Tailieumoi.vn xin giới thiệu bài văn mẫu Bài báo cáo của nhóm bạn được chọn để trình bày trong buổi tọa đàm Ngữ văn 12 Chân trời sáng tạo, gồm dàn ý và các bài văn phân tích mẫu hay nhất giúp các em học sinh có thêm tài liệu tham khảo từ đó học cách viết văn hay hơn.
Bài báo cáo của nhóm bạn được chọn để trình bày trong buổi tọa đàm
Đề bài: Bài báo cáo của nhóm bạn được chọn để trình bày trong buổi tọa đàm báo cáo kết quả bài tập dự án của trường. Bạn hãy chuẩn bị nội dung bài nói để tham gia buổi tọa đàm.
Bài báo cáo của nhóm bạn được chọn để trình bày trong buổi tọa đàm - Mẫu 1
Xin chào thầy cô và các bạn, sau đây em xin trình bày báo cáo dự án về một vấn đề xã hội.
BÁO CÁO NGHIÊN CỨU KẾT QUẢ DỰ ÁN XÂY DỰNG VĂN MINH KHU TẬP THỂ
I. Giới thiệu
Dự án xây dựng văn minh khu tập thể là một nỗ lực nhằm nâng cao chất lượng sống và giá trị văn hóa xã hội của cư dân trong khu tập thể. Dự án nhằm tạo ra một môi trường sống tốt hơn, gắn kết cộng đồng và thúc đẩy sự phát triển bền vững của khu vực.
II. Mục tiêu của dự án
1. Nâng cao chất lượng cuộc sống: Cải thiện cơ sở hạ tầng, vệ sinh môi trường và các tiện ích công cộng để cư dân sống trong một môi trường sạch đẹp, an toàn và thoải mái hơn.
2. Tăng cường gắn kết cộng đồng: Xây dựng các hoạt động văn hóa, giáo dục, thể thao và giải trí nhằm tăng cường tình đoàn kết và sự tham gia của cư dân.
3. Phát triển bền vững: Thiết kế và triển khai các giải pháp hướng tới sự bền vững về kinh tế, xã hội và môi trường trong khu tập thể.
III. Phương pháp nghiên cứu
1. Thu thập dữ liệu: Tiến hành khảo sát ý kiến cư dân, kiểm tra tình trạng hạ tầng và môi trường sống, đánh giá các hoạt động cộng đồng đã triển khai.
2. Phân tích và đánh giá: Phân tích dữ liệu thu thập từ các cuộc khảo sát và đánh giá sự hiệu quả của các hoạt động đã thực hiện.
IV. Kết quả nghiên cứu
1. Cải thiện cơ sở hạ tầng: Đã nâng cấp hệ thống điện, nước và vệ sinh công cộng. Các công trình hạ tầng mới được xây dựng đáp ứng nhu cầu của cư dân.
2. Gắn kết cộng đồng: Tổ chức thành công các hoạt động văn hóa, giáo dục và thể thao như các lớp học nghệ thuật, các buổi biểu diễn văn nghệ, giải đấu thể thao. Sự tham gia của cư dân đáp ứng cao và tạo nên một không khí hòa hợp và đoàn kết trong khu vực.
3. Phát triển bền vững: Áp dụng các giải pháp tiết kiệm năng lượng, bảo vệ môi trường và phát triển kinh tế thông qua hỗ trợ các hoạt động nghề nghiệp và kinh doanh cho cư dân.
V. Kết luận và Đề xuất
Dự án xây dựng văn minh khu tập thể đã đạt được nhiều kết quả tích cực, góp phần cải thiện chất lượng cuộc sống và gắn kết cộng đồng trong khu vực. Tuy nhiên, để duy trì và phát triển những thành tựu này, cần thiết phải tiếp tục đầu tư và phát triển các hoạt động văn hóa, cải thiện hạ tầng và thúc đẩy sự tham gia của cư dân. Ngoài ra, việc hỗ trợ giáo dục và phát triển kinh tế cho cư dân cũng là yếu tố then chốt để đảm bảo sự phát triển bền vững của khu tập thể.
VI. Đề xuất hướng nghiên cứu tiếp theo
Tiếp tục nghiên cứu và đánh giá sâu hơn về tác động của các hoạt động văn hóa, giáo dục và thể thao đến sự phát triển bền vững của khu tập thể. Nghiên cứu về các mô hình phát triển kinh tế cộng đồng và áp dụng các giải pháp mới trong quản lý và điều hành khu tập thể.
VII. Tham khảo
Các tài liệu tham khảo về phát triển khu tập thể, quản lý cộng đồng và bảo vệ môi trường.
Báo cáo nghiên cứu trên đây đã cung cấp một cái nhìn tổng quan về kết quả dự án xây dựng văn minh khu tập thể và đề xuất các hướng đi tiếp theo để nâng cao hiệu quả của các hoạt động phát triển cộng đồng và bền vững hóa khu vực.
Phần trình bày của em đến đây là kết thúc. Cảm ơn thầy cô và các bạn đã lắng nghe.
Bài báo cáo của nhóm bạn được chọn để trình bày trong buổi tọa đàm - Mẫu 2
Chào cô và cả lớp, tôi là Nguyễn Văn A, hôm nay tôi sẽ đại diện cho nhóm số 1 trình bày bài Báo cáo tác động của việc sử dụng mạng xã hội đến tình hình học tập của học sinh.
Tóm tắt:
Hiện nay, mạng xã hội trở thành một phương tiện phổ biến với những tính năng đa dạng cho phép người dùng kết nối, chia sẻ, tiếp nhận thông tin một cách nhanh chóng, hiệu quả. Sư phát triển của mạng xã hội ảnh hưởng không nhỏ tới đời sống của toàn xã hội, trong đó bao gồm cả học sinh. Qua mạng xã hội, các em tiếp nhận thông tin một cách nhanh chóng, xong chưa có tính chọn lọc. Điều này dẫn đến một bộ phận học sinh hiểu sai, không đúng về một vấn đề nào đó. Việc nghiên cứu đề tài này, giúp chúng em có cái nhìn khách quan, toàn diện về nhiều khía cạnh để từ đó tìm kiếm những giải pháp phù hợp giúp học sinh tránh xa được các tác động xấu của mạng xã hội....
1. Đặt vấn đề
1.1. Mục đích
- Tìm hiểu về lượng thời gian sử dụng mạng xã hội Facebook của học sinh.
- Tìm hiểu về mục đích sử dụng mạng xã hội Facebook của học sinh.
- Tìm hiểu về những tác động tích cực của mạng xã hội Facebook đối với học sinh.
- Tìm hiểu về những tác động tiêu cực của mạng xã hội Facebook đối với học sinh.
1.2. Nhiệm vụ
- Mô tả thực trạng sử dụng Facebook của học sinh (mục đích sử dụng, thời gian sử dụng, thời điểm sử dụng, tần suất sử dụng, phương tiện truy cập,…)
- Phân tích ảnh hưởng của việc sử dụng mạng xã hội Facebook đến học tập của học sinh.
- Phân tích ảnh hưởng của việc sử dụng mạng xã hội Facebook đến đời sống của học sinh (các quan hệ xã hội).
1.3. Đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Tác động của mạng xã hội Facebook đối với học sinh.
Phạm vi nghiên cứu: 560 học sinh.
Thời gian: Tháng 11 – Tháng 12 năm 2012.
1.4 Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp khảo sát, thống kê, phân loại
Phương pháp đối chiếu so sánh
Phương pháp tổng hợp, hệ thống
2. Kết quả nghiên cứu
2.1. Vai trò, vị trí của mạng Facebook trong đời sống con người.
- Có thể chia sẻ, cập nhật thông tin, hình ảnh, tán gẫu cùng bạn bè và tham gia vào các ứng dụng giải trí.
2.2 Thực trạng sử dụng mạng xã hội Facebook của học sinh
Kết quả khảo sát cũng đã phản ánh tỉ lệ cao học sinh tham gia sử dụng mạng xã hội Facebook và hầu như bất kì một bạn nào cũng có riêng ít nhất 1 tài khoản Facebook để tham gia chia sẻ, cập nhật thông tin, hình ảnh và giao lưu kết bạn. Về mức độ thời gian tham gia sử dụng Facebook thì đa số các bạn đã sử dụng Facebook trên 1 năm (481/541 bạn, chiếm 88,9%).
2.3 Mục đích sử dụng mạng xã hội Facebook của học sinh.
2.3.1. Chia sẻ, cập nhật thông tin và hình ảnh:
Đây có thể coi là mục đích chính học sinh khi sử dụng Facebook vì chiếm đến 74,6% kết quả khảo sát. Phần lớn học sinh sử dụng Facebook thay thế cho nhật ký truyền thống, với tính năng lưu trữ trực tuyến.
2.2 Giao lưu, kết nối bạn bè:
Facebook là một không gian giao tiếp công cộng trực tuyến tạo liên kết dễ dàng, thuận tiện, nhanh nhất giữa con người với nhau thông qua nhiều hình thức liên kết rộng rãi chứ không bị giới hạn không gian.
2.3. Giải trí:
Với hơn 500 nghìn ứng dụng giải trí hay, đa dạng và được đánh giá cao dành cho người sử dụng như: Games, Poke, Calendar, Youtube, Free Messenger... Facebook được các bạn học sinh lựa chọn như một nơi để giải tỏa căng thẳng sau những giờ học mệt mỏi. Họ có thể chơi game, trò chuyện với gia đình, người thân, bạn bè.
2.4 Những tác động tích cực và tiêu cực của mạng xã hội Facebook đối với học sinh
2.4.1 Những tác động tích cực
Thông qua Facebook, các bạn đã có nơi để thể hiện mình và chia sẻ những điều khó nói cùng bạn bè.
2.4.2 Những tác động tiêu cực
Sử dụng Facebook một cách thường xuyên (bất kì thời gian nào trong ngày, chiếm 34,9%). Tác động tiêu cực lớn nhất mà nhóm đối tượng khảo sát cho thấy đó là việc tốn thời gian (chiếm 52,4%). Khoảng thời gian sử dụng Facebook mỗi ngày từ 1 - 3 giờ đồng hồ và trên 3 tiếng đồng hồ chiếm đa số câu trả lời trong cuộc khảo sát (41,3% và 30,2%). Bên cạnh đó, sinh viên khoa PR nhận thức được những tác động tiêu cực đến tâm lý, sinh lý của bản thân do việc lạm dụng Facebook như: nghiện Facebook dễ gây béo phì, ảnh hưởng đến thời gian, sức khỏe, công việc học tập và dễ bị ảnh hưởng bởi những thói hư, tật xấu... Ngoài ra, cũng có một bộ phận nhỏ các sinh viên không biết mục đích sử dụng Facebook là gì?. Tuy nhiên, vì sự rủ rê của bạn bè nên họ cũng tạo tài khoản để bắt kịp xu hướng. Ngoài ra, 15,9% cho là Facebook không có bất kì ảnh hưởng tiêu cực nào đến bản thân đối tượng được khảo sát
2.5 Các biện pháp nâng cao ảnh hưởng tích cực của mạng Facebook đối với học sinh
2.5.1 Biện pháp từ cá nhân
Tự hoạch định cho bản thân khung thời gian hợp lí, cân bằng được giữa công việc, học tập và giải trí. Chỉ dành thời gian cho Facebook khi bạn thật sự rãnh rỗi hay muốn giải tỏa căng thẳng, mệt mỏi.
2.5.2 Biện pháp từ cộng đồng
- Nhà trường, gia đình cần có sự hướng dẫn, tư vấn, định hướng cho học sinh về việc sử dụng mạng xã hội Facebook một cách có ích, mang lại hiệu quả tốt và ý thức được những nguy cơ tiềm ẩn của việc chia sẻ thông tin cá nhân lên Facebook.
- Các nhà quản lý các cấp, các cơ quan chức năng, chính quyền địa phương nên tạo sân chơi giải trí lành mạnh; giáo dục, tuyên truyền về những tác hại từ việc sự dụng mạng xã hội Facebook không đúng cách.
3. Kết luận
Mạng xã hội Facebook căn bản là một phần của xã hội ngày nay. Nó đã, đang và sẽ mang đến cho cuộc sống của con người ngày càng nhiều những tiện ích thú vị, tương tác cao cũng như sự tối đa hóa các chức năng. Tuy nhiên, mạng xã hội Facebook cũng là nơi dấy lên những tiêu cực khiến nhiều người lo lắng. Và chúng ta không thể đổ lỗi hoàn toàn cho mạng xã hội Facebook. Bởi lẽ, nó đơn giản chỉ là một công cụ, một phương tiện được tạo ra để gắn kết mọi người trên toàn Thế giới. Nhưng chính những người tham gia, sử dụng lại không hiểu đúng mục đích đó nên đã sà đà và lạm dụng quá mức dẫn đến gây ra những sự việc không mong muốn. Tất cả là do hành vi và sự nhận thức ở cá nhân người tham gia sử dụng mạng xã hội Facebook.
Bài báo cáo của nhóm bạn được chọn để trình bày trong buổi tọa đàm - Mẫu 3
Thực trạng Ô nhiễm môi trường
Tóm tắt:
Trong nghiên cứu này, nhóm tác giả đã sử dụng phương pháp nghiên cứu tài liệu, quan sát, phỏng vấn để: xác định và đánh giá thực trạng ô nhiễm môi trường hiện nay, từ đó đưa ra những giải pháp để cải thiện và xóa bỏ tình trạng ô nhiễm.
1. Mở đầu:
Xã hội ngày càng phát triển, kéo theo đó là hàng loạt các vấn đề cần quan tâm như hiện tượng biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường,… Một đất nước muốn tồn tại và phát triển lâu bền thì vấn đề bảo vệ môi trường sống là rất quan trọng, nhưng thực tế môi trường hiện nay đang ngày một bị ô nhiễm trầm trọng, gây ảnh hưởng rất lớn đến đời sống sinh hoạt của người dân cũng như môi trường sinh thái xung quanh ta.
2. Nội dung nghiên cứu:
2.1 Khái niệm về môi trường và ô nhiễm môi trường:
Ô nhiễm môi trường là hiện tượng môi trường tự nhiên bị ô nhiễm bởi việc mang chất gây ô nhiễm vào môi trường tự nhiên, đồng thời các tính chất vật lý, hóa học, và sinh học của môi trường của bị thay đổi có thể gây tác hại tới sức khỏe con người và đời sống của các sinh vật khác. Ô nhiễm môi trường có thể bị gây ra bởi các chất ở dạng bất kỳ chất nào (rắn, lỏng hoặc khí) hoặc năng lượng (chẳng hạn như phóng xạ).
2.2 Kết quả nghiên cứu và đề xuất:
2.2.1. Thực trạng:
- Hàng ngày, có hàng nghìn tấn rác thải được đổ ra biển, các chất độc hại ngày càng tích lũy và ảnh hưởng xấu tới môi sinh và các sinh vật biển.
- Môi trường không khí bị ô nhiễm nặng nề do khí thải công nghiệp, khí thải xe cộ và mùi rác thải sinh hoạt thải trực tiếp ra môi trường.
- Diện tích rừng hàng năm bị chặt phá ngày càng nhiều.
2.2.2. Nguyên nhân và hậu quả:
- Người dân xả rác thải dẫn đến tình trạng ô nhiễm diện rộng không kiểm soát được.
- Ý thức của một số doanh nghiệp còn kém, chưa chấp hành những quy định nghiêm ngặt về xử lý chất thải công nghiệp.
- Hệ thống quản lý của nhà nước còn nhiều yếu kém, hệ thống quy phạm pháp luật về bảo vệ môi trường vẫn còn nhiều lỗ hổng.
→ Ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe con người: hàng loại những căn bệnh: Ung thư, viêm phổi, tim mạch, hô hấp,…
→ Ảnh hưởng đến môi trường sống: Mất cân bằng đa dạng sinh học của môi trường sống.
→ Bên cạnh đó, ô nhiễm còn ảnh hưởng đến các khía cạnh về kinh tế, xã hội “Một nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới năm 2008 dự báo, mỗi năm, Việt Nam đang mất đi ít nhất 69 triệu USD thu nhập từ ngành du lịch do hệ thống xử lý vệ sinh kém”.
2.2.3. Đề xuất một số giải pháp để cải thiện và xóa bỏ ô nhiễm môi trường:
Để hạn chế những hậu quả mà ô nhiễm môi trường gây ra. Hơn ai hết, con người cần phải chung tay. Mỗi người dân phải tự ý thức được hành vi đang gây hại cho môi trường. Bên cạnh đó, sự can thiệp của cơ quan nhà nước cũng cực kỳ quan trọng. Nhà nước, cơ quan quản lý cần không ngừng tuyên truyền nâng cao ý thức của người dân, kiểm tra, xử lý nghiêm minh những nhà máy, xí nghiệp vi phạm quy định về môi trường, thắt chặt công tác cấm xả rác thải bừa bãi ở bất cứ nơi đâu. Khuyết khích người dân ở những khu đô thị sử dụng các phương tiện công cộng hoặc đi xe đạp, xe điện thay thế cho các loại phương tiện gây ô nhiễm đường phố. Phát động những ngày hội trồng cây xanh tạo sự trong lành, điều hoà môi trường sống. Ngoài ra, các nhà nghiên cứu khoa học hay mỗi người cần nghiên cứu phát minh ra những thiết.
3. Kết luận:
Bảo vệ môi trường là trách nhiệm và nghĩa vụ không của riêng ai, hãy chung tay hành động vì một thế giới sống xanh – sạch – đẹp và an toàn.
Bài báo cáo của nhóm bạn được chọn để trình bày trong buổi tọa đàm - Mẫu 4
Sống ở trên đời phàm là bất cứ vật gì cũng có hai bản tính là tốt và xấu, con người khi sinh ra nếu như Lão Tử cho rằng: "Nhân chi sơ tính bản ác", thì trái lại Mạnh Tử lại cho rằng: "Nhân chi sơ tính bản thiện". Nếu suy xét thật kỹ thì ta cũng tự thấy được rằng các tiền bối ai cũng có cái lý riêng của mình, đều đúng, nhưng xét kỹ tính cách của con người là được hình thành nên phần lớn là do môi trường và hoàn cảnh giáo dục. Phàm là bậc cha mẹ hay nhà trường thì ai cũng luôn hướng thế hệ con, em mình đến với những đức tính tốt đẹp, đáng quý, như lòng tự trọng, sự nhân hậu, lòng yêu nước, tính trung thực, thẳng thắn, lòng biết ơn, lòng yêu nước, yêu đồng bào,... Nhưng xét cho cùng con người là những chỉnh thể hoàn toàn độc lập, thế nên trong xã hội ta vẫn thấy có một bộ phận những con người có tính cách khá tiêu cực, không chỉ làm ảnh hưởng đến sự phát triển cá nhân mà đôi khi còn làm ảnh hưởng đến cả một tập thể. Ta có thể chỉ ra một trong nhiều những tính cách tiêu cực ấy là: sự tự ti và lòng tự phụ.
Trước tiên nói về tính tự ti của con người. Đây không phải là loại tính cách hiếm, ta vẫn thường thấy ở những người xung quanh, bao gồm cả người thân, bạn bè thậm chí là cả bản thân mỗi chúng ta đôi khi cũng có ít nhiều tính tự ti ngự trị trong tâm hồn. Có thể khái niệm đơn giản rằng tự ti là cách con người quá coi thường đánh giá thấp bản thân mình trước các cá thể khác, họ tự tay chôn đi những bông hoa đẹp của mình và cố tìm kiếm những khuyết điểm của bản thân, tự cho rằng bản thân mình yếu kém không xứng đáng được cùng mâm, cùng bàn với những người khác. Họ khiêm tốn một cách thái quá, đôi khi đó cũng là biểu hiện cho sự tự thu mình, bảo bọc bản thân trước những sự ganh ghét đố kỵ của người khác của những kẻ nhút nhát, sợ hãi ánh mắt của người khác, chứ không hẳn là đến từ sự bất tài của họ. Ngoài ra, đôi khi ở một số quốc gia như Anh, Ireland, Úc và New zealand thì đó lại là một "bản sắc", con người luôn cố thu mình và tạo ra một cái vỏ bọc khiêm nhường, tự ti để không ngừng cố gắng.
Một số biểu hiện rất rõ về tính tự ti ta có thể thấy như việc một người luôn tự cho rằng mình xấu xí, cảm thấy mắt mình quá nhỏ, môi quá dày, người quá mập, da quá đen... họ luôn cảm thấy xấu hổ, chán nản và buồn bã về những điều do họ tưởng tượng ra. Hoặc cũng có những người tự thấy bản thân mình tệ hại, chỉ toàn những khiếm khuyết, luôn cảm thấy xung quanh mình ai ai cũng tài giỏi, thấy bản thân mình trở nên thua kém, là con người ở tận đáy xã hội, không xứng đáng được tôn trọng, yêu quý, được người khác ngưỡng mộ,... Sự tự ti còn thể hiện ở nỗi sợ, sự trốn tránh sự chú ý của người khác khi họ không muốn giao tiếp, không muốn đi ra ngoài, họ sợ người khác đánh giá về ngoại hình, đôi khi còn hoang tưởng rằng người khác đang nói xấu mình, đặc biệt khi nhìn thấy một ai đó có bề ngoài sáng sủa, xinh đẹp thì họ lại càng trở nên tự ti hơn, khép mình hơn. Ngoài ra, sự tự ti còn có một đặc điểm khác ấy là sự quản lý kỳ vọng của người khác từ những người tự ti, họ luôn đánh tiếng trước về sự không thành công, về những khuyết điểm có thể xảy ra, hoặc xin lỗi trước khi làm việc gì đó để khơi gợi sự cảm thông, nới lỏng sự kỳ vọng của mọi người đến mức thấp nhất. Mục đích chính là để bảo vệ bản thân khỏi sự chỉ trích, bảo vệ lòng tự tôn, đồng thời họ cũng sợ hãi sự thất vọng của người khác. Chung quy lại, những người tự ti luôn có điểm chung là khao khát được mọi người xung quanh yêu quý, ca ngợi, an ủi, mong ước bản thân mình tốt lên, thế nhưng họ luôn sợ hãi trước những ánh mắt của xã hội, không dám đương đầu đối mặt mà thường chọn cách trốn tránh dưới cái vỏ bọc hiền lành, khiêm tốn đến hèn mọn, vừa đáng thương vừa đáng trách. Thậm chí dù mong muốn, khao khát đến tột cùng sự tự tin của những người xung quanh, nhưng họ lại cứ dậm chân tại chỗ chỉ bởi cảm thấy không thể cải thiện được gì dù có cố gắng, dễ chán nản, dần dà đến mức "an phận" làm kíp tự ti, chấp nhận để cho bản thân trở nên nhỏ bé, thậm chí là vô hình trong mắt người khác và không còn biết đến sự tự tin là gì nữa.
Một số người đã biến tính tự ti của mình thành một chiếc mặt nạ vô hình, thể hiện ra đó là một loại khiếu hài hước để vừa làm dịu đi, sự bất an của bản thân, đồng thời cũng để những người xung quanh không nhận ra tính tự ti, hèn mọn mà dần chấp nhận "khiếu hài hước" của người này. Thế nhưng việc sống trong tính tự ti không phải là một biểu hiện tốt, nếu như đặt tự tin ở giữa, khiêm tốn được coi là "cực dương", mang bản chất tích cực, khi con người không quá đề cao bản thân, nhưng luôn âm thầm chứng minh năng lực cá nhân bằng hành động âm thầm. Thì trái lại tự ti chính là "cực âm", mang tính tiêu cực, con người lâm vào tình trạng "tự xóa" bản ngã cá nhân trong xã hội, ngày càng trở nên suy đồi và trượt dốc, chấp nhận để sự tự ti làm vỏ bọc bảo vệ. Nhưng điều đó sẽ dãn con người đến một vòng luẩn quẩn tự phê bình không lối thoát và bị mắc kẹt, khiến trạng thái tâm thần dần trở nên bó buộc, u uất, chán nản, thất vọng và cuối cùng là chứng trầm cảm nặng nề, nếu như không có các biện pháp khắc phục. Không chỉ vậy, người tự ti luôn cho rằng cái mặt nạ khiêm tốn quá đà mình đeo lên sẽ bảo vệ được họ khỏi sự châm chọc, soi xét của người khác, nhưng thực tế thì ngược lại, việc họ "tự nhục" quá đà sẽ trở thành trò cười cho những kẻ xấu bụng, không biết cảm thông cười nhạo, coi thường. Hơn thế nữa việc bạn tự ti trong mọi tình huống sẽ trở thành việc "tự đào hố chôn mình" khi đồng nghiệp, sếp, thầy cô giáo và cả cha mẹ đều trở nên mất phương hướng trong việc xác định năng lực cá nhân của bạn và kết quả là họ thực sự cho rằng bạn bất tài, và bạn sẽ mất đi những cơ hội thăng tiến, mất đi những nguồn động lực to lớn để tiếp tục cố gắng cải thiện bản thân. Như vậy, chúng ta sẽ không bao giờ có cơ hội thoát ra khỏi cái vỏ bọc tự ti, không có cơ hội phô diễn tài năng, chứng minh năng lực, dần dà tất cả những thứ chúng ta vốn có sẽ trở nên mai một, và cuối cùng là thành thứ vô dụng bởi chính cái tính sợ hãi, khiêm tốn quá đà của mình. Sự tự ti không đem đến điều gì cho con người ngoài việc giết chết tâm hồn, sự hy vọng, mong ước, tài năng và tinh thần cầu tiến của một con người.
Tôi cũng biết rằng tính tự ti của một con người không thể dễ dàng gỡ bỏ, thế nhưng mỗi chúng ta nếu ai cảm thấy bản thân có tính cách này thì nên tìm cách để thoát khỏi nó. Chúng ta nên tìm đến sự giúp đỡ của các chuyên gia tâm lý, hoặc đơn giản là tìm một người thấu hiểu bạn nhất để tâm sự và khai mở những vấn đề mà bạn đang mắc phải. Ở một mức độ nào đó, họ sẽ giúp bạn thoát khỏi nỗi sợ hãi bị chỉ trích, bị tấn công tinh thần bằng cách an ủi, tán dương những mặt tích cực mà bạn đang có, họ cũng sẽ tìm cách khiến bạn trở nên lạc quan, tin tưởng vào năng lực của bản thân hơn. Bên cạnh đó, ta cũng có thể thoát khỏi cái hố tự ti bằng cách cố gắng tập trung vào những gì khiến ta tự hào, làm những gì mà bản thân cảm thấy có thể làm một cách hoàn chỉnh và tốt nhất để làm lu mờ đi sự tự ti đang ngự trị trong tâm hồn. Ngoài ra, chúng ta cũng cần mở rộng phạm vi giao tiếp, mở rộng mối quan hệ, để thấy được cả mặt tích cực và tiêu cực của những người khác, để tự nhận ra rằng bản thân không phải quá tệ như chúng ta vẫn nghĩ.
Đó là về tự ti, trái ngược với đức tính này thì tự phụ lại là một đức tính khiến chúng ta dễ bị ghét bỏ hơn tự ti gấp nhiều lần. Tự phụ là sự tự tin quá mức về bản thân, về năng lực cá nhân, vẻ bề ngoài, các điều kiện tố chất mà bản thân đang nắm giữ, thậm chí đến mức hoang tưởng rằng chúng ta thực sự hoàn hảo đến mức không ai có thể vượt qua. Trong mắt những người có tính tự phụ, ưu điểm của người khác thường không được họ coi trọng, bởi họ yêu bản thân mình hơn tất cả, những người khác trở nên nhỏ bé, tầm thường. Người tự phụ, thường có thái độ khinh khỉnh, phủ nhận những nỗ lực của người khác, hướng sự chú ý của mọi người đến với bản thân, bằng cách dùng những mỹ từ hoa lệ để tự đề cao bản thân. Hoặc luôn mong muốn, thậm chí ép buộc người khác phải phục vụ, chiều theo thái độ "hơn người" của mình. Biểu hiện rõ nhất của tự phụ đó là căn bệnh "ngôi sao" của những người trong giới nghệ sĩ, dẫu rằng tên tuổi chẳng được đến đâu, fan hâm mộ thì được lèo tèo vài ba người, nhưng họ không biết giữ mình, tiếp tục cố gắng mà đã có thái độ kiêu kỳ, muốn người khác phải săn đón, chăm sóc như ông hoàng bà chúa nào đó, đối xử tệ bạc với nhân viên, với người hâm mộ,...Tự phụ cũng xảy ra nhiều ở lứa tuổi học sinh, sinh viên, tỉ như một cậu học sinh là học sinh giỏi nhất của một trường chuyên, thường xuyên nhận được sự ngưỡng mộ của bạn bè, sự khen ngợi, kỳ vọng của thầy cô cha, mẹ. Khi bước chân vào ngưỡng cửa đại học với điểm số tương đối, cậu ta vẫn giữ thái độ cho rằng mình là người giỏi nhất, xứng đáng được nhận những lời khen ngợi, trầm trồ, sự chú ý của mọi người. Cậu ta tiếp tục thói kiêu ngạo, không chủ động làm quen bạn mới, coi thường năng lực của những người xung quanh, không tích cực trao đổi kiến thức với bạn học vì nghĩ bản thân đã đủ giỏi, việc trao đổi là vô ích... Và kết quả kỳ thi cuối kỳ, cậu ta bị shock khi nhận ra vị trí "thứ nhất" mà cậu luôn nghĩ sẽ là của mình lại là của một người bạn không biết tên, còn bản thân thì đứng gần chót lớp.
Bài báo cáo của nhóm bạn được chọn để trình bày trong buổi tọa đàm - Mẫu 5
Xin chào thầy cô và các bạn, sau đây em xin trình bày báo cáo dự án về một vấn đề xã hội.
BÁO CÁO NGHIÊN CỨU KẾT QUẢ DỰ ÁN CẢI THIỆN TÌNH HÌNH HỌC CHỦ ĐỘNG CHO HỌC SINH
I. Giới thiệu
Dự án cải thiện tình hình học chủ động cho học sinh nhằm mục đích khuyến khích và hỗ trợ học sinh phát triển khả năng tự học, nâng cao ý thức và trách nhiệm trong quá trình học tập. Dự án này nhấn mạnh vào việc thúc đẩy học sinh tự quản lý học tập, khám phá và phát triển tiềm năng bản thân.
II. Mục tiêu của dự án
1. Khuyến khích học sinh tự chủ và chủ động trong học tập: Thúc đẩy học sinh tự quản lý thời gian, lựa chọn phương pháp học tập phù hợp với bản thân để nâng cao hiệu quả học tập.
2. Xây dựng ý thức và trách nhiệm học tập: Giúp học sinh nhận thức về vai trò và trách nhiệm của bản thân trong quá trình học tập, từ đó nâng cao năng lực tự học và giải quyết vấn đề.
3. Phát triển kỹ năng sống và năng lực bản thân: Hỗ trợ học sinh phát triển các kỹ năng quản lý thời gian, giải quyết vấn đề, làm việc nhóm và giao tiếp hiệu quả.
III. Phương pháp nghiên cứu
1. Thiết kế nghiên cứu: Lập kế hoạch triển khai các hoạt động và chương trình đào tạo nhằm cải thiện tình hình học chủ động cho học sinh.
2. Thực hiện dự án: Triển khai các hoạt động như hội thảo, buổi tư vấn, lớp học thêm, các cuộc thi và các hoạt động ngoại khóa nhằm khuyến khích học sinh tham gia tích cực và phát triển kỹ năng.
3. Thu thập dữ liệu và đánh giá: Tiến hành khảo sát ý kiến học sinh, giáo viên và phụ huynh về các hoạt động đã triển khai. Phân tích dữ liệu thu thập để đánh giá sự thành công và hiệu quả của dự án.
IV. Kết quả nghiên cứu
1. Khuyến khích học sinh tự chủ và chủ động trong học tập: Học sinh cho biết họ cảm thấy tự tin hơn trong việc tự quản lý học tập và lựa chọn phương pháp học tập phù hợp với bản thân. Động lực học tập được nâng cao và họ có khả năng quản lý thời gian hiệu quả hơn.
2. Xây dựng ý thức và trách nhiệm học tập: Học sinh đã nhận thức rõ hơn về vai trò và trách nhiệm của mình đối với quá trình học tập. Họ tự giác hơn trong việc hoàn thành bài tập và nghiên cứu thêm.
3. Phát triển kỹ năng sống và năng lực bản thân: Học sinh có cơ hội tham gia các hoạt động ngoại khóa và các lớp học thêm để phát triển các kỹ năng quản lý thời gian, làm việc nhóm và giao tiếp. Điều này giúp họ chuẩn bị tốt hơn cho cuộc sống và công việc sau này.
V. Kết luận và Đề xuất
Dự án cải thiện tình hình học chủ động cho học sinh đã đạt được những thành tựu tích cực, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục và phát triển năng lực bản thân của học sinh. Để duy trì và phát triển những thành tựu này, cần tiếp tục tăng cường các hoạt động ngoại khóa, đào tạo cho giáo viên về phương pháp dạy học tích cực và khuyến khích sự tham gia của phụ huynh.
VI. Đề xuất hướng nghiên cứu tiếp theo
Nghiên cứu và đánh giá sâu hơn về tác động của các hoạt động học tập chủ động đối với kết quả học tập và phát triển cá nhân của học sinh. Nghiên cứu về các mô hình giáo dục mới và áp dụng các giải pháp hiệu quả để nâng cao sự tham gia và thành tích học tập của học sinh.
VII. Tham khảo
Các tài liệu tham khảo về giáo dục tích cực, phát triển cá nhân và nghiên cứu giáo dục.
Báo cáo nghiên cứu trên đây đã phản ánh được những kết quả và những hướng đi tiếp theo để nâng cao chất lượng giáo dục và khuyến khích học sinh phát triển khả năng tự học và tự chủ trong học tập.
Phần trình bày của em đến đây là kết thúc. Cảm ơn thầy cô và các bạn đã lắng nghe.
Xem thêm các bài soạn văn lớp 12 Chân trời sáng tạo hay, chi tiết khác: