Văn bản Em bé thông minh - nhân vật kết tinh trí tuệ dân gian - Trần Thị An - Nội dung, tác giả, tác phẩm

2.1 K

Tài liệu tác giả tác phẩm Em bé thông minh - nhân vật kết tinh trí tuệ dân gian Ngữ văn lớp 7 Chân trời sáng tạo gồm đầy đủ những nét chính về văn bản như: tóm tắt, nội dung chính, bố cục, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật, hoàn cảnh sáng tác, ra đời của tác phẩm, dàn ý từ đó giúp học sinh dễ dàng nắm được nội dung bài Em bé thông minh - nhân vật kết tinh trí tuệ dân gian lớp 7.

Em bé thông minh - nhân vật kết tinh trí tuệ dân gian - Ngữ văn lớp 7

I. Tác giả văn bản Em bé thông minh – nhân vật kết tinh trí tuệ dân gian

Trần Thị An

II. Tìm hiểu tác phẩm Em bé thông minh - nhân vật kết tinh trí tuệ dân gian

1. Tìm hiểu chung

a. Xuất xứ

- Trích Giảng văn văn học Việt Nam Trung học cơ sở, NXB Giáo dục Việt Nam, 2014

b. Bố cục Em bé thông minh - nhân vật kết tinh trí tuệ dân gian

Văn bản Em bé thông minh - nhân vật kết tinh trí tuệ dân gian được chia thành 3 phần:

- Phần 1 (từ đầu đến “đề cao trí tuệ của nhân dân”): Giới thiệu về truyện Em bé thông minh

- Phần 2 (tiếp theo đến “sứ giả láng giềng”): Sự đề cao trí tuệ dân gian qua bốn thử thách

- Phần 3 (còn lại): Khẳng định giá trị nội dung của truyện cổ tích Em bé thông minh

c. Thể loại

 Văn bản Em bé thông minh - nhân vật kết tinh trí tuệ dân gian thuộc thể loại văn bản nghị luận

d. Phương thức biểu đạt

Phương thức biểu đạt của văn bản Em bé thông minh - nhân vật kết tinh trí tuệ dân gian là nghị luận

2. Giá trị nội dung, nghệ thuật

a. Giá trị nội dung của văn bản Em bé thông minh - nhân vật kết tinh trí tuệ dân gian

Văn bản đã giúp người đọc làm rõ sự đề cao trí tuệ nhân dân thông qua bốn thử thách trong truyện Em bé thông minh

b. Giá trị nghệ thuật của văn bản Em bé thông minh - nhân vật kết tinh trí tuệ dân gian

- Ngôn ngữ bình dị, gần gũi

- Cách triển khai lí lẽ, bằng chứng mạch lạc, chặt chẽ.

III. Tìm hiểu chi tiết tác phẩm Em bé thông minh – nhân vật kết tinh trí tuệ dân gian

1. Tác giả đưa ra ý kiến: Nhân vật em bé trong truyện Em bé thông minh đã đề cao trí tuệ của nhân dân qua bốn lần thử thách

- Qua bốn lần thử thách:

+ Lần đầu tiên: tác giả dân gian đề cao sự thông minh trong ứng xử khi em bé đã ra lại câu hỏi cho người đố để phản bác rằng: đây là câu hỏi không có câu trả lời.

→ Em bé có phản xạ ngôn ngữ lanh lẹ và sắc xảo

+ Lần thứ hai và thứ ba, em bé cũng thông minh đáp trả lại được sự vô lí của nhà vua khi ra câu hỏi cho em: Trong khi dân làng lo lắng thì em bé đã vạch ra sự vô lí của câu hỏi, buộc nhà vua phải hoặc là công nhận câu hỏi mình đưa ra là vô lí, hoặc phải thực hiện một sự vô lí lớn hơn.

+ Lần cuối cùng, người kể chuyện đã nhấn mạnh vị thế áp đảo của trị tuệ dân gian so với trí tuệ cung đình: em bé đã gỡ bí cho cả triều đình và chinh phục được cả sứ thần ngoại bang.

→ Em bé trong truyện là người thông minh, có khả năng quan sát tin tường, ứng phó mau lẹ, bình tĩnh và bản lĩnh trong ứng xử

2. Kết luận của tác giả khi bình giảng văn bản

- Truyện “Em bé thông minh” đã ca ngợi trí thông minh của nhân dân thông qua nhân vật em bé.

- Đồng thời, tác giả dân gian muốn đề cao tầng lớp lao động, thể hiện “sự tự hào về trí tuệ bình dân” và thể hiện ước muốn: những người bình dân có trí tuệ như vậy cần phải được sống một cuộc sống hạnh phúc, ấm no hơn.

- Nghệ thuật: 

+ Dẫn chứng, lí lẽ, lập luận logic, chặt chẽ, sắc bén

+ Cách triển khai, phân tích các luận điểm rất khoa học, hợp lí

IV. Đọc tác phẩm: Em bé thông minh – nhân vật kết tinh trí tuệ dân gian

Kiểu truyện về người thông minh là một kiểu truyện khá phổ biến trong truyện cổ tích trên phạm vi toàn thế giới. Qua việc giải quyết những thử thách bất ngờ, những câu đố trí tuệ, nhân vật người thông minh thể hiện trí tuệ dân gian, qua đó phản ánh ước mơ của họ về một cuộc sống xứng đáng, hạnh phúc hơn. Trong truyện Em bé thông minh, thông qua bốn lần thử thách, tác giả dân gian đã đề cao trí tuệ của nhân dân.

Thông qua thử thách đầu tiên (gắn với câu hỏi thứ nhất), tác giả dân gian đề cao sự thông minh trong ứng xử, mà chủ yếu là một phản xạ ngôn ngữ lanh lẹ và sắc sảo. Thử thách này là một tình huống thử thách tư duy và việc sử dụng ngôn ngữ. Trước câu hỏi khó, em bé đã đáp lại bằng việc ra lại câu hỏi cho người đố, để chỉ ra rằng, đây là một câu hỏi không thể có câu trả lời.

Ở thử thách thứ hai và thứ ba (gắn với câu hỏi thứ hai, thứ ba), tác giả dân gian muốn khẳng định sự mẫn tiệp của trí tuệ dân gian, qua đó bày tỏ ước mơ về một xã hội mà mọi ràng buộc chặt chẽ của quan niệm phong kiến về các tầng lớp người trong xã hội đều được nới lỏng và cởi bỏ. Hai câu hỏi thứ thách ở đây đều do nhà vua đưa ra, là những câu hỏi tình huống mà ở đó, người trả lời phải đưa ra những giải pháp hợp lí. Nhờ nhanh trí, em bé “đọc” ngay ra sự vô lí của câu hỏi và hiểu ngay ra cần phải ứng xử với sự vô lí ấy như thế nào. Câu trả lời của em bé ở hai tình huống này vẫn theo cách đáp trả sở trường. Đó là trong khi dân làng lo lắng, bao nhiêu lần họp bàn cố gắng đi tìm câu trả lời thì em bé hướng trí thông minh của mình vào việc vạch ra sự vô lí của câu hỏi và bắt người ra câu hỏi thừa nhận sự vô lí của tình huống tiếp theo nên đã nhờ sứ giả mang cây kim về tâu vua rèn dao để làm thịt chim sẻ. Sự đáp trả mang tính tình huống này của em bé đẩy nhà vua vào tình thế hoặc là công nhận sự vô lí của câu hỏi hoặc là phải thực hiện một sự vô lí còn lớn hơn.

Ở thử thách thứ tư (gắn với câu hỏi cuối cùng), người kể chuyện đã nâng nhân vật em bé lên một tầm cao mới, vượt lên cả triều đình hai nước, nhấn mạnh vị thế áp đảo của trí tuệ dân gain so với trí tuệ cung đình, đây là một cách nói phong đại thường bắt gặp trong truyện dân gian. Để tôn vinh trí tuệ dân gain, người kể chuyện đã xếp đặt tình huống để cho người ra câu đố ở vị trí sứ giả nước ngoài, thậm chí là một nước lớn hơn đang “lăm le muốn chiếm bờ cõi nước ta”, mà nếu không trả lời được thì nước ta sẽ phải “thừa nhận sự thua kém và sự thần phục của mình đối với nước láng giềng”. Cách dẫn dắt vấn đề đã đẩy tầm quan trọng của việc trả lời câu đố lên một mức cao: đây là vấn đề danh dự và vận mệnh quốc gia. Người kể còn nhấn mạng thêm tính trầm trọng của tình huống bằng cách kể về những cách xử lí tình huống sai – “hút, bôi sáp vào chỉ để luồn qua bụng ốc”, về độ căng thẳng của việc tìm câu trả lời – “các nhà thông thái lắc đầu bó tay, các quan đại thần vò đầu suy nghĩ, vua tìm kế hoãn binh bằng việc mời sứ thần ra ngoài ở công quán để có thời gian suy nghĩ”. Tất cả những chi tiết đó tạo độ căng, tạo sức cuốn hút cho câu chuyện, và cũng là cách để nhấn mạnh độ xuất sắc của câu trả lời em bé đưa ra. Với câu trả lời xuất sắc của mình, em bé đã gỡ bí cho cả triều đình, “vua nghe nói như mở cờ trong bụng” và chinh phục được cả sứ thần ngoại bang – vượt qua thử thách “trước con mắt thán phục của sứ giả láng giềng”

Như vậy, qua nhân vật em bé, truyện cổ tích Em bé thông minh đã tập trung ca ngợi trí thông minh của nhân dân. Để vượt qua những thử thách của các câu đố, người trả lời cần có sự nhanh trí, khả năng quan sát tinh tường, khả năng ứng phó nhanh nhạy, sự bình tĩnh, bản lĩnh trong ứng xử. Ca ngợi trí thông minh của người bình dân, tác giả dân gian muốn đề cao tầng lớp lao động, thể hiện sự tự hào về trí tuệ bình dân […]. Ca ngợi trí tuệ người bình dân, truyện cổ tích còn thể hiện một ước muốn có được cuộc sống xứng đáng với trí tuệ mà họ có, một ước mơ dẫu chưa thành hiện thực thì cũng là niềm an ủi và niềm hi vọng cho những bất công và cực nhọc mà người nông dân phải chịu đựng trong cuộc sống hằng ngày.

Xem thêm các bài tóm tắt tác giả, tác phẩm Ngữ văn lớp 7 Chân trời sáng tạo hay, chi tiết khác:

Tác giả - tác phẩm: Chân, tay, tai, mắt, miệng

Tác giả - tác phẩm: Em bé thông minh - nhân vật kết tinh trí tuệ dân gian

Tác giả - tác phẩm: Hình ảnh hoa sen trong bài ca dao trong đầm gì đẹp bằng sen

Tác giả - tác phẩm: Bức thư gửi chú lính chì dũng cảm

Tác giả - tác phẩm: Sức hấp dẫn của truyện ngắn chiếc lá cuối cùng

Đánh giá

0

0 đánh giá