Hãy cho biết những thành tựu tiêu biểu của quân dân miền Bắc trong giai đoạn 1965-1973

70

Với giải Câu hỏi trang 87 Bài 17 Lịch Sử 9 Kết nối tri thức chi tiết trong Bài 17: Việt Nam kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, thống nhất đất nước giai đoạn 1965 – 1975 giúp học sinh dễ dàng xem và so sánh lời giải từ đó biết cách làm bài tập Lịch Sử 9. Mời các bạn đón xem:

Giải bài tập Lịch sử 9 Bài 17: Việt Nam kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, thống nhất đất nước giai đoạn 1965 – 1975

Câu hỏi trang 87 Lịch Sử 9: Hãy cho biết những thành tựu tiêu biểu của quân dân miền Bắc trong giai đoạn 1965-1973

Trả lời:

- Những thành tựu tiêu biểu của quân dân miền Bắc trong giai đoạn 1965-1973:

+ Đánh bại 2 lần chiến tranh phá hoại của Mĩ.

+ Làm tốt nghĩa vụ hậu phương, chi viện cho tiền tuyến miền Nam.

Lý thuyết Cả nước trực tiếp chiến đấu chống Mỹ, cứu nước (1965-1973)

a) Miền Nam chống chiến lược “Chiến tranh cục bộ” (1965-1968)

♦ Âm mưu và thủ đoạn của Mĩ:

- “Chiến tranh cục bộ” là một chiến lược chiến tranh xâm lược thực dân mới của Mỹ, chủ yếu được tiến hành bằng lực lượng quân đội Mỹ, quân một số nước đồng minh và quân đội tay sai Sài Gòn, trong đó quân Mỹ giữ vai trò chủ yếu.

- Dựa vào vũ khí, phương tiện chiến tranh hiện đại, Mỹ mở các cuộc hành quân “tìm diệt”, “bình định" ở miền Nam và gây chiến tranh phá hoại miền Bắc.

  Nhân dân miền Nam đánh bại chiến lược Chiến tranh cục bộ

- Năm 1965, đẩy lùi cuộc hành quân của quân Mỹ nhằm “tìm diệt” bộ đội chủ lực của ta ở Vạn Tường (Quảng Ngãi) ngày 18-8. Trận Vạn Tường đã mở đầu cao trào "Tìm Mỹ mà đánh, lùng ngụy mà diệt" trên khắp miền Nam.

- Năm 1965-1967: quân dân Việt Nam lần lượt đánh bại cuộc phản công mùa khô 1965-1966 (nhằm vào các căn cứ ở Đông Nam Bộ, khu V) và cuộc phản công mùa khô 1966-1967 (với ba cuộc hành quân lớn “tìm diệt”, “bình định") của quân Mỹ và quân đội tay sai Sài Gòn.

- Năm 1968, Tiến hành cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân vào hầu khắp các đô thị, tiến công các vị trí đầu não của địch (đêm 30, rạng sáng 31-1). Thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân đã: buộc Mỹ phải tuyên bố “phi Mỹ hoá” chiến tranh xâm lược (thừa nhận sự thất bại của chiến lược “Chiến tranh cục bộ”); chấp nhận đàm phán ở Pa-ri (Pháp) để bàn về chấm dứt chiến tranh.

Lý thuyết Lịch Sử 9 Kết nối tri thức Bài 17: Việt Nam kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, thống nhất đất nước giai đoạn 1965 – 1975

Quân Giải phóng Mặt trận Sài Gòn - Gia Định tuyên thệ, nhận nhiệm vụ trước giờ xuất kích

b) Miền Nam chống chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh" của Mỹ (1969-1973)

♦ Âm mưu và thủ đoạn của Mĩ:

Sau thất bại của chiến lược “Chiến tranh cục bộ" Mỹ chuyển sang chiến lược Việt Nam hoá chiến tranh ở miền Nam Việt Nam và mở rộng chiến tranh ra toàn Đông Dương.

- Chiến lược Việt Nam hoá chiến tranh cũng là một chiến lược chiến tranh xâm lược thực dân mới của Mỹ, được tiến hành bằng lực lượng quân đội Sài Gòn là chủyếu (quân Mỹ và quân đóng minh rút dần khỏi chiến tranh), phối hợp với hoả lực, không quân Mỹ và vẫn do có văn Mỹ chỉ huy.

  Nhân dân miền Nam đánh bại chiến lược Việt Nam hóa Chiến tranh

- Đảng chủ trương tiếp tục đẩy mạnh tổng công kích, tổng khởi nghĩa, đẩy mạnh ba mũi giáp công, kết hợp với đấu tranh ngoại giao để đánh bại chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh của Mỹ.

- Thắng lợi trên mặt trận chính trị - ngoại giao:

+ Ngày 6/6/1969, Chính phủ cách mạng lâm thời cộng hòa Miền Nam Việt Nam được thành lập.

+ Trong hai ngày 24 và 25 /4/1970, Hội nghị cấp cao ba nước Đông Dương họp biểu thị quyết tâm chống đế quốc Mĩ.

+ Phong trào phá “ấp chiến lược” ở các vùng nông thôn diễn ra mạnh mẽ.

+ Phong trào đấu tranh của các tầng lớp nhân dân lao động, học sinh, sinh viên,... tại các đô thị diễn ra sôi nổi.

- Thắng lợi trên mặt trận quân sự:

+ Từ 30/4 đến 30/6/1970, liên quân Việt - Campuchia đã đánh bại cuộc hành quân xâm lược Campuchia của Mĩ và chính quyền Sài Gòn.

+ Từ ngày 12/2/1973 đến 23/3/1971, liên quân Việt - Lào đã đánh bại cuộc hành quân mang tên “Lam Sơn 719” của Mĩ và quân đội Sài Gòn.

+ Năm 1972, quân dân Việt Nam tiến hành cuộc Tiến công chiến lược → buộc Mĩ phải tuyên bố "Mĩ hoá" trở lại chiến tranh xâm lược.

c) Miền Bắc chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ và tiếp tục chi viện cho miền Nam (1965-1973)

♦ Miền Bắc chống chiến tranh phá hoại lần thứ nhất:

- Sau khi dựng lên sự kiện Vịnh Bắc Bộ (tháng 8-1964), Mỹ cho máy bay ném bom bắn phá một số nơi ở miền Bắc. Tháng 2-1965, Mỹ chính thức gây ra cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ nhất bằng không quân và hải quân.

- Ngay từ ngày đầu Mỹ mở rộng chiến tranh, quân dân miền Bắc đã chuyển mọi hoạt động sang thời chiến, vừa chiến đấu chống chiến tranh phá hoại, vừa sản xuất và chi viện cho miền Nam.

- Kết quả:

+ Trong hơn 4 năm, miền Bắc bắn rơi, phá huỷ 3.243 máy bay, loại khỏi vòng chiến dấu hàng nghìn phi công, bán cháy và chìm 143 tàu chiến.

+ Giao thông vận tải ở miền Bắc vẫn được đảm bảo thông suốt, đáp ứng yêu cầu phục vụ sản xuất và đời sống.

- Bị thất bại nặng nề ở cả hai miền Nam-Bắc, ngày 1-11-1968, Mỹ phải tuyên bố ngừng chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ nhất.

♦ Miền Bắc chống chiến tranh phá hoại lần thứ hai:

- Tháng 4-1972, Mỹ bắt đầu cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ hai bằng không quân và hải quân.

- Quân dân miền Bắc đã chủ động, kịp thời chống trả ngay từ trận đầu, đặc biệt đã đánh bại hoàn toàn cuộc tập kích chiến lược đường không bằng máy bay B52 của Mỹ vào Hà Nội, Hải Phòng và nhiều thành phố khác ở miền Bắc trong 12 ngày đêm (từ 18 đến 29-12-1972).

- Thắng lợi này được coi như trận “Điện Biên Phủ trên không”, buộc Mỹ phải trở lại bàn hội nghị và kí Hiệp định Pa-ri về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam (1973).

Lý thuyết Lịch Sử 9 Kết nối tri thức Bài 17: Việt Nam kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, thống nhất đất nước giai đoạn 1965 – 1975

Máy bay B52 của Mỹ bị bắn rơi tại Hà Nội

♦ Miền Bắc thực hiện nghĩa vụ hậu phương

- Nhờ hai tuyến đường vận chuyển chiến lược Bắc-Nam (trên bộ và trên biển), trong giai đoạn 1965-1973, tính chung sức người, sức của từ miền Bắc chi viện cho miền Nam đã tăng gấp nhiều lần so với giai đoạn trước.

- Qua 4 năm (1965-1968), hơn 30 vạn cán bộ, bộ đội đã được cử vào Nam tham gia và phục vụ chiến đấu, xây dựng kinh tế, văn hoá tại các vùng giải phóng; hàng chục vạn tấn vũ khí, đạn dược, quân trang, quân dụng, xăng dầu, lương thực, thực phẩm, thuốc men,.... cũng được chi viện cho miền Nam.

Đánh giá

0

0 đánh giá