Tài liệu tóm tắt Cầu hiền chiếu Ngữ văn lớp 11 bộ Kết nối tri thức ngắn gọn, đầy đủ ý gồm có 8 bài tóm tắt tác phẩm Cầu hiền chiếu hay nhất từ đó giúp học sinh nắm được những nét chính về nội dung của văn bản để học tốt môn Ngữ văn lớp 11.
Tóm tắt Cầu hiền chiếu ngắn nhất
Tóm tắt Cầu hiền chiếu - mẫu 1
“Chiếu cầu hiền” của vua Quang Trung do Ngô Thì Nhậm viết thay vào khoảng năm 1788 - 1789 nhằm thuyết phục sĩ phu Bắc Hà, tức các trí thức của triều đại cũ (Lê - Trịnh) ra cộng tác với triều đại Tây Sơn. Trước hết, tác giả đã nêu ra mối quan hệ giữa thiên tử và hiền tài. Sau đó là ứng xử của hiền tài trước thực trạng đất nước còn nhiều khó khăn. Cuối cùng là đường lối cầu hiền của vua Quang Trung.
Tóm tắt Cầu hiền chiếu - mẫu 2
Năm 1788, Lê Chiêu Thống rước quân Thanh vào xâm lược nước ta. Nguyễn Huệ lên ngôi, quét sạch quân Thanh. Triều Lê sụp đổ, trước sự kiện ấy, một số bề tôi của triều Lê đã bỏ trốn hoặc đi ở ẩn. Quang Trung giao cho Ngô Thì Nhậm thay mình viết “Chiếu cầu hiền” nhằm thuyết phục sĩ phu Bắc Hà, tức các tri thức của triều đại cũ (Lê – Trịnh) ra cộng tác với triều đại Tây Sơn.
Ngô Thì Nhậm lấy ý từ câu nói của Khổng Tử trong Luận ngữ để thuyết phục các sĩ phu Bắc Hà. Ông ví người hiền: Như sao sáng trên trời. Sao sáng ắt chầu về ngôi Bắc Thần (ngôi vua). Tức là tác giả nhấn mạnh: giữa thiên tử và người hiền tài có mối quan hệ khăng khít, người hiền là do thiên sử sử dụng, nếu không làm như vậy là trái với đạo trời.
Tác giả có nói lên thực tế cách ứng xử của hiền tài Bắc Hà và thực trạng đất nước ta lúc bấy giờ. Các sĩ phu mai danh ẩn tích bỏ phí tài năng “Trốn tránh việc đời. Có một số sĩ phu ra làm quan thì sợ hãi, im lặng như bù nhìn “không dám lên tiếng”, hoặc làm việc cầm chừng “đánh mõ, giữ cửa”. Còn một số sĩ phu thì đi tự tử “ra biển vào sông”. Trong khi đó nhu cầu của đất nước đang rất cần người hiền bởi bối cảnh đất nước đang còn gặp nhiều khó khăn.
Từ đó, vua Quang Trung đề ra tư tưởng dân chủ tiến bộ đường lối cầu hiền đúng đắn. Cuối cùng tác giả kêu gọi người có tài đức cố gắng hãy cùng triều đình phục vụ sự nghiệp đất nước và hưởng phúc lâu dài.
Tóm tắt Cầu hiền chiếu - mẫu 3
Viết chiếu cầu hiền tài là một truyền thống văn hóa chính trị phương Đông thời cổ trung đại. Chiếu cầu hiền của vua Quang Trung do Ngô Thì Nhậm viết thay vào khoảng năm 1788 – 1789, nhằm thuyết phục phu sĩ Bắc Hà, tức các trí thức của triều đại cũ (Lê – Trịnh) ra cộng tác với triều đại Tây Sơn.
Tóm tắt Cầu hiền chiếu - mẫu 4
“Chiếu cầu hiền” được viết khoảng năm 1788 - 1789 nhằm thuyết phục sĩ phu Bắc Hà, các trí thức triều đại Lê -Trịnh ra công tác với triều đại Tây Sơn. Đầu tiên, Ngô Thì Nhậm đã nêu ra mối quan hệ giữa hiền tài với thiên tử - hiền tài là sứ giả của thiên tử. Nhưng thực tế bấy giờ lại ngược lại, họ hoặc là trốn tránh không ra giúp nước hoặc là làm việc không đúng năng lực của mình. Điều đó chẳng khác nào làm trái với ý trời - có tài mà không được đời dùng. Từ đó là những đường lối cầu hiền vô cùng tiến bộ. Con đường cầu hiền theo vua Quang Trung là tiến cử với ba cách: tự mình dâng thư tỏ bày công việc, các quan tiến cử, dâng thư tự tiến cử.
Tóm tắt Cầu hiền chiếu - mẫu 5
Năm 1788, sau khi nhà Lê - Trịnh sụp đổ, Ngô Thì Nhậm đã đi theo nghĩa quân Tây Sơn. Nguyễn Huệ đánh bại quân Thanh, lên ngôi hoàng đế và lấy hiệu là Quang Trung. Ngô Thì Nhậm được Quang Trung giao cho viết “Chiếu cầu hiền” để kêu gọi sĩ phu Bắc Hà ra giúp nước cứu đời. Hiền tài cũng giống như ngôi sao sáng trên trời cao. Người hiền sẽ là sứ giả của thiên tử. Nhưng trong hoàn cảnh đất nước còn nhiều khó khăn, có người thì mai danh ẩn tích bỏ phí tài năng “trốn tránh việc đời”. Có người ra làm quan thì sợ hãi, im lặng như bù nhìn “không dám lên tiếng”, hoặc làm việc cầm chừng “đánh mõ, giữ cửa”. Có kẻ “ra biển vào sông, chết đuối trên cạn mà không biết, dường như muốn lẩn tránh suốt đời”. Từ đó, vua Quang Trung đưa ra đường lối cầu hiền đúng đắn, kêu gọi người tài ra giúp nước cứu đời.
Tóm tắt Cầu hiền chiếu - mẫu 6
“Chiếu cầu hiền” được Ngô Thì Nhậm viết thay vua Quang Trung vào khoảng năm 1788 - 1789. Đầu tiên, tác giả đã nêu ra quan điểm hiền tài giống như sứ giả của thiên tử. Nhưng trong hoàn cảnh đất nước khó khăn lúc bấy giờ, các sĩ phu Bắc Hà hoặc là mai danh ẩn tích bỏ phí tài năng “trốn tránh việc đời”. Hoặc là ra làm quan thì sợ hãi, im lặng như bù nhìn “không dám lên tiếng” hoặc làm việc cầm chừng “đánh mõ, giữ cửa”. Thậm chí có kẻ “ra biển vào sông, chết đuối trên cạn mà không biết, dường như muốn lẩn tránh suốt đời”. Từ đó vua Quang Trung đưa ra tư tưởng dân chủ tiến bộ, chính sách cầu hiền đúng đắn.
Tóm tắt Cầu hiền chiếu - mẫu 7
Bài chiếu là một văn kiện lịch sử quan trọng thể hiện chủ trương, đường lối đúng đắn của vua Quang Trung, đồng thời qua bài chiếu ta thấy được tấm lòng của vua Quang Trung đối với người tài, đối với đất nước, cảm nhận được nhân cách cao đẹp của vua Quang Trung.
Tóm tắt Cầu hiền chiếu - mẫu 8
Ngô Thì Nhậm (1746 - 1803) hiệu là Hi Doãn, người làng Tả Thanh Oai, huyện Thanh Oai, nay thuộc huyện Thanh Trì, Hà Nội. Cha ông là Ngô Thì Sĩ, từng làm quan trong phủ chúa Trịnh. Ngô Thì Nhậm xuất thân trong gia đình có truyền thống thơ văn. Ông đỗ tiến sĩ năm 1775, từng làm quan dưới triều Lê Cảnh Hưng. Sau ông theo giúp Tây Sơn và được Nguyễn Huệ tin dùng. Năm 1788, Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế, đặt niên hiệu là Quang Trung. Sau khi lên ngôi, vua Quang Trung chú ý ngay đến việc tìm kiếm nhân tài. Ông giao cho Ngô Thì Nhậm viết Chiếu cầu hiền để kêu gọi người hiền tài ra giúp nước. Chiếu cầu hiền là tác phẩm xuất sắc tiêu biểu cho loại văn bản nghị luận trung đại. Ở loại tác phẩm này, người viết chú trọng đưa ra những lí lẽ để thuyết phục người nghe. Những lí lẽ mà Ngô Thì Nhậm đưa ra để kêu gọi người hiền tài đều rất sắc sảo, hợp đạo lí.
Tóm tắt Cầu hiền chiếu - mẫu 9
Năm 1788, sau khi nhà Lê-Trịnh sụp đổ, Ngô Thì Nhậm quyết định gia nhập phong trào quân Tây Sơn. Nguyễn Huệ chiến thắng quân Thanh, lên ngôi hoàng đế và lấy hiệu là Quang Trung. Quang Trung phân công Ngô Thì Nhậm viết "Chiếu cầu hiền" nhằm kêu gọi các sĩ phu ở Bắc Hà đến cứu nước. Trí thức hiền tài giống như những ngôi sao sáng trên bầu trời cao. Họ là những người được coi là sứ giả của vị thiên tử. Tuy nhiên, trong bối cảnh đất nước gặp nhiều khó khăn, có những người tài năng chọn lựa "mải danh ẩn tích, bỏ phí tài trí, trốn tránh nghĩa vụ với đời sống." Có những người được giao nhiệm vụ thì lại sợ hãi, im lặng như "mặc kệ, không dám nói lên, không dám đề cử." Hoặc chỉ làm việc cầm chừng, "làm việc như đánh chẳng trúng, giữ cửa chẳng chắc." Cũng có người "ra biển vào sông, chết đuối cũng không rõ, dường như muốn trốn tránh suốt đời." Vì vậy, vua Quang Trung đã đề ra lối đi cầu hiền đích thực, kêu gọi những tài năng ấy ra giúp nước, cứu vãn đất nước khỏi nguy cơ hiểm nghèo.
Tóm tắt Cầu hiền chiếu - mẫu 10
"Chiếu cầu hiền" được Ngô Thì Nhậm viết thay cho vua Quang Trung vào khoảng năm 1788-1789, nhằm thúc đẩy tinh thần hiến dâng của các sĩ phu ở Bắc Hà trong bối cảnh đất nước gặp nhiều khó khăn. Tác giả đã khởi đầu bằng việc nhấn mạnh vai trò quan trọng của những con người tài năng, xem họ như là sứ giả của thiên tử. Tuy nhiên, trong hoàn cảnh khốn khó đó, nhiều sĩ phu đã chọn cách "mải danh ẩn tích, bỏ phí tài năng, trốn tránh trách nhiệm với cuộc sống." Còn lại, một số người khi được giao nhiệm vụ thì lại sợ hãi, im lặng như "bù nhìn, không dám lên tiếng", hoặc chỉ làm việc cầm chừng, "làm việc mà không đạt được kết quả, chỉ đủ để giữ cửa." Thậm chí có những người "ra biển vào sông, chết đuối trên cạn mà không biết, dường như muốn lẩn tránh cả cuộc đời." Vì thế, vua Quang Trung đã đưa ra triết lý tiên tiến về dân chủ, và áp dụng chính sách cầu hiền đúng đắn, kêu gọi mọi tài năng hiến dâng để giúp đất nước vượt qua khó khăn, tiến bộ và phát triển.
Tóm tắt Cầu hiền chiếu - mẫu 11
“Chiếu cầu hiền” là bài viết của Ngô Thì Nhậm thay mặt vua Quang Trung vào khoảng năm 1788 - 1789. Tác giả đề xuất rằng hiền tài được xem như sứ giả của thiên tử. Tuy nhiên, trong tình hình khó khăn của đất nước vào thời điểm đó, nhiều người có tài năng đã chọn cách trốn tránh hoặc im lặng trước sự nguy hiểm. Vua Quang Trung đã đề xuất một tư tưởng dân chủ tiến bộ và chính sách cầu hiền phù hợp.
Tóm tắt Cầu hiền chiếu - mẫu 12
Chiếu cầu hiền là một văn kiện quan trọng thể hiện chủ trương đúng đắn của nhà Tây Sơn nhằm động viên tầng lớp trí thức Bắc Hà tham gia xây dựng đất nước; đồng thời phản ánh tầm nhìn xa trông rộng và tấm lòng vì dân, vì nước của Quang Trung Nguyễn Huệ."Chiếu cầu hiền" được viết vào khoảng năm 1788 - 1789 khi tập đoàn Lê –Trịnh hoàn toàn tan rã. "Chiếu cầu hiền" nhằm thuyết phục trí thức Bắc Hà hiểu đúng nhiệm vụ xây dựng đất nước mà Tây Sơn đang tiến hành để cộng tác phục vụtriều đại mới. Thể hiện tầm nhìn chiến lược của vua Quang Trung trong việc cầu hiền tài phục vụ sự nghiệp đất nước. “Chiếu cầu hiền” là một tác phẩm nghị luận chính trị - xã hội độc đáo, có ý nghĩa chính trị, có sức lay động chí, chuyển tâm ý của hiền tài trong thiên hạ; có đóng góp đáng kể trong quá trình thuyết phục, sử dụng người hiền tài góp sức lực, trí tuệ để bảo vệ và xây dựng đất nước thời vua Quang Trung. Sức thuyết phục của nó đã vượt ra khỏi giới hạn của một thời đại lịch sử. Hôm nay, trong thế nước “rồng bay”, của 1000 năm Thăng Long – Hà Nội, “Chiếu cầu hiền” còn mang giá trị văn hoá – giáo dục của mọi thời đại. Nó trở thành kim chỉ nam trong nghệ thuật thu phục, sử dụng, dùng những biện pháp thiết thực để hiền tài sớm chung tay gánh vác việc nước cùng các nhà lãnh đạo.
Tóm tắt Cầu hiền chiếu - mẫu 13
"Chiếu cầu hiền," viết vào khoảng năm 1788-1789, nhằm thúc đẩy các sĩ phu ở Bắc Hà và các trí thức trong triều đại Lê-Trịnh hợp tác với triều đại Tây Sơn. Ngô Thì Nhậm đầu tiên đã nêu lên mối quan hệ quan trọng giữa tài năng và vị vua - tài năng được xem như là sứ giả của vị vua. Tuy nhiên, thực tế thời điểm đó lại ngược lại, nhiều người hoặc trốn tránh không đảm đang với trách nhiệm của mình đối với đất nước, hoặc làm việc không phù hợp với năng lực thực sự của mình. Điều này như là phản đối ý định trời - có tài mà không được đời sử dụng. Vì vậy, những nỗ lực cầu hiền trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Hành trình cầu hiền theo lối của vua Quang Trung bao gồm ba phương thức: tự mình viết thư bày tỏ lòng thành và công việc của mình, sự tiến cử của các quan lại, và việc viết thư đề nghị bản thân tiến cử.
Tóm tắt Cầu hiền chiếu - mẫu 14
Ngô Thì Nhậm (1746 - 1803) hiệu là Hi Doãn, người xuất thân từ làng Tả Thanh Oai, huyện Thanh Oai (nay thuộc huyện Thanh Trì, Hà Nội). Ông được biết đến trong gia đình có truyền thống văn học. Năm 1775, ông đỗ tiến sĩ và từng làm quan dưới triều Lê Cảnh Hưng. Sau đó, ông gia nhập lực lượng Tây Sơn và được Nguyễn Huệ tin dùng. Năm 1788, Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế với niên hiệu Quang Trung. Sau khi lên ngôi, vua Quang Trung tập trung vào việc tìm kiếm nhân tài. Ông giao cho Ngô Thì Nhậm viết Chiếu cầu hiền để kêu gọi nhân tài giúp đất nước. Chiếu cầu hiền là một tác phẩm xuất sắc của thời Trung đại, nơi tác giả sử dụng lí lẽ sắc bén để thuyết phục người đọc.
Tóm tắt Cầu hiền chiếu - mẫu 15
Năm 1788, khi Lê Chiêu Thống dẫn quân Thanh xâm lược nước ta, Nguyễn Huệ đã lên ngôi và hoàn toàn đánh tan quân Thanh. Triều đại Lê sụp đổ, trước những sự kiện đó, một số quan tôi của triều Lê đã bỏ trốn hoặc sống ẩn dật. Quang Trung giao cho Ngô Thì Nhậm thay mình viết "Chiếu cầu hiền" nhằm thuyết phục các sĩ phu ở Bắc Hà, tức là các tri thức của triều đại cũ (Lê - Trịnh), ra cộng tác với triều đại Tây Sơn.
Ngô Thì Nhậm lấy ý từ câu nói của Khổng Tử trong Luận ngữ để thuyết phục các sĩ phu ở Bắc Hà. Ông ví những người hiền như sao sáng trên bầu trời, luôn chầu chực về ngôi vị thiên tử. Tác giả nhấn mạnh rằng, giữa thiên tử và nhân tài có một mối quan hệ thân thiết, nhân tài là những người được thượng đế sử dụng, và không làm điều đó có thể bị coi là chống lại ý trời.
Tác giả đã nói lên thực trạng về cách ứng xử của các nhân tài ở Bắc Hà và tình hình đất nước lúc bấy giờ. Các sĩ phu có khi mải mê danh vọng, bỏ phí tài năng "trốn tránh nghĩa vụ đời sống". Một số khi được bổ nhiệm lại sợ hãi, im lặng như "không dám lên tiếng", hoặc chỉ làm việc cầm chừng, "chỉ giữ cửa mà không can đảm." Còn những người khác lại chọn tự vẫn "ra biển vào sông". Trong khi đó, nhu cầu của đất nước đang cấp bách cần những người tài năng để giải quyết những khó khăn hiện tại.
Do đó, vua Quang Trung đã đề ra tư tưởng tiến bộ dân chủ, và chiến lược cầu hiền phù hợp với hoàn cảnh thời đại. Cuối cùng, tác giả kêu gọi những người có tài trí và đức độ hãy cùng triều đình phục vụ công cuộc quốc gia, để hưởng phúc trường tồn lâu dài.
Tóm tắt Cầu hiền chiếu - mẫu 16
"Chiếu cầu hiền" viết vào khoảng năm 1788 - 1789 nhằm thúc đẩy sĩ phu Bắc Hà và các trí thức triều đại Lê - Trịnh ra sức với triều đại Tây Sơn. Ngô Thì Nhậm bắt đầu bằng việc nhấn mạnh vai trò của nhân tài là đại diện của thiên tử. Tuy nhiên, thực tế vào thời điểm đó lại phản ánh khác đi, với nhiều người trốn tránh trách nhiệm quốc gia hoặc làm việc không đúng với tiềm năng của họ. Điều này chính là việc làm ngược lại ý trời - có tài mà không được cử dụng. Điều này đã thúc đẩy các phương pháp cầu hiền lên một tầm cao mới. Con đường cầu hiền theo hướng dẫn của vua Quang Trung có ba phương thức tiến cử: tự cử bằng việc viết thư giới thiệu công việc của mình, tiến cử qua các quan chức, và việc tự tiến cử bằng việc gửi thư.
Tóm tắt Cầu hiền chiếu - mẫu 17
"Chiếu cầu hiền," viết bởi Ngô Thì Nhậm thay mặt vua Quang Trung vào khoảng năm 1788-1789, đã khai thác quan điểm rằng nhân tài là những sứ giả của thiên tử. Tuy nhiên, vào thời điểm đất nước gặp nhiều khó khăn, các sĩ phu ở Bắc Hà có khi mải mê danh lợi, bỏ phí tài năng "trốn tránh nghĩa vụ với đời sống." Hoặc khi được phong chức thì lại sợ hãi, im lặng như "không dám nói lên tiếng," hoặc chỉ làm việc cầm chừng, "đánh mõ, giữ cửa." Thậm chí còn có những người "ra biển vào sông, chết đuối cũng không rõ, dường như muốn lẩn tránh suốt đời." Vì vậy, vua Quang Trung đã đưa ra tư tưởng tiến bộ dân chủ, chính sách cầu hiền mang tính chiến lược và phù hợp với hoàn cảnh thực tế.
Tóm tắt Cầu hiền chiếu - mẫu 18
Năm 1788, khi Lê Chiêu Thống mở cửa để quân Thanh xâm lược nước ta, Nguyễn Huệ lên ngôi vua và tiêu diệt hoàn toàn quân Thanh. Triều đại Lê tan rã, trước sự kiện này, nhiều quan tôi của triều Lê đã bỏ trốn hoặc ẩn nấp. Quang Trung giao cho Ngô Thì Nhậm nhiệm vụ viết "Chiếu cầu hiền" để thuyết phục các sĩ phu ở Bắc Hà, tức các tri thức từ triều đại cũ (Lê-Trịnh), hợp tác với triều đại Tây Sơn.
Ngô Thì Nhậm lấy cảm hứng từ câu nói của Khổng Tử trong Luận Ngữ để thuyết phục các sĩ phu Bắc Hà. Ông ví nhân tài như sao sáng trên bầu trời. Sao sáng luôn hướng về phía Bắc Thần (vị vua). Ý tác giả là nhấn mạnh mối quan hệ chặt chẽ giữa vị thiên tử và người hiền tài, người hiền tài là nhân sự được thiên định sử dụng; nếu không làm như vậy, sẽ là trái với đạo lý của trời.
Tác giả mô tả thực tế về cách ứng xử của các sĩ phu Bắc Hà và hoàn cảnh khó khăn của đất nước lúc bấy giờ. Nhiều sĩ phu mai danh ẩn tích, lãng phí tài năng "trốn tránh cuộc sống". Có những sĩ phu được bổ nhiệm nhưng lại sợ hãi, im lặng như "không dám phát biểu", hoặc chỉ làm việc cầm chừng, "đánh mõ, giữ cửa". Thậm chí có người tự vẫn bằng cách "ra biển vào sông". Trái lại, nhu cầu của đất nước cần người hiền tài đang rất lớn, vì bối cảnh đất nước đang đối mặt với nhiều khó khăn.
Do đó, vua Quang Trung đã đề ra tư tưởng dân chủ tiến bộ và đường lối cầu hiền phù hợp với hoàn cảnh. Cuối cùng, tác giả kêu gọi những người có tài năng và phẩm hạnh cố gắng hợp tác với triều đình để phục vụ cho sự nghiệp của đất nước và đem lại hạnh phúc lâu dài.
Tóm tắt Cầu hiền chiếu - mẫu 19
"Chiếu cầu hiền" của vua Quang Trung, do Ngô Thì Nhậm viết vào khoảng năm 1788-1789, nhằm thuyết phục các sĩ phu ở Bắc Hà, tức những trí thức từ triều đại cũ (Lê-Trịnh), hợp tác với triều đại Tây Sơn. Ngô Thì Nhậm đầu tiên đã đề cập đến mối quan hệ quan trọng giữa thiên tử và nhân tài. Sau đó, ông phân tích hành vi của những nhân tài trong bối cảnh đất nước đang gặp nhiều khó khăn. Cuối cùng, tác giả đi sâu vào đề xuất đường lối cầu hiền của vua Quang Trung, với hy vọng sẽ khơi gợi và động viên các tài năng ấy ra cộng tác cứu quốc.
Tóm tắt Cầu hiền chiếu - mẫu 20
Chiếu cầu hiền của Ngô Thì Nhậm là một tác phẩm nghị luận quan trọng trong lịch sử văn học Việt Nam, được viết nhằm thúc đẩy lòng yêu nước và động viên người hiền tài tham gia vào việc xây dựng đất nước dưới triều đại Tây Sơn, đặc biệt sau khi vua Nguyễn Huệ (Quang Trung) lên ngôi hoàng đế. Phần 1: Mối quan hệ giữa hiền tài và thiên tử Tác giả tôn vinh tầm quan trọng của việc thiên tử (vua) cần những người hiền tài để hỗ trợ xây dựng đất nước. Sự đoàn kết và hợp tác giữa các tầng lớp trong xã hội được nhấn mạnh để thể hiện tầm quan trọng của sự gắn kết và cùng nhau hướng tới mục tiêu quốc gia. Phần 2: Thực tại và nhu cầu của thời đại Tác giả diễn đạt tình hình khó khăn của đất nước sau nhiều chiến tranh và sự phân chia. Người viết nhấn mạnh sự cần thiết của việc sử dụng tri thức, kiến thức và tài năng để đổi mới và phục hồi đất nước. Bằng việc thể hiện tình hình hiện thực, tác giả định hình tầm quan trọng của việc tham gia tích cực và đóng góp cho xã hội. Phần 3: Đường lối cầu hiền của vua Quang Trung Tác giả đề cập đến vua Quang Trung – người đã lên ngôi hoàng đế và đặt niên hiệu Quang Trung. Vị vua này được tôn vinh với tư cách là một người hiền lành, tốt bụng, có lòng yêu nước. Tác giả đề xuất rằng sự tham gia của người hiền tài là một cách để đáp lại lòng yêu mến của vua, cũng như đóng góp cho sự phát triển của quốc gia. Tóm lại, Chiếu cầu hiền của Ngô Thì Nhậm là một tác phẩm nghị luận đầy thuyết phục và lôi cuốn, thể hiện tầm quan trọng của việc tham gia xây dựng đất nước và kêu gọi sự đóng góp của những người hiền tài trong cuộc cách mạng xây dựng nước Việt Nam dưới triều đại Tây Sơn.
Tóm tắt Cầu hiền chiếu - mẫu 21
Ngô Thì Nhậm (1746 – 1803), hiệu là Hi Doãn, sinh ra tại làng Tả Thanh Oai, huyện Thanh Oai, nay thuộc huyện Thanh Trì, Hà Nội. Gia đình ông có truyền thống thơ văn, và cha ông là Ngô Thì Sĩ đã từng làm quan trong phủ chúa Trịnh. Ngô Thì Nhậm có xuất thân trong một môi trường gia đình yêu thích thơ văn. Năm 1775, ông đỗ tiến sĩ và từng làm quan dưới triều Lê Cảnh Hưng. Sau này, ông chấp tay giúp Tây Sơn và được Nguyễn Huệ tin dùng. Năm 1788, Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế và đặt niên hiệu là Quang Trung. Trong bối cảnh này, vua Quang Trung chú trọng tìm kiếm nhân tài để đồng lòng xây dựng nước. Ông giao cho Ngô Thì Nhậm viết Chiếu cầu hiền để kêu gọi người hiền tài ra giúp nước. Đây là một tác phẩm xuất sắc tiêu biểu cho thể loại văn bản nghị luận trung đại, trong đó người viết sử dụng các lý lẽ thuyết phục người đọc. Trong tác phẩm này, Ngô Thì Nhậm đưa ra những lập luận sắc sảo và hợp đạo lý để kêu gọi người hiền tài tham gia xây dựng đất nước. Với những lập luận sắc sảo và động viên mãnh liệt, Chiếu cầu hiền của Ngô Thì Nhậm đã thể hiện tầm quan trọng của việc tham gia xây dựng đất nước và động viên trí thức Bắc Hà tham gia vào công cuộc này.
Tóm tắt Cầu hiền chiếu - mẫu 22
“Chiếu cầu hiền” là tác phẩm viết thay vua Quang Trung vào khoảng năm 1788 – 1789, được Ngô Thì Nhậm sáng tác nhằm thuyết phục sĩ phu Bắc Hà, tức là những trí thức của triều đại cũ (Lê – Trịnh), để cộng tác với triều đại Tây Sơn trong việc xây dựng đất nước. Trong tác phẩm, tác giả bắt đầu bằng việc nêu ra mối quan hệ quan trọng giữa thiên tử (vua) và hiền tài (các trí thức). Tác giả cho rằng hiền tài chính như sứ giả của thiên tử, có nhiệm vụ tham gia vào việc xây dựng và phát triển đất nước. Tuy nhiên, trong bối cảnh đất nước đang gặp nhiều khó khăn, tác giả đã phân tích tư duy và ứng xử của hiền tài. Một phần trong số họ đã lựa chọn im lặng, ẩn dật để tránh khỏi những khó khăn và thách thức. Có người thậm chí “đánh mõ, giữ cửa”, tức là tham gia vào công việc mà không có sự tận tụy và đam mê. Cuối cùng, tác phẩm đề cập đến đường lối cầu hiền của vua Quang Trung. Ông khuyến khích và kêu gọi những người hiền tài không chỉ thể hiện tài năng và trí tuệ của họ, mà còn cần đặt lợi ích của đất nước lên hàng đầu. Vua Quang Trung tôn trọng và đánh giá cao người hiền tài, coi họ như “kho báu” quý báu đóng góp cho sự phát triển của đất nước. Tóm lại, “Chiếu cầu hiền” của vua Quang Trung, do Ngô Thì Nhậm viết, thể hiện mối quan hệ giữa vua và hiền tài, tư duy và ứng xử của hiền tài trong hoàn cảnh khó khăn, và đường lối cầu hiền của vua Quang Trung để khuyến khích sự đóng góp của người hiền tài vào sự nghiệp xây dựng đất nước.
Tóm tắt Cầu hiền chiếu - mẫu 23
“Chiếu cầu hiền” là tác phẩm viết thay vua Quang Trung vào khoảng năm 1788 – 1789, được Ngô Thì Nhậm sáng tác. Tác phẩm này bắt đầu với một quan điểm rằng người hiền tài sẽ đóng vai trò như sứ giả của thiên tử, tức là vua, để góp phần vào việc xây dựng đất nước. Tuy nhiên, trong bối cảnh khó khăn của đất nước, tác giả đã chỉ ra tình trạng tiêu biểu của những người trí thức ở Bắc Hà. Một số trong họ đã bỏ lỡ cơ hội thể hiện tài năng bằng cách ẩn dật hoặc lãnh đạm đối diện với những thách thức của cuộc sống. Có người thậm chí đã chọn cách “lẩn tránh suốt đời” như một cách tránh xa trách nhiệm và tham gia vào xã hội. Dựa vào thực tế này, vua Quang Trung đã phát triển tư tưởng dân chủ tiến bộ và áp dụng chính sách cầu hiền đúng đắn. Ông khuyến khích những người hiền tài tham gia vào việc xây dựng đất nước, góp phần giải quyết những vấn đề khó khăn và phát triển xã hội. Tư tưởng này không chỉ đề cao vai trò của trí thức, mà còn thể hiện tinh thần lãnh đạo của vua Quang Trung trong việc thúc đẩy sự phát triển và đổi mới của đất nước. Tóm lại, tác phẩm “Chiếu cầu hiền” của Ngô Thì Nhậm không chỉ thể hiện quan điểm về tầm quan trọng của người hiền tài trong xây dựng đất nước, mà còn thể hiện sự nhạy bén và thấu hiểu của vua Quang Trung đối với tình hình thực tế và cách để khắc phục khó khăn của đất nước.
Bố cục Cầu hiền chiếu
- Phần 1 (Từ đầu đến ...người hiền vậy): Mối quan hệ giữa hiền tài và thiên tử.
- Phần 2 (Tiếp đến ...hay sao?): Thực tại và nhu cầu của thời đại.
- Phần 3 (Còn lại): Đường lối cầu hiền của vua Quang Trung.
Nội dung chính Cầu hiền chiếu
“Chiếu cầu hiền” là một văn kiện quan trọng thể hiện chủ trương đúng đắn của nhà Tây Sơn nhằm động viên tri thức Bắc Hà tham gia xây dựng đất nước.
Xem thêm các bài tóm tắt tác phẩm Ngữ Văn lớp 11 Kết nối tri thức hay, chi tiết khác:
Tóm tắt Con đường mùa đông
Tóm tắt Cầu hiền chiếu
Tóm tắt Tôi có một ước mơ
Tóm tắt Một thời đại trong thi ca
Tóm tắt Tiếp xúc với tác phẩm
Tóm tắt Lời tiễn dặn