Bộ 10 đề thi học kì 1 Ngữ văn 12 Chân trời sáng tạo có đáp án năm 2024

340

Tailieumoi.vn xin giới thiệu bộ đề thi học kì 1 môn Ngữ văn lớp 12 sách Chân trời sáng tạo năm 2024 - 2025. Tài liệu gồm 4 đề thi có ma trận chuẩn bám sát chương trình học và đáp án chi tiết, được biên soạn bởi đội ngũ giáo viên THTP dày dặn kinh nghiệm sẽ giúp các em ôn tập kiến thức và rèn luyện kĩ năng nhằm đạt điểm cao trong bài thi Học kì 1 Ngữ văn 12. Mời các bạn cùng đón xem:

Đề thi học kì 1 Ngữ văn 12 Chân trời sáng tạo có đáp án năm 2024

Đề thi học kì 1 Ngữ văn 12 Chân trời sáng tạo có đáp án - Đề 1

Sở Giáo dục và Đào tạo ...

Đề thi học kì 1 - Chân trời sáng tạo

Năm học 2024 - 2025

Môn: Ngữ văn lớp 12

Thời gian làm bài: phút

(Đề số 1)

I. ĐỌC HIỂU (4đ)

Học sinh đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi kế tiếp

BÍ ẨN CỦA LÀN NƯỚC

(Bảo Ninh)

(1) Các dòng sông trôi đi như thời gian, và cũng như thời gian, trên mặt nước các triền sông biết bao nhiêu là chuyện đời đã diễn ra. Nhất là về đêm, trên làn nước của dòng sông quê hương tôi lấp lánh hằng hà những đốm sáng bí ẩn, có cả điều bí ẩn của đời tôi.

(2) Năm ấy, nhằm trúng đỉnh lũ đêm Rằm tháng Bảy, một loạt bom Mĩ phá tan vệt đê canh giữ đằng trước làng tôi. Dứt dậy nổ của bom và tiếng gầm ghê rợn của máy bay cường kích là chuỗi ầm ầm long lở của dòng sông phá bụng đê tràn ngang vào đồng ruộng.

Từ trên điếm canh, tôi chạy lao về làng. Hồi chiều, hay tin vợ ở nhà trở dạ nhưng tôi không thể rời vị trí hộ đê. Bây giờ giời đất sập rồi, trong tôi chỉ còn con tôi, vợ tôi. Tôi dốc toàn lực bình sinh vào đôi chân. Đằng sau, cơn đại hồng thuỷ đuổi bén gót.

Nước đã ngập làng. Tôi về, kịp dìu vợ leo lên mái. Mái nhà tranh của vợ chồng tôi bị lôi đi trong đêm đen. Đến khi mái rạ sắp rã tan ra thì ơn trời nó vướng vào thân đa trước đình làng. Đã cả một đám đông bám trên các cành. Nhiều bàn tay chìa xuống giúp tôi đỡ vợ con trèo lên. Vợ tôi ôm khư khư đứa con mới sinh, nhất định không để tôi bế đỡ.

– Con trai... con trai mà... con trai... Để yên em ẵm, anh vụng...

Nhiều giờ trôi qua. Mưa tuôn, gió thổi. Mực nước không dâng cao hơn, nhưng chảy xiết hơn. Cây đa đầy người hơn. Tôi mỏi nhừ. Tay ôm chặt vợ, tay níu mình vào chạc cây. Vợ tôi yếu lả, ướt lướt thướt, lạnh ngắt.

Khoảng gần sáng, bỗng có tiếng quẫy nước ngay dưới cành đa của vợ chồng tôi. Một giọng nghẹn sặc với lên:

- Cứu mẹ con tôi mấy... cứu mấy, người ơi...

Một bàn tay nhớt và lạnh như tay ma rờ vào chân tôi đang buông thống. Tôi vội cúi xuống, đưa tay ra. Nhưng bàn tay của người đàn bà dưới nước truội đi, chìm nghỉm. Cành đa kêu rắc, chao mạnh. Vợ tôi “ối” kêu một tiếng thảng thốt, và “ùm” con trai tôi, đứa con sơ sinh tôi chưa được nhìn thấy mặt, tuột khỏi bọc ni-lông trên tay mẹ nó, sa xuống làn nước tối tăm.

- Con tôi...! – Vợ tôi hét rú lên và lao ngay lập tức xuống nước hòng chụp lấy con.

Tôi phóng mình theo. Nước lạnh, ngầu bùn, sâu hút và cuốn mạnh. Tôi vớ kịp thằng con, nhao vội lên, trao nó cho những bàn tay đang chìa xuống, rồi lại lặn tiếp ngay để cứu vợ. Nhiều người phi xuống theo để trợ sức tôi...

Tôi tỉnh lại, thấy trời sáng rồi và đã tạnh mưa. Tôi nằm trong khoang một ca-nô cứu nạn đầy ắp người. Hồi đêm, tôi đã vật lộn điên dại quyết sống mái một phen với làn nước giết người, nhưng tôi đã thua cuộc. Ứa ra cả máu tai máu mũi mà không những không cứu nổi vợ, đến thi thể cô ấy tôi cũng bất lực không tìm thấy. Khi ca-nô quân đội tới, mọi người đã phải dùng sức để buộc tôi rời mặt nước. Kiệt sức, tôi ngất đi. Khổ đau, tôi tỉnh dậy, nước mắt nóng rực, tế nhói. Một chị phụ nữ chen tới bên tôi, lên lời an ủi:

– Phận chị ấy đã vậy, thôi thì anh phải nén lòng lại, giữ sức khoẻ mà nuôi con.

Ơn trời, anh còn kịp cứu được cháu. Chao ôi, vừa kịp khóc chào đời đã trải một cơn kinh hoàng hú vía. Anh coi con anh này. Cứ như không. Đã bú, đã ngủ rồi đây này.

Ngoan chưa này... Ôi chao, nó tè dầm rồi này.

Chị nựng nịu, và từ từ giở bọc chăn chiên đang ủ kín con tôi. Chị thay tã cho nó. Tôi nhìn, chết lặng.

- Con tôi... – Tôi khóc, đỡ lấy bọc chăn. – Con tôi!

(3) Từ bấy tới nay, thời gian trôi qua và triền nước trôi đi, tôi đã có tuổi và con gái tôi đã thành một thiếu nữ. Nó là đứa con của làn nước, mọi người đều nói thế bởi vì chuyện nó sa xuống dòng nước lụt rồi được cha nó cứu lên thì cả làng ai cũng biết. Nhưng điều bí mật kia thì không ai hay, kể cả con gái tôi cũng không thể biết.

Chỉ có dòng sông biết.

Có ngày nào mà tôi không ra đê ngắm làn nước trôi. Vợ tôi, con tôi và người đàn bà vô danh nhìn tôi từ đáy nước. Thời gian, năm tháng cứ trôi, dòng sông và lịch sử, tất cả đều đổi thay nhưng mà niềm đau của đời tôi thì khôn nguôi bởi ấy là một niềm đau không thể nói nên lời.

(Bảo Ninh, Những truyện ngắn, NXB Trẻ, Tái bản 2021)

* Bảo Ninh sinh năm 1952, tên thật là Hoàng Ấu Phương, quê ở xã Bảo Ninh, huyện Quảng Ninh (nay thuộc thành phố Đồng Hới), tỉnh Quảng Bình, Việt Nam. Ông từng chiến đấu ở mặt trận B3 Tây Nguyên. Từ 1976 – 1981, ông học đại học ở Hà Nội, sau đó làm việc ở Viện Khoa học Việt Nam. Từ 1984 – 1986, ông học khoá 2 Trường Viết văn Nguyễn Du. Ông làm việc tại báo Văn nghệ Trẻ và là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam từ năm 1997.

Câu 1. Tóm tắt ngắn gọn nội dung truyện xác định tình huống thử thách đối với nhân vật “tôi” và ý nghĩa của tình huống ấy (1đ)

Câu 2. Nhân vật “tôi” là người thế nào? Em có đồng ý với nhân vật “tôi” để “điều bí mật kia không ai hay… chỉ có dòng sông biết” không? (1đ)

Câu 3. Xác định điểm nhìn trần thuật, nghệ thuật trần thuật trong văn bản Bí ẩn của làn nước. Việc sử dụng điểm nhìn, nghệ thuật trần thuật ấy có ý nghĩa như thế nào đối với việc truyền tải nội dung của văn bản? (1đ)

Câu 4. Bí ẩn của làn nước là gì? Em hãy xác định cảm hứng và thông điệp của văn bản bằng đoạn văn dài từ 7- 10 dòng (1đ)

II. VIẾT (6,0 điểm)

Câu 1. Truyện ngắn Bí ẩn của làn nước có ý nghĩa như thế nào với đời sống hôm nay? Tác phẩm tác động tới nhận thức và cảm xúc của em như thế nào? (trả lời bằng đoạn văn khoảng 200 chữ) (2đ)

Câu 2.

Đọc đoạn trích từ văn bản Sống chết mặc bay của Phạm Huy Tốn sau đây và viết bài luận so sánh, đánh giá nét tương đồng và khác biệt với tác phẩm Bí ẩn của làn nước của Bảo Ninh (4đ)

SỐNG CHẾT MẶC BAY

(Phạm Huy Tốn)

Gần một giờ đêm, trời mưa tầm tã. Nước sông Nhị Hà lên lên to quá, khúc đê làng… thuộc phủ….. xem chừng núng thế lắm, hai ba đoạn đã thẩm lậu rồi, không khéo thì vỡ mất.

Dân phu kể hàng trăm nghìn con người, từ chiều đến giờ hết sức giữ gìn, kẻ thì thuổng kẻ thì cuốc, kẻ đội đất, kẻ vác tre, nào đắp nào cừ, bì bõm dưới bùn lầy ngập quá khuỷu chân, người nào người nấy ướt lướt thướt như chuột lột. Tình cảnh trông thật thảm.

Tuy trống đánh liên thanh, ốc thổi vô hồi, tiếng người gọi nhau sang hộ, nhưng xem chừng ai ai cũng mệt lử cả, ấy vậy mà trên trời vẫn mưa tầm tã trút xuống, dưới sông thì nước bốc lên. Than ôi! Sức người khó lòng địch nổi sức trời! Thế đê không sao cự lại được với thế nước! Lo thay! Nguy thay! Khúc đề này hỏng mất, ấy lũ con dân đang chân lấm tay bùn, trăm lo nghìn sợ, đem thân yếu hèn mà chống với mưa to gió lớn, để bảo thủ lấy tính mạng, gia tài, thế thời quan cha mẹ ở đâu?

Thưa rằng: đang ở trong đình kia. Cách đó chừng bốn năm trăm thước. Đình ấy cũng ở trên mặt đề, nhưng cao mà vững chãi, dẫu nước to thế nào cũng không việc gì.

Trong đình đèn thắp sáng trưng, nha lệ, lính tráng, kẻ hầu người hạ, đi lại rộn ràng. Trên sập mới kê ở gian giữa, có một mình quan phụ mẫu, uy nghi chễm chệ ngồi. Tay trái dựa gối xếp, chân phải duỗi thẳng ra, để cho tên người nhà quỳ dưới đất mà gãi. Một tên lính lệ đứng bên, cầm cái quạt lông chốc chốc lại phe phẩy.

Tên nữa đứng khoanh tay chực hầu điếu đóm. Bên cạnh ngài, mé tay trái, bát yến hấp đường phèn, để trong khay khảm, khói bay nghi ngút, tráp đổi mới chữ nhật để mở, trong ngăn bạc đẩy những trầu vàng... trông mà thích mắt.

Ngoài kia tuy mưa gió ầm ầm, dân phu rối rít, nhưng trong này xem chừng tĩnh mịch, nghiêm trang lắm: trừ quan phụ mẫu, mọi người không dám to tiếng.

So với cảnh trăm họ đang lấm láp, gội gió tắm mưa như đàn sâu lũ kiến ở trên đê, thời ở trong đình rất là nhàn nhã, đường bệ, nguy nga: nào quan ngôi trên, nào nha ngồi dưới, người nhà lính lệ khoanh tay sắp hàng, nghi vệ tôn nghiêm, như thần như thánh. Thỉnh thoảng nghe tiếng quan phụ mẫu gọi: “Điếu mày”, tiếng tên lính hầu thưa: “Dạ”; tiếng thầy để hỏi: “Bẩm bốc”, tiếng quan lớn truyền: “Kẻ này “Bát sách! Ăn. Người kia “Thất văn”!... “Phỗng” lúc mau, lúc khoan, dung êm ái; khi cười, khi nói, vui vẻ, dịu dàng. Thật là tôn kính, xứng đáng với một vị phúc tinh.[...]

Quan lớn ù thêm. Người đầu cánh, kẻ cuối tay, tranh nhau phô bài để lớn rõ rằng: “Mình có đôi mà không dám phỗng qua mặt!”. Hèn chi mà quan chẳng ù luôn! Quan ù ấy là hạnh phúc....

Khi đó, ván bài quan đã chờ rồi. Ngài xơi xong bát yến vừa xong, ngồi khểnh vuốt râu rung đùi, mắt đang mãi trông đĩa nọc, bỗng nghe ngoài xa tiếng kêu vang dậy trời đất. Mọi người đều giật nảy mình, quan vẫn điềm nhiên, chỉ lăm le chờ người ta bốc trúng quân mình chờ mà hạ, vì ngài sắp ù to.

Có người khẽ nói:

- Bẩm, dễ có khi đê vỡ?

- Bẩm... quan lớn... đê vỡ mất rồi!

Ngài cau mặt, gắt rằng:

- Mặc kệ! [...]

- Đê vỡ rồi!... Đê vỡ rồi, thời ông cách cổ chúng mày. Có biết không... Lính đâu? Sao bay dám để cho nó chạy xồng xộc vào đây như vậy? Không còn phép tắc gì nữa à?

[...]

(Nguyễn Cừ, Phạm Duy, Phạm Duy Tốn – Tác phẩm chọn lọc, NXB Văn học 2002)

(*) “Sống chết mặc bay” đăng trên tạp chí Nam Phong, số 18/12/1918.

-----Hết-----

ĐÁP ÁN

Câu 1 (1 điểm)

- Tóm tắt: “Tôi” nhớ lại đỉnh lũ đêm Rằm tháng Bảy, một loạt bom Mĩ phá

tan vệt đê, “tôi” hộ đê, vợ vừa sinh con trai, lũ cuốn nhà, cả nhà mắc lại trên cành đa cùng nhiều người trong đêm. Đúng lúc có người kêu cứu mẹ con tôi với, “tôi” với tay thì cành gãy, cả vợ con rơi xuống nước. “Tôi” lao vào dòng nước nhưng chỉ cứu được đứa bé gái. Ai cũng tưởng rằng “tôi” cứu được con. Tôi nuôi bé gái khôn lớn và ôm nỗi đau cùng bí mật chỉ dòng nước biết.

* Tình huống thử thách bất thường nằm ở đoạn số 2: người kêu, cành cây gãy, vợ con rơi xuống nước, “tôi” lao vào dòng nước nhưng chỉ cứu được đứa bé gái (con người kêu cứu). Ai cũng tưởng rằng “tôi” cứu được con.

+ Tình huống, khoảnh khắc gay cấn, căng thẳng, sự đe doạ dồn dập... tính mạng người khó bảo toàn.

+ Tình huống phản ánh được hiện thực cuộc sống khó khăn: Chiến tranh và thiên tại.

+ Con người không thể toan tính buộc phải hành động gấp,... Bối cảnh buộc mỗi con người bộc bộ nhân cách, bản tính của mình.

Câu 2 (1 điểm)

- Về nhân vật “tôi”: Học sinh dựa vào gợi ý sau và bổ sung dẫn chứng

+ Là người trải qua nhiều đau thương, mất mát, sống sâu sắc.

+ Là người trách nhiệm với vợ con, với xã hội.

+ Là người giàu yêu thương, nhân ái.

- Về việc giữ bí mật: Học sinh tự nêu ý kiến cá nhân (chú ý đến giả định nếu công khai/ không công khai bí mật điều gì sẽ xảy ra).

Câu 3 (1 điểm)

- Điểm nhìn: Thuật kể từ điểm nhìn của nhân vật “tôi” (phối hợp điểm nhìn bên ngoài và điểm nhìn bên trong); điểm nhìn thuật trần thuật phù hợp để truyền tải nội dung của văn bản: những sự việc xảy ra với gia đình nhân vật “tôi” trong quá khứ nay đã thành nỗi đau không thể nguôi quên.

→ Nghệ thuật trần thuật từ người kể chuyện ở ngôi thứ nhất, với điểm nhìn từ bên trong (suy ngẫm đoạn đầu và cuối) đã giúp độc giả đi sâu vào thế giới nội tâm của nhân vật, khiến tác phẩm trở nên chân thực, giàu chất trữ tình.

- Nhịp điệu trần thuật:

+ Đoạn số 2: sự việc, chi tiết diễn ra nhanh, gấp gáp, nhịp câu ngắn để diễn tả tình thế hiểm nguy, kịch tính của cuộc sống;

+ Đoạn 1, 3 sử dụng điểm nhìn từ bên trong, nhịp điệu chậm để diễn tả nỗi đau, những suy nghĩ, trải nghiệm sâu sắc từ tấm lòng nhân ái của nhân vật “tôi”

Câu 4 (1 điểm)

– Bí ẩn của làn nước: Vợ nhân vật “tôi” sinh con trai nhưng đứa bé anh cứu sống là con gái. Điều mọi người không biết là: vợ anh sinh con trai và ngay trước khi cành đa gãy có một người mẹ kêu: “cứu con tôi với!”. “Tôi” mất cả vợ con trong cơn lũ dữ.

– Cảm hứng: hiện thực; cảm thương

– Thông điệp

+ Trong những tình huống nguy nan, ranh giới sống chết chỉ như sợi tóc

con người vẫn có thể sống yêu thương, đùm bọc, sẻ chia, thậm chí hi sinh cả sinh mạng cho người khác, cao thượng, nhân hậu.

+ Trong cuộc sống vô tận, thời gian có thể xoá nhoà đi nhiều thứ song có những nỗi đau, mất mát còn đọng mãi, không thể nguôi yên hành động cao cả, tình thương và đức hi sinh đôi khi khiến người ta vẫn phải chịu ám ảnh, xót xa.

II. VIẾT (6,0 điểm)

Câu 1 (2 điểm)

Học sinh viết đoạn đảm bảo độ dài và hướng vào các nội dung chính sau:

- Truyện ngắn Bí ẩn của làn nước có ý nghĩa:

+ Đề cập đến hiện thực – tình huống bất thường của cuộc sống – thiên tai lũ lụt) xảy ra hằng năm trên khắp đất nước ta và thế giới.

+ Sự mất mát, nỗi đau và tình người trong hoạn nạn.

– Tác động đến nhận thức, cảm xúc: Học sinh tự làm (Gợi ý: nhận thức cuộc sống luôn có biến động bất thường (thiên tai, tai nạn,...); Cảm xúc: đau xót, cảm thông, trân trọng cách ứng xử của nhân vật “tôi”).

Câu 2.

Đọc đoạn trích từ văn bản Sống chết mặc bay của Phạm Huy Tốn sau đây và viết bài luận so sánh, đánh giá nét tương đồng và khác biệt với tác phẩm Bí ẩn của làn nước của Bảo Ninh

Phần chính

Điểm

Nội dung cụ thể

Mở bài

0,25

- Giới thiệu hai tác phẩm và tác giả cần so sánh; vấn đề (điểm chung giữa hai tác phẩm đề yêu cầu so sánh).

- Nêu bình diện cần so sánh và vị trí của chúng đối với tác phẩm/dư luận.

Thân bài

2,5đ

* Điểm chung ở hai tác phẩm (dùng hình ảnh/chi tiết giàu ý nghĩa)

– Thể loại: truyện ngắn

- Bối cảnh, tình huống gay cấn, nguy hiểm bởi thiên tai, lũ lụt

→ Hai tác giả chọn thể loại truyện ngắn và bối cảnh lũ lụt để phản ánh cuộc sống và bản chất con người.

- Phong cách hiện thực; tư tưởng nhân đạo (xót thương thảm cảnh con người trước thiên tai...).

* Điểm khác biệt

- Sống chết mặc bay của Phạm Duy Tốn: tố cáo sự vô đạo, bất nhân của bọn quan lại, mang đậm giá trị hiện thực, nhân đạo cao cả về tình người.

- Bí ẩn của làn nước của Bảo Ninh: Trong những tình huống nguy nan, ranh giới sống chết chỉ như sợi tóc, con người vẫn có thể sống yêu thương, đùm bọc, sẻ chia, thậm chí hi sinh cả sinh mạng cho người khác, cao thượng, nhân hậu.

* Lí giải sự khác biệt: căn cứ vào hoàn cảnh ra đời của hai tác phẩm

Kết bài

0,25

- Nhận thức, đánh giá của cá nhân về ý nghĩa của từng tác phẩm theo bình diện đã so sánh ở trên.

- Đánh giá sự đóng góp, thành công của từng nhà văn (rút ra từ phần phân tích trên) đối với nền văn học.

Yêu cầu khác

0,25

- Sử dụng thành thạo thao tác so sánh, tổng hợp, chứng minh.

- Dẫn chứng phong phú, đa dạng phù hợp với lí lẽ, luận điểm.

Đề thi học kì 1 Ngữ văn 12 Chân trời sáng tạo có đáp án - Đề 1

Sở Giáo dục và Đào tạo ...

Đề thi học kì 1 - Chân trời sáng tạo

Năm học 2024 - 2025

Môn: Ngữ văn lớp 12

Thời gian làm bài: phút

(Đề số 1)

Phần 1: Đọc hiểu (5,0 điểm)

Đọc đoạn trích sau và trả lời câu hỏi:

Trời đã quá trưa. Tôi vừa về đến nhà trọ, đã thấy người nhà ông L đã sang mời. Lần này là ba. Sáng ngày đã hai lần rồi. Trước sự ân cần như vậy, ai mà có thể từ chối. Bởi tại hôm nay nhằm kỳ bình văn, tôi phải có mặt ở trường, nên còn xin khất đến chiều. Kể ra tôi với ổng không phải có thân tình gì. Vì tôi trọ học ở gần nhà ổng thành ra quen ổng. Người ta bảo với tôi rằng: Ổng rất thật thà chăm chỉ. Trước đó chừng mười lăm năm, ổng còn làm nghề cày thuê, vợ ổng thì chuyên đi ở vú sữa. Cái chính sách tiết kiệm, trong một thời kỳ khá dài, đã đưa nhà ổng lên đến bậc có máu mặt, lưng vốn ở nhà đã có gần mẫu ruộng và nửa con trâu. Trong mấy năm nay, vợ ổng đã không còn sữa, ổng cũng không được khỏe mạnh như xưa, cho nên cả hai đều tự hưu trí để cùng trông nom nhà cửa ruộng nương. Nhờ trời hồi ấy luôn luôn được mùa, vận ổng lại càng tấn tới, trong chuồng lúc nào cũng có lợn lớn, thóc lúa đủ ăn từ vụ nọ đến vụ kia. Trong cái hạnh phúc của loài người, ổng không mong gì hơn thế, nếu như làng ổng không có cái đình. Khổ vì cái làng Đ.Tr. nhà ổng tuy không phải làng văn vật, nhưng mà rất có trật tự. Bao giờ cũng vậy, ngồi chỗ trong đình làng ấy cũng như ngồi chỗ ở các rạp hát, vẫn chia ra rất nhiều lô: trên nhất là chiếu phẩm hàm, rồi đến các chiếu chức dịch, trai đinh phải ngồi vào lớp cuối cùng. Ông tuy ngoài năm chục tuổi, nhưng vẫn là hạng bạch đinh, mỗi khi ra đình, chỉ được ngồi với bọn bố cu, bố đĩ. Điều đó, ổng rất lấy làm bất mãn. Nhiều lần làng khuyết lý trưởng, phó lý, ổng đã dốc lòng định mưu lấy chút danh phận. Chỉ vì ổng không biết một thứ chữ nào, cho nên không được như nguyện. Năm nay, mái đình làng ấy có mấy chỗ dột. Dân làng cũng mong chữa lại, nhưng mà tiền công của làng chỉ vừa đủ để các hào lý đi việc quan, không còn thừa mà mua ngói. Các ông kỳ dịch liền gọi ổng ra giữa đình, để bán cho ổng cái chức "lý cựu" lấy một trăm bạc chi tiêu vào công việc tu bổ.

(Trích Góc chiếu giữa đình, Phóng sự Việc làng, Ngô Tất Tố, NXB Văn học, 2022, tr.55)

Câu 1 (1,0 điểm): Đoạn trích được kể ở ngôi thứ mấy?

Câu 2 (1,0 điểm): Theo đoạn trích, lí do nào ông L được làm chức “lý cựu”?

Câu 3 (1,0 điểm): Đoạn văn “Bao giờ cũng vậy, ngồi chỗ trong đình làng ấy cũng như ngồi chỗ ở các rạp hát, vẫn chia ra rất nhiều lô: trên nhất là chiếu phẩm hàm, rồi đến các chiếu chức dịch, trai đinh phải ngồi vào lớp cuối cùng. Ông tuy ngoài năm chục tuổi, nhưng vẫn là hạng bạch đinh, mỗi khi ra đình, chỉ được ngồi với bọn bố cu, bố đĩ” phản ánh thực trạng gì của làng quê xưa?

Câu 4 (1,0 điểm): Nội dung chính của đoạn trích là gì?

Câu 5 (1,0 điểm): Qua đoạn trích, anh/chị hãy rút ra bài học gì cho mình trên hành trình tìm kiếm công danh cho bản thân?

Phần 2: Viết (5,0 điểm)

“Thế giới ngày mai thuộc về những người có tầm nhìn hôm nay.” (Robert Schuller)

Anh/ Chị hãy viết một bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) bàn về tầm nhìn của những người trẻ trong thời đại ngày nay.

HƯỚNG DẪN GIẢI

Phần 1: Đọc hiểu (5,0 điểm)

Câu

Đáp án

Điểm

1

Ngôi kể: ngôi thứ nhất.

1,0 điểm

2

Ông L được làm chức “lý cựu” là vì: Các ông kì dịch cần một trăm bạc để tu bổ mái đình nên gọi ông đến để bán cho ông cái chức “lý cựu”.

1,0 điểm

3

Thực trạng: thiếu tinh thần dân chủ, thể hiện thái độ coi thường những người dân không có danh phận.

1,0 điểm

4

Nội dung của đoạn trích:

- Miêu tả quá trình có được chức tước của ông L

- Phản ánh nạn mua quan bán tước ở làng quê xưa

- Phê phán thói háo danh của người nông dân ở làng quê xưa.

1,0 điểm

5

HS chỉ ra bài học và có sự lí giải hợp lí.

+ Bài học: gợi ý

- Cần lập danh chính đáng mới tạo nên giá trị đích thực của bản thân, tạo dựng uy tín, danh dự bằng lòng tự trọng, cạnh tranh phát triển bản thân một cách lành mạnh.

- Cần nỗ lực học tập tích luỹ kiến thức, trau dồi kĩ năng, rèn luyện ý chí, nghị lực, vượt qua những khó khăn thử thách để vươn tới thành công bằng thực thực của chính mình, không dựa dẫm, ỷ lại vào người khác.

- Phải tự tin, bản lĩnh, dám khẳng định mình, dám chịu trách nhiệm, khiêm tốn và tích cực, sống và làm việc, cống hiến trung thực, biết phê phán lên án những suy nghĩ và hành động mang tính háo danh, không đúng với năng lực và giá trị của mình.

1,0 điểm

Phần 2: Viết (5,0 điểm)

Câu

Đáp án

Điểm

 

a. Đảm bảo cấu trúc bài nghị luận

Mở bài nêu được vấn đề, thân bài triển khai được vấn đề, kết bài khái quát được vấn đề.

0,5 điểm

b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận

Tầm nhìn của những người trẻ trong thời đại ngày nay.

0,5 điểm

c. Triển khai vấn đề nghị luận thành các luận điểm

Học sinh có thể triển khai theo nhiều cách, nhưng cần vận dụng tốt các thao tác lập luận, kết hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và dẫn chứng. Dưới đây là một vài gợi ý cần hướng tới:

1. Mở bài

Giới thiệu vấn đề nghị luận và nêu khái quát quan điểm của cá nhân về vấn đề.

2. Thân bài

- Giải thích: Tầm nhìn là khả năng nhìn xa trộng rộng, hình dung được bức tranh toàn cảnh rõ nét về tương lai của một tổ chức, cá nhân hay một quốc gia, dân tộc,...

- Trình bày các khía cạnh của vấn đề, có thể theo một số gợi ý sau:

+ Tại sao những người trẻ cần phải có tầm nhìn?

++ Thời đại số hoá cuộc sống thay đổi từng giây nên tầm nhìn quyết định sự thành công trong cuộc sống của mỗi người.

++ Tầm nhìn giúp chúng ta xác định hướng đi, lộ trình của cuộc đời, khẳng định giá trị, mục đích sống; biết mình là ai, mình đang ở đâu và tương lai mình sẽ như thế nào? Từ đó, có động lực để phấn đấu để đạt được mục tiêu của cuộc đời.

+ Làm thế nào để người trẻ có tầm nhìn xa trông rộng?

++ Phải biết đặt mình vào vị trí của người khác, luôn quan tâm và tôn trọng những người xung quanh, xem xét vấn đề từ nhiều góc độ khác nhau.

++ Luôn hướng đến bức tranh toàn cảnh

++ Dám nghĩ dám làm, có tư duy khoáng đạt, học hỏi và cầu thị.

++ Trau dồi kiến thức, kĩ năng, tích luỹ kinh nghiệm, tâm lí vững vàng, sẵn sàng đón nhận cái mới và những khó khăn thách thức của cuộc đời,...

- Dẫn chứng chứng minh: Cả thế giới phải bái phục tầm nhìn xa và đi trước thời đại của Mark khi đưa ra kế hoạch phát triển metaverse vũ trụ ảo của Facebook trong tương lai. Mark Zuckerberg kì vọng metaverse sẽ trở thành một thế giới thứ hai của loài người, hay nói cách khác là vũ trụ ảo metaverse của Facebook sẽ trở thành “thế giới thực thứ hai”.

- Mở rộng vấn đề và bác bỏ ý kiến trái ngược để củng cố quan điểm của mình.

+ Bên cạnh những người có tầm nhìn xa trông rộng vẫn có những người có tầm nhìn hạn hẹp, bị trói buộc bởi “giới hạn” của chính mình, không có định hướng, không nhìn thấy tương lai và cuối cùng là thất bại.

+ Có tầm “nhìn xa trông rộng” không có nghĩa là chỉ nghĩ tới tương lai thậm chí ảo tưởng về tương lai mà quên đi thực tại. Có tầm nhìn về tương lai nhưng cần phải sống với hiện tại chúng ta sẽ cân bằng được cuộc sống và thành công sẽ đến.

3. Kết bài

Khẳng định quan điểm cá nhân đã trình bày và rút ra bài học nhận thức, hành động cho bản thân.

3,0 điểm

d. Chính tả, ngữ pháp

Đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ pháp Tiếng Việt.

0,5 điểm

e. Sáng tạo

- Thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận; có cách diễn đạt mới mẻ.

0,5 điểm

Đánh giá

0

0 đánh giá