Tài liệu tác giả tác phẩm Dòng Mê Kông “giận dữ” Ngữ văn lớp 12 Chân trời sáng tạo gồm đầy đủ những nét chính về văn bản như: tóm tắt, nội dung chính, bố cục, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật, hoàn cảnh sáng tác, ra đời của tác phẩm, dàn ý từ đó giúp học sinh dễ dàng nắm được nội dung bài Dòng Mê Kông “giận dữ” lớp 12.
Tác giả tác phẩm: Dòng Mê Kông “giận dữ” - Ngữ văn 12
I. Tác giả
- Theo Hoàng Nam, Thu Hằng, Hoàng Khánh, Thanh Hạ
1. Thể loại
- Tác phẩm Dòng Mê Kông “giận dữ” thuộc thể loại: văn bản thông tin.
2. Xuất xứ
- Theo https:vnexpress.net/dong-mekong-gian-du-4634044.html.
3. Phương thức biểu đạt
- Phương thức biểu đạt chính: thuyết minh.
4. Tóm tắt
Văn bản đưa cho người đọc những thông tin khẩn cấp về tình hình nguy hiểm, sạt lở tại dòng sông Mê Kông cùng những hậu quả của nó đi kèm.
5. Bố cục đoạn trích
- Phần 1 (từ đầu đến … hai bên bờ): tình hình thiệt hại tại sông Mê Kông.
- Phần 2 (tiếp theo đến …quá mức): sông đói “ngoạm” bờ.
- Phần 3 (tiếp theo đến … nghiêm trọng): nợ cát, phải trả bằng cát.
- Phần 4 (đoạn còn lại): món nợ với dòng sông.
6. Giá trị nội dung
- Văn bản đã cung cấp thông tin hiện trạng sạt lở ở dòng sông Mê Kông và những hệ quả của nó.
7. Giá trị nghệ thuật
- Thông tin xác thực, trình bày logic.
1. Thông tin cơ bản của văn bản
- Thông tin cơ bản: Xây dựng hàng loạt đập thủy điện ở Trung Quốc - thượng nguồn Mê Kông dẫn đến thiếu phù sa.
- Thông tin chi tiết:
+ Hàng loạt đập thủy điện ở Trung Quốc - thượng nguồn Mê Kông đi vào hoạt động → lượng phù sa mịn tại hạ nguồn giảm.
+ Hệ quả:
• Tỉ lệ xói - bồi ngày càng chênh lệch ở hầu hết các địa phương.
• Sạt lở nhiều ở các tỉnh dọc sông Tiền.
• Cả dòng sông và con người đều trong cơn “khát” cát.
• Nghiên cứu của SIWRR từ 2012 kết luận: Nếu không có khai thác cát, diễn biến xói bồi sẽ rất ít.
• Năm 2022, kết luận được chỉ ra rằng: Hơn 80% nguyên nhân là do tác động của con người khi nạo vét lòng dẫn và khai thác cát quá mức.
- Vai trò của những thông tin chi tiết:
+ giúp cho người đọc dễ dàng hình dung và nhận biết được quá trình và những nguyên nhân, hậu quả mà việc làm của con người gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc bồi đắp phù sa và gây ra xói - bồi.
+ người đọc hiểu một cách rõ ràng về những hành động của con người đang tác động trực tiếp, khai thác quá mức đến độ báo động gây ra nhiều thiệt hại nghiêm trọng, đáng quan tâm.
- Việc tác giả sử dụng những từ ngữ như vết thương, nội soi tổng quát, cơ thể tự nhiên trong phần văn bản trên có tác dụng:
+ thể hiện một cách chi tiết, gợi hình, giúp cho người đọc dễ dàng hình dung được tình trạng của các con sông khi bị con người tác động xấu một cách mạnh mẽ.
+ cho thấy sự độc đáo trong sử dụng từ ngữ của tác giả, gợi trí tưởng tượng phong phú cho người đọc.
IV. Đọc tác phẩm: Dòng Mê Kông “giận dữ”
Dòng Mê Kông “giận dữ”
Theo Hoàng Nam, Thu Hằng, Hoàng Khánh, Thanh Hạ
Không có gì bất thường vào chiều ngày 05/12/2022, cho đến khi ông Võ Minh Thảo (48 tuổi, Vĩnh Long) thấy mực nước mương dâng cao dồn dập. Ông vội vã lao về nhà. Vừa chạy, ông vừa gọi người nhờ kẻ cao đồ đạc lên cho khỏi ngập. Lúc đó, ông chỉ nghĩ nước dâng cao sẽ tràn vô nhà như lũ cuốn.
Ông dã lầm. Đặt chân đến nhà, ông thấy mảnh vườn trước cửa biến mất, bỏ lại căn nhà chơi vơi ngay mé sông. Đất liên tục sạt xuống, khoét sâu vào bờ hàng trăm mét. [...] Hon 10 phút sau, lở đã đuổi đến chân nhà. Đất roi, tường nút, mái tôn vặn vẹo. Chưa tới một giờ từ lúc thấy con đê vỡ, căn nhà cấp bốn cùng hơn 1.000 chậu lan và vườn cây ăn trái 9 công đất của gia đình đã nằm sâu dưới lòng sông. Gia tài dành dụm từ đời cha phút chốc bị nhấn chìm. Điều duy nhất khiến ông nhẹ lòng là mẹ và các con không ở nhà khi đó. Mất của, nhưng cả gia đình nguyên vẹn.
Từ trên cao, bãi bởi như “lát bánh mì” bị dòng sông đang “đói” ngoạm mất một mảng lớn. Hôm đó, cù lao An Bình sạt lở hơn 41 500 m, khiến 30 hộ dân rơi vào cảnh mất nhà, tài sản, thiệt hại lên đến 35 tỉ đồng.
Sạt lở bất thường không phải chuyện của riêng tỉnh Vĩnh Long, mà là nỗi đau chung của hàng triệu dân miền Tây từ hai thập kỉ nay. Tình trạng sạt lở bờ sông tại khu vực Đồng bằng sông Cửu Long đang ở mức báo động với 585 điểm, dài trên 741 km. Trong đó, 87 điểm với 135 km thuộc nhóm đặc biệt nguy hiểm – ảnh hưởng trực tiếp đến khu dân cư, hạ tầng quan trọng dù được bảo vệ bởi để. Còn lại là sạt lở nguy hiểm (155 điểm – 306 km) và bình thường (343 điểm – 300 km). Sạt lở bờ sông, kênh, rạch tập trung ở các tỉnh đầu nguồn như An Giang, Đồng Tháp, và các khu vực chuyển tiếp giữa vùng chịu ảnh hưởng của triều và thượng nguồn như Cần Thơ, Tiền Giang, Vĩnh Long, đến ven biển như Cà Mau, Sóc Trăng. Theo các chuyên gia, từ năm 1992 đến nay, sạt lở thoát ra khỏi quy luật tự nhiên và ngày càng tăng cấp.
[...] Theo ông Mác Goi-chot (Marc Goichot), nguyên nhân gốc rễ dẫn đến sạt lở tại Đồng bằng sông Cửu Long là thiếu cát và phù sa, tạo nên những dòng nước đói. Khi dòng sông không còn trầm tích để lấp các hố sâu dưới đáy, “con đói” sẽ ăn vào đất hai bên bờ.
Sông đói “ngoạm” bờ
Chuỗi ngày thiếu phù sa được kích hoạt khi loạt đập thuỷ điện ở Trung Quốc – thượng nguồn Mê Kông – đi vào hoạt động. Tải lượng phù sa mịn tại hạ nguồn đã giảm khoảng 50% – từ 160 triệu tấn mỗi năm (1992) còn 85 triệu tấn (2014). Dự báo sau khi 11 đập thuỷ điện ở hạ lưu hoàn tất, tải lượng phù sa mịn sẽ giảm thêm một nửa, từ 85 còn 42 triệu tấn. Đến năm 2040, chỉ còn 4,5 triệu tấn trầm tích đổ về Đồng bằng sông Cửu Long.
Hệ quả là tỉ lệ xói – bồi ngày càng chênh lệch ở hầu hết địa phương. Các tỉnh dọc sông Tiền như An Giang, Đồng Tháp, Tiền Giang,... sạt lở nhiều hơn khu vực sông Hậu do lưu lượng dòng chảy lớn.
Trong khi cát từ thượng nguồn về hạ lưu ngày càng ít đi, nhu cầu sử dụng lại tăng đột biến. Cả dòng sông và con người đều trong con “khát” cát. Khi mất đi nguồn dinh dưỡng tự nhiên, dòng sông “đòi” lại những gì đã cho con người trước đó. Mười năm trước, tại chính cù lao An Bình này, dòng sông đã đưa ra cảnh báo về cơn giận của mình. 21 giờ ngày 29/10/2012, bãi bồi ở ấp An Long, xã An Bình – cách nhà ông Thảo 10 km, bất ngờ sạt lở. Khoảng 8.000 m2 đất bị “nuốt chửng” cùng 4 ao và 23 bè cá của 8 hộ dân. “Sau vụ đó coi như mất hết”, bà Phạm Thị Sáu (75 tuổi), một trong những nạn nhân khi đó, kể lại. [...] Năm tháng sau vụ sạt lở, nguyên nhân được Viện Khoa học thuỷ lợi miền Nam (SIWRR) xác định là khai thác cát và nạo vét lòng dẫn. Cù lao An Bình khi đó bị bủa vây bởi các mỏ cát ở hai bên bờ, ngày đêm hút cát từ lòng sông.
Nghiên cứu của SIWRR từ năm 2012 kết luận nếu không có khai thác cát, diễn biến xói bồi sẽ rất ít. Tốc độ trung bình chỉ nhỏ hơn một mét mỗi năm, nhưng khảo sát địa hình đáy sông khi đó phát hiện nhiều nơi bị hạ thấp từ 2 đến 7 m. Vị trí xảy ra sạt lở đáng lẽ phải được bồi tụ nhờ lượng cát về hằng năm, nhưng hoạt động khai thác cát đã làm cho lòng sông không kịp phục hồi và tiếp tục bị sâu xuống. Theo chuyên gia, việc hình thành hố xói sâu cục bộ – nguyên nhân trực tiếp gây sạt lở – là hệ quả của quá trình khai thác cát. Bởi đây vốn là đoạn sông thẳng nên dòng chảy không thể tạo ra các hố sâu gây sạt lở. “Để hình thành hố xói sâu như vậy nếu chỉ do tác động của dòng chảy thì phải mất rất nhiều năm. Tuy nhiên, chỉ trong thời gian ngắn, lòng dẫn có những vị trí bị hạ thấp gần 10 m, chứng tỏ phải có tác động của con người”, ông Lê Thanh Chương, người trực tiếp tham gia khảo sát lúc đó, nhận định.
Đúng 10 năm sau, các chuyên gia của Viện SIWRR quay trở lại chốn cũ, lặp lại công việc điều tra, nhưng với những nạn nhân mới. Sự cố sạt lở lịch sử cuối năm 2022 tại cù lao An Bình một lần nữa được chỉ ra rằng, hơn 80% nguyên nhân là do tác động của con người khi nạo vét lòng dẫn và khai thác cát quá mức.
Nợ cát, phải trả bằng cát
“Hiện tượng sạt lở có mối quan hệ nhân quả, mà trong đó lòng sông là tiền đề và bờ lở là kết quả”, ông Hà Huy Anh nói. Theo WWF – Việt Nam, các nghiên cứu khoa học gần đây chỉ ra rằng Đồng bằng sông Cửu Long đang mất cân bằng trầm tích nghiêm trọng. Mỗi năm, khối lượng cát đổ về vùng châu thổ này là 6,8 – 7 triệu tấn, trong khi lượng khai thác cát là 28 – 40 triệu tấn. Cùng với lượng cát đổ ra biển khoảng 6,5 triệu tấn, mỗi năm, đồng bằng bị thâm hụt ít nhất 27,5 triệu tấn cát. Hệ luy là nhiều đoạn sông không còn cát. Một số đoạn do bị khai thác cát sỏi quá mức đã tạo nên các “lòng chảo”. Lòng sông bị hạ thấp, dẫn đến cao độ mực nước trên các tuyến sông giảm, thay đổi chế độ thuỷ văn dòng chảy. [...]
Hiện Đồng bằng sông Cửu Long có hơn 80 doanh nghiệp được cấp phép khai thác cát, khối lượng khoảng 28 triệu tấn mỗi năm. Cùng vấn nạn khai thác cát “lậu” ở nhiều nơi, khối lượng cát mất đi là không thể kiểm soát.
[…] Quá trình khai thác cát tạo nên các hố sâu dưới lòng sông. Để lấp khoảng trống này, dòng sông cần cát từ thượng nguồn đổ về. Tuy nhiên, các đập thuỷ điện giữ phù sa khiến lượng vật chất về hạ nguồn giảm. Theo quy luật, dòng chính sẽ bòn rút bùn, cát từ đáy các sông chính, và dây chuyền “rút đáy sông” lan đến các nhánh phụ nhỏ hơn. “Đó là lúc sạt lở lan toả khắp đồng bằng, vào cả các kênh nhỏ – nơi không khai thác cát”, ông Nguyễn Hữu Thiện nói. Trong khi đó, ở cửa biển, lớp “áo giáp” bảo vệ đồng bằng cũng tả tơi vì thiếu phù sa, bất lực trước những con sóng ập vào bờ. Hậu quả là gần 400 km bờ biển của Đồng bằng sông Cửu Long đang sạt lở nghiêm trọng. […]
Món nợ với dòng sông
Sau vụ sạt lở năm 2012, bà Sáu cùng 7 hộ dân khởi kiện công ty khai thác cát, đòi bồi thường hơn 130 triệu đồng thiệt hại. [...] Mất 4 năm sau sự cố, bà Sáu mới được công ty khai thác cát đền bù 42,5 triệu.
Khi “vết thương” ở bờ sông vừa tạm lành, các cơ quan chuyên môn lại phát hiện mối nguy ' mới nhiều khả năng sẽ phức tạp hơn cho cù lao An Bình. Lòng sông như một cơ thể bị bạc đãi lâu ngày, sau cuộc “nội soi tổng quát” bắt đầu phát lộ những vết thương sâu âm ỉ. Kết quả thăm dò xác định một đoạn sông hơn 300 m có nguy cơ sạt lở cao bởi lòng sông đã bị bào mòn, mái bờ rất dốc. Bò đối diện tại thành phố Vĩnh Long cũng xuất hiện nhiều lạch sâu sát bờ từ 28 đến 38 m với độ ổn định thấp, nguy cơ sạt lở cao. [...]
“Dòng chảy mang cát và phù sa tạo nên dòng sông, dòng sông nuôi con người, và khi con người tác động tới dòng chảy, phù sa và bùn cát, nó lấy lại, đôi khi là cả tính mạng con người”, Tiến sĩ Nguyễn Nghĩa Hùng nói. Ông Hùng ví lưu vực sông như một cơ thể sống. Mọi tác động qua lại giữa con người và dòng sông đều mang tính nhân quả, có tầm ảnh hưởng liên khu vực. Các hành động làm thay đổi “cơ thể tự nhiên” của dòng sông như chặt phá rừng, xây dựng đập hay khai thác cát, đều sẽ phải “trả giá”.
Những người sống phụ thuộc nhiều nhất vào sông Mê Kông đang phải trả giá cho những lỗi lầm không phải họ gây ra, và họ lại là người có ít quyền kiểm soát nhất đối với dòng sông. Như bà Sáu, sau nhiều năm tích cóp, đến nay cuộc sống mới dần ổn định. Bà gầy dựng lại một công ruổi ao cá giống, cùng 6 lồng bè nuôi cá chốt đồng đang mùa “vỗ béo”. “Nếu thuận lợi, mỗi lứa 6 tháng cũng thu lợi nhuận hàng trăm triệu đồng nhưng với điều kiện đừng ai múc cát nữa”, bà Sáu nói. Còn xóm cũ của ông Thảo, sau nửa năm, giờ đã thành bãi sông rộng lục bình phủ kín, là ngư trường cho dân địa phương. Dân làng khu sạt lở hầu như được chuyển đi, cách xa dòng sông từng nuôi dưỡng họ, để lại những tường gạch nham nhở, bơ vơ giữa trời. Về dữ liệu: Dữ liệu trong bài được cung cấp bởi Viện Khoa học Thuỷ lợi miền Nam, WWF – Việt Nam và tổng hợp từ các địa phương.
(https://vnexpress.net/dong-mekong-gian-du-4634044.html)
V. Văn mẫu