẻ nào cũng được tận hưởng. Que diêm vụt tắt, hiện thực tàn khốc trở lại, chỉ còn em bé nghèo khổ với nỗi lo không có tiền, sợ cha đánh đập, chửi mắng. Lần sưởi ấm thứ hai, trước mắt em hiện ra một bàn ăn thịnh soạn với ngỗng quay vàng ruộm, những bộ dao dĩa sáng bóng, sạch sẽ, thể hiện mong ước được ăn một bữa no nê. Ắt hẳn, khi bà và mẹ còn sống, cô bé đã được đón những đêm Giáng Sinh đúng nghĩa với những món ăn thơm phức được bày biện đẹp mắt trên khăn trải bàn trắng tinh tươm. Thì ra, với một đứa trẻ, một bữa no lại có thể khó khăn đến thế, mãi mãi chỉ là giấc mơ xa vời. Lần thứ ba quẹt diêm, cô bé nhìn thấy hình ảnh cây thông, biểu tượng của Giáng Sinh, của sự sung túc, đủ đầy của một gia đình hạnh phúc. Và cuối cùng, chi tiết gây cho người đọc nhiều xúc cảm và suy tư nhất là khi em bé bán diêm nhìn thấy bà hiện lên khi que diêm bừng cháy. Giữa cái lạnh lẽo, giá buốt ấy, bà là hơi lửa sưởi ấm, là biểu tượng hạnh phúc, là niềm khao khát được yêu thương của em. Em biết rằng khi que diêm tắt đi đồng nghĩa với việc bà sẽ biến mất. Hành động cuống cuồng quẹt hết số diêm còn lại cùng lời khẩn nài bà hãy đưa em đi cùng sao thật thương tâm. Ước mơ của cô bé tội nghiệp đã trở thành hiện thức, giờ đây, em sẽ không bao giờ phải đối mặt với đói rét, khổ sở, không còn đòn roi và những lời mắng nhiếc. Em đã được lên Thiên Đường với bà, với mẹ, với những người yêu thương em, cùng nhau sống ở một nơi không có khổ đau, không ai có thể làm hại đến họ. Niềm tin của cô bé khiến người đọc vừa thương cảm, xót xa, vừa nể phục, quý trọng. Những ước mơ giản dị xuất phát từ tận đáy lòng đứa bé ngây thơ. Trong hoàn cảnh cùng khổ, em cũng không oán trách bố mình mà chỉ dám thầm mơ ước, chỉ dám lén lút quẹt từng que diêm tìm kiếm chút hơi ấm lẻ loi.
Hình tượng cô bé bán diêm được xây dựng bằng giá trị nhân đạo sâu sắc với hoàn cảnh đáng thương nhưng vẫn giữ cho mình một trái tim lương thiện, một suy nghĩ trẻ con hồn nhiên, đáng yêu. Tác giả thể hiện ước mong qua đoạn kết truyện, rằng người sống thiện sẽ sớm gặp điều lành, đồng thời gửi gắm niềm tin yêu, quý trọng với những số phận kém may mắn nhưng sống trong sạch, nhân hậu đến tận cuối đời.
Phân tích truyện ngắn Cô bé bán diêm – mẫu 20
“Cô bé bán diêm” là một trong những tác phẩm tiêu biểu của nhà văn An-đéc-xen. Nổi bật trong truyện là nhân vật cô bé bán diêm, được xây dựng gửi gắm thông điệp của tác giả.
Phần mở đầu, An-đéc-xen đã giới thiệu về hoàn cảnh của nhân vật cô bé bán diêm. Cô bé ấy đã mồ côi mẹ và ngay cả bà nội - người yêu thương em nhất cũng đã qua đời. Không chỉ vậy, hình ảnh cô bé cũng được xây dựng vô cùng chân thực. Trong đêm giao thừa lạnh giá, một cô bé đầu trần, chân đi đất, bụng đói, đang dò dẫm trong bóng tối bán diêm. Em không dám về nhà vì sợ bố sẽ đánh đập khi không bán được diêm. Vừa lạnh vừa đói, cô bé ngồi nép vào một góc tường rồi khẽ quẹt một que diêm để sưởi ấm. Những vị khách qua đường đều rảo bước rất nhanh, chẳng ai đoái hoài đến lời chào hàng của em, chẳng ai bố thí cho em chút đỉnh.
Những que diêm lần lượt được thắp sáng với những mong muốn cụ thể của cô bé. Que diêm thứ nhất cho em có cảm giác ấm áp như ngồi bên lò sưởi.Em vội quẹt que diêm thứ hai, một bàn ăn thịnh soạn hiện lên. Đến quẹt que diêm thứ ba thì một cây thông Noel. Quẹt que diêm thứ tư được thắp lên, lần này là bà nội với khuôn mặt hiền từ hiện ra. Những ảo ảnh đó nhanh chóng tan đi sau sự vụt tắt của que diêm. Em vội vàng quẹt hết cả bao diêm để mong níu bà nội lại. Những que diêm với những mong ước khác nhau của em bé bán diêm. Nó phù hợp với mong ước cũng như hoàn cảnh hiện tại của cô bé (thoải mãn từ nhu cầu từ vật chất đến tinh thần của cô bé: được sửa ấm - no bụng - niềm vui đêm giao thừa - tình yêu thương của bà). Có thể thấy rằng cô bé bán diêm có hoàn cảnh đáng thương, nhưng lại có một tâm hồn trong sáng, nhân hậu. Cô bé luôn khao khát được sống trong một gia đình hạnh phúc, được hưởng tình yêu thương từ những người thân.
Trước sự vô cảm của mọi người xung quanh, em bé bán diêm đã chết. Sáng sớm hôm sau, mọi người thấy em nằm ở một góc tường. Hình ảnh cô bé chết nhưng vẫn mỉm cười - nụ cười khi được đoàn tụ với bà được tác giả tưởng tượng nhằm giảm bớt nỗi đau cho câu chuyện. Cái kết này đã phản ánh được ước mơ về một cuộc sống hạnh phúc của con người. Ở đây, tác giả đã thể hiện một tấm lòng nhân văn sâu sắc.
Hình ảnh cô bé bán diêm đã in đậm trong tâm trí người đọc. Qua nhân vật này, tác giả An-đéc-xen cũng thể hiện tình yêu thương dành cho những số phận bất hạnh, đặc biệt là trẻ em.