Tailieumoi.vn xin giới thiệu đến các quý thầy cô, các em học sinh đang trong quá trình ôn tập tài liệu Kiến thức cơ bản văn xuôi lớp 12, tài liệu bao gồm 34 trang, giúp các em học sinh có thêm tài liệu tham khảo trong quá trình ôn tập, củng cố kiến thức và chuẩn bị cho bài thi môn Ngữ văn sắp tới. Chúc các em học sinh ôn tập thật hiệu quả và đạt được kết quả như mong đợi.
Mời các quý thầy cô và các em học sinh cùng tham khảo và tải về chi tiết tài liệu dưới đây:
NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ
Nguyễn Tuân I. VỀ TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM.
Nguyễn Tuân là nhà văn có phong cách nghệ thuật tài hoa, uyên bác. Cả cuộc đời ông khát khao đi tìm cái đẹp để ngợi ca và tôn vinh nó. Nếu trước cách mạng ông đi tìm cái đẹp ở tầng lớp trên của một thời còn vang bóng, thì sau cách mạng ông đi tìm cái đẹp ở tầng lớp dưới ngay trong đời sống hiện thực. “Người lái đò sông Đà” in trong tập “Sông Đà” là một trong những tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Tuân sau cách mạng. (Đọc tác phẩm để lại ấn tượng nhất trong lòng người đọc là …)
- TÌM HIỂU TÁC PHẨM.
- Hình tượng ông lái đò.
- Khái quát:
Ông đò sinh ra và lớn lên bên Sông Đà, ông làm nghề lái đò. Để làm nổi bật vẻ đẹp của ông lái đò, nhà văn đã đặt ông trong một hoàn cảnh hết sức điển hình, đó là một con Sông Đà đẹp, trữ tình nhưng cũng thật hung bạo, dữ tợn, luôn là mối đe dọa tới tính mạng con người. Trong thiên tuỳ bút này, hình ảnh ông đò hiện lên vừa như một người anh hùng, dũng trí trong cuộc đấu tranh với thiên để dành giật sự sống, vừa như một người nghệ sĩ tài ba trong nghệ thuật chèo đò vượt thác. b. Phân tích:
Mỗi lần vượt sông, ông lái đò phải vượt qua ba tuyến phòng thủ đầy khó khăn nguy hiểm và vô cùng ngoạn mục của thạch trận Sông Đà. Trong lần vượt tuyến phòng thủ thứ nhất, nước phối hợp với đá dàn thành một thạch trận, reo hò, khiêu khích, thách thức ông lái đò. Sóng nước tấn công ông lái đò một cách dữ dội, có những lúc chúng “đội cả thuyền lên, nước bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng ông đòđòi lật ngửa mình ra”. Chúng dùng cả những miếng đòn độc hiểm nhất “bóp chặt lấy bộ hạ người lái đò”. Tác giả đã giúp ta hình dung ra một cuộc chiến đấu không cân sức và vô cùng cam go, dữ dội giữa sóng, nước, đá và ông lái đò. Một bên là các thế lực thiên nhiên đông đảo đang phối hợp, cấu kết với nhau, dùng mọi thủ đoạn, mánh khoé để tiêu diệt ông lái. Một bên ông đò “đơn thương, độc mã”. Trước tình hình ấy, ông lái đò không hề chùn bước, ông bắt tay ngay vào trận chiến: “Ông đò hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng”. Mặc dù bị thương ông vẫn “Cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái, mặt méo xệch đi…Nhưng trên cái thuyền sáu bơi chèo vẫn nghe rõ tiếng chỉ huy tỉnh táo của người cầm lái”. Chỉ bằng vài ba câu chữ, Nguyễn Tuân đã tái hiện lại hình ảnh một ông lái đò vừa có cái gan góc, quả cảm của một người lính, vừa mang cái bình tĩnh, tỉnh táo, tự tin của một người chỉ huy tài ba. Chính điều đó đã mang đến chiến thắng cho ông đò trong trận chiến thứ nhất này.
Thất bại ở trận chiến thứ nhất, sang phòng tuyến thứ hai, sóng nước Sông Đà thay đổi chiến thuật. Nếu như ở lần vượt tuyến thứ nhất, thạch trận mở ra 5 cửa trong đó có bốn cửa tử và một cửa sinh, thì lần hai, chúng tăng nhiều cửa tử, cửa sinh bố trí lệch để đánh lừa con thuyền. Trong khi đó lại có cả một đội quân thuỷ chiến chực sẵn để đánh lừa, níu thuyền vào tập đoàn cửa tử. Như vậy trong trận tuyến thứ hai này còn dữ dội, ác liệt hơn so với trận chiến thứ nhất. Trước tình hình đó, ông quyết không bỏ cuộc. Không một phút nghỉ tay, nghỉ mắt, ông phá luôn vòng vây thứ hai. Với kinh nghiệm, sự từng trải, ông nắm chắc binh pháp của thần sông, thần đá, ông thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này. Từ đó ông đò hạ quyết tâm rất cao, phải “Cưỡi lên thác Sông Đà, phải cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ”. Ông đã: “Nắm chặt lấy được cái bờm sóng đúng luồng rồi, ông đò ghì cương lái, bám chắc lấy luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh, mà lái miết một đường chéo về phía cửa đá ấy”. Như vậy, bằng tất cả sự thông minh, tài trí, lòng quả cảm và kinh nghiệm của mình, ông lái đò đã bỏ lại sau lưng tất cả mọi cửa tử, đánh trúng vào cửa sinh, làm cho kẻ thù sông nước mặt xanh lè thất vọng vì thua cái thuyền. Để diễn tả lần vượt thác thứ hai này, tác giả dùng biện pháp nghệ thuật so sánh rất độc đáo “như cưỡi hổ”, và đưa ra hàng loạt các động từ chỉ động tác, suy nghĩ “nắm chặt”, “ghì cương”, “phóng nhanh”…làm cho hình ảnh ông lái đò hiện lên như một dũng tướng hiên ngang, kiên cường, bất khuất và anh dũng trên chiến trường sông nước.
Sang tuyến phòng thủ thứ ba, kẻ thù sông nước lại càng tăng cường lực lượng và chúng dùng ít cửa hơn. Bên phải, bên trái đều là cửa tử, cửa sinh nằm ở giữa nhưng lại có cả một đội quân đá hậu vệ chặn giữa: “Bên phải, bên trái đều là luồng chết cả. Cái luồng sống ở trạng ba này lại ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác”. Như vậy, so với 2 lần trên, lần vượt thác thứ ba này nguy hiểm hơn rất nhiều. Lần này chúng đặt ông đò trong tình thể “Ngàn cân treo sợi tóc”. Chỉ cần một chút khinh suất thôi là ông đò có thể đã bỏ mạng. Khác với hai lần trước, hình ảnh ông lái đò trong lần vượt tuyến thứ ba này được tác giả miêu tả một cách gián tiếp qua hình ảnh con thuyền: “Thuyền vút qua cửa đá cánh mở, cánh khép. Vút, vút cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước. Vừa xuyên vừa tự động lái được, lượn được”. Đoạn văn với điệp động từ nhanh, mạnh “vút, vút” lối so sánh độc đáo: “Như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước”, nhịp điệu câu văn nhanh, mạnh thể hiện tốc độ vượt thác nhanh, dứt khoát của một tay lái cừ khôi, điêu luyện. Trong lần vượt thác thứ ba này,ông lái đò hiện lên không chỉ là một con người dũng cảm, kiên cường,thông minh, mưu trí, mà còn như một nghệ sĩ tài hoa trong nghệ thuật chèo đò vượt thác.
Sau những lần vượt thác, ông lái đò lại trở lại cuộc sống bình thường. Ông cùng mọi người vào hang đá: “Nướng ống cơm lam, bàn về cá Dầm xanh và cá Anh vũ”, một đặc sản của miền núi rừng Tây Bắc. Dường như tất cả mọi mệt mỏi đã tan biến hết, ông không hề nhắc đến những chiến thắng mà mình vừa mới đạt được. Ông cũng không hề nghĩ đến những khó khăn đang chờ đợi phía trước. Bằng bút pháp lãng mạn, tác giả đã gợi lên hình ảnh một con người giản dị, mộc mạc, khiêm nhường với niềm lạc quan, yêu đời, tự tin mang bản chất của người dân lao động. c. Kết luận:
Với cảm hứng sử thi, lãng mạn, với vốn hiểu biết phong phú trên mọi lĩnh vực: quân sự, thể thao, điện ảnh, ngôn ngữ miêu tả đầy cá tính, giàu chất tạo hình. Nguyễn Tuân đã xây dựng thành công hình tượng ông lái đò, hình tượng tiêu biểu cho vẻ đẹp của người lao động miền núi cao Tây Bắc nói riêng, con người lao động nói chung. Hình tượng ông lái đò đã góp phần mang đến cho Tuỳ bút “Người lái đò Sông Đà” xứng đáng là thiên tuỳ bút hay nhất của đời văn Nguyễn Tuân, tác phẩm là sự kết tinh những đặc sắc phong cách nghệ thuật của nhà văn.
- Hình tượng sông Đà.
- Khái quát:
Sông Đà được bắt nguồn từ tỉnh Vân Nam Trung Quốc, chảy vào miền Tây Bắc bộ Việt Nam. Sông Đà là con sông có lai lịch, có số phận, có đặc điểm và tính cách khác thường. Nói đến đặc điểm của Sông Đà, trong lời đề từ, nhà văn đã mượn lời thơ của Nguyễn Quang Bích “Chúng thuỷ giai đông tẩu - Đà giang độc bắc lưu” - Mọi dòng sông đều chảy về hướng đông, chỉ có sông Đà chảy theo hướng bắc. Nét độc đáo của Sông Đà còn ở chỗ, nó mang hai tính cách đối lập nhau, đó là một con sông hung bạo, hùng vĩ, nhưng cũng là một con sông thơ mộng trữ tình. b. Phân tích
* Khi ở vùng thượng lưu, do phải trải qua nhiều triền núi đá nên Sông Đà mang vẻ hung bạo, hung vĩ. (đoạn từ: “Hùng vĩ của Sông Đà không chỉ có thác đá … một cuộc giáp lá cà có đá dàn trận địa sẵn”.)
Nói về vẻ đẹp hung bạo, hùng vĩ, hung bạo của sông Đà, tác giả đã miêu tả qua nhiều sự vật khác nhau.
- Trước hết, là cảnh đá ở đôi bờ sông. Đá ở đây dựng vách thành, mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời. Có chỗ lại rất hẹp, hẹp tới mức đứng ở bờ bên này, nhẹ tay ném một hòn đá cũng có thể sang tới bờ bên kia. Có chồ con nai, con hổ nhảy từ bờ bên này sang bờ bên kia một cách dễ dàng. Lại có những chỗ “ vách đá thành chẹt lòng Sông Đà như một cái yết hầu”. Bằng cách miêu tả tỉ mỉ, hình ảnh so sánh độc đáo, nhà văn đã gợi lên trước mắt người đọc vách thành, độ cao và dựng đứng của đôi bờ sông. Đó chính là vẻ đẹp hùng vĩ, hiểm trở mà thiên nhiên ban tặng cho sông Đà. Đặc biệt câu cuối của đoạn: “Ngồi trên khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện” đã thể hiện một sự so sánh vừa chính xác, vừa tinh tế lại vừa bất ngờ, lạ lùng làm hiện lên vẻ đẹp rất ma mị: vừa âm u vừa huyền bí, cuốn hút. Nếu như không có một óc tưởng tượng phong phú, một sự cảm nhận tinh tế và cách sử dụng ngôn từ tài hoa thì tác giả không thể viết lên được câu văn có sức kinh động hồn trí con người như thế.
- Quãng mặt ghềnh Hát Loóng thì sóng nước: “Dài hàng cây số, nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm”. Mặt ghềnh được gợi lên cả bằng chiều dài của thời gian “gùn ghè suốt năm”, chiều rộng của không gian “dài hàng cây số”, các câu văn ngắn, vừa liên hoàn vừa điệp cú pháp với các điệp từ liên tiếp, kế tiếp “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió” vừa tạo nên chất nhạc, chất hoạ cho lời văn, vừa hiện lên trước mắt chúng ta một cảnh tượng dữ dội của sóng nước sông Đà. Nước ở đây chảy mạnh, sức xô đẩy lớn. Những con sóng tới tấp va đập vào nhau, cuồn cuộn cùng với những luồng gió cứ gầm gào suốt một quãng sông dài.
- Vẻ hung bạo của sông Đà còn được thể hiện qua những cái hút nước. Những cái hút nước ở đây “giống như giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu. Nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc […] Những cái giếng sâu nước ằng ặc lên như vừa rót dầu sôi vào”. Bằng hàng loạt các so sánh, cùng với biện pháp nghệ thuật nhân hoá, tác giả đã làm cho dòng sông trở thành loại thuỷ quái khổng lồ, khôn ngoan và hiểm ác, luôn là mối đe doạ với con người. Có những thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷu sông dưới.
- Để lại ấn tượng nhất là thác nước Sông Đà. Nếu như các sự vật trên tác động chủ yếu vào thị giác người đọc thì thác nước đã tác động mạnh vào thình giác. Tiếng thác nước ở đây mỗi ngày một réo gần mãi, réo to mãi. Có những lúc thì nghe như là oán trách, lại có những lúc nghe như là van xin, rồi lại như khiêu khích, giọng gằn và chế nhạo…Có những lúc “Nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu, rừng tre nứa nổ lửa”. Bằng biện pháp so sánh độc đáo “như tiếng một ngàn con trâu mộng”, cùng với các biện pháp nghệ thuật nhân hoá, Nguyễn Tuân tả tiếng thác nước sông Đà qua nhiều cung bậc, làm cho Sông Đà dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân trở thành những hung thần trong cuộc đấu trí, đấu lực với con người.
- Để khắc hoạ kĩ vẻ hung dữ, nham hiểm của sông Đà, NT còn miêu tả cảnh đá dưới lòng sông. Đá ở đây từ ngàn năm nay vẫn mai phục, đá nổi, đá chìm đủ cả. Mặt hòn đá nào trông cũng ngỗ ngược, hòn nào như cũng có nhân hình, nhân tính, chúng bày binh bố trận gồm ba tuyến phòng thủ vững chắc, kiên cố, trong đó các thế lực thiên nhiên phối hợp, cấu kết với nhau nhằm tiêu diệt những tàu thuyền qua lại nơi đây. Chính trên quãng sông này đã hiện lên những trận thuỷ chiến ác liệt giữa ông lái đò với thần sông, thần đá.
=> Khắc hoạ những nét gân guốc, hung bạo của Sông Đà, nhà văn vừa thể hiện niềm tự hào về một thiên nhiên hùng vĩ, mãnh liệt của núi rừng Tây Bắc. Chính nơi đây đã mang lại giá trị kinh tế rất lớn cho đất nước. Miêu tả sông Đà hung vĩ hung bạo, tác giả còn nhấn mạnh những thử thách lớn lao của thiên nhiên đối với con ngườ lao động. Từ đó nhà văn khẳng định sức mạnh và tài hoa của những người lao động Tây Bắc nói riêng, của con người nói chung
* Nếu khi ở thương nguồn, sông Đà là một con sông hung bạo thì về đến miền hạ lưu sông Đà lại mang vẻ đẹp thơ mộng trữ tình làm say đắm lòng người. (đoạn từ: “Tôi có bay tạt ngang qua Sông Đà mấy lần … những con đò đuôi én thắt mình dây cổ điển trên dòng trên.”)
Nói về vẻ đẹp này của dòng sông, tâm hồn nghệ sĩ dạt dào chất thơ. Là một nghệ sĩ tài hoa uyên bác Nguyễn Tuân đã nhìn ngắm sông Đà từ nhiều góc độ khác nhau.
- Vẻ đẹp trữ tình của Sông Đà được gợi lên trước hết qua dáng vẻ của dòng sông. Nguyễn Tuân đã tả sông Đà qua cái nhìn từ trên cao, nhà văn như một nghệ sĩ quay phim cữ khôi, đã thu vào ống kính của mình tất cả vẻ đẹp của SĐ, con sông Tây Bắc. Dưới ống kính của NT, dòng sông uốn lượn quanh co dưới núi rừng Tây Bắc trập trùng “Sông Đà tuôn dài, tuôn dài như một áng tóc trữ tình. Đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”. Với câu văn dài mềm mại, uyển chuyển làm cho sông Đà hiện lên như một thiếu nữ kiều diễm vừa hiện thực lại vừa huyền ảo. Nhìn từ trên cao xuống, ẩn hiện dưới những đám mây trời xen lẫn những tầng hoa thấp thoáng trong làn khói núi của người Mèo đốt nương mùa xuân, sông Đà thật thơ mộng trữ tình, gợi cho ta nhớ tời vẻ đẹp của sông Hương trong cái nhìn của Nguyễn Bính “Cầu cong như chiếc lược ngà/ Sông dài mái tóc cung Nga buông hờ”. Vẻ đẹp của sông Đà cũng chính là vẻ đẹp chung của mọi dòng sông chảy trong lòng đất Việt, để lại trong lòng người đọc một niềm tự hào sâu sắc về vẻ đẹp của non sông đất nước.
- Sông Đà còn đẹp bởi sự thay đổi sắc màu của nước qua mỗi mùa. “Mùa xuân dòng xanh ngọc bích chứ nước sông Đà không xanh màu xanh canh hến của sông Gâm, sông Lô. Mùa thu nước Sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa”. Để có được những so sánh này, nhà văn phải là người từng đi nhiều, hiểu biết rất nhiều. Với lối so sánh trên, nhà văn vừa gợi lên vẻ đẹp rất riêng chỉ có ở sông Đà. Vừa gợi lên một dòng sông đang chở nặng phù sa tưới tắm cho cánh đồngtây Bắc tốt tươi.
- Vẻ đẹp thơ mộng của sông Đà còn thể hiện qua cảnh vật hai bên bờ sông. Cảnh ven sông ở đây lặng lờ, tuy không bóng người nhưng sự sống đang bắt đầu sinh sôi nảy nở. “Cỏ danh, đồi núi đang ra những nõn búp”. Giữa khung cảnh ấy lại xuất hiện “Một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm” Cảnh đẹp ấy đã gợi lên niềm say đắm thiên nhiên của tác giả. Nguyễn Tuân còn miêu tả cảnh hai bờ sông quãng này với một hình ảnh so sánh rất gợi cảm: “Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích xưa” Với lối so sánh lạ, một năng lực tưởng tượng phong phú nhà văn mang đến cho người đọc một sự cảm nhận tinh tế về thiên nhiên nơi đây, một thiên nhiên vừa giản dị, sinh động, vừa rực rỡ, hoang sơ và cổ kính.
=> Miêu tả sông Đà thơ mông trữ tình, nhà văn đã thể hiện sâu sắc vẻ đẹp và niềm tự hào về thiên nhiên đất nước. Chính vì vậy mà trong lòng thi nhân, sông Đà dù có những lúc trái tính trái nết nhưng nó đã trở thành người bạn gần gũi, thân thương, tri âm, tri kỉ của nhà văn “Đã có lần tôi nhìn Sông Đà như một cố nhân”.
* Kết luận:
Với cảm hứng sử thi, lãng mạn, với vốn hiểu biết phong phú trên mọi lĩnh vực: quân sự, thể thao, điện ảnh… ngôn ngữ miêu tả đầy cá tính, giàu chất tạo hình, cùng với lối so sánh linh hoạt, Nguyễn Tuân đã làm sống lại trước mắt người đọc một con sông mang vẻ đẹp lạ thường, vừa hung bạo, vừa trữ tình. Thông qua đó tác giả đã thể hiện niềm tự hào và tình yêu sâu sắc của mình về non sông đất nước. Hình tượng Sông Đà góp phần mang đến cho Tuỳ bút “Người lái đò Sông Đà” xứng đáng là thiên tuỳ bút hay nhất của đời văn Nguyễn Tuân.
AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG?
Hoàng Phủ Ngọc Tường
- KHÁI QUÁT VỀ TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM.
Hoàng Phủ Ngọc Tường là một trong những nhà văn chuyên viết bút kí. Nét đặc sắc trong sáng tác của ông là sự kết hợp nhuần nhuễn giữa chất trí tuệ và tính trữ tình, giữa nghị luận sắc bén với tư duy đa chiều được tổng hợp từ vốn kiến thức phong phú về triết học, văn hóa, lịch sử, địa lí …. “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” là bài bút kí xuất sắc của hoàng phủ Ngọc Tường viết tại Huế năm 1981, in trong tập sách cùng tên. Đọc tác phẩm, để lại ấn tượng trong lòng người đọc là vẻ đẹp của sông Hương.
- TÌM HIỂU TÁC PHẨM.
Vẻ đẹp của dòng sông Hương
- Khái quát về sông Hương
Sông Hương là con sông bắt nguồn từ dãy núi Trường Sơn chảy qua vùng đồng bằng Châu hóa, chảy vào Thành phố Huế rồi chảy ra cửa biển Thuận An . Đọc bài kí của HPNT, người đọc đều nhận thấy TY nồng nàn, tha thiết của ông dành cho Huế. Nhà văn luôn tự hào bởi đây là mảnh đắt đặc biệt của miền Trung ruột thịt của đất nước, của Cố Đô xưa, là niềm tự hào của người Việt, là điểm du lịch đầy tiềm năng cho nền kinh tế Việt Nam. Nếu xét về độ dài, chiều rộng và tiềm năng phù sa ảnh hưởng đến đời sống con người thì SH không thể sánh với Sông Hồng - Bắc bộ, sông Cửu Long của Nam bộ, hay có giá trị thủy điện như sông Đà. Nhưng xét về vẻ đẹp trữ tình thơ mộng có giá trị tinh thần cho con người thì SH hơn hẳn. 2. Cảm nhận về vẻ đẹp của sông Hương
- Sông Hương là một con sông mang một vẻ đẹp độc đáo. Nó như một người tình dịu dàng, thủy chung của kinh thành Huế. Điều đó được thể hiện trước hết qua thủy trình của sông Hương.
- Trước khi về với kinh thành Huế, ở thượng nguồn, SH được sinh ra từ giữa lòng dãy trường sơn hùng vĩ. (đoạn từ “Trong những dòng sông đẹp ở các nước mà tôi thường nghe nói đến … những hang đá dưới chân núi Kim Phụng.”)
- Ở thượng nguồn, sông Hương được mệnh danh là “một bản trường ca của cánh rừng già” nên mặc sức tung hoành “Rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua các gềnh thác, cuộn xoáy như cơn lốc” và cũng có lúc lại trở nên “Dịu dàng và say đắm”. Biện pháp điệp cấu trúc, cùng với các động từ mạnh, các tính từ sử dụng một cách linh hoạt, vừa gợi cái dư vang của trường ca, vừa gợi lên sức sống mạnh mẽ của con sông giữa đại ngàn, cái hung vĩ của thiên nhiên. Đây là vẻ đẹp mà thiên nhiên ban tặng cho sông Hương.
- Rừng già còn hun đúc cho nó một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do, phóng khoáng SH trong trí tưởng tượng của HPNT giống như “một cô gái Di - gan phóng khoáng và man dại”, đây là một sự liên tưởng độc đáo và thú vị. Những cô gái Di- gan thích sống lang thang, yêu ca hát, ham nhảy múa có vẻ hoang dại đầy quyến rũ. Ví SH với cô gái Di- gan tự do, phóng khoáng, HPNT đã khắc sâu vào tâm trí người đọc một ấn tượng mạnh về SH khi ở thượng nguồn đó là một con sông với vẻ đẹp tự nhiên, trẻ trung, hoang sơ và hoang dại.
- Để giúp cho người đọc thêm một góc nhìn, một sự hiểu biết về vẻ đẹp hùng vĩ, đầy chất thơ khi nó ở với đại ngàn, tác giả đã ví SH như một đấng sáng tạo “Là người mẹ phù sa của một vùng văn hoá xứ sở”. Xưa nay người ta được biết đến SH với vẻ đẹp của tự nhiên, nó mang phù sa tưới tắm cho một vùng đất quanh năm cây cối xanh tốt: “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc” (thơ HMT) và hôm nay, qua những trang văn của HPNT, người đọc còn biết đến SH với sự khởi nguồn của một không gian văn hoá. SH nuôi dưỡng, bồi đắp cho những giá trị thơ ca, nhạc hoạ. Đã có biết bao điệu hò, câu hát, bài thơ, áng văn được cất lên từ dòng Hương giang thơ mộng này. Có thể nói SH đã góp phần tạo nên nét văn hoá của một vùng thiên nhiên xứ sở. Và sẽ không quá nếu cho rằng, không có SH thì khó có thể có văn hoá Huế ngày nay.
=> Như vậy, dưới cái nhìn tinh tế, trí tưởng tượng phong phú, bằng việc sử dùng nghệ thuật so sánh, nhân hoá tài hoa, độc đáo của người nghệ sĩ, SH vùng thượng lưu toát lên vẻ đẹp của một sức sống mãnh liệt, hoang dại đầy cá tính, gợi lên trong lòng người đọc những liên tưởng kì thú, đầy sức hấp dẫn.
- Chia tay đại ngàn, SH đến vùng đồng bằng Châu Hóa ngoại vi TP Huế (đoạn từ “phải đến nhiều thế kỉ qua đi, người tình mong đợi mới đến đánh thức người gái đẹp … giữa những xóm làng trung du bát ngát tiếng gà.”)
- Ở ngoại vi thành phố, SH được ví như “Người gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hoá đầy hoa dại” được người tình đến đánh thức. Với cách cảm nhận độc đáo này nhà văn đã mang đến cho SH một vẻ đẹp hết sức lãng mạn và làm cho câu chuyện về SH và Huế giống như một câu chuyện tình yêu nhuốm màu cổ tích, làm cho SH bỗng bừng lên sức trẻ của tuổi thanh xuân đầy khao khát. - Tả SH vùng ngoại ô này, tác giả còn tỏ ra am tường địa lí, lịch sử đặc biệt là dòng sông văn hóa, cây bút bộc lộ rõ nét tài hoa, lịch lãm trong lối hành văn. Người đọc khó cưỡng một sức hấp dẫn toát lên từ hàng loạt các động từ diễn tả cái dòng chảy sống động qua các địa danh của xứ Huế “SH đã chuyển dòng một cách liên tục, vòng giữa khúc quanh đột ngột, uốn mình theo những đường cong thật mềm. Từ ngã ba tuần, SH chuyển hướng theo hướng Nam Bắc qua điện Hòn Chén, vấp Ngọc Trản, nó chuyển hướng Tây Bắc … rồi đột ngột vẽ một vòng cung thật tròn về phía đông bắc “Ôm lấy chân đồi Thiên Mụ, xuôi về huế”, và “Vượt qua một lòng vực sâu dưới chân núi Ngọc trản để sắc nước trở nên xanh thẳm”.
- SH còn như con người biết tự làm mới mình, tự trang điểm cho mình: khi vượt qua một lòng vực sâu dưới chân núi Ngọc Trản SH để cho sắc nước xanh thẳm. Nhưng khi trôi giữa hai dòng đồi sừng sững thì ở mỗi thời điểm nó lại mang sắc nước khác nhau “Sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”. Đây là sự cảm nhận riêng rất độc đáo, đầy thú vị khiến cho SH thật duyên dáng, tình tứ và gợi cảm.
- Ngoài ra SH còn mang vẻ đẹp trầm mặc, nó như giấc ngủ nghìn năm của những vua chúa được phong kín trong những rừng thông u tịch , một vẻ đẹp sâu lắng đầy bí ẩn, nó như đang mang nặng một nỗi niềm hoài cổ, “như triết lí, như cổ thi, kéo dài mãi đến lúc mặt nước phẳng lặng của nó gặp tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga tận bờ bên kia, giữa những xóm làng trung du bát ngat tiếng gà”
=> Đoạn văn nói về SH khi ở ngoại vi thành phố được kết hợp nhuần nhuyễn và tài hoa với hai bút pháp vừa hiện thực, vừa lãng mạn đã làm nổi bật vẻ đẹp hình tượng sông Hương với sự phối cảnh kì thú của sơn thủy hữu tình: Sông Hương - núi Ngự. Người đọc nhận thấy một giọng văn mượt mà, tha thiết, đắm say, tâm hồn nghệ sĩ như trải ra hòa vào dòng sông để rồi nói lên tiếng nói của chính nó bằng thứ ngôn ngữ trong sáng, giàu hình ảnh, giàu chất thơ, chất nhạc.
- Dường như tiếng ngân nga của chuông chùa Thiên mụ và bát ngát tiếng gà trưa vùng trung du đã làm SH bừng tỉnh, thoát ra khỏi tâm trạng trầm mặc. Nó nhận ra mình đã gặp thành phố. (Đoạn từ
“Từ đây, như đã tìm đúng đường về, sông Hương vui tươi hẳn lên …… chỉ vào trang sách của Nguyễn Du mà thốt lên: “Đó là Tứ đại cảnh!”)
- Vào đến Kinh thành Huế, SH “Vui tươi hẳn lên giữa những biển bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long”. Với nghệ thuật nhân hóa, tác giả đã gợi lên sự gắn bó mật thiết giữa sông Hương với Huế. Về với Huế, SH như tìm lại được chính mình, bởi vậy mà nó vui tươi, tràn đầy sức xuân.
- Trong niềm vui hân hoan đó, SH đã “kéo thẳng một nét thực yên tâm theo hướng tây nam - đông bắc, phía đó nơi cuối đường nó đã nhìn thấy chiếc cầu trắng của thành phố in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như những vành trăng non”. Nói đến SH không thể không nói đến cầu Tràng Tiền, cây cầu đã điểm tô cho dòng sông, làm cho SH trở nên thơ mộng, trữ tình hơn. Lại một lần nữa gợi ta nhớ tới những câu thơ đầy cảm xúc của Nguyễn Bính “Cầu cong như ...buông hờ”.
- Trong con mắt của người nghệ sĩ tài hoa, SH còn đẹp như một bức họa bởi nhiều chi lưu, tạo ra những đường nét thật tinh tế. Giáp thành phố, SH “uốn một cánh cung rất nhẹ sang đến Cồn Hến” đường cong ấy làm cho dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng” không nói của tình yêu. Và những nhánh sông đào đã mang nước sông Hương tỏa đi khắp phố thị. Tất cả đã làm nên vẻ đẹp mềm mại, uyển chuyển nhưng cũng thật cổ kính của cố Đô.
- Thật tuyệt vời khi nằm trọn trong lòng thành phố, lưu tốc của dòng chảy giảm hẳn, nó “trôi đi chậm, thực chậm cơ hồ chỉ còn là mặt hồ yên tĩnh”. đó chính là vẻ đẹp rất riêng của SH. Chính vẻ đẹp điệu đà, lừng lờ này của nó mà tác giả gọi đó là một “quý điệu lặng lờ”, là “điệu Slow tình cảm dành riêng cho Huế”, SH như một bản nhạc êm đềm, trữ tình, chất chứa trong nó là bao nỗi vấn vương. Dòng sông cứ chùng chình như chờ đợi, như mơ màng, như suy ngẫm. Đây là vẻ đẹp rất riêng của sông Hương.
- Từ một “cô gái Di gan tự do phóng khoáng và man dại”, khi ở giữa đại ngàn trường sơn, SH trở thành người đẹp “ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa” ra ngoại vi thành phố, nay gặp người tình Huế mộng mơ, SH đã “Trở thành một người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya”. Với cách cảm nhận này, SH toát lên vẻ đẹp của dòng sông văn hóa. Chính trên mặt nước của dòng sông này đã sản sinh nền âm nhạc cổ điển Huế. Ai đã có dịp đến Huế sẽ được thưởng thức nhã nhạc cung đình Huế, được xem các nghệ sĩ biểu diễn nhạc trên sông vào những đêm khuya mới thấy hết vẻ đẹp của âm nhạc và màu sắc văn hoá đặc trưng nơi đây. Nguyễn Du đại thi hào dân tộc đã bao năm lênh đênh trên dòng SH, để rồi những bản đàn ấy đã đi vào trong thơ ông, đi suốt cuộc đời Kiều, đi vào lòng người đọc “Trong như tiếng hạc bay qua/ Đục như tiếng suối mới sa nửa vời”. Để rồi có một người nghệ nhân già khi nghe con gái đọc hai câu thơ ấy đã nhổm dậy vỗ đùi chỉ vào trang sách của ND mà thốt lên “Đó chính là Tứ đại cảnh” (một điệu nhạc Huế). Được nghe ca Huế trên SH - khoảnh khắc trầm tư của dòng sông này mới thú vị, thơ mộng và lãng mạn làm sao! Đây chính là văn hoá Huế nói chung và vẻ đẹp của SH nói riêng, vẻ đẹp hiếm thấy ở bất kì một dòng sông nào trong nước cũng như trên thế giới.
=> Như vậy, cũng với cách cảm nhận tinh tế, với niềm say đắm và tình yêu sông nước, SH về với Huế trong cái nhìn của HPNT đã đổi thay. Nó thanh thoát, dịu dàng như chính giọng nói ngọt ngào, e ấp của người con gái nơi đây. Và nhanh chóng mang linh hồn của mảnh đât, con người xứ sở này. Thật đúng là “Vẻ đẹp Huế chẳng nơi nào có được, nét dịu dàng pha lẫn trầm tư”. * Yêu Huế là thế nhưng rồi cũng đã đến lúc SH phải rời xa người tình của nó.
- Chùng chình mãi, lưu luyến mãi giữa lòng thành phố, nhưng rồi vẫn phải nói lời chia tay: “SH chếch về hướng chính Bắc, ôm lấy đảo Cồn Hến quanh năm mơ màng trong sương khói”. Và như sực nhớ lại một điều gì chưa kịp nói, nó đã “đột ngột đổi dòng rẽ ngoặt sang hướng đông tây để gặp lại thành phố lần cuối”. Đây chính là khúc chia tay với Huế để hòa vào cửa biển Thuận An. Nhưng với sự tưởng tượng phong phú, tinh tế, nhà văn đã gọi nó là một nỗi “vương vấn”, thậm chí là “một chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu” của một người tình thuỷ chung và chí tình. Nhà văn còn ví SH như nàng Kiều trong đêm tình tự, đã chí tình trở lại tìm Kim Trọng để nói lời thề nguyền trước khi đi xa. Đây là một phát hiện, một liên tưởng đậm màu sắc văn chương của tác giả về dòng sông yêu thương của mình. Dựa vào đặc điểm địa lí ở nước ta, hầu hết các con sông đều chảy về hướng đông để đổ ra biển, dựa vào thuỷ trình của SH, nhà văn đã mang đến cho SH một diện mạo, một linh hồn và một sức sống: tài hoa, dịu dàng, sâu sắc, kín đáo, có chút lẳng lơ nhưng rất mực chung tình. SH quả thật đã mang vẻ đẹp riêng không thể lẫn với bất kì dòng sông nào trên đất nước. Một vẻ đẹp hài hoà giữa hình dáng bên ngoài với phần tâm hồn sâu thẳm bên trong.
- Trong cái nhìn đa diện của HPNT, SH không chỉ là một thục nữ, SH còn là một anh hùng ghi dấu ấn những chiến công lịch sử chói lọi của những thế kỉ vinh quang.
- Từ thuở các vua Hùng dựng nước cho đến Dư địa chí của Nguyễn Trãi, với cái tên Linh giang, dòng sông viễn châu đã chiến đấu oanh liệt bảo vệ phía nam của Tổ quốc Đại Việt qua những thế kỉ trung đại. Đến thế kỉ XVIII, “Nó vẻ vang soi bóng xuống kinh thành Phú Xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ”. Từ TK XIX nó sống hết với lịch sử bi tráng, nó nhuốm máu của những cuộc khởi nghĩa. Và từ đấy, SH đã đi vào thời đại cách mạng tháng tám bằng những chiến công rung chuyển. Sau đó nó lại đau đớn oằn mình chịu những trận bom của không quân Hoa kì dội lên mình nó và cả những di sản văn hóa của cố đô bao đời. Nói về vẻ đẹp của SH của Huế dưới góc độ lịch sử, HPNT đã trích dẫn lời của đại tướng: “Lịch sử đảng đã ghi bằng nét son tên của thành phố Huế, thành phố tuy nhỏ nhưng đã cống hiến rất xứng đàng cho Tổ quốc”.
- Nói về SH với lịch sử và giữa cuộc đời, nhà văn đã khái quát: SH là vậy, dòng sông của thời gian ngân vang, của sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc, tự hiến đời mình là một chiến công để rồi lại trở về làm một người con gái dịu dàng của đất nước, khoác lên mình tấm áo mơ màng của sương khói, giống như tấm voam huyền ảo làm mê hoặc lòng người. Như vậy SH không chỉ mang dấu ấn lịch sử của Kinh thành Huế và còn là ghi dấu lịch sử đất nước.
- Vẻ đẹp của SH không được tô đậm, không hoàn hảo nếu như nhà văn quên đi một dòng sông thi ca.
Đã bao du khách, đã bao nghệ sĩ (nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ, họa sĩ) tời nơI đây chiêm ngưỡng và ca hát về nó, nhưng “dòng sông ấy không bao giờ tự lặp lại mình trong cảm hứng của các nghệ sĩ”. Nó là nguồn thi hứng bất tận, nó vẫn mãI là “Nỗi hoài vọng về một cái đẹp nào đó chưa đạt tới” để bao thế hệ lãng tử đến đây thả hồn ngụp lặn. Trong mắt của Tản Đà từ dòng sông xanh biếc bỗng trở thành “dòng sông trắng, lá cây xanh”. Từ một Linh Giang đang mơ màng với bóng hoàng hôn bảng lảng trong nỗi quan hoài vạn cổ của bà Huyện Thanh Quan, bỗng thoắt thành “thanh kiếm dựng trời xanh” đầy khí phách trong thơ Cao Bá Quát. Rồi nó đột khởi thành sức mạnh phục sinh tâm hồn cho kĩ nữ trong thơ Tố Hữu “Răng không, cô gái trên sông/ Ngày mai cô sẽ từ trong ra ngoài/ Thơm như hương nhụy hoa lài/ Sạch như nước suối ban mai giữa rừng”. Suy cho cùng chính vẻ đẹp muôn màu của SH trong thực tế đã làm nên những điều kì diệu trong mỗi trang thơ. SH sẽ còn mãi tuôn chảy ngọt ngào, dạt dào trong mạch nguồn thi ca của dân tộc.
III. KẾT LUẬN
Ngôn ngữ giản dị mà trong sáng, tao nhã dạt dào chất thơ, HPNT đã làm hiện lên trước mắt người đọc một dòng sông thiên phú đẹp ở nhiều phương diện: văn hóa, lịch sử, địa lí, văn chương. Nhưng trên hết, nét đặc sắc làm nên sức hấp dẫn đặc biệt của đoạn văn là tình yêu say đắm với dòng sông của người nghệ sĩ. Nếu không có tình yêu tha thiết với thiên nhiên, với con người xứ sở mình, nhà văn sẽ không có được những trang văn tài hoa, trí tuệ như thế. Đến với bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông” của HPNT, người đọc đều tìm thấy những tuyệt tác này một phong cách độc đáo, tài hoa, uyên bác và tâm tình sâu đậm của các nhà văn đối với thiên nhiên, đất nước, con người.
Xem thêm