TOP 10 mẫu Tóm tắt Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc 2025 hay, ngắn gọn | Chân trời sáng tạo Ngữ Văn 12

399

Tài liệu tóm tắt Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc Ngữ văn lớp 12 bộ Chân trời sáng tạo ngắn gọn, đầy đủ ý gồm có 03 bài tóm tắt tác phẩm Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc hay nhất từ đó giúp học sinh nắm được những nét chính về nội dung của văn bản để học tốt môn Ngữ văn lớp 12.

Tóm tắt Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc

TOP 10 mẫu Tóm tắt Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc 2024 hay, ngắn gọn | Chân trời sáng tạo Ngữ Văn 12 (ảnh 2)

Tóm tắt Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc - Mẫu 1

Tác phẩm là một bài văn tế, được viết để tế những nghĩa sĩ đã hi sinh trong trận tập kích đồn quân Pháp ở Cần Giuộc. Tác phẩm kể lại công chiến đấu, sự hi sinh anh dũng của những nghĩa sĩ và bày tỏ nỗi đau thương, mất mát, lòng kính trọng, biết ơn của người ở lại đối với người đã khuất.

Tóm tắt Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc - Mẫu 2

Tác phẩm là một bài văn tế, được viết để tế những nghĩa sĩ đã hi sinh trong trận tập kích đồn quân Pháp ở Cần Giuộc. Tác phẩm kể lại công chiến đấu, sự hi sinh anh dũng của những nghĩa sĩ và bày tỏ nỗi đau thương, mất mát, lòng kính trọng, biết ơn của người ở lại đối với người đã khuất.

TOP 10 mẫu Tóm tắt Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc 2024 hay, ngắn gọn | Chân trời sáng tạo Ngữ Văn 12 (ảnh 1)

Tóm tắt Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc - Mẫu 3

Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc được Nguyễn Đình Chiểu viết để tưởng nhớ công ơn của những người nông dân đã anh dũng đứng lên chống giặc. Năm 1858, giặc Pháp đánh vào Đà Nẵng, nhân dân Nam Bộ đứng lên chống giặc. Năm 1861, vào đêm 14 -12, nghĩa quân tấn công đồn giặc ở Cần Giuộc trên đất Gia Định, gây tổn thất cho giặc, nhưng cuối cùng lại thất bại. Bài văn tế tuy được viết theo yêu cầu của tuần phủ Gia Định, song chính là những tình cảm chân thực của Đồ Chiểu dành cho những người đã xả thân vì nghĩa lớn.

Tóm tắt Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc - Mẫu 4

Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc: là bài văn tế những người nông dân nghĩa sĩ đã hi sinh. Bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc được viết theo thể phú Đường luật gồm bốn phần: lung khởi, thích thực, ai vãn, kết.

- Phần 1: Lung khởi (từ đầu đến tiếng vang như mõ): khái quát bối cảnh của thời đại và khẳng định ý nghĩa cái chết bất tử của người nông dân. Đất nước bị xâm lăng trong cái dữ dội, ác liệt. Súng giặc đã rền khắp núi sông. Trước sự làm ngơ của triều đình nhà Nguyễn đã đặt người nông dân vào thử thách lịch sử, một khung cảnh bão táp của thời đại, vận nước là thước đo lòng người, những biến cố chính trị lớn lao. Người nghĩa sĩ không coi trọng chuyện được mất, sẵn sàng hi sinh vì nghĩa lớn.

- Phần 2: Thích thực (từ Nhớ linh xưa... đến tàu đồng súng nổ): kể về nguồn gốc, phẩm hạnh, công đức của những người nghĩa sĩ Cần Giuộc. Họ là những người nông dân 100% mộc mạc, chất phác sau lũy tre làng nhưng suốt đời vẫn nghèo khó. Họ cui cút làm ăn, toan lo nghèo khó, quen việc quốc, cày, bừa, cấy và hoàn toàn xa lạ với việc nhà binh: tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ… Mặc dù khi vào trận đánh họ có nhiều thiếu thốn nhưng họ tự nguyện đứng lên kiên quyết xông pha vào mặt trận: “nào đợi ai đòi ai bắt”, “ra sức đoạn kình”, “ra tay bộ hổ” và giành được nhiều thắng lợi.

- Phần 3: Ai vãn (từ Ôi! Những lăm lòng nghĩa lâu dùng đến cơn bóng xế dật dờ trước ngõ): Bày tỏ lòng thương tiếc, sự cảm phục của tác giả và nhân dân đối với người nghĩa sĩ. Đó là tiếng khóc quặn lòng cho một thời đại bi thương: Già trẻ trai gái Trường Bình khóc,chùa Tông Thạnh khóc, cây cỏ khóc, sông Cần Giuộc khóc, tác giả khóc. Đó cũng là tiếng khóc thể hiện niềm tự hào.

- Phần 4: Khốc tận (Kết) đoạn còn lại: Ca ngợi linh hồn bất tử của các nghĩa sĩ. Tác giả đề cao quan niệm cao đẹp: Chết vinh còn hơn sống nhục. Nêu cao tinh thần chiến đấu, xả thân vì nghĩa lớn của nghĩa quân, họ ra trận không cần công danh, bổng lộc, gượng ép mà chỉ vì một điều rất đơn giản là lòng yêu nước, thương dân.

Tóm tắt Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc - Mẫu 5

Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là một bài văn tế tôn vinh những người nông dân nghĩa sĩ đã hy sinh trong cuộc chiến bảo vệ đất nước. Bài văn được viết theo thể phú Đường luật và chia thành bốn phần.

Phần đầu tiên, Lung khởi, miêu tả bối cảnh của thời đại và khẳng định ý nghĩa cái chết bất tử của người nông dân trong bối cảnh đất nước đang bị xâm lăng và ác liệt.

Phần Thích thực kể về nguồn gốc, phẩm hạnh và công đức của những người nghĩa sĩ Cần Giuộc, những người nông dân chất phác và bền bỉ.

Phần Ai vãn bày tỏ lòng thương tiếc và sự cảm phục của tác giả và nhân dân đối với những người nghĩa sĩ đã hi sinh.

Phần Khốc tận (Kết) ca ngợi linh hồn bất tử của các nghĩa sĩ, đề cao quan niệm cao đẹp về sự hy sinh vì nghĩa quân và tình yêu nước.

Tóm tắt Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc - Mẫu 6

Tác phẩm là một bài văn tế, được viết để tế những nghĩa sĩ đã hi sinh trong trận tập kích đồn quân Pháp ở Cần Giuộc. Tác phẩm kể lại công chiến đấu, sự hi sinh anh dũng của những nghĩa sĩ và bày tỏ nỗi đau thương, mất mát, lòng kính trọng, biết ơn của người ở lại đối với người đã khuất. Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc được Nguyễn Đình Chiểu làm để đọc tại buổi truy điệu những anh hùng nghĩa sĩ nông dân đã hi sinh trong trận tập kích đồn giặc ở Cần Giuộc vào năm 1861. Mặc dù diệt trừ được một số quan quân của giặc và bọn quan lại bán nước nhưng khoảng hai mươi nghĩa sĩ đã hi sinh quả cảm, để lại niềm xúc động lớn lao, khôn xiết trong lòng nhân dân. Chính vì lẽ đó, tác phẩm của Nguyễn Đình Chiểu cũng phần nào thể hiện tiếng lòng xót xa của quần chúng nhân dân đối với những người lính áo vải trong trận quyết chiến ở Cần Giuộc.

Tóm tắt Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc - Mẫu 7

"Văn tế nghĩa sĩ cần giuộc" là văn tế viết theo thể phú Đường Luật để tóm tắt cần đọc kĩ để hiểu nội dung. Đây là các ý tóm tắt nội dung của bài:

- Kẻ thù vũ khí tối tân, hiện đại còn người dân chỉ có lòng yêu nước.

- Mười năm vỡ ruộng ko ai biết đến một trận đánh tây tiếng vang như mõ.

- Xa với việc binh đao nhưng khi giặc pháp chiếm trở thành người nghĩa sĩ.

- Ban đầu lo sợ, căm ghét giặc nhưng chỉ biết chờ đợi triều đình.

- Nhận thức sâu sắc trách nhiệm của mình đối với đất nước.

- Anh dũng đứng dậy đấu tranh.

- Nỗi tiếc thương vô hạn không chỉ của lòng người mà còn của cỏ cây hoa lá đối với người nghĩa sĩ.

- Niềm cảm phục trước quan niệm cao đẹp "sống vinh còn hơn chết nhục".

- Ca ngợi khẳng định sự bất tử của người nghĩa sĩ trong lòng dân.

Tóm tắt Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc - Mẫu 8

Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là bài văn tế những những nghĩa sĩ nông dân đã anh dũng chiến đấu, hi sinh trong trận tập kích đồn quân Pháp ở Cần Giuộc. Bài văn tế kể lại công chiến đấu, sự hi sinh anh dũng của những nghĩa sĩ và bày tỏ nỗi đau thương, mất mát, lòng kính trọng, biết ơn của người ở lại đối với người đã khuất.

Tóm tắt Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc - Mẫu 9

Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc được Nguyễn Đình Chiểu viết để tưởng nhớ công ơn của những người nông dân đã anh dũng đứng lên chống giặc. Năm 1858, giặc Pháp đánh vào Đà Nẵng, nhân dân Nam Bộ đứng lên chống giặc. Năm 1861, vào đêm 14 -12, nghĩa quân tấn công đồn giặc ở Cần Giuộc trên đất Gia Định, gây tổn thất cho giặc, nhưng cuối cùng lại thất bại. Bài văn tế tuy được viết theo yêu cầu của tuần phủ Gia Định, song chính là những tình cảm chân thực của Đồ Chiểu dành cho những người đã xả thân vì nghĩa lớn.

Văn tế (ngày nay gọi là điếu văn) là thể văn thường dùng để đọc khi tế, cúng người chết, nó có hình thức tế - tưởng. Bài văn tế thường có các phần: Lung khởi (cảm tưởng khái quát về người chết); Thích thực (hồi tưởng công đức của người chết); Ai vãn (than tiếc người chết); Kết (nêu lên ý nghĩa và lời mời của người đứng tế đối với linh hồn người chết). Bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc có kết cấu đủ bốn phần như vậy.

Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, lần đầu tiên trong lịch sử văn học dân tộc có một tượng đài nghệ thuật sừng sững về người nông dân tương xứng với phẩm chất vốn có ngoài đời của họ - người nông dân nghĩa sĩ chống giặc, cứu nước. Đó là những con người vốn hiền lành chất phác chỉ quen với chuyện “ruộng trâu ở trong làng bộ” nhưng khi đất nước đứng trước nạn ngoại xâm họ đã dám đứng lên chống lại kẻ thù mạn.

Tóm tắt Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc - Mẫu 10

Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là tác phẩm của Nguyễn Đình Chiểu, viết để tưởng nhớ công ơn của những người nông dân dũng cảm đã đứng lên chống giặc. Năm 1858, quân Pháp xâm lược Đà Nẵng, dân Nam Bộ đồng lòng chống lại giặc. Vào đêm 14 - 12 năm 1861, nghĩa quân tấn công đồn giặc ở Cần Giuộc, Gia Định, gây tổn thất cho kẻ thù, nhưng cuối cùng vẫn thất bại. Bài văn tế được viết theo yêu cầu của tuần phủ Gia Định, nhưng chứa đựng tình cảm chân thành của Đồ Chiểu dành cho những người hy sinh vì nền nghĩa lớn.

Tóm tắt Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc - Mẫu 11

Tác phẩm này là một bài văn tế, viết để tôn vinh những nghĩa sĩ đã hy sinh trong trận tập kích tại đồn quân Pháp ở Cần Giuộc. Nó kể về cuộc chiến đấu dũng cảm, sự hi sinh của các nghĩa sĩ và thể hiện sự đau buồn, mất mát, lòng biết ơn của những người còn sống đối với những người đã ra đi.

Tóm tắt Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc - Mẫu 12

Bài văn tế như bức tượng đài bằng ngôn từ, tạc khắc nên hình tượng những người nghĩa sĩ nông dân hào hùng mà bi tráng, tượng trưng cho tinh thần yêu nước, căm thù giặc ngoại xâm của cha ông ta. Bức tượng đài ấy là dấu mốc thể hiện cả một bi kịch lớn của dân tộc - bi kịch mất nước, và báo hiệu một thời kỳ lịch sử đen tôi của dân tộc ta - thời kỳ một trăm năm Pháp thuộc. Nhưng thật hào hùng, trong cái bi kịch lớn ấy, tinh thần bất khuất của nhân dân Nam Bộ nói riêng và nhân dân Việt Nam nói chung vẫn ngời sáng bởi cái lí tưởng cao đẹp của nghĩa sĩ Cần Giuộc - những người sẵn sàng hi sinh vì nghĩa lớn, vì dân tộc.

Tóm tắt Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc - Mẫu 13

Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc được Nguyễn Đình Chiểu viết để tưởng nhớ công lao của những người nông dân đã anh dũng đứng lên chống giặc. Năm 1858, giặc Pháp đánh vào Đà Nẵng, nhân dân Nam Bộ đứng lên chống giặc. Năm 1861, vào đêm 14 -12, nghĩa quân tấn công đồn giặc ở Cần Giuộc trên đất Gia Định, gây tổn thất cho giặc, nhưng cuối cùng lại thất bại. Bài văn tế tuy được viết theo yêu cầu của tuần phủ Gia Định, song chính là những tình cảm chân thực của Đồ Chiểu dành cho những người đã xả thân vì nghĩa lớn.

Tóm tắt Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc - Mẫu 14

Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc do Nguyễn Đình Chiểu sáng tác để tưởng nhớ công ơn của những người nông dân đã anh dũng đứng lên chống giặc. Năm 1858, giặc Pháp đánh vào Đà Nẵng, nhân dân Nam Bộ đứng lên chống giặc. Năm 1861, vào đêm 14 -12, nghĩa quân tấn công đồn giặc ở Cần Giuộc trên đất Gia Định, gây tổn thất cho giặc, nhưng cuối cùng lại thất bại. Bài văn tế tuy được viết theo yêu cầu của tuần phủ Gia Định, song chính là những tình cảm chân thực của Đồ Chiểu dành cho những người đã xả thân vì nghĩa lớn.

Văn tế (hiện nay thường gọi là điếu văn) là thể văn thường dùng trong các nghi lễ tế, cúng người đã khuất. Bài văn tế thường bao gồm các phần: Lung khởi (cảm tưởng chung về người đã qua đời); Thích thực (tưởng nhớ công đức của người đã mất); Ai vãn (bày tỏ lòng than khóc); Kết (nêu lên ý nghĩa và lời kính mời của người viết đối với linh hồn người đã khuất). Bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc cũng có đủ bốn phần như vậy.

Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, lần đầu tiên trong lịch sử văn học dân tộc có một tượng đài nghệ thuật sừng sững về người nông dân tương xứng với phẩm chất vốn có ngoài đời của họ - người nông dân nghĩa sĩ chống giặc, cứu nước. Đó là những con người vốn hiền lành chất phác chỉ quen với chuyện 'ruộng trâu ở trong làng bộ' nhưng khi đất nước đứng trước nạn ngoại xâm họ đã dám đứng lên chống lại kẻ thù mạn.

Tóm tắt Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc - Mẫu 15

"Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc" được Nguyễn Đình Chiểu viết nhằm vinh danh những nông dân đã dũng cảm đứng lên chống lại kẻ thù. Vào năm 1858, khi quân Pháp tấn công Đà Nẵng, nhân dân Nam Bộ đã đồng lòng kháng cự. Đến năm 1861, vào đêm 14 - 12, nghĩa quân đã thực hiện cuộc tấn công vào đồn giặc ở Cần Giuộc thuộc Gia Định, gây thiệt hại cho quân địch, nhưng cuối cùng đã thất bại. Mặc dù bài văn tế được viết theo yêu cầu của tuần phủ Gia Định, nó vẫn thể hiện chân thành tình cảm của Nguyễn Đình Chiểu đối với những người đã hy sinh vì lý tưởng cao cả.

Tóm tắt Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc - Mẫu 16

Bài “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” do Nguyễn Đình Chiểu viết để tưởng nhớ những nông dân đã dũng cảm đứng lên chống giặc. Năm 1858, khi quân Pháp tấn công Đà Nẵng, nhân dân Nam Bộ đã kháng cự. Đến năm 1861, vào đêm 14 - 12, nghĩa quân đã tấn công đồn giặc tại Cần Giuộc thuộc Gia Định, gây thiệt hại cho quân địch, nhưng cuối cùng thất bại. Mặc dù bài văn tế được viết theo yêu cầu của tuần phủ Gia Định, nó vẫn thể hiện cảm xúc chân thành của Đồ Chiểu dành cho những người đã hy sinh vì nghĩa lớn. Văn tế, hiện nay được gọi là điếu văn, là thể văn thường dùng để đọc khi tế, cúng người đã qua đời, với hình thức tế và tưởng. Một bài văn tế thường bao gồm các phần: Lung khởi (cảm tưởng tổng quát về người đã chết); Thích thực (hồi tưởng công đức của người đã chết); Ai vãn (than tiếc người đã chết); và Kết (nêu lên ý nghĩa và lời mời của người đứng tế đối với linh hồn người chết). Bài “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” có đầy đủ bốn phần này. Bài “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” là một tượng đài nghệ thuật trong lịch sử văn học dân tộc, phản ánh phẩm chất của người nông dân đã chống giặc và cứu nước. Những nông dân này, vốn hiền lành và chỉ quen với công việc đồng áng, đã dũng cảm đứng lên chống lại kẻ thù khi đất nước gặp nguy hiểm.

Tóm tắt Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc - Mẫu 17

Tác phẩm là một bài văn tế viết để tưởng nhớ những nghĩa sĩ đã hy sinh trong cuộc tấn công vào đồn quân Pháp ở Cần Giuộc. Tác phẩm mô tả sự dũng cảm và hy sinh của các nghĩa sĩ, đồng thời bày tỏ nỗi đau thương, mất mát, cùng lòng kính trọng và biết ơn của những người còn sống đối với những người đã khuất. "Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc" được Nguyễn Đình Chiểu soạn để đọc trong buổi truy điệu các anh hùng nghĩa sĩ nông dân đã hi sinh trong trận đánh đồn giặc ở Cần Giuộc vào năm 1861. Dù trận đánh đã tiêu diệt một số quan quân giặc và bọn quan lại phản quốc, nhưng khoảng hai mươi nghĩa sĩ đã hy sinh anh dũng, để lại sự xúc động sâu sắc trong lòng nhân dân. Do đó, tác phẩm của Nguyễn Đình Chiểu phản ánh phần nào nỗi xót xa của quần chúng nhân dân đối với những người lính áo vải trong trận chiến tại Cần Giuộc.

Tóm tắt Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc - Mẫu 18

Văn bản "Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc" là một bài văn tế được viết nhằm tưởng niệm các nghĩa sĩ đã hy sinh trong trận tấn công vào đồn quân Pháp ở Cần Giuộc. Bài văn kể lại những chiến công và sự hy sinh anh dũng của các nghĩa sĩ, đồng thời thể hiện nỗi đau, mất mát, cũng như lòng kính trọng và biết ơn của những người còn sống đối với các anh hùng đã qua đời. "Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc" được Nguyễn Đình Chiểu soạn để đọc trong buổi lễ truy điệu các nghĩa sĩ nông dân đã hy sinh trong cuộc tập kích đồn giặc ở Cần Giuộc vào năm 1861. Dù trận đánh đã tiêu diệt một số quan quân của giặc và bọn quan lại phản quốc, khoảng hai mươi nghĩa sĩ vẫn đã anh dũng hy sinh, để lại sự xúc động sâu sắc trong lòng nhân dân. Do đó, tác phẩm của Nguyễn Đình Chiểu phần nào phản ánh nỗi xót xa của quần chúng đối với những người lính áo vải trong trận chiến quyết liệt tại Cần Giuộc.

Tóm tắt Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc - Mẫu 19

Nguyễn Đình Chiểu viết “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” để tưởng nhớ những nông dân anh dũng đã chống lại giặc. Khi quân Pháp tấn công Đà Nẵng vào năm 1858, nhân dân Nam Bộ đã đứng lên chống trả. Đến đêm 14 - 12 năm 1861, nghĩa quân tấn công đồn giặc tại Cần Giuộc, Gia Định, gây thiệt hại cho quân địch nhưng cuối cùng thất bại. Bài văn tế, dù được viết theo yêu cầu của tuần phủ Gia Định, vẫn chứa đựng những tình cảm chân thật của Đồ Chiểu đối với những người đã hy sinh vì nghĩa lớn. Văn tế, hiện nay gọi là điếu văn, là thể văn được dùng để đọc trong các nghi lễ tế cúng người đã qua đời, mang hình thức tế và tưởng. Một bài văn tế thường có các phần sau: Lung khởi (cảm tưởng tổng quát về người chết); Thích thực (hồi tưởng công đức của người chết); Ai vãn (than tiếc người chết); và Kết (nêu ý nghĩa và lời mời của người đứng tế đối với linh hồn người chết). Bài “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” có đầy đủ các phần này. “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” lần đầu tiên trong lịch sử văn học dân tộc dựng nên một tượng đài nghệ thuật vững chắc về phẩm chất của người nông dân. Những nông dân này, vốn hiền lành và chỉ quen với công việc đồng áng, đã can đảm đứng lên chống lại kẻ thù khi đất nước gặp nguy hiểm.

Bố cục Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc

- Phần 1 (từ đầu đến “tiếng vang như mõ”) – phần Lung khởi: Khái quát về cuộc đời những người nghĩa sĩ Cần Giuộc.

- Phần 2 (từ “Nhớ linh xưa” đến “tàu đồng súng nổ”) – phần Thích thực: Kể lại cuộc đời, công đức của những người nghĩa sĩ.

- Phần 3 (từ “Ôi!” đến “cơn bóng xế dật dờ trước ngõ”) – phần Ai vãn: Lời thương tiếc trước sự ra đi của người đã khuất.

- Phần 4 (đoạn còn lại) – phần Kết: Lòng biết ơn, sự khẳng định đối với những công lao, phẩm tiết của những người nghĩa sĩ.

Đánh giá

0

0 đánh giá