Văn bản Ông Một - Vũ Hùng - Nội dung, tác giả, tác phẩm

8.4 K

Tài liệu tác giả tác phẩm Ông Một Ngữ văn lớp 7 Chân trời sáng tạo gồm đầy đủ những nét chính về văn bản như: tóm tắt, nội dung chính, bố cục, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật, hoàn cảnh sáng tác, ra đời của tác phẩm, dàn ý từ đó giúp học sinh dễ dàng nắm được nội dung bài Ông Một lớp 7.

Ông Một - Ngữ văn lớp 7

I. Tác giả Vũ Hùng 

Ông Một | Ngữ văn lớp 7 Chân trời sáng tạo (ảnh 1)

1. Tiểu sử

- Nhà văn Vũ Hùng (1931) tại làng Láng, Cầu Giấy, Hà Nội

- Là cựu học sinh trường Bưởi (Chu Văn An) và Đại học Bách khoa Hà Nội

2. Sự nghiệp

- Ông nhập ngũ năm 1950, phụ trách Đài trưởng Đài Vô tuyến điện của Trung đoàn

- Ông từng là phóng viên Khoa học kỹ thuật của báo Quân đội nhân dân, biên tập viên của Nhà xuất bản Ngoại văn và nhà xuất bản Văn học.

- Vũ Hùng nguyên là Vụ trưởng Vụ hợp tác Quốc tế - Bộ Văn hóa.

- Năm 1989 ông định cư tại Pháp và tháng 5/2014, ông trở về Việt Nam sinh sống

- Phong cách sáng tác: các tác phẩm của ông viết về chủ đề thiên nhiên, động vật, rừng núi, quãng thời gian quân ngũ với những cuộc hành quân đã mang lại nhiều khám phá về thiên nhiên, đất nước, phong tục tập quán của các dân tộc Việt, Lào chung sống trên dải đường Trường Sơn.

- Các tác phẩm tiêu biểu: Mùa săn trên núi, Sống giữa bầy voi, Giữ lấy bầu mật, Sao sao, Chú ngựa đồng cỏ, Người quản tượng và con voi chiến sĩ, Bầy voi đen, Con voi xa đàn, Con culi của tôi, Vườn chim…

II. Tìm hiểu tác phẩm Ông Một

1. Tìm hiểu chung

a. Xuất xứ

- Trích từ Phía Tây Trường Sơn, in trong Những truyện hay viết cho thiếu nhi - Vũ Hùng, tập truyện gồm bốn truyện: Sao sao, Các bạn của Đam Đam, Phía Tây Trường Sơn, Ngày hè

- Phía Tây Trường Sơn kể về chuyến đi của ba chiến sĩ trẻ ở Trung đoàn quân tình nguyện Việt Nam đến vùng Nam Lào vào năm 1947. Thời điểm đó, bộ đội Lào tặng cho bộ đội Việt Nam ba con voi để vận chuyển hàng hóa, vũ khí trên dãy Trường Sơn.

- Tóm tắt tác phẩm Phía Tây Trường Sơn: Ba chiến sĩ Hưng, Sơn, Đức được giao nhiệm vụ vượt dãy Trường Sơn, đến bản Bun Mi, làng Vông Xay để học làm quản tượng rồi dong voi về. Trong chuyến đi kéo dài hơn một năm, họ được khám phá thế giới tự nhiên, học hỏi được nhiều điều mới lạ và thú vị về loài voi, những con vật thông minh, dũng cảm, trung thnafh và rất tình nghĩa với con người. Đồng thời, họ được trải nghiệm những phong tục tập quán, văn hóa của “đất nước” triệu voi như tục phóng sinh, ăn Tết, té nước, lễ chào đón một em bé ra đời, cách săn voi,... Chuyến đi đã để lại cho họ nhiều bài học về cách sống hài hòa với thiên nhiên, về thái độ trân trọng sự sống của muôn loài

- Đoạn trích trong SGK nằm trong phần đầu của Phía Tây Trường Sơn. Ba chiến sĩ cùng với ông Cao - người dẫn đường cho họ vượt Trường Sơn - tình cờ gặp con voi (mà ông trân trọng gọi là ông Một) của Đề đốc Lê Trực, một lãnh tụ của nghĩa quân trong thời kì kháng chiến  chống Pháp vào cuối thế kỉ XIX. Sau khi bị giặc vây hãm, nghĩa quân dần tan tác, Đề đốc Lê Trực buộc phải về quê, ông đã tặng con voi cho người quản tượng thân tín của mình chăm sóc. Ông Cao đã kể cho ba chiến sĩ nghe câu chuyện về con voi và người quản tượng.

b. Bố cục Ông Một

c. Thể loại

Văn bản Ông Một thuộc thể loại truyện ngắn

d. Phương thức biểu đạt

Phương thức biểu đạt của văn bản Ông Một là tự sự kết hợp miêu tả, biểu cảm

2. Giá trị nội dung, nghệ thuật

a. Giá trị nội dung của văn bản Ông Một

Đoạn trích trên giúp người đọc hiểu về mối quan hệ gắn bó, khăng khít như tình cảm ruột thịt giữa con người với thế giới tự nhiên

b. Giá trị nghệ thuật của văn bản Ông Một

- Ngôn từ trong sáng, bình dị, gần gũi với cuộc sống đời thường

- Lối viết hấp dẫn, thú vị.

III. Tìm hiểu chi tiết tác phẩm Ông Một

1. Tình cảm của con voi với Đề đốc Lê Trực và người quản tượng

a. Với Đề đốc Lê Trực:

- Con voi trở nên “ủ rũ” từ ngày rời căn cứ vì: con voi nhớ căn cứ, nhớ ông Đề đốc.

- Nó vẫn làm việc chăm chỉ rồi “buồn thiu”

- Nó bỏ ăn: không đụng một “ngọn mía”, “sợi cỏ”

b. Với người quản tượng:

 Khi con voi về làng, không thấy người quản tượng (vì ông đã mất): 

+ dân làng mang mía cho ăn nhưng nó không ăn mà cứ “lồng chạy”

+ nó “rống gọi”, nó “buồn bã”, “rền rĩ bỏ đi”…

→ Con voi rất trung thành, sống tình nghĩa. Qua đó, thể hiện sự gắn bó sâu sắc giữa thế giới tự nhiên và con người

2. Tình cảm của người quản tượng dành cho con voi

- Thay ông Đề đốc chăm sóc cho con voi

- Coi voi như con em mình, vỗ cho nó ăn: “hai vác mía to”, “hai thùng cháo”

- Quyết định thả voi về rừng vì muốn nó tự do

- Khi nó về làng, luôn ân cần, thiết đãi nó no nê

→ Tình cảm mà ông quản tượng dành cho voi không đơn thuần là tình cảm giữa người và vật nữa mà là tình cảm dành cho con em mình.

IV. Đọc tác phẩm: Ông Một

Từ ngày rời căn cứ, con voi trở nên ủ rũ. Nó nhớ ông Đề đốc, nhớ đời chiến trận, nhớ rừng và gầy rạc đi vì cuộc sống tù túng dưới làng. Nó vẫn giúp người quản tượng phá rẫy, kéo gỗ, nhưng chỉ khuây khỏa những lúc làm việc rồi sau đó lại đứng buồn thiu. Có bận nó bỏ ăn, không đụng vòi đến một ngọn mía, một sợ cỏ.

   Người quản tượng hiểu lòng con voi. Nó là nguồn an ủi của ông lúc sa cơ. Ông chưa từng sống với ai lâu như sống với nó. Ông quen nó quá, khó xa rời nó được. Vậy mà, ông vẫn quyết định thả nó về rừng, nơi nó ra đời.

- Một mình ta chịu tù túng cũng đủ rồi – Người quản tượng thường tự bảo – Còn nó, nó phải được tự do.

    Người quản tượng đinh ninh lúc gặp thời vận, Đề đốc Lê Trực sẽ lại dấy quân, lúc đó ông sẽ đón con voi về. Ông để con vật nghỉ hết vụ hè, vỗ cho nó ăn. Ngày nào ông cũng cho nó ăn thêm hai vác mía to, hai thùng cháo. Ông coi con voi như con em trong nhà, giục giã nó:

- Ăn cố đi, ăn cho khỏe, lấy sức mà về. Rừng già xa lắm, phải có sức mới đi tới nơi. Bao giờ chủ tướng dấy quân, lúc đó ta sẽ đón em trở lại.

    Con voi đã cố ăn suốt mùa hè nhưng sang đến mùa thu thì không chịu ăn nữa. Trời thu yên tĩnh, gió rì rào đưa về làng hương vị của rừng xa. Con vật cứ vươn vòi đón gió và buồn vã rống gọi. Nó héo hon đi như chiếc lá già.

    Người quản tượng biết gió thu nổi lên làm con voi nhớ rừng. Ông quyết định thả ngay cho nó đi. […]

    Con voi đi đâu không ai biết, chỉ thấy hàng năm khi sang thu, nó lại xuống làng. Nó rống gọi ràng từ xa, trước khi lội qua bến sông. Nghe tiếng rống, người làng bảo nhau: Ông Một về. Họ nô nức cùng người quản tượng ra đón nó ở tận đầu làng.

    Con voi theo người quản tượng về mái nhà cũ, quỳ ở giữa sân. Thấy con vật luyến chủ trở về, người quản tượng như trẻ lại. Ông dẫn nó đi tắm rồi hớn hở đưa nó lên nương – ông vẫn trồng sẵn cho nó một nương mía – thiết đãi nó những bữa no nê.

    Vào những ngày ấy, nhà ông tưng bừng và chật ních người. Nó giúp ông đủ việc: cuốn các ống bắng ra sông lấy nước và không cần người đưa dắt, lên nương lấy vòi quắp những cây gỗ mang về. […]

    Được mười năm như thế, người quản tượng qua đời. Ông mất giữa lúc đất nước còn tối tăm, thời vận dấy quân chưa tới để ông đi đón con voi trở lại

    Lần ấy, khi con voi xuống làng thì người quản tượng không còn nữa. Không thấy ông ra đón ở đầu làng, con voi rảo bước về nhà. Nó quỳ xuống giữa sân, rống gọi, rền rĩ mãi mà vẫn không thấy người quản tượng đi ra. Khi biết mọi tiếng rống gọi đều vô ích, con voi lồng chạy vào nhà. Cái thân hình to lớn của nó làm sập khung cửa và đổ gãy các đồ đạc. Nó hít hơi cái giường cũ của người quản tượng rồi buồn bã đi ra, chạy khắp làng tìm chủ. Các bô lão mang mía đến cho nó nhưng con voi không ăn mà cứ lồng chạy như voi hoang.

   Từ đó, mấy năm con voi mới lại xuống làng một lần. Nó trở nên lặng lẽ, đảo qua nhà của người quản tượng, tha thẩn đi trong sân, vừa tung vòi hít ngửi khắp chỗ vừa khe khẽ rền rĩ rồi âm thầm bỏ đi…

Xem thêm các bài tóm tắt tác giả, tác phẩm Ngữ văn lớp 7 Chân trời sáng tạo hay, chi tiết khác:

Tác giả - tác phẩm: Sang thu

Tác giả - tác phẩm: Ông một

Tác giả - tác phẩm: Con chim Chiền Chiện

Tác giả - tác phẩm: Những cái nhìn hạn hẹp

Tác giả - tác phẩm: Những tình huống hiểm nghèo

Đánh giá

0

0 đánh giá