Tài liệu tác giả tác phẩm Trên những chặng đường hành quân Ngữ văn lớp 12 Chân trời sáng tạo gồm đầy đủ những nét chính về văn bản như: tóm tắt, nội dung chính, bố cục, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật, hoàn cảnh sáng tác, ra đời của tác phẩm, dàn ý từ đó giúp học sinh dễ dàng nắm được nội dung bài Trên những chặng đường hành quân lớp 12.
Tác giả tác phẩm: Trên những chặng đường hành quân - Ngữ văn 12
I. Tác giả Nguyễn Văn Thạc
- Nguyễn Văn Thạc (1952 – 1972), quê ở làng Bưởi, Tây Hồ, Hà Nội.
- Năm 1971, khi đang là sinh viên khoa Toán – Cơ, trường Đại học Tổng hợp Hà Nội ông gác bút nghiên để nhập ngũ.
II. Tìm hiểu văn bản Trên những chặng đường hành quân
1. Thể loại
- Tác phẩm Trên những chặng đường hành quân thuộc thể loại: Nhật kí.
2. Xuất xứ
- In trong Mãi mãi tuổi 20, Nguyễn Văn Thạc, tái bản lần thứ 11, NXB Thanh Niên, 2011, tr.39 – 41; tr.214 – 218.
3. Phương thức biểu đạt
- Phương thức biểu đạt: tự sự.
4. Tóm tắt Trên những chặng đường hành quân
Văn bản Trên những chặng đường hành quân - một phần trong nhật ký của Nguyễn Văn Thạc, đã ghi lại những kỷ niệm đáng nhớ trong cuộc sống của anh trong quân ngũ. Anh đã trải qua những chặng đường đầy gian khó, nhưng cũng đầy ý nghĩa. Những bước chân của anh đã đi qua những vùng đất yên bình, nhưng cũng đánh dấu bằng máu và mồ hôi của người lính.
5. Bố cục Trên những chặng đường hành quân
- Phần 1 (từ đầu đến mùa quả chín): anh nhập ngũ.
- Phần 2 (tiếp theo đến dữ dội ấy): bối cảnh của cuộc hành quân dưới con mắt của anh.
- Phần 3 (đoạn còn lại): những trải nghiệm đáng nhớ của anh khi hành quân.
6. Giá trị nội dung
- Mãi mãi tuổi hai mươi ghi chép về cuộc sống của người lính binh nhì với nhiều gian khổ nhưng ngời sáng lí tưởng, tràn đầy ước mơ, hòa bão và tình yêu thiết tha với Tổ quốc, quê hương, gia đình, bạn bè… trong thời kì dân tộc ta kháng chiến chống đế quốc Mỹ, đấu tranh thống nhất đất nước.
7. Giá trị nghệ thuật
- Sử dụng nhiều biện pháp nghệ thuật tăng tính biểu đạt cho tác phẩm.
- Sử dụng ngôi kể và điểm nhìn chân thực giúp tăng độ tin cậy của câu chuyện.
III. Tìm hiểu chi tiết văn bản Trên những chặng đường hành quân
1. Mãi mãi tuổi hai mươi là một cuốn nhật kí
- Thuật lại các sự kiện mà bản thân đã chứng kiến, trải nghiệm: “tôi” tạm biệt mái trường đại học bước vào đời quân ngũ, lần đầu tiên đứng gác, ở trọ nhà dân, tạm biệt Hà Nội lên đường vào chiến trường miền Nam.
- Các nội dung được thể hiện dưới dạng ghi chép hàng ngày, có đánh số ngày, tháng, năm.
- Không chỉ đơn thuần là ghi chép đơn thuần mà còn có giá trị văn học. Ngôn ngữ và hình ảnh chọn lọc, giàu chất thơ và sức gợi. Tình yêu quê hương, Tổ quốc chan chứa trong những trang nhật kí, truyền đến người đọc niềm xúc động sâu xa.
2. Cảm xúc của nhân vật tôi và bối cảnh cuộc hành quân
- Cảm giác tự hào, vui sướng xen lẫn xao xuyến khôn nguôi khi đến tuổi nhập ngũ, được khoác lên mình bộ quân phục xanh màu lá, trên đầu đội mũ có hình ngôi sao. Bên cạnh đó, tác giả hiểu được trách nhiệm của mình hơn đối với gia đình, người mình yêu thương, đồng độ và cao cả hơn là dân tộc Việt Nam.
- Cuộc hành quân đi đến Nghi Lộc - Nghệ An, đây là nơi trải qua cuộc chiến tranh khốc liệt với những trận ném bom của giặc. Trong bối cảnh cuộc hành quân, người con trai ấy gặp được những con người khác nhau.
3. Yếu tố hư cấu
- Văn bản trên không sử dụng các yếu tố hư cấu. Hầu như mọi sự việc, con người đều được ghi chép lại hết sức chân thực, với địa danh có thực, ngày, tháng xác định.
- Bởi nhật kí được viết do nhu cầu ghi chép lại những sự việc vừa xảy ra, hoặc xảy ra chưa lâu và mục đích ban đầu chỉ viết cho riêng mình, vì thế, nhìn chung yếu tố hư cấu là không phù hợp.
4. Biện pháp tu từ
- So sánh: Buổi gác đầu tiên được ví như “đêm trăng”; “bài thơ”, “trang nhật kí” khiến cho hình ảnh buổi gác đầu tiên trở nên độc đáo, trữ tình; “những mái nhà nghiêng” được ví “như mi mắt” nhằm tăng tính tạo hình, đầy trìu mến, thân thương.
- Nhân hóa: “Ơi xóm làng yêu quý” khiến hình ảnh trở nên có hồn, sinh động qua tiếng gọi của người lính trẻ.
- Điệp ngữ: “Ngủ yên, ngủ yên” như sự vỗ về nhằm nhấn mạnh niềm mong mỏi làng quê bình yên.
- Điệp ngữ với liệt kê: “Bưởi đã cuối mùa, ổi đã cuối mùa…” tăng tính biểu cảm cho câu văn. Thiên nhiên chuyển động báo hiệu mùa quả ngọt đang về.
IV. Đọc tác phẩm Trên những chặng đường hành quân
Trên những chặng đường hành quân…
(trích nhật kí Mãi mãi tuổi hai mươi)
Nguyễn Văn Thạc
2/10/1971
[...] Mình đi, khi bạn đang bước vào năm học mới. Bước lên giảng đường, bạn có nhớ tới mình không?... Đừng, hãy để tâm hồn trọn vẹn thanh thản, mà đón một mùa xuân của lòng mình. Trang đầu của cuộc đời sinh viên, dùng để rơi một giọt mực, đừng để loang lổ một vết ố vàng...
Xe ơi, lao nhanh hơn, cho ta chóng tới gia đình lớn. Nơi ta gửi gắm cả thời thanh xuân của mình...
Hơn cả khi trên tay phập phồng tờ quyết đinh, vui sướng, tự hào, cảm động làm sao khi trên người ta là bộ quân phục xanh màu lá. Anh sinh viên quen màu trắng áo của cánh cò, quen màu xanh da trời tháng nắng... Mình trút bỏ không thương tiếc, và trìu mến khoác lên mình màu xanh ấy. Màu xanh của núi đồi và thảo nguyên, của ước mơ và hi vọng. Màu xanh bất diệt của sự sống.
Trên mũ là ngôi sao. Ta lặng ngắm ngôi sao, như hồi nào ta chỉ cho bạn: kia là sao Hôm yêu dấu... Nhưng khác hơn một chút. Bây giờ, ta đọc trong ngôi sao ấy, ánh lửa cầu vồng của trận công đồn, màu đỏ của lửa, của máu... Ta như thấy trong màu kì diệu ấy, có cả hồng cầu của trái tim ta...
Ai ra đi cũng với lòng say lí tưởng, và nhẹ nhẹ bên trong là chút ước mơ. Buổi gác dầu tiên là đệm trăng sáng, là bài thơ, là một trang nhật kí... Sung sướng và hãnh diện biết bao, ơi xóm làng yêu quý, ngủ yên, ngủ yên, có anh bộ đội thức canh trời. Những mái nhà nghiêng như mi mắt thân thương, nhắm ngủ ngon lành... Ta bước nhẹ, lâng lâng một mùi hương quen thuộc. Bưởi đã cuối mùa, ổi đã cuối mùa... Cây lá đang dồn nhựa để trổ ra một mùa quả chín...
[...]
10/4/72
Nghi Lộc – Nghệ An...
Dùng lại ở ga Quán Hành. Và bây giờ thì đang ngồi trong nhà dân. Điều bất ngờ nhất là gia đình mình ở có người con trai là thầy giáo của mình. Thầy Khang dạy Toán 2. Còn em nhỏ trong nhà lại là học sinh giỏi của miền Bắc. Mình chợt nhớ: đã đến đất Nghệ An, quê hương của Bác Hồ, của cà dằn mặn muối, của cụ đồ già. Đất này là đất học. Và chính vậy, trong nhà cũng có vẻ gì Nho giáo. Cái bàn nhẵn bóng, mấy cuốn sách giáo khoa và cả cái địa chỉ của cô Kim Loan treo trên góc tường, sinh viên Trường Đại học Sư phạm Vinh cũng nói được phần nào những đặc điểm ấy.
Nhà vắng, chỉ có bà mẹ – mẹ Thung – và bé Hoà. Suốt ngày im ắng, cả ngoài vườn, ngoài ngõ, cả cánh đồng xa tít tắp đang xanh xanh màu lá ngô non, màu khoai và bãi lạc. Quanh nhà cũng có hầm, nhưng hầu hết là lộ thiên và nông. Không ai có thể ngờ đây chính là đất lửa, hay ít ra, gần đến đất lửa.
Ba giờ sáng, ở trên tàu giật mình thúc dậy, thấy bốn bề tối mịt mùng. Cửa sổ trên tàu chỉ thấy lờ mờ những dãy núi im lìm. Bật đèn mãi không sáng, mình bước chân qua chỗ bọn nó nằm ngổn ngang và kéo cầu dao điện – vẫn không sáng. Có đứa đã hét toáng lên, đòi người đến chữa. Vẫn chẳng có gì cả. Chỉ thấy dằng chân trời hừng sáng lên, nhìn rõ cả dám mây hồng. Rồi tiếp theo là tiếng nổ. Tàu không chạy được nữa vì hướng về bối cảnh của cuộc tàu chạy đã bị ném bom. Các cửa chớp được hạ xuống và cấm bật đèn, y như hồi nào ném bom dữ dội ấy.
Thành phố Vinh còn xa, khoảng vài chục cây số nữa. Tối nay, bọn mình sẽ đến đấy, không hiểu có được đi ô tô không, hay là phải cuốc bộ với 30kg trên vai. Dẫu sao vẫn cứ thú vị, vì đây là lần đầu mình đi một chuyến xa như thế. Bây giờ thì xa Hà Nội thực sự rồi. Không còn phải mê ngủ, không còn phải tưởng tượng nữa. Mới hôm kia, còn đang tạm dừng chân ở bãi bạch đàn gần ga Phố Tráng, 4 giờ sáng đã dậy nấu cơm ăn, thì trời đổ mưa tầm tã. Dì tập trung nghe tin chiến thắng của miền Nam, ta đã chiếm hoàn toàn cảng Cửa Việt – và vùng Đồng bằng sông Cửu Long đang ào ào khí thế nổi dậy của hàng chục vạn đồng bào. Lúc ấy, mình ao ước được đến hẳn chiến trường, đến giữa chiến trường mà tận mắt được thấy cảnh tượng hào hùng ấy. Hay ít ra, được đến gần, rất gần chiến trường, được đến Quảng Bình chẳng hạn, ở đó địch đang bắn phá mạnh, dân cư cũng phải sơ tán về Hà Nội – và cũng ở đó đang thắng lớn, có ngày bắn rơi 10 máy bay, có hai chiếc B. 52... “cầu được, ước thấy”- Vừa ao ước thế, vừa buồn vì mình dang ngồi ở đây, dưới trời mưa thanh thản, rồi sắp lên tàu đến Mỏ Trạng, Yên Thế diễn tập. Nhưng ra ga, thì lính ở lên phấn khởi, đầu tàu hướng về phía Hà Nội – “Đi” rồi! Thế là nhất định vào trong ấy. Vội vàng viết thư – Tàu qua Cửa Nam những cánh thư trắng bay ào ào xuống đường – Gửi hộ nhé, gửi hộ nhé – Báo cho những người thân của chúng tôi rằng, chúng tôi đã xa Hà Nội lúc ấy là 12 giờ trưa 9. 4. 72.
Biết bao nhiêu lần hành quân, nhưng chẳng lần nào xúc động như chuyến tàu này cả – Chuyến tàu di đúng con đường dành cho nó – vào Nam. Ở đó, chiến trường đang cần đến những cánh tay khoẻ mạnh đang thò ra cửa sổ toa tàu mà vẫy gọi khách qua đường - Phải, lúc mà một anh bộ đội gặp được người nhà trên sân ga hay dọc theo đường sắt – Thì đó không phải chỉ một mình anh xúc động và vui sướng. Mà đó là niềm vui và nỗi xúc động của tất cả đoàn tàu. Con đi mẹ nhé!
Đi nhé! Đi nhé! Những cô gái cũng hết cả rụt rè giơ cả hai tay lên vẫy, vẫy mãi,... rồi tinh nghịch lấy ngón tay nhỏ xíu trỏ lên đầu nhắc anh bộ đội hãy giữ gìn cuộc sống của mình. Ừ, chết làm sao được cơ chứ, đùa một chút cho vui. Ai cũng bị lây cái không khí rạo rực khí thế lên đường ấy, cả những em bé vừa đứng vững giấu mặt sau hàng rào xi măng mà vẫy. Y cứ xuýt xoa mãi vì ngồi bên cửa sổ, nó nghe rành rọt tiếng một đứa bé chỉ 5, 6 tuổi ở ga Phủ Lý. Các chú đánh xong giặc Mỹ mà về nhé! – Đấy, tiếng nói của trẻ thơ, là ước muốn day dứt của hàng triệu, hàng triệu người trên trái đất.
Ta đi theo tiếng gọi của miền Nam, và cả sự thôi thúc của miền Bắc đang khôi phục – Một nhà ga Ninh Bình vừa dụng bên núi đá, một dòng sông Đáy xanh lững lờ trôi vào bài thơ trữ tình ngọt lịm của Tố Hữu, một chùa Non Nước còn âm vang chiến công của tổ ba người Giáp Văn Khương... Tất cả đang giục giã anh chiến sĩ, hãy đi đi, hãy đi – và chiến thắng.
[...]
(In trong Mãi mãi tuổi hai mươi, Nguyễn Văn Thạc, tái bản lần thứ 11, NXB Thanh niên, 2021, tr. 39 – 41; tr. 214 – 218)
V. Văn mẫu