TOP 50 bài Kể lại sự việc có thật liên quan đến một nhân vật lịch sử mà em biết

632

Tailieumoi.vn xin giới thiệu bài văn mẫu Kể lại sự việc có thật liên quan đến một nhân vật lịch sử mà em biết, giúp các em có thêm tài liệu tham khảo trong quá trình ôn tập, củng cố kiến thức cho bài thi sắp tới. Mời các bạn đón xem:

Kể lại sự việc có thật liên quan đến một nhân vật lịch sử mà em biết

Đề bài: Viết bài văn kể lại sự việc có thật liên quan đến một nhân vật lịch sử mà em biết.

TOP 30 bài Kể lại sự việc có thật liên quan đến một nhân vật lịch sử mà em biết (ảnh 1)

Dàn ý kể lại sự việc có thật liên quan đến nhân vật hoặc sự kiện lịch sử

Mở bài

- Nêu được sự việc có thật liên quan đến nhân vật, sự kiện lịch sử mà văn bản sẽ thuật lại.

- Nêu lí do hay hoàn cảnh người viết thu thập tư liệu liên quan.

Thân bài

1. Gợi lại bối cảnh, câu chuyện, dấu tích liên quan đến nhân vật, sự kiện.

- Câu chuyện, huyền thoại liên quan.

- Dấu tích liên quan.

2. Thuật lại nội dung diễn biến của sự việc có thật liên quan đến nhân vật, sự kiện lịch sử.

- Bắt đầu - diễn biến - kết thúc.

- Sử dụng được một số bằng chứng (tư liệu, trích dẫn,...); kết hợp kể chuyện với miêu tả.

3. Ý nghĩa, tác động của sự việc đối với đời sống hoặc đối với nhận thức về nhân vật/ sự kiện lịch sử.

Kết bài

Khẳng định ý nghĩa của sự việc hoặc nêu cảm nhận của người viết về sự việc.

Kể lại sự việc có thật liên quan đến một nhân vật lịch sử mà em biết - mẫu 1

Trong chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử, có nhiều tấm gương anh hùng. Người mà em thấy ấn tượng nhất đó chính là anh Phan Đình Giót.

Phan Đình Giót sinh ở làng Vĩnh Yên (nay là thôn 8), xã Cẩm Quan, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh, trong một gia đình rất nghèo.

Mùa đông năm 1953, đơn vị được lệnh tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ. Lực lượng hành quân gần 500 người, vượt qua nhiều đèo dốc, mang vác nặng nhưng anh vẫn kiên trì, giúp đồng đội về tới đích.

Chiều ngày 13 tháng 3 năm 1954, đơn vị của anh nổ súng tiêu diệt địch ở Him Lam.

Bộ đội đại đội 58 lao lên mở đường, đã liên tiếp đánh đến quả bộc phá thứ tám. Phan Đình Giót đánh quả thứ chín thì bị thương vào đùi nhưng vẫn xung phong đánh tiếp quả thứ mười. Quân Pháp tập trung hỏa lực trút đạn như mưa xuống trận địa. Bộ đội bị thương vong nhiều.

Sau đó, Phan Đình Giót đánh liên tiếp hai quả bộc phá nữa, phá hàng rào cuối cùng, mở thông đường để quân đội lên đánh lô cốt đầu cầu. Quân Pháp hoang mang, vận dụng thời cơ, anh vọt tiến công lô cốt số 2, ném thủ pháo, bắn kiềm chế cho đơn vị tiến lên. Trong đợt xung phong này, anh bị thương vào vai và đùi, mất máu rất nhiều.

Bất ngờ, hỏa điểm lô cốt số 3 của lính Pháp bắn mạnh. Lực lượng xung kích Việt Nam bị ùn lại, Phan Đình Giót bò đến lô cốt số 3 với ý nghĩ là dập tắt ngay lô cốt này. Phan Đình Giót đã dùng sức (khi đã bị thương, mất máu) nâng tiểu liên bắn vào lỗ châu mai, miệng hô to: "Quyết hy sinh… vì Đảng… vì dân"

Rồi sau đó, Phan Đình Giót lao cả thân mình vào bịt kín lỗ châu mai. Do thi thể Phan Đình Giót đã lấp kín lỗ châu mai, quân Pháp bên trong bị vướng không bắn ra được nữa, quân Việt Nam chớp cơ hội xung phong tiêu diệt gọn cứ điểm Him Lam vào ngày 13 tháng 3 năm 1954, giành thắng lợi trong trận đánh mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ.

Phan Đình Giót đã hy sinh lúc 22 giờ 30 phút ngày 13/3/1954 ở tuổi 34. Anh là một trong 16 anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân được tuyên dương thành tích trong chiến dịch Điện Biên Phủ.

Tinh thần quả cảm hy sinh vì tổ quốc, độc lập dân tộc của anh Phan Đình Giót sẽ luôn là tấm gương sáng mãi về sau.

Kể lại sự việc có thật liên quan đến một nhân vật lịch sử mà em biết - mẫu 2

Bác Hồ là người Cha già kính yêu của dân tộc Việt Nam, Bác đã mang đến ánh sáng của tự do, độc lập cho dân tộc Việt Nam. Không một người dân Việt Nam nào không yêu quý, biết ơn và tự hào về Bác. Chính vì vậy chuyến thăm quan đến Lăng Bác Hồ là một dịp vô cùng đặc biệt để lại nhiều dấu ấn trong em.

Em rất vui mừng khi đặt chân đến lăng Bác, bao mệt mỏi dường như tan biến hết. Em thấy trước cửa lăng rất đông người, nhưng không khí rất yên tĩnh, trang nghiêm. Lăng Bác nằm trên một khoảng đất rộng lớn và rợp mát với các vạt cỏ xanh phía trước lăng.

Đến thăm Lăng Bác Hồ chúng em được nghe từng câu chuyện liên quan đến cuộc sống, sinh hoạt của Bác. Chúng em còn được xem lại từng đoạn phim tư liệu quý giá về cuộc đời của Bác. Như thể Bác vẫn còn đang ở quanh đây với chúng em vậy. Những câu chuyện đó dường như vẫn đọng lại trong tâm trí chúng em trên đường về. Em nhớ mãi những cảm xúc thành kính và tự hào trong chuyến đi vừa qua. Những trải nghiệm tại đây đã giúp em hiểu thêm về con người, cuộc sống sinh hoạt giản dị của Bác; về sự vĩ đại của Bác.

Cả một đời người Bác đã bôn ba trên khắp các châu lục để tìm ra con đường cách mạng chân chính để rồi trở về lãnh đạo cuộc cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam. Suốt một đời vì nước vì dân, Bác đã quên đi những hạnh phúc cho riêng mình để dành toàn tâm toàn ý cho đất nước.

Quả thực, chuyến đi thăm Lăng Bác đã để lại trong em biết bao ấn tượng sâu sắc bởi nó đã cho bản thân em những bài học đáng quý. Em càng thêm yêu quý, tự hào vì đã được là một người dân Việt Nam, là một người cháu ngoan của Bác Hồ vĩ đại. Em tự nhủ phải chăm chỉ học tập, cố gắng rèn luyện, noi gương Bác Hồ kính yêu.

Kể lại sự việc có thật liên quan đến một nhân vật lịch sử mà em biết - mẫu 3

Bác Hồ là vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc. Ở Bác, hội tụ nhiều vẻ đẹp về phẩm chất, là tấm gương sáng cho chúng ta học tập và noi theo. Bác không chỉ có lối sống trách nhiệm, chu toàn, giản dị mà ở Người còn lấp lánh vẻ đẹp của tình yêu thương. Bác luôn dành những tình cảm ấm áp trìu mến nhất cho các cháu thiếu nhi. Câu chuyện kể về Bác với các cháu nhỏ làm em nhớ mãi.

Chuyện kể rằng, vào một buổi sáng đẹp trời, Bác Hồ đến thăm một trại nhi đồng. Tại trại, ai nấy đều mong chờ vì đây là lần đầu tiên được gặp Bác. Khi các em nhỏ vừa thấy sự xuất hiện Bác đã nhanh chóng chạy ùa tới với gương mặt hớn hở, em nào cũng vui vầy quanh Bác. Trong thâm tâm, ai cũng háo hức muốn được nhìn thấy Bác cho thật rõ.

Tay Bác dắt hai em nhỏ nhất, đi giữa đoàn học sinh. Ánh mắt sáng ngời, đầy yêu thương và trìu mến. Rồi Bác cùng các cháu thiếu nhi đi thăm phòng ngủ, phòng ăn, nhà bếp, nơi tắm rửa, sinh hoạt hàng ngày của các cháu.

Khi trở về phòng họp, giữa sự quây quần của các cháu nhỏ, Bác ân cần hỏi:

– Các cháu chơi có vui không?

Đồng thanh vang lên những lời non nớt:

– Thưa Bác, vui lắm ạ!

Rồi Bác hỏi:

– Các cháu ăn có no không?

– Dạ, chúng cháu ăn no ạ.

Các cô trong trại có mắng phạt các cháu không?

– Dạ, không ạ!

Rồi Bác mỉm cười, hài lòng khen ngợi:

-Thế thì tốt lắm! Các cháu có thích kẹo ngọt không? Bây giờ Bác sẽ chia kẹo cho các cháu nhé!

Trong niềm hân hoan, tất cả cháu nhỏ cùng reo:

– Có ạ! Có ạ!

Rồi trong đám đông, một em bé giơ tay, xin phép Bác cho ý kiến:

– Thưa Bác, vậy ai ngoan thì được ăn kẹo, còn nếu không ngoan thì không được ăn kẹo ạ!

Bác từ tốn:

– Các cháu có đồng ý với đề xuất của bạn không?

– Dạ, đồng ý ạ!

Nói rồi, các em nhỏ lần lượt đứng thành vòng tròn rộng. Bác nhẹ nhàng cầm gói kẹo đến bên chia cho từng em. Khi đến lượt Tộ, cậu bé nhìn Bác, rụt rè không dám nhận, chỉ khẽ thưa:

– Dạ Thưa Bác, hôm nay cháu không ngoan, cháu….cháu… không vâng lời cô ạ. Vì cháu chưa ngoan nên phần kẹo này cháu không nhận đâu ạ.

Lúc này, Bác cười rồi nhìn Tộ, trìu mến bảo:

– Cháu biết nhận lỗi, biết sai mà sửa lỗi là tốt. Cháu ngoan lắm! Cháu vẫn được phần kẹo như các bạn khác nhé!

Tộ vui mừng nhận lấy kẹo từ Bác, cảm ơn rối rít và hứa sẽ không tái phạm nữa.

Câu chuyện về Bác cùng các cháu thiếu nhi khiến em càng yêu quý Bác hơn. Bác vẫn luôn bao dung và dạy dỗ những điều hay lẽ phải. Qua lời Bác cùng hành động của Tộ, em thấy chúng ta cần phải biết trung thực, cảm thông và bao dung với người khác. Luôn biết yêu thương mọi người, đặc biệt là các em nhỏ.

Kể lại sự việc có thật liên quan đến một nhân vật lịch sử mà em biết - mẫu 4

Trong các nhân vật lịch sử của nước nhà, em cảm thấy rất ấn tượng với danh tướng Lý Thường Kiệt. Ông là người đã phò tá qua 3 triều vua của nước ta từ đời Lý Thái Tông, Lý Thánh Tông, Lý Nhân Tông và đã đóng góp nhiều chiến công hiển hách trong việc chống quân xâm lược cũng như xây dựng nước nhà phồn vinh.

Lý Thường Kiệt vốn tên Ngô Tuấn, là con trai của tướng Ngô An Ngữ với phu nhân họ Hàn. Ông sinh năm 1019 dưới triều vua Lý Thái Tổ. Tương truyền, từ khi sinh ra, số mệnh Lý Thường Kiệt đã được báo trước là sẽ công danh hiển hách song lại phiền là không có con nối dõi.

Tên tuổi Lý Thường Kiệt nổi như cồn, trở thành 1 nhân vật lớn trong thời đại nhà Lý. Trang sử vẻ vang nhất trong cuộc đời Lý Thường Kiệt và cũng là trong triều đại nhà Lý là cuộc kháng chiến chống Tống năm 1075-1077.

Lý Thường Kiệt sinh năm 1019 là con trai đầu lòng của Ngô An Ngừ - một võ quan ở phường Thái Hòa và bà họ Hàn, được đặt tên là Ngô Tuấn.

Dưới thời Lý Thánh Tông, ông An Ngừ mất, chồng của cô ruột là Tạ Đức đưa Lý Thường Kiệt về nuôi dạy văn, võ. Năm 18 tuổi (1036), khi mẹ mất Ngô Tuấn được vua tin yêu thăng thưởng dần lên chức Đô Tri và được đổi sang họ vua gọi là Lý Thường Kiệt.

Năm 1061, được vua cử vào trấn giữ vùng núi Thanh - Nghệ hiểm trở. Dưới sự cai quản của ông, dân no ấm, biên cương được bảo vệ vững vàng.

Năm 1075, nhà Tống âm mưu xâm lược nước ta. Lý Thường Kiệt tâu với Thái hậu Ỷ Lan rằng: “Ngồi yên đợi giặc không bằng đem quân đánh trước”. Thái hậu đồng ý cho Lý Thường Kiệt và Tông Đản mang quân đánh Châu Ung, Châu Khâm và Châu Liêm, hạ được thành. Sau đó Lý Thường Kiệt cho xây dựng tuyến phòng thủ ở sông Như Nguyệt.

Năm 1077, nhà Tống mang quân đến sông Như Nguyệt bị Lý Thường Kiệt bao vây đánh tơi bời. Cuộc kháng chiến chống Tống thắng lợi vẻ vang.

Năm 1105, Lý Thường Kiệt mất, được tặng chức Nhập nội điện đô tri kiểm hiệu thái úy bình chương quân quốc trọng sự, tước Việt quốc công, tặng thực ấp 1 vạn hộ. Trong lịch sử Việt Nam, Lý Thường Kiệt là thái giám đầu tiên nêu gương sáng về tấm lòng phò vua báo quốc. Trong lịch sử chiến tranh Đại Việt – Trung Quốc, ông là tướng Việt duy nhất chủ động đánh sang Trung Quốc để bẻ gãy mũi nhọn xâm lược của địch.

Ngày nay, tên của ông đã được nhà nước đặt cho những con phố lớn ở Hà Nội cũng như nhiều tỉnh thành khác như một lời tri ân của hậu thế đối với những công lao to lớn Lý Thường Kiệt đã đóng góp cho dân tộc.

Kể lại sự việc có thật liên quan đến một nhân vật lịch sử mà em biết - mẫu 5

Khi nhắc đến các vị danh tướng lừng lẫy trong lịch sử của dân tộc thì không thể không nhắc đến vị tướng tài ba Lý Thường Kiệt.

Là một vị tướng dưới thời trị vì của vua Lý Thánh Tông, Lý Thường Kiệt đã lập nên những chiến công hiển hách ghi danh muôn đời.

Theo sử sách ghi lại, Lý Thường Kiệt (1019-1105), tên thật là Ngô Tuấn, người phường Thái Hòa, thành Thăng Long (Thủ đô Hà Nội ngày nay). Từ nhỏ, ông đã có chí hướng, ham đọc sách, say sưa nghiên cứu binh thư, luyện tập võ nghệ. Ông tinh thông cả văn lẫn võ. Sự nghiệp của ông bắt đầu bằng chức “Kỵ mã hiệu uý” là một chức quan nhỏ trong quân đội. 23 tuổi, ông được bổ nhiệm làm quan theo hầu vua Lý Thái Tông, giữ chức “Hoàng môn chi hậu”. Trải qua ba triều vua Lý Thái Tông, Lý Thánh Tông, Lý Nhân Tông, ông luôn là một trọng thần được triều đình tin tưởng, nể trọng.

 

Một trong những trận chiến vang dội, hào hùng nhất gắn liền với tên tuổi vị tướng chỉ huy tài ba lỗi lạc Lý Thường Kiệt là cuộc kháng chiến chống xâm lược nhà Tống diễn ra trên phòng tuyến Như Nguyệt thuộc địa phận Bắc Ninh ngày nay. Sử sách chép, Lý Thường Kiệt chọn lựa xây dựng phòng tuyến có nhiều chỗ núi ăn sát bờ sông, rừng cây có mật độ dày đặc với đồng trũng, ruộng lầy kéo dài hơn 10 km đường đê qua các xã Tam Giang, Tam Đa huyện Yên Phong đến Thị Cầu, thành phố Bắc Ninh. Chiến lũy được xây dựng bằng đất có đóng cọc tre dày mấy tầng làm dậu. Dưới bãi sông được bố trí các hố chông ngầm tạo thành một phòng tuyến rất vững chắc. Quân của nhà Lý đóng thành từng trại trên suốt chiến tuyến, tập trung quan trọng ở ba trại Như Nguyệt, Phấn Động, Thị Cầu. Nhờ vị trí đắc địa của phòng tuyến Như Nguyệt mà chỉ sau vài tháng, quân dân nhà Lý dưới sự chỉ huy của dũng tướng Lý Thường Kiệt đã chặn đứng 10 vạn quân xâm lược nhà Tống, mang lại thắng lợi toàn diện cho Đại Việt.

Lý Thường Kiệt mất năm 1105, được truy tặng tước hiệu Việt Quốc công Thái úy, nhân dân lập đền thờ ông ở nhiều nơi. Tên tuổi và sự nghiệp của Lý Thường Kiệt vẫn sáng chói mãi trong lịch sử vinh quang của dân tộc.

Kể lại sự việc có thật liên quan đến một nhân vật lịch sử mà em biết - mẫu 6

Võ Thị Sáu - một người con gái sinh ra ở vùng Đất Đỏ thuộc vùng Long Đất, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu của nước Việt Nam ta ngày nay. Chị sinh năm 1933, là người con gái vô cùng thông minh, mưu trí, có tinh thần yêu nước và dũng cảm. Dù tuổi đời còn rất nhỏ nhưng chị đã tham gia làm liên lạc viên cho đoàn quân cách mạng của chúng ta và lập được rất nhiều chiến công hiển hách đáng khen thưởng.

Năm 1948, chị được cấp trên giao cho nhiệm vụ vô cùng quan trọng đó chính là phải đánh phá một buổi lễ mít tinh nhằm kỷ niệm ngày chào mừng Quốc khánh của thực dân Pháp để gây nhiễu loạn và phá hoại âm mưu của kẻ thù. Tại buổi lễ mít tinh đó chị Võ Thị Sáu đã tung lựu đạn vào khán đài có tỉnh trưởng Lê Thành Trường - một lãnh đạo cấp cao của bè lũ tay sai cho thực dân Pháp để giải tán đám đông. Chính chiến công này đã giúp cho chị Võ Thị Sáu của chúng ta lập thêm nhiều chiến công khác oanh liệt hơn.

Sau đó, chị Võ Thị Sáu được cơ quan trung ương Đảng giao cho nhiệm vụ tiêu diệt kẻ gian tế, nên tháng 2 năm 1950 trong khi đi làm nhiệm vụ chị đã bị kẻ thù bắt giữ. Bọn giặc ngoại xâm đã tra tấn chị Võ Thị Sáu của chúng ta vô cùng dã man, bắt chị khai ra những đồng đội của mình. Nhưng chị anh dũng kiên quyết không khai chúng dùng nhiều thủ đoạn tra tấn tàn bạo như dùng dùi điện cho điện giật vào người chị, hay dùng dùi nung lửa nóng khoan lên người chị…Nhưng mọi hình thức tra tấn dã man thời trung cổ đó càng làm chị thêm căm hận kẻ thù chị kiên quyết không hé răng nửa lời.

Cuối cùng không làm được gì chị Võ Thị Sáu chúng buộc lòng đày chị ra Côn Đảo là nơi chuyên giam giữ và đày đọa những người tù chính trị của nước ta, là nấm mồ chôn thân của rất nhiều người anh hùng cách mạng của dân tộc Việt Nam ta.

Tới ngày 23/1/1952, chị Võ Thị Sáu anh hùng của chúng ta bị mang ra pháp trường xử tử khi tuổi đời chỉ tròn mười chín tuổi. Cho tới sau này khi đất nước chúng ta hoàn toàn sạch bóng kẻ thù năm 1993 chị Võ Thị Sáu được phong danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang Nhân dân, là một trong những chiến sĩ vô cùng trẻ tuổi của ta được vinh danh thiên cổ.

Tấm gương của chị Võ Thị Sáu làm cho chúng em vô cùng ngưỡng mộ, kính trọng vì những gì chị đã hy sinh cho quê hương, tổ quốc để chúng em hôm nay được hưởng cuộc sống thái bình.

Kể lại sự việc có thật liên quan đến một nhân vật lịch sử mà em biết - mẫu 7

Trong những năm tháng chiến tranh, rất nhiều người con của mảnh đất Việt Nam đã hy sinh để bảo vệ và đấu tranh cho nền độc lập của dân tộc. Một trong số đó là Võ Thị Sáu - nữ anh hùng huyền thoại vùng Đất Đỏ.

Võ Thị Sáu sinh năm 1933, mất năm 1952. Nguyên quán được ghi trên bia mộ chỉ ghi tại huyện Đất Đỏ, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Ngay từ khi còn nhỏ, chị đã cùng với anh trai tham gia cách mạng. Chị tham gia vào đội công an xung phong, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ liên lạc, tiếp tế. Trong thời gian này, chị tham gia nhiều trận chiến đấu để bảo vệ quê hương. Không chỉ vậy, chị cũng nhiều lần phát hiện ra gian tế, tay sai Pháp, giúp đội công an thoát khỏi nguy hiểm, chủ động tấn công địch.

Một lần nọ, chị nhận nhiệm vụ mang lựu đạn phục kích giết tên cai Tòng - một tên Việt gian bán nước ngay tại xã nhà. Lựu đạn nổ, tên Tòng bị thương nặng nhưng không chết. Tuy nhiên, vụ tấn công khiến bọn lính đồn khiếp vía, không dám truy lùng Việt Minh ráo riết như trước. Sau này, trong một lần thực hiện nhiệm vụ, chị đã bị giặc bắt. Sau khi bị bắt, cô lần lượt bị đưa đi thẩm vấn và giam giữ tại các nhà tù Đất Đỏ, khám đường Bà Rịa và khám Chí Hòa. Thực dân Pháp đã cho mở phiên tòa, thời điểm này, chị vẫn chưa tròn mười tám tuổi. Luật sư biện hộ đã lấy đó làm căn cứ để giúp chị thoát khỏi án tử hình, nhưng tòa án vẫn tuyên án tử hình chị. Chúng chuyển chị cùng một số người tù cách mạng ra nhà tù Côn Đảo. Ở đây, thực dân Pháp đã lén lút đem chị đi tử hình.

Vào năm 1993, Nhà nước đã trân trọng truy tặng chị Huân chương chiến công hạng Nhất và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang. Chị Võ Thị Sáu chính là một biểu tượng về lòng dũng cảm, kiên cường.

Kể lại sự việc có thật liên quan đến một nhân vật lịch sử mà em biết - mẫu 8

Dân tộc Việt Nam trong quá khứ và hiện tại luôn rất anh hùng, dũng cảm, kiên trung xây dựng và bảo vệ đất nước. Có rất nhiều những tấm gương người anh hùng đã không tiếc máu xương để bảo vệ độc lập, tự do cho dân tộc. Anh Kim Đồng là một người như vậy.

Kim Đồng là một người dân tộc Tày, có nơi ghi là dân tộc Nùng. Cha mất sớm, anh sống cùng mẹ - một người phụ nữ đảm đang nhưng ốm yếu. Từ nhỏ, Kim Đồng đã dũng cảm, quyết đoán, mạnh mẽ, có tinh thần yêu nước, căm thù giặc. Tuy tuổi còn nhỏ nhưng anh rất hăng hái làm nhiệm vụ giao liên, đưa đón Việt Minh và chuyển thư từ. Anh được bầu làm đại đội trưởng đầu tiên của Đội Nhi đồng cứu quốc. Anh không ngại khó khăn, thử thách, nguy hiểm trên đường làm nhiệm vụ. Trong một lần làm nhiệm vụ, anh bị giặc Pháp bắn và hi sinh. Khi ấy, anh mới chỉ 14 tuổi.  Đã có rất nhiều bài thơ, bài hát được sáng tác để ghi nhớ công ơn của anh.

Hình ảnh anh Kim Đồng sẽ luôn sáng mãi, là tấm gương cho thanh thiếu niên Việt Nam về tinh thần yêu nước sâu sắc, sự thông minh, gan dạ.

Kể lại sự việc có thật liên quan đến một nhân vật lịch sử mà em biết - mẫu 9

Trong các nhân vật và sự kiện lịch sử, em ấn tượng nhất với bà Nguyễn Thị Định - Vị tướng huyền thoại của đội quân tóc dài. Trước bà, chưa có người phụ nữ nào tham gia cách mạng, được phong hàm tướng.

Bà Nguyễn Thị Định sinh ngày 15-3-1920 tại xã Lương Hòa, huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre. Bà là út của 10 anh em trong gia đình nông dân giàu lòng yêu nước và cách mạng. Thuở nhỏ, bà phải sống trong xã hội thực dân và phong kiến, gia đình đông con nên khó có điều kiện cắp sách đến trường như bao người khác. Tuy không học được nhiều nhưng bà rất thông minh, nhạy cảm và hiểu biết đủ điều, thích đọc nhiều truyện, đặc biệt là truyện Lục Vân Tiên của cụ Nguyễn Đình Chiểu.

Năm 1936, vừa tròn 16 tuổi, bà bắt đầu tham gia cách mạng. Hai năm sau (1938) bà được đứng vào hàng ngũ Đảng Cộng sản Đông Dương. Cũng trong thời gian này, bà xây dựng gia đình với ông Nguyễn Văn Bích – Tỉnh ủy viên tỉnh Bến Tre, được không bao lâu thì chồng bị Pháp bắt đày đi Côn Đảo và hy sinh tại đó. Nhận được tin chồng hy sinh, lòng căm thù của bà lại nhân gấp bội. Bất chấp con còn nhỏ, gửi lại mẹ chăm sóc, bà thoát ly tham gia họat động cách mạng tại tỉnh nhà.

Năm 1940, bà lại bị Pháp bắt và biệt giam tại nhà tù Bà Rá, tỉnh Sông Bé (nay thuộc tỉnh Bình Phước). Ba năm tù cũng là ba năm họat động kiên cường, bất khuất của bà trong nhà tù. Năm 1943, ra tù trở về Bến Tre, bà liên lạc với tổ chức Đảng, chính quyền cách mạng của tỉnh và tham gia giành chính quyền vào tháng 8-1945. Tuy còn ít tuổi nhưng nhờ có ý chí kiên cường, lòng yêu nước mãnh liệt, lại nhiều mưu trí nên bà được Tỉnh ủy chọn làm thuyền trưởng chuyến đầu tiên vượt biển ra Bắc báo cáo với Đảng và Bác Hồ về tình hình chiến trường Nam bộ và xin vũ khí chi viện. Từ đó tên tuổi của bà đỏ thắm “đường Hồ Chí Minh trên biển”.

Trong thời kỳ chiến tranh chống Mỹ-Diệm ác liệt, với luật 10/59 của Ngô Đình Diệm, địch cứ truy tìm quyết liệt, chúng còn treo giải thưởng cho ai bắt được bà. Nhưng chúng đã không làm gì được bà vì bà luôn thay hình đổi dạng, có lúc giả làm thầy tu, thương buôn, lúc làm nông dân… và luôn được sự đùm bọc của những gia đình cơ sở cách mạng, của những người mẹ, người chị để qua mắt kẻ địch. Sự thắng lợi của phong trào Đồng khởi Bến Tre (17-1-1960) đã trở thành biểu tượng kháng chiến kiên cường bất khuất, tiêu biểu cho phong trào cách mạng miền Nam, chuyển từ thế phòng ngự, bảo toàn lực lượng, sang thế tấn công, dẫn đến thắng lợi hoàn toàn. Đồng khởi Bến Tre còn thể hiện rõ phương châm đánh địch bằng ba mũi giáp công, đặc biệt là phong trào đấu tranh chính trị, binh vận của đội quân tóc dài. Năm 1961, bà được bầu làm Hội trưởng Hội Liên hiệp Phụ nữ giải phóng miền Nam, đã có công rất lớn trong việc xây dựng và phát huy tác dụng “Đội quân tóc dài”, làm cho quân thù vô cùng run sợ. Thượng tướng Trần Văn Trà nói bà là người “Có tài thao lược, ý chí cao, nghệ thuật điều hành của đội quân tóc dài, vừa hình thành tổ chức, vừa tác chiến ngay tại chiến trường vô cùng phức tạp và đã đem lại chiến thắng vẻ vang”.

Sinh thời, Đại tướng Nguyễn Chí Thanh đã từng nói: “Một người phụ nữ đã chỉ huy thắng lợi cuộc Đồng khởi ở Bến Tre thì người đó rất xứng đáng được làm tướng và ở trong Bộ Tư lệnh đánh Mỹ”. Năm 1965, bà được phong quân hàm Thiếu tướng quân đội nhân dân Việt Nam, và được giao giữ chức Phó Tổng Tư lệnh quân giải phóng miền Nam đến năm 1975.

Từ sau ngày miền Nam được giải phóng, thống nhất đất nước, Bà Nguyễn Thị Định đã giữ nhiều chức vụ trọng trách mới cùng Đảng và Nhà nước ta lãnh đạo thành công việc thực hiện công cuộc đổi mới, phát triển đất nước. Bà luôn quan tâm tới việc đào tạo, sử dụng cán bộ, đáp ứng nhu cầu đổi mới của nền kinh tế. Bà ủng hộ phương thức làm ăn mới, tạo điều kiện giúp đỡ cho các cán bộ trẻ có năng lực quản lý phát huy được tính năng động, mang lại hiệu quả kinh tế. Nhờ vậy, ở thời điểm đó, Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam đã có những thay đổi tích cực, khẳng định được vai trò của cán bộ phụ nữ, không chỉ trong công tác xã hội, mà cả trong quản lý kinh tế, mà công ty du lịch Hoà Bình là một ví dụ cụ thể.

Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: "Phó tổng Tư lệnh Quân giải phóng là cô Nguyễn Thị Định. Cả thế giới chỉ nước ta có vị tướng quân gái như vậy. Thật là vẻ vang cho miền Nam, cho cả dân tộc ta". Em vô cùng ngưỡng mộ, kính trọng bà Nguyễn Thị Định về tài năng và những gì bà đã hy sinh, vượt qua muôn vàn khó khăn góp công sức to lớn vào sự nghiệp giải phóng và phát triển đất nước để chúng em hôm nay được hưởng cuộc sống thái bình.

Kể lại sự việc có thật liên quan đến một nhân vật lịch sử mà em biết - mẫu 10

Lý Công Uẩn người làng cổ Pháp thuộc Đông Ngạn, phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Hiện nay ở làng Đình Bảng vẫn còn có lăng và đền thờ các vua nhà Lý. 

Tục truyền rằng Công uẩn không có cha; mẹ là Phạm Thị đi chơi chùa Tiên Sơn (làng Tiên Sơn, phủ Từ Sơn) , đêm về nằm mộng thấy "đi lại" với thần nhân, rồi có thai đẻ ra đứa con trai. Lên ba tuổi, đứa bé càng khôi ngô tuấn tú; gia đình đem cho nhà sư ở chùa cổ Pháp tên là Lý Khánh Văn làm con nuôi. Lý Công uẩn được học hành chữ Nho, kinh Phật và võ nghệ từ nhỏ, lớn lên dưới mái chùa, trở thành một tài trai văn võ siêu quần. 

Ngoài 20 tuổi, Lý Công uẩn đã làm võ tướng dưới triều vua Lê Đại Hành, từng lập công to trong trận Chi Lăng (981) đại phá quân Tống xâm lược, chém đầu tướng giặc Hầu Nhân Bảo. Về sau, ông giữ chức Tả thân vệ Điện tiền Chỉ huy sứ, nắm trong tay toàn bộ binh quyền. Đức trọng tài cao, ông được quần thần và tướng sĩ rất kính phục. Năm 1005, Lê Đại Hành băng hà. Ngôi vua được truyền cho Lê Long Việt. Chỉ 3 ngày sau, Lê Long Đĩnh giết anh, giành lấy ngai vàng. Lê Long Đĩnh là một tên vua vô cùng bạo ngược khác nào Kiệt, Trụ ngày xưa. Hắn hoang dâm vô độ, nên mắc bệnh không ngồi được; đến buổi chầu thì cứ nằm mà thị triều, cho nên tục gọi là Vua Ngọa Triều. Cuối năm 1009, Lê Ngọa Triều chết. Năm đó, Lý Công uẩn đã 35 tuổi. Bấy giờ lòng người đã oán giận nhà Tiền Lê lắm rồi; quân thần và tầng lớp tăng lữ suy tôn ông lên ngôi báu, mở đầu triều đại nhà Lý (1010- 1225). 

Lý Công Uẩn lên ngôi hoàng đế vào đầu xuân 1010, tức là vua Lý Thái Tổ nhà Lý. Nhà vua trị vì được 19 năm, thọ 55 tuổi, băng hà năm 1028. 

Kể lại sự việc có thật liên quan đến một nhân vật lịch sử mà em biết - mẫu 11

Nhân dịp Tết năm Nhâm Dần, tôi đã có dịp ghé thăm Hội xuân Yên Tử ở thành phố Uông Bí (Quảng Ninh) để dự lễ dâng hương cầu nguyện quốc thái dân an Xuân Yên Tử 2022. Đây là một trong những lễ hội truyền thống mùa xuân lớn và kéo dài nhất cả nước. Lễ hội Xuân Yên Tử được diễn ra hằng năm, bắt đầu từ ngày mùng 10 Tết âm lịch kéo dài đến khoảng 3 tháng. Vào dịp này, hàng nghìn người dân ở khắp mọi nơi đến dâng hương, tưởng nhớ Phật Hoàng Trần Nhân Tông và người dân tham gia lễ hành hương lên Yên Tử.

Tôi được biết, Yên Tử là do Phật hoàng Trần Nhân Tông đã đến tu hành và sáng tạo ra Thiền phái Trúc Lâm mang đậm màu sắc dân tộc Việt. Ông là một vị vua hiền minh, đức độ và vô cùng thương yêu dân chúng.

Đến với buổi lễ dâng hương xuân Yên Tử lòng tôi có một cảm xúc bồi hồi khó tả. Nơi dâng hương bắt đầu từ vườn tháp Huệ Quang lên đến chùa Hoa Yên. Vườn tháp Huệ Quang với 64 gọn thóp và mộ với bề dày lịch sử. Sân tháp được bao quanh với những bức tường cao rộng. Vị trí trung tâm của tháp đặt tượng Phật Hoàng Trần Nhân Tông bằng chất liệu cẩm thạch, trong tư thế một nhà sư ngồi thiền định, mình khoác áo cà sa hở ngực phải, các nếp áo chảy tràn ra mặt bệ tượng. Hình ảnh ấy vô cùng trang nghiêm mà cổ kính. Trong không khí trang nghiêm ấy, các vị sư thầy cùng rước lễ lên đến chùa Hoa Yên. Nơi có các nền kiến trúc mang một màu sắc rêu phong, cổ kính. Người dân bao quanh buổi lễ, các sư thầy và lãnh đạo tỉnh bắt đầu chủ trì buổi lễ.

Trong không khí trang nghiêm ấy, bài diễn văn cầu bình an được diễn ra. Mọi người ai nấy cũng cầm một nén hương để dâng lên Phật Hoàng Trần Nhân Tông. Mong năm nay sẽ là một năm an khang, nhiều may mắn, quốc thái dân an.

Sau khi dâng hương xong, mọi người bắt đầu tản ra người đi đi ngắm cảnh xung quanh, người thì kéo nhau bắt đầu hành hương Yên Tử. Họ nô nức kéo nhau đi lên đỉnh chùa Đồng nơi có bức tượng Phật Hoàng Trần Nhân Tông vô cùng Vĩ đại.

Quả thật, công lao của Trần Nhân Tông đến nay vẫn còn lưu giữ nghìn đời. Chính vì vậy, lễ hội Xuân Yên Tử cũng là một trong những lễ hội để tưởng nhớ công lao của ông. Lễ hội Xuân Yên Tử từ lâu đã trở thành một truyền thống không thể thiếu của người dân Quảng Ninh nói riêng và người dân cả nước nói chung. Lễ hội này luôn thu hút đông đảo người dân và khách du lịch tham gia.

Kể lại sự việc có thật liên quan đến một nhân vật lịch sử mà em biết - mẫu 12

Bấy giờ, giặc Nguyên cho sứ thần sang giả vờ mượn đường để xâm chiếm nước ta. Thấy sứ giặc ngang ngược, Trần Quốc Toản vô cùng căm giận.

Sáng nay, nhà vua họp bàn việc nước dưới thuyền rồng. Quốc Toản biết vậy nên quyết đợi gặp vua để nói hai tiếng “xin đánh”. Đợi từ sáng đến trưa, cậu vẫn không gặp được vua, bèn liều chết xô mấy người lính gác ngã chúi, xăm xăm xuống bến. Thấy vậy, quân lính ập đến. Quốc Toản đỏ bừng mặt, rút gươm và quát lớn:

- Ta xuống diện kiến bệ hạ, kẻ nào dám ngăn cản.

Đúng lúc, cuộc họp dưới thuyền rồng tạm nghỉ, vua và các quan ra ngoài mui thuyền.

Quốc Toản chạy đến, quỳ xuống tâu:

- Cho giặc mượn đường là mất nước. Xin bệ hạ hãy cho đánh!

Nói rồi, cậu đặt gươm lên gáy, xin chịu tội.

Nhà vua cho truyền Quốc Toản đứng dậy, ôn tồn nói:

- Quốc Toản làm trái phép nước, đáng lẽ phải trị tội. Nhưng xét nghĩ em còn nhỏ tuổi mà đã biết lo việc nên, ta có lời khen ngợi.

Nói rồi, vua sai người ban cho Quốc Toản một quả cam. Cậu tạ ơn vua rồi lên bờ mà ấm ức. Cậu thầm nghĩ: “Vua ban cho cam quý nhưng vẫn coi ta là trẻ con, không cho bàn việc nước”.

Quốc Toản nghĩ đến quân giặc đang bóc lột nhân dân, mà lòng đầy căm giận. Cậu bóp nát trái cam trong tay lúc nào không hay. Đến khi mọi người ùa tới hỏi han. Cậu xòe tay ra mới biết trái cam đã nát.

Kể lại sự việc có thật liên quan đến một nhân vật lịch sử mà em biết - mẫu 13

Trần Quốc Tuấn (1231? - 1300), tước Hưng Đạo Vương là một danh tướng kiệt xuất của dân tộc thời Trần. Ông là một vị anh hùng của dân tộc, có công lớn trong chiến thắng chống quân Nguyên - Mông.

Ông là con của An Sinh Vương. Lúc mới sinh ra, có một thầy tướng xem cho và bảo: “Người này ngày sau có thể giúp nước cứu đời”. Đến khi lớn lên, dung mạo khôi ngô, thông minh hơn người, đọc rộng các sách, có tài văn võ. Cha của ông trước đây vốn có hiềm khích với Chiêu Lăng, mang lòng hậm hực, tìm khắp những người tài nghệ để dạy Quốc Tuấn. Lúc sắp mất, An Sinh cầm tay Quốc Tuấn dặn rằng:

- Con mà không vì cha lấy được thiên hạ thì cha dưới suối vàng cũng không nhắm mắt được.

Ông ghi nhớ trong lòng, nhưng không cho điều đó là phải. Sau này, đến khi vận nước ở trong tay, quyền quân quyền nước đều do ở mình, ông đem lời cha dặn nói với gia nô là Dã Tượng, Yết Kiêu. Họ đã can ngăn ông:

- Làm kế ấy tuy được phú qu‎ một thời mà để lại tiếng xấu ngàn năm. Nay đại vương chẳng phải đủ phú và quý‎ hay sao? Chúng tôi thề xin chết già làm gia nô, chứ không muốn làm quan mà không có trung hiếu.

Trần Quốc Tuấn nghe vậy, lấy làm cảm phục lắm, liền khen ngợi hai người. Trong hai năm, 1285 và năm 1287, quân Nguyên - Mông xâm lược nước ta, lần nào ông cũng được Trần Nhân Tông cử làm Tiết chế thống lĩnh các đạo quân, cả hai lần đều thắng lợi vẻ vang. Sau này khi mất, nhân dân tôn thờ ông là Đức thánh Trần và lập đền thờ ở nhiều trên đất nước.

Qua sự này, có thể thấy được tấm lòng trung nghĩa với vua, với nước, không tư lợi của Trần Quốc Tuấn, ông là người thận trọng và quyết đoán và cũng chân thành.

Có thể khẳng định, Trần Hưng Đạo là một vị anh hùng lỗi lạc của dân tộc. Cuộc đời của ông đã có những đóng góp to lớn cho nhân dân, đất nước.

Kể lại sự việc có thật liên quan đến một nhân vật lịch sử mà em biết - mẫu 14

Mạc Đĩnh Chi (1272 - 1346), tự là Tiết Phu, người ở thôn Lũng Động, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Ông là một nhân vật lịch sử mà tôi cảm thấy rất ngưỡng mộ và kính trọng.

Mạc Đĩnh Chi vốn thông minh hơn người. Vì văn hay chữ tốt, ông được Chiêu Quốc vương Trần Ích Tắc nhận làm môn đồ, chu cấp cho ăn học. Tháng 3, năm Giáp Thìn (1304), vua Trần Anh Tông đã cho mở khoa thi Thái học sinh để tìm kiếm nhân tài. Kỳ thi đó lấy đỗ được bốn mươi bốn người. Mạc Đĩnh Chi đỗ Trạng nguyên, được sung làm Nội thư gia. Dù vậy, Mạc Đĩnh Chi lại có hình dáng thấp bé, vua Trần Anh Tông thường chê ông xấu. Mạc Đĩnh Chi đã làm bài phú “Ngọc tỉnh liên phú” có nghĩa là “Sen trong giếng Ngọc” để tự nói mình. Vua Trần Anh Tông xem xong, không ngớt lời khen ngợi.

Khi đảm nhận chức Nội thư gia, Mạc Đĩnh Chi phụng mệnh đi sứ sang Trung Quốc. Nhà Nguyên có ý xem thường ông vì ngoại hình. Một hôm, quan Tể tướng cho mời ông vào phủ. Trong phủ có treo một bức tranh mỏng thêu con chim sẻ vàng đỗ cành trúc. Mạc Đĩnh Chi giả vờ nhận lầm con chim ấy là thật, vội nhảy tới chụp bắt. Cả triều thần nhà Nguyên cùng cười ồ cho ông là quê mùa. Ông liền kéo bức tranh xuống và xé nát. Mọi người lấy làm lạ, hỏi lý do. Ông đáp: “Theo chỗ tôi biết, cố nhân chỉ vẽ tranh mai – tước, chớ chưa bao giờ vẽ tranh trúc – tước. Vì trúc là biểu tượng của mẫu người quân tử, chim sẻ là biểu tượng của bọn tiểu nhân. Nay bức tranh này lại thêu trúc – tước, tức là đã đem tiểu nhân đặt lên trên quân tử. Tôi sợ rằng làm như vậy rồi đạo của tiểu nhân sẽ mạnh, đạo của quân tử sẽ bị suy. Bởi vậy tôi xin thánh triều trừ khử đi”. Lúc này, tất cả đều phải khâm phục tài năng của ông.

Một lần nọ, vào tiến triều vua Nguyên, đến khi vào chầu gặp người nước ngoài dâng quạt, vua Nguyên sai làm bài minh. Mạc Đĩnh Chi cầm bút viết xong ngay hoàng đế nhà Nguyên xem xong rất khen ngợi. Kể từ đó, triều Nguyên càng thêm thán phục và Mạc Đĩnh Chi đã được xem là “Lưỡng quốc Trạng nguyên”.

Có thể khẳng định rằng, Mạc Đĩnh Chi là một vị Trạng nguyên tài giỏi hơn người, có công lao rất lớn đối với đất nước.

Kể lại sự việc có thật liên quan đến một nhân vật lịch sử mà em biết - mẫu 15

Tháng tư vừa rồi, trường em có tổ chức một buổi tham quan nằm trong chuỗi hoạt động ngoại khóa của trường. Điểm đến lần này là Đền Hùng tại Việt Trì-Phú Thọ. Đây là nơi thờ phụng các đời Vua Hùng và tôn thất của nhà vua. Nơi đây gắn với Giỗ tổ Hùng Vương được tổ chức hàng năm vào ngày 10 tháng 3 Âm lịch. Đây là một dịp để thế hệ con cháu đến viếng đền, tưởng nhớ đến những người đã có công dựng nước.

Em đã được nghe nhiều câu chuyện về các Vua Hùng qua các sự tích nổi tiếng như Sự tích bánh chưng bánh dày, Sơn Tinh Thủy Tinh… và thấy được sự uy nghiêm và trí tuệ của các vị vua. Điều đó khiến tôi càng mong đợi chuyến đi này hơn.

Dưới chân núi là khung cảnh uy nghiêm, hùng vĩ của núi Nghĩa Lĩnh với rừng cây và sương mù bao phủ. Nơi thờ các vị vua được đặt trên núi với ba đền chính là đền Hạ, đền Trung và đền Thượng. Đền Hạ tương truyền là nơi mẹ Âu Cơ đẻ ra một bọc trăm trứng. Trăm trứng ấy đẻ ra trăm người con, năm mươi người theo cha xuống biển, bốn chín người theo mẹ lên núi. Người con ở lại làm vua, lấy tên là Hùng Vương (thứ nhất). Đền Trung là nơi các vị vua họp bàn chính sự. Đền Thượng là lăng thờ Hùng Vương thứ sáu. Lễ hội đền Hùng được tổ chức hàng năm bao gồm những hoạt động văn hóa, văn nghệ mang tính chất nghi thức truyền thống và những hoạt động văn hóa dân gian khác… Các hoạt động văn hóa mang tính chất nghi thức còn lại đến ngày nay là lễ rước kiệu vua và lễ dâng hương. Dưới tán lá mát rượi của những cây trò, cây mỡ cổ thụ và âm vang trầm bổng của trống đồng, đám rước như một con rồng uốn lượn trên những bậc đá huyền thoại để tới đỉnh núi Thiêng.

Trước khi đi tham quan các đền, chúng tôi được làm lễ dâng hương và nghe diễn thuyết về các vị Vua Hùng. Không khí trang nghiêm, hào hùng ấy khiến tôi không khỏi tự hào về lịch sử dân tộc mình. Họ đã dựng nước, giữ nước để đời sau con cháu được hưởng thụ nền độc lập, hòa bình ấy. Và nay chúng em đến đây để thể hiện lòng biết ơn, sự tôn trọng của mình đối họ, thể hiện đúng truyền thống đạo lý “ăn quả nhớ kẻ trồng cây”. Họ đã gây dựng nền móng cho nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa hiện tại và chúng em đều biết ơn điều đấy.

Sau đó, chúng em được đi thăm các đền thờ vua trên núi. Cách trang trí, sắp xếp các di vật đều được bố trí một cách ngay ngắn, trang nghiêm. Em ấn tượng với tấm bia ở đền Hạ khắc dòng chữ của Bác Hồ: “Các Vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta cùng nhau giữ lấy nước.” Nó như một lời hứa hẹn Bác thay thế hệ trẻ nói lên trách nhiệm của thế hệ trẻ đối với đất nước.

Đó thực sự là một chuyến đi đầy bổ ích và ý nghĩa. Mặc dù nó chỉ kéo dài trong một buổi sáng ngắn ngủi nhưng nó đã giúp em hiểu ra trách nhiệm của mình đối với đất nước. Phải biết kính trọng, biết ơn thế hệ đi trước đặc biệt là các vị Vua Hùng và phải ghi nhớ:

“Dù ai đi ngược về xuôi

Nhớ ngày giỗ tổ mùng mười tháng ba.”

Kể lại sự việc có thật liên quan đến một nhân vật lịch sử mà em biết - mẫu 16

Tiến quân ca - bài hát được chọn làm quốc ca của nước Việt Nam. Và tôi chính là nhạc sĩ Văn Cao - người đã sáng tác bài hát này.

Bài hát được ra đời trong một bối cảnh lịch sử đặc biệt, có ý nghĩa trong đại với đất nước. Còn với riêng tôi, nó là một đứa con tinh thần, đánh dấu một bước ngoặt lớn trong cuộc đời tôi.

Trước đó, tôi đã mất đi những khát vọng và ước mơ của tuổi trẻ. Hằng ngày, cuộc sống chỉ lặp lại trong vòng luẩn quẩn, chán chường. Giữa lúc tôi muốn từ bỏ tất cả, anh Ph. D. - một người bạn rất thân thiết đã xuất hiện khiến cuộc đời tôi thay đổi.

Qua anh Ph.D. tôi đã gặp được Vũ Quý. Anh đã theo dõi con đường hoạt động nghệ thuật của tôi từ lâu. Sau cuộc nói chuyện với anh, tôi đã tìm ra con đường mà bản thân có thể theo đuổi - con đường cách mạng.

Thời điểm đó, khóa quân chính kháng Nhật sắp mở, cần một bài hát để khích lệ tinh thần cho quân đội cách mạng. Tôi có rất nhiều bài hát viết về lòng yêu nước như Đống Đa, Thăng Long hành khúc ca, Tiếng rừng… Nhưng chưa có một bài nào viết về cách mạng. Vì lẽ đó, tôi đã sáng tác ra Tiến quân ca.

Anh Ph.D. là người đã chứng kiến toàn bộ quá trình sáng tác bài hát, anh Vũ Quý là người đầu tiên được biết đến bài hát và Nguyễn Đình Thi chính là người đầu tiên xướng âm ca khúc. Tất cả đều chung một cảm xúc, tự hào và xúc động khi lắng nghe ca khúc này.

Điều khiến tôi không ngờ tới là chỉ sau một thời gian rất ngắn ra đời, vào ngày 17 tháng 8 năm 1945, Tiến quân ca được hàng nghìn người hòa nhịp cất cao tiếng hát trước quảng trường Nhà hát Lớn. Bài hát thật sự đã gây ra một hiệu ứng lớn. Trong một lúc, những tờ truyền đơn in Tiến quân ca được phát cho từng người trong hàng ngũ công chức dự mít tinh. Khi ấy, tôi đứng lẫn vào trong đám đông quần chúng trước cửa Nhà hát Lớn. Tôi đã nghe thấy giọng hát quen thuộc của anh bạn tôi - Ph. D. qua loa phóng thanh. Vào ngày 19 tháng 8, ngày cách mạng tháng Tám thành công ở Hà Nội, tôi đã được nghe hàng ngàn người và các em thiếu nhi cùng hát Tiến quân ca.

Ca khúc Tiến quân ca đã ra đời như thế, trong thời đại lịch sử đất nước được đánh dấu bởi “một buổi bình minh mới” của dân tộc. Là tác giả của bài hát, tôi không khỏi sung sướng và tự hào.

Kể lại sự việc có thật liên quan đến một nhân vật lịch sử mà em biết - mẫu 17

Chủ tịch Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc Việt Nam. Rất nhiều mẩu chuyện kể về cuộc đời của Người. Qua đó, chúng ta thấy được những đức tính tốt đẹp của người.

Vào giữa mùa thu năm 1954, Bác đến tham dự “Hội nghị rút kinh nghiệm cải cách ruộng đất” ở Hà Bắc. Tại hội nghị, khi biết có lệnh của Trung ương rút bớt một số cán bộ đi học lớp tiếp quản thủ đô. Ai cũng háo hức muốn đi, đặc biệt là những người quê ở Hà Nội. Sau nhiều năm xa cách quê hương, mọi người đều mong muốn được cấp trên chiếu cố. Tư tưởng cán bộ dự hội nghị có nhiều phân tán. Ban lãnh đạo ít nhiều thấy khó xử.

Trời đã vào thu nhưng vẫn còn khá nóng, mồ hôi ướt đẫm hai bên vai áo nâu của Bác. Mở đầu, Bác trò chuyện về tình hình thời sự. Khi nói đến nhiệm vụ của toàn Đảng, Bác bỗng rút trong túi áo giơ ra một chiếc đồng hồ quả quýt. Rồi Bác hỏi các đồng chí cán bộ về chức năng của từng bộ phận của đồng hồ. Thế rồi, Bác mới hỏi:

- Trong cái đồng hồ, bộ phận nào là quan trọng?

Mọi người đều im lặng, không ai trả lời:

- Trong cái đồng hồ, bỏ một bộ phận đi có được không?

- Thưa, không được ạ!- Các cán bộ lại đồng thanh đáp.

Nghe mọi người trả lời, Bác bèn giơ cao chiếc đồng hồ lên và kết luận:

- Các chú ạ, các bộ phận của một chiếc đồng hồ cũng ví như các cơ quan của một Nhà nước, như các nhiệm vụ của cách mạng. Đã là nhiệm vụ của cách mạng thì đều là quan trọng, điều cần phải làm. Các chú thử nghĩ xem: Trong một chiếc đồng hồ mà anh kim đòi làm anh chữ số, anh máy lại đòi ra ngoài làm cái mặt đồng hồ… cứ tranh nhau chỗ đứng như thế thì còn là cái đồng hồ được không?

Nghe xong, cả hội trường trở nên im lặng. Mỗi người đều có những suy nghĩ riêng về lời nói của Bác.

Vào một dịp cuối năm 1954, Bác đến thăm một đơn vị pháo binh đóng ở Bạch Mai đang luyện tập để chuẩn bị cho cuộc duyệt binh đón mừng chiến thắng Điện Biên Phủ. Thăm nơi ăn, chốn ngủ của các chiến sĩ bộ đội xong, Bác đã đã trò chuyện với họ. Bác lấy ở túi ra một chiếc đồng hồ quả quýt, chỉ vào từng chiếc kim, từng chữ số và hỏi anh em về tác dụng của từng bộ phận. Mọi người đều trả lời đúng cả. Song chưa ai hiểu tại sao Bác lại nói như vậy?

Bác vui vẻ nói tiếp:

- Đã bao nhiêu năm nay, chiếc kim đồng hồ vẫn chạy để chỉ cho ta biết giờ giấc, chữ số trên mặt vẫn đứng yên một chỗ, bộ máy vẫn hoạt động đều đặn bên trong. Tất cả đều nhịp nhàng làm việc theo sự phân công ấy. Nếu hoán đổi vị trí từng bộ phận cho nhau thì có còn là chiếc đồng hồ nữa không? Sau câu chuyện của Bác, anh chị em đều hiểu ý Bác dạy: Việc gì cách mạng phân công phải yên tâm hoàn thành.

Không chỉ vậy, chiếc đồng hồ quả quýt còn là một hiện vật vô giá thể hiện tình cảm Quốc tế đối với Bác, đó là chiếc đồng hồ do Tổ chức Quốc tế “Cứu Tế đỏ” tặng, Bác luôn giữ nó trong mình, trong những năm tháng bị cầm tù gian khổ cho đến ngày Việt Nam giành được độc lập.

Câu chuyện về chiếc đồng hồ đã cho thấy được những phẩm chất đẹp đẽ của Bác Hồ, cũng như bài học sâu sắc mà bác muốn dạy cán bộ, chiến sĩ của mình.

Kể lại sự việc có thật liên quan đến một nhân vật lịch sử mà em biết - mẫu 18

Đất nước có được nền hòa bình ngày hôm nay, không biết bao cha anh đã ngã xuống, không tiếc máu xương để bảo vệ độc lập, tự do cho dân tộc. Anh Kim Đồng là một tấm gương sáng trong số những người anh hùng như vậy.

Anh Kim Đồng là người dân tộc Tày. Cha mất sớm, anh sống cùng mẹ - một người phụ nữ đảm đang nhưng ốm yếu. Sống trong cảnh đất nước bị xâm lược nên từ nhỏ, Kim Đồng đã dũng cảm, quyết đoán, mạnh mẽ, có tinh thần yêu nước, căm thù giặc. Tuy tuổi còn nhỏ nhưng anh rất hăng hái làm nhiệm vụ giao liên, đưa đón Việt Minh và chuyển thư từ. Anh được bầu làm đại đội trưởng đầu tiên của Đội Nhi đồng cứu quốc. Anh không ngại khó khăn, thử thách, nguy hiểm luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Trong một lần làm nhiệm vụ, anh bị giặc Pháp bắn và hi sinh. Khi ấy, anh mới chỉ 14 tuổi. Đã có rất nhiều bài thơ, bài hát được sáng tác để ghi nhớ công ơn của anh.

Hình ảnh anh Kim Đồng sẽ luôn sáng mãi, là tấm gương cho thanh thiếu niên Việt Nam về tinh thần yêu nước sâu sắc, sự thông minh, gan dạ, lòng dũng cảm, trung kiên với Tổ quốc.

Kể lại sự việc có thật liên quan đến một nhân vật lịch sử mà em biết - mẫu 19

Chủ tịch Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc Việt Nam. Cuộc đời của người là một tấm gương sáng ngời cho mỗi người dân Việt Nam noi theo. Và những câu chuyện về Người cũng luôn để lại bài học giá trị cho chúng ta.

Truyện kể rằng trong những năm tháng sống ở Việt Bắc, mỗi lần đi công tác, Bác đều có hai đồng chí đi cùng. Sợ Bác mệt, hai đồng chí đã bày tỏ ý muốn mang ba lô giúp Bác. Nhưng Bác không đồng ý. Bác nói:

- Đi đường rừng, leo núi ai mà chẳng mệt, tập trung đồ vật cho một người mang đi thì người đó càng chóng mệt. Cứ phân đều ra cho cả ba người.

Hai đồng chí đành làm theo lời Bác, đem chia vật dụng vào ba chiếc ba lô. Bác hỏi lại:

- Các chú đã chia đều rồi chứ?

Hai đồng chí trả lời:

- Thưa Bác, rồi ạ!

Sau đó, cả ba cùng lên đường. Qua một chặng, lúc nghỉ, Bác đến chỗ các đồng chí và xách chiếc ba lô lên. Bác hỏi:

- Tại sao ba lô của các chú nặng mà của Bác lại nhẹ?

Bác liền mở ra xem thì thấy bên trong ba lô của mình chỉ có chăn màn.

Bác tỏ ra không hài lòng, rồi nói:

- Chỉ có lao động thật sự mới đem lại hạnh phúc cho con người.

Sau đó, Bác lại yêu cầu hai đồng chí chia đều vật dụng vào ba chiếc ba lô mới chịu tiếp tục lên đường.

Câu chuyện nhỏ nhưng để lại bài học lớn. Có thể thấy, Bác là một người yêu lao động. Bác suốt đời làm việc, suốt ngày làm việc, từ những việc lớn như cứu nước đến việc nhỏ như trồng cây trong vườn. Việc gì có thể tự làm, Bác đều tự mình hoàn thành. Cách sống của Bác giúp cho mỗi người nhận ra giá trị của lao động, cũng như có ý thức tự giác học tập và làm việc hơn.

Quả thật, những câu chuyện về cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh thật ý nghĩa. Từ đó, chúng ta luôn nhận ra được nhiều bài học bổ ích cho bản thân.

Kể lại sự việc có thật liên quan đến một nhân vật lịch sử mà em biết - mẫu 20

Quốc ca Việt Nam - một bài hát từ lâu đã trở thành một phần linh thiêng trong đời sống tinh thần của người dân Việt Nam. Bài hát đã được sáng tác trong một hoàn cảnh rất đặc biệt.

Theo lời kể của nhạc sĩ Văn Cao, khi còn trẻ, ông là một thanh niên khá nổi. Bạn bè thường khen ngợi ông là tài hoa, am hiểu cả thơ ca và hội họa. Nhưng ít ai biết răng, ông cũng đã có một khoảng thời gian khá dài chìm trong tuyệt vọng, không tìm thấy lẽ sống cho cuộc đời mình. Cho đến khi đã gặp được anh Ph.D. Qua anh Ph.D., ông lại biết được anh Vũ Quý. Sau khi trò chuyện với Vũ Quý ông như được giác ngộ, tìm thấy ý nghĩa cuộc đời mình. Không còn sa vào những buồn chán, thất vọng, ông khao khát được tham gia cách mạng, mong muốn vào chiến khu cùng những người anh em đứng lên cầm súng giết quân thù. Nhưng nhiệm vụ ông nhận được là sáng tác nghệ thuật.

Lúc mới bắt đầu sáng tác “Tiến quân ca”, nhạc sĩ Văn Cao chưa một lần cầm súng cũng chưa từng được gia nhập đội vũ trang nào, tôi chỉ biết đang làm một bài. Ông chưa từng biết chiến khu, chỉ biết đến những con đường ga, đường Hàng Bông, đường Bờ Hồ theo thói quen tôi đi. Ông chưa gặp các chiến sĩ trong khóa quân chính đầu tiên để biết họ hát như thế nào. Nhưng bằng nhiệt huyết tuổi trẻ, trên căn gác nhỏ phố Nguyễn Thượng Hiền, ông đã hoàn thành bài hát “Tiến quân ca” trước sự chứng kiến của Ph.D. - người chứng kiến sự ra đời của Tiến quân ca,anh Vũ Quý - người đầu tiên biết đến bài hát và ông Nguyễn Đình Thi - người xướng âm ca khúc đã rất xúc động.

Bài hát ra đời và nhận được sự ủng hộ của mọi người. Ngày 17 tháng 8 năm 1945, bài hát lần đầu tiên được công bố rộng rãi trong một cuộc mít tinh của công chức Hà Nội. Trước Quảng trường Nhà hát lớn, hàng ngàn người cất cao tiếng hát, hòa vang đầy khí thế hào hùng. Những tờ truyền đơn in Tiến quân ca được phát đến tay mọi người trong hàng ngũ các công chức tham dự buổi mít tinh. Lần thứ hai Tiến quân ca được xuất hiện là trong một cuộc mít tinh diễn ra vào ngày 19 tháng 8. Hôm đó, hàng ngàn người cùng những em thiếu nhi cất cao lời ca, tiếng hát; thét lên tiếng căm hờn bè vào mặt lũ đế quốc tàn bạo với niềm tự hào về chiến thắng của cách mạng.

Tiến quân ca - Quốc ca Việt Nam đã ra đời như vậy, trong thời đại lịch sử đánh dấu buổi bình minh mới của đất nước. Tác phẩm mang một giá trị lịch sử to lớn đối với dân tộc Việt Nam.

Kể lại sự việc có thật liên quan đến một nhân vật lịch sử mà em biết - mẫu 21

Từ xưa đến nay, dân tộc Việt Nam vốn tự hào với truyền thống yêu nước của dân tộc. Trong bất cứ thời đại nào, đất nước cũng có những bậc anh hùng đứng lên lãnh đạo nhân dân đánh bại kẻ thù xâm lược, giành lại độc lập tự do cho Tổ quốc. Một trong số đó phải kể đến Hưng Đạo Đại Vương - Trần Quốc Tuấn.

Trần Quốc Tuấn (1231? - 1300), tước Hưng Đạo Đại Vương. Ông là con trai của thân vương An Sinh Vương - Trần Liễu. Ông sinh ra trong một thời kì “hỗn loạn” của nhà Trần. Năm 1285 và năm 1287, quân Nguyên - Mông xâm lược nước ta, lần nào ông cũng được Trần Nhân Tông cử làm Tiết chế thống lĩnh các đạo quân, cả hai lần đều thắng lợi vẻ vang. Vào đời vua Trần Anh Tông, ông về trí sĩ ở Vạn Kiếp (nay là xã Hưng Đạo, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương) rồi mất ở đấy. Nhân dân tôn thờ ông là Đức thánh Trần và lập đền thờ ở nhiều trên đất nước.

Trần Quốc Tuấn được biết đến là một người thông minh, văn võ song toàn. Ông chính là một danh tướng kiệt xuất của dân tộc thời Trần, góp công lớn trong cuộc kháng chiến chống quân Mông - Nguyên của dân tộc. Không chỉ vậy, ông cũng có nhiều tác phẩm hay, chủ yếu liên quan đến binh pháp. Các tác phẩm của ông gồm Dụ chư tỳ tướng hịch văn (Hịch tướng sĩ), Binh gia diệu lý yếu lược (Binh thư yếu lược), Vạn Kiếp tông bí truyền thư (Sách bí truyền của tông phái Vạn Kiếp, đã bị thất lạc).

Có rất nhiều tích truyện kể về Trần Quốc Tuấn. Trong đó, chúng ta có thể kể đến việc Trần Quốc Tuấn viết “Hịch tướng sĩ”. Bài hịch được viết vào khoảng trước cuộc kháng chiến chống Mông - Nguyên lần thứ hai (1285). Mục đích của Trần Quốc Tuấn nhằm khích lệ tướng sĩ học tập cuốn Binh thư yếu lược (Sách tóm tắt những điều cốt yếu về binh pháp) cũng do chính ông soạn.

Nội dung chính của “Hịch tướng sĩ” phản ánh tinh thần yêu nước nồng nàn của dân tộc ta trong cuộc kháng chiến chống ngoại xâm. Điều đó được thể hiện qua lòng căm thù giặc, ý chí quyết chiến quyết thắng kẻ thù xâm lược. đưa ra những tấm gương thể hiện sự trung thành của các vị tướng thời trước. Sau đó ông nêu lên tội ác của quân giặc, bộc lộ nỗi lòng của mình trước hoàn cảnh của đất nước. Ông chỉ ra sự sai trái trong hành động, suy nghĩ của các tướng sĩ. Cuối cùng là lời kêu gọi tướng sĩ học tập theo “Binh thư yếu lược”.

Có thể thấy rằng, Trần Quốc Tuấn không chỉ là một người tài ba anh dũng còn là một vị tướng hết lòng vì vận mệnh đất nước. Ông là một vị anh hùng kiệt xuất, được thế giới tôn vinh là một trong những vị tướng vĩ đại nhất mọi thời đại.

Kể lại sự việc có thật liên quan đến một nhân vật lịch sử mà em biết - mẫu 22

Dân tộc Việt Nam đã trải qua những năm tháng chiến tranh. Rất nhiều vị anh hùng đã góp phần làm nên lịch sử của dân tộc. Một trong số đó phải kể đến Đại tướng Võ Nguyên Giáp.

Đại tướng Võ Nguyên Giáp, tên khai sinh là Võ Giáp, bí danh là Văn. Ông sinh năm 1911, mất năm 2013. Quê tại làng An Xá, nay là xã Lộc Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình. Ông sinh ra trong một gia đình nhà nho giàu truyền thống yêu nước, nên từ nhỏ đã được giáo dục về lòng căm thù giặc và tình yêu quê hương, đất nước.

Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, Võ Nguyên Giáp được Chủ tịch Hồ Chí Minh tin tưởng, giao cho nắm giữ trọng trách quan trọng. Chuyện kể rằng cuối năm 1954, Ban Thường vụ T.Ư quyết định thành lập Bộ Chỉ huy và Đảng ủy Mặt trận Điện Biên Phủ do Đại tướng Võ Nguyên Giáp làm Chỉ huy trưởng kiêm Bí thư Đảng ủy Mặt trận. Trước khi ra mặt trận, Bác Hồ có hỏi: “Chú đi xa như vậy, chỉ đạo chiến trường có gì trở ngại?”. Đại tướng trả lời: “Thưa Bác, chỉ trở ngại là ở xa, khi có vấn đề gì quan trọng, khó xin ý kiến của Bác và Bộ Chính trị!”. Bác bảo: “Tướng quân tại ngoại, trao cho chú toàn quyền quyết định rồi báo cáo sau”. Khi chia tay, Bác căn dặn: “Trận này rất quan trọng, phải đánh cho thắng, chắc thắng mới đánh, không chắc thắng, không đánh!”.

Nhờ có sự tin tưởng tuyệt đối của Bác Hồ đã củng cố quyết tâm thực hiện phương châm tác chiến phải “đánh chắc, tiến chắc” của Đại tướng. Kết quả là chiến dịch Điện Biên Phủ đã giành thắng lợi vẻ vang.

Đại tướng Võ Nguyên Giáp được coi là người anh cả của Quân đội nhân dân Việt Nam. Ông đã trở thành tấm gương sáng ngời để thế hệ sau noi theo.

Kể lại sự việc có thật liên quan đến một nhân vật lịch sử mà em biết - mẫu 23

Có thể khẳng định rằng, Hai Bà Trưng được biết đến là những vị nữ anh hùng đầu tiên trong lịch sử dân tộc Việt Nam.

Vào đầu thế kỉ I, nước ta bị nhà Hán đô hộ. Thái thú quận Giao Chỉ là Tô Định nổi tiếng tham lam, tàn bạo. Hai chị em là Trưng Trắc, Trưng Nhị sinh ra và lớn lên trong cảnh nước mất nhà tan, nên sớm có lòng căm thù giặc. Bấy giờ, Trưng Trắc cùng chồng của mình là Thi Sách đã liên kết với các thủ lĩnh khác để chuẩn bị cho cùng nổi dậy. Ngay lúc này, Thi Sách lại bị Tô Định bắt và giết hại. Hai Bà Trưng quyết tâm khởi nghĩa để đền nợ nước, trả thù nhà.

Diễn biến cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng gồm có hai giai đoạn. Lần một vào năm 40, cuộc khởi nghĩa thu hút được hào kiệt khắp nơi về gia nhập. Nghĩa quân đã nhanh chóng đánh bại được quân nhà Hán, làm chủ Mê Linh, rồi tiến về Cổ Loa và Lụy Châu. Quan thái thú Tô Định bỏ thành, chạy trốn về Nam Hải (Quảng Đông, Trung Quốc). Quân Hán ở các quận huyện khác cũng gặp thất bại. Cuộc khởi nghĩa thắng lợi hoàn toàn.

Đến năm 42, nhà Hán tiếp tục trở lại xâm lược, cử Mã Viện chỉ đạo cánh quân xâm lược này gồm có hai vạn quân tinh nhuệ, hai nghìn xe thuyền và nhiều dân phu. Chúng tấn công quân ta ở Hợp Phố, nhân dân ở Hợp Phố đã anh dũng chống trả nhưng vẫn gặp thất bại. Sau khi chiếm được Hợp Phố, Mã Viện đã chia quân thành hai đạo thủy bộ tiến Lục Đầu và gặp nhau tại Lẵng Bạc. Sau khi nhận được tin tức, Hai Bà Trưng kéo quân từ Mê Linh về nghênh chiến với địch tại Lãng Bạc. Quân ta giữ vững được Cổ Loa và Mê Linh nhưng Mã Viện tiếp tục đuổi theo buộc quân ta phải lùi về Cẩm Khê. Tháng 3 năm 43, Hai Bà Trưng hy sinh ở Cẩm Khê. Cuộc kháng chiến vẫn kéo dài đến tháng 11 năm 43 sau đó mới bị dập tắt. Dù thất bại, nhưng cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng vẫn có ý nghĩa to lớn.

Có thể khẳng định rằng, Hai Bà Trưng chính là tấm gương về sự dũng cảm, tấm lòng yêu nước để thế hệ sau noi theo.

Kể lại sự việc có thật liên quan đến một nhân vật lịch sử mà em biết - mẫu 24

Chủ tịch Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc Việt Nam. Cuộc đời của Người đã cống hiến cho đất nước và nhân dân. Có rất nhiều sự việc liên quan đến Bác đã được kể lại.

Sự việc dưới đây xảy ra trước khi Bác Hồ quyết định ra đi tim đường cứu nước. Hồi ấy, ở Sài Gòn, Bác Hồ có một người bạn tên là Lê. Một hôm, Bác Hồ hỏi bác Lê:

- Anh có yêu nước không?

Bác Lê trả lời:

- Có chứ!

- Anh có thể giữ bí mật không?

- Có!

- Tôi muốn đi ra nước ngoài xem Pháp và các nước khác họ làm như thế nào. Sau đó, trở về giúp đồng bào chúng ta. Nhưng đi một mình cũng mạo hiểm. Anh có muốn đi với tôi không?

Bác Lê sửng sốt:

- Nhưng chúng ta lấy đâu ra tiền mà đi?

- Đây, tiền đây!

Vừa nói. Bác Hồ vừa giơ hai tay ra và tiếp:

- Chúng ta sẽ làm bất cứ việc gì để sống và để đi. Anh đi với tôi chứ?

Và sau đó, vào ngày 5 tháng 6 năm 1911, từ Bến Nhà Rồng, chỉ có người thanh niên tên Nguyễn Tất Thành (sau đổi thành Văn Ba ) lên đường sang Pháp. Bác đã xin làm nghề phụ bếp trên chiếc tàu buôn Đô đốc Latouche-Tréville.

Chủ tịch Hồ Chí Minh làm tấm gương của sự dám nghĩ, dám làm. Bác đã ấp ủ ý định và quyết tâm thực hiện, điều đó cũng xuất phát từ chính tấm lòng yêu nước, thương dân sâu nặng.

Như vậy, Bác chính là tấm gương sáng người để mỗi người học tập theo. Mỗi câu chuyện về Bác đều ý nghĩa và đáng trân trọng.

Kể lại sự việc có thật liên quan đến một nhân vật lịch sử mà em biết - mẫu 25

Một trong những vị anh hùng dân tộc đáng ngưỡng mộ phải kể đến là Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Ông được coi là người anh cả của Quân đội nhân dân Việt Nam.

Võ Nguyên Giáp, tên khai sinh là Võ Giáp, bí danh là Văn. Ông sinh năm 1911, mất năm 2013. Quê tại làng An Xá, nay là xã Lộc Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình.

Có rất nhiều mẩu chuyện kể về vị tướng huyền thoại của nhân dân. Truyện kể rằng, cụ Võ Quang Nghiêm, thân sinh của Đại tướng là liệt sĩ. Sau khi tìm được mộ cụ và đưa từ Huế về (1977), hài cốt cụ được đưa vào nghĩa trang liệt sĩ huyện. Khi thiết kế nghĩa trang, huyện đã chừa hai ô ở khu các anh hùng, có ý sẽ an táng song thân Đại tướng ở đó. Nhưng lúc biết chuyện, Đại tướng nói:

- Cảm ơn thiện ý của lãnh đạo huyện, nhưng ông thân tôi là liệt sĩ bình thường nên không thể đặt ở khu vực dành cho các anh hùng. Còn thân mẫu tôi là người dân, không thể đặt vào nghĩa trang liệt sĩ

Vì vậy, theo lời Đại tướng, cụ thân sinh được đặt ở cạnh khu vực các anh hùng liệt sĩ, còn thân mẫu được an táng phía ngoài nghĩa trang, cách khuôn viên vài chục mét.

Từ câu chuyện nhỏ này, có thể thấy rằng Đại tướng đã nghiêm túc thực hiện lời dạy của Bác Hồ: Người cách mạng phải “dĩ công vi thượng”! Quả là người học trò gương mẫu của Bác.

Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã cống hiến cả cuộc đời cho sự nghiệp cách mạng. Không chỉ vậy, ông còn là tấm gương về một nhân cách lớn cho thế hệ sau noi theo.

Kể lại sự việc có thật liên quan đến một nhân vật lịch sử mà em biết - mẫu 26

Một trong những vị anh hùng của dân tộc Việt Nam là Võ Thị Sáu. Chị chính là một trong những biểu tượng cho lòng dũng cảm, sự gan dạ của người phụ nữ Việt Nam.

Võ Thị Sáu sinh năm 1933, mất năm 1952. Về nguyên quán, trên bia mộ chỉ ghi tại huyện Đất Đỏ, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Chị tham gia hoạt động cách mạng từ khi còn rất trẻ, đã hoàn thành xuất sắc nhiều nhiệm vụ quan trọng.

Chị đã tham gia nhiều trận chiến đấu để bảo vệ quê hương, dùng lựu đạn tiêu diệt hai tên ác ôn và làm bị thương nhiều lính Pháp. Chị còn nhiều lần phát hiện gian tế, tay sai Pháp, giúp đội công an thoát khỏi nguy hiểm, chủ động trong việc tấn công địch…

Vào tháng 7 năm 1948, Công an Đất Đỏ được giao nhiệm vụ phá cuộc mít tinh kỷ niệm Quốc khánh Pháp. Dù nguy hiểm, nhưng chị Sáu vẫn chủ động xin được trực tiếp đánh trận này. Chị đã nhận lựu đạn, giấu vào góc chợ gần khán đài từ nửa đêm. Sáng hôm đó, địch lùa người dân vào sân. Khi xe của tỉnh trưởng tới, chị tung lựu đạn về phía khán đài, uy hiếp giải tán mít tinh.

Hai tổ công an xung phong ở gần đấy đồng loạt nổ súng yểm trợ tạo áp lực giải tán cuộc mít tinh, đồng thời hỗ trợ cho chị Sáu rút an toàn. Người của Việt Minh được bố trí trong đám đông hô to “Việt Minh tiến công” và hướng dẫn người dân giải tán. Sau chiến công này, chị Sáu được tổ chức tuyên dương khen ngợi và được giao nhiệm nhiều nhiệm vụ quan trọng khác. Khi bị giặc bắt giam tại nhà tù Côn Đảo, chuẩn bị xử tử hình, chị vẫn giữ được tinh thần của người chiến sĩ cách mạng.

Năm 1993, Nhà nước đã trân trọng truy tặng chị Huân chương chiến công hạng Nhất và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang.

Có thể khẳng định rằng, chị Võ Thị Sáu là một tấm gương về lòng dũng cảm, sự gan dạ, đáng để chúng ta học tập và noi theo.

Kể lại sự việc có thật liên quan đến một nhân vật lịch sử mà em biết - mẫu 27

Những sự kiện lịch sử có ý nghĩa lớn lao với một quốc gia, dân tộc. Và sự kiện mà tôi ấn tượng nhất chính là Cách mạng tháng Tám (1945) của dân tộc Việt Nam.

Năm 1945, Đảng Cộng Sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân Việt Nam tiến hành cuộc tổng khởi nghĩa để phá bỏ xiềng xích nô lệ hơn tám mươi năm dưới ách thống trị của thực dân Pháp, mở ra một bước ngoặt mới cho đất nước Việt Nam.

Ngày 9 tháng 3 năm 1945, trong đêm Nhật - Pháp bắn nhau, Hội nghị Thường vụ mở rộng dưới sự chỉ đạo của Tổng bí thư Trường Chinh. Đến ngày 12 tháng 3 năm 1945, Ban thường vụ trung ương Đảng đã họp hội nghị mở rộng, ra Chỉ thị nêu rõ “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”.

Từ ngày 13 đến ngày 15 tháng 8 năm 1945, Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh thành lập Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc, ra Quân lệnh số 1. Ngày 16 tháng 8 năm 1945, Đại hội Quốc dân họp ở Tân Trào (Tuyên Quang) thông qua Lệnh Tổng khởi nghĩa. Đến chiều cùng ngày, một đơn vị Quân giải phóng do đồng chí Võ Nguyên Giáp chỉ huy từ Tân Trào tiến về giải phóng Thái Nguyên, mở đầu cho Cách mạng tháng Tám.

Ngày 17 tháng 8 năm 1945, Ủy ban giải phóng dân tộc ra mắt quốc dân và làm lễ tuyên thệ trước sân đình Tân Trào. Vào ngày 18 tháng 8 năm 1845, nhân dân bốn tỉnh Bắc Giang, Hải Dương, Hà Tĩnh, Quảng Nam khởi nghĩa giành chính quyền. Ngày 19 tháng 8 năm 1945, cuộc khởi nghĩa giành thắng lợi tại thủ đô Hà Nội. Từ ngày 20 tháng 8, cuộc tổng khởi nghĩa lan rộng ra trên khắp các tỉnh thành phố.

Ngày 30 tháng 8 năm 1945, Hoàng đế Bảo Đại - vị vua cuối cùng của triều đình nhà Nguyễn thoái vị. Cuộc Tổng khởi nghĩa cách mạng tháng Tám toàn thắng. Ngày 2 tháng 9 năm 1945, tại Quảng trường Ba Đình (Hà Nội), chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.

Cuộc Tổng khởi nghĩa Cách mạng tháng Tám đã có ý nghĩa lịch sử to lớn đối với đất nước và nhân dân Việt Nam.

Kể lại sự việc có thật liên quan đến một nhân vật lịch sử mà em biết - mẫu 28

Đại tướng Võ Nguyên Giáp - người anh cả của Quân đội Nhân dân Việt Nam. Cuộc đời của ông là một tấm gương tiêu biểu để mỗi người dân Việt Nam noi theo.

Tháng 11 năm 1983, Đại tướng có về quê và ghé thăm trường cấp 3 Lệ Thủy. Ông nhận được sự chào đón của toàn thể cán bộ, giáo viên và học sinh trong trường. Lúc đó, Đại tướng đã rẽ đám đông đến trước một ông già thấp đậm, quắc thước, râu tóc bạc trắng và cất tiếng hỏi:

- Tôi trông cụ quen quen? Có phải cụ là Choạc không?

Cụ già mới lúng túng đáp:

- Thưa ngài… đúng ạ!

Đại tướng liền nói:

- Xin cụ đừng gọi như vậy. Năm nay cụ bao nhiêu tuổi?

- Dạ thưa, tôi đã bảy mươi mốt tuổi.

Đại tướng tiếp lời:

- Tôi bảy mươi ba, chúng ta là bạn đồng niên.

Đến khi Đại tướng rời đi, mọi người mới nghe kể lại. Ông Lê Choạc khi còn trẻ thường đi cấy, gặt thuê, trong đó có nhà cụ Võ Quang Nghiêm. Vào các dịp nghỉ hè, cậu Giáp học ở Huế thường về quê. Dù đã nửa thế kỉ trôi qua, trong đám đông, Đại tướng vẫn nhận ra người quen cũ.

Có thể thấy, Đại tướng là một con người trọng tình nghĩa, tài đức vẹn toàn. Ông chính là tấm gương sáng ngời cho thế hệ sau học tập.

Kể lại sự việc có thật liên quan đến một nhân vật lịch sử mà em biết - mẫu 29

Đất nước Việt Nam đã trải qua một nghìn năm Bắc thuộc. Rất nhiều vị anh hùng đã đứng lên đấu tranh, bảo vệ đất nước. Một trong số đó phải kể đến Hai Bà Trưng.

Hai Bà Trưng gồm hai chị em ruột là bà Trưng Trắc và bà Trưng Nhị. Họ đã ghi danh vào trang sử hào hùng với cuộc chiến chống ách đô hộ nhà Đông Hán (40 - 43). Chồng của bà Trưng Trắc bị thái thú Tô Định giết hại một cách dã man. Nợ nước, thù nhà nên bà quyết định nổi binh cùng em gái là Trưng Nhị chống lại kẻ thù. Trước khi xuất binh, hai bà đã đọc vang lời thề:

“Một xin rửa sạch nước thù
Hai xin nối lại nghiệp xưa họ Hùng
Ba kẻo oan ức lòng chồng
Bốn xin vẻn vẹn sở công lênh này”

Trong cuộc khởi nghĩa của hai bà, có rất nhiều nữ tướng tham gia và họ cùng nhau lập những chiến công khiến cho quân giặc khiếp hồn, thái thú Tô Định phải bỏ chạy về nước. Sau khi làm chủ đất Mê Linh, Trưng Trắc lên làm vua lấy hiệu là Trưng Vương, hoàn thành sứ mệnh nối nghiệp họ Hùng. Năm 43, quân giặc tiến quân xâm lược, Hai Bà Trưng kiên cường chống trả, song quân địch quá đông và mạnh, nghĩa quân thua trận.

Hai Bà Trưng là những vị tướng tài năng của dân tộc. Tuy là phụ nữ, nhưng lại có lòng dũng cảm, tài năng hơn người cùng với ý chí quyết tâm để lãnh đạo nhân dân chống lại kẻ thù xâm lược.

Có thể khẳng định rằng, Hai Bà Trưng chính là những nữ anh hùng đầu tiên trong lịch sử dân tộc, là tấm gương để mỗi người học tập và noi theo.

Kể lại sự việc có thật liên quan đến một nhân vật lịch sử mà em biết - mẫu 30

Đất nước Việt Nam đã sản sinh ra rất nhiều anh hùng. Trong số đó, Trần Quốc Toản là vị anh hùng đáng ngưỡng mộ và cảm phục.

Trần Quốc Toản (không rõ năm sinh, năm mất), hiệu là Hoài Văn hầu, là một tông thất nhà Trần.

Vào năm 1282, vua Trần Nhân Tông cho tổ chức Hội nghị gồm các Vương hầu và tướng lĩnh tại bến Bình Than để bàn kế sách chống giặc Mông - Nguyên. Vì còn ít tuổi nên Trần Quốc Toản không được tham dự. Quốc Toản trong lòng hổ thẹn, phẫn uất, tay cầm quả cam mà bóp nát lúc nào không biết.

Không nản lòng, Trần Quốc Toản lui về huy động hơn nghìn gia nô và thân thuộc sắm vũ khí, đóng chiến thuyền viết lên cờ sáu chữ “phá cường địch, báo hoàng ân” (Phá giặc mạnh, đền ơn vua). Tiếng vang của Quốc Toản với lá cờ thêu sáu chữ vàng lan truyền khắp mọi nơi.

Đến năm 1285, quân Mông - Nguyên tràn vào xâm lược nước ta. Lúc này, lá cờ thêu sáu chữ vàng của Hoài Văn hầu xuất hiện trên nhiều mặt trận. Ông đã trực tiếp chỉ huy quân đội sát cánh cùng quân chủ lực của triều đình góp phần làm nên những chiến thắng vang dội ở Hàm Tử, Tây Kết, Chương Dương. Quân giặc phải bỏ Thăng Long, chạy về Kinh Bắc (Bắc Ninh) để tìm đường về nước. Sau này, khi ông hy sinh, vua Trần hết sức thương tiếc, cho cử hành tang lễ và đích thân làm văn tế và truy tặng Trần Quốc Toản tước Hoài Văn Vương.

Trần Quốc Toản không chỉ có tài năng mà còn mang những phẩm chất tốt đẹp như dũng cảm, kiên cường và nghị lực. Ông đã trở thành tấm gương sáng ngời về ý chí và lòng yêu nước để các thế hệ trẻ Việt Nam noi theo.

Kể lại sự việc có thật liên quan đến một nhân vật lịch sử mà em biết - mẫu 31

Một trong những sự kiện lịch sử có ý nghĩa vô cùng quan trọng với dân tộc Việt Nam là Chiến thắng Điện Biên Phủ. Với sự kiện này, cuộc kháng chiến chống thực dân pháp đã chính thức giành thắng lợi.

Nhà thơ Tố Hữu đã từng viết:

“Chín năm làm một Điện Biên
Nên vành hoa đỏ, nên thiên sử vàng”

Từ đó, chúng ta mới thấy được ý nghĩa của chiến dịch này. Trước hết, chiến dịch Điện Biên Phủ là đỉnh cao của cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953 - 1954. Ba đợt tiến công diễn ra trong năm mươi sáu ngày đêm. Đợt 1 (từ 13 đến 17 tháng 3), chúng ta tiêu diệt được hai cứ điểm quan trọng là Him Lam và Độc Lập, mở toang cánh cửa phía Bắc và Đông Bắc cho quân ta tiến xuống lòng chảo và khu trung tâm. Đợt 2 (từ 30 tháng 3 đến 30 tháng 4), ta đã kiểm soát các điểm cao, khu trung tâm Điện Biên Phủ nằm trong tầm bắn các loại sống của ta. Còn quân địch rơi vào thể bị động mất tinh thần cao độ. Đợt 3 (từ 1 đến 7 tháng 5), quân ta tổng công kích tiêu diệt toàn bộ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Đến ngày 7 tháng 5 năm 1954, chiến dịch toàn thắng.

Thắng lợi của chiến dịch Điện Biên Phủ đã chấm dứt chín năm kháng chiến chống Pháp trường kỳ, gian khổ của nhân dân Việt Nam. Từ đó, thực dân Pháp buộc phải ký kết Hiệp định Giơ-ne-vơ (7/1954) về chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình tại các nước Đông Dương. Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ thể hiện niềm tự hào dân tộc, niềm tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và cổ vũ toàn Đảng, toàn dân một lòng chiến đấu dưới lá cờ vẻ vang của Đảng vì nền độc lập, tự do của Tổ quốc. Đồng thời, chiến thắng này cũng cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới, đặc biệt là các nước ở châu Á, châu Phi và Mĩ La-tinh.

Có thể khẳng định rằng, Điện Biên Phủ là một trong những chiến dịch vô cùng quan trọng, góp phần đánh bại kẻ thù xâm lược - thực dân Pháp.

Kể lại sự việc có thật liên quan đến một nhân vật lịch sử mà em biết - mẫu 32

Trong những thời kỳ đau thương của chiến tranh, nhiều con người dũng cảm của Việt Nam đã hy sinh để bảo vệ và chiến đấu cho sự độc lập của đất nước. Một huyền thoại của vùng Đất Đỏ là Võ Thị Sáu, một nữ anh hùng vĩ đại.

Võ Thị Sáu sinh năm 1933 và ra đi vào năm 1952. Nguyên quán của cô chỉ ghi rõ là huyện Đất Đỏ, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Từ nhỏ, cô đã chứng tỏ tinh thần yêu nước và tham gia vào cuộc cách mạng cùng với anh trai. Cô gia nhập đội công an xung phong và đã xuất sắc hoàn thành nhiệm vụ liên lạc và tiếp tế. Trong thời gian này, Võ Thị Sáu tham gia vào nhiều trận chiến để bảo vệ quê hương. Cô không chỉ tham gia vào những trận đánh quyết liệt, mà còn phát hiện và ngăn chặn những kế hoạch của kẻ thù, giúp đội công an thoát khỏi nguy hiểm và thậm chí tấn công địch.

Một ngày nọ, cô nhận nhiệm vụ quan trọng mang lựu đạn để thực hiện một phục kích nhằm tiêu diệt tên cai Tòng, một kẻ Việt gian bán nước đang hoạt động trong xã của mình. Mặc dù lựu đạn đã nổ, nhưng tên Tòng chỉ bị thương và không chết. Tuy nhiên, vụ tấn công này đã gây ám ảnh cho bọn lính địch và khiến họ không dám truy lùng Việt Minh như trước đây. Vào một lần thực hiện nhiệm vụ khác, Võ Thị Sáu bị bắt. Cô đã trải qua nhiều phiên thẩm vấn và bị giam giữ tại các nhà tù khác nhau, bao gồm Đất Đỏ, Bà Rịa và Chí Hòa. Trong một phiên tòa đầy tranh đấu, dù cô vẫn chưa tròn mười tám tuổi, luật sư biện hộ đã cố gắng cứu chị thoát khỏi án tử hình. Tuy nhiên, tòa án vẫn tuyên án tử hình cho Võ Thị Sáu. Cô và một số tù nhân cách mạng khác đã bị chuyển đến nhà tù Côn Đảo, nơi thực dân Pháp đã tiến hành hành quyết cô một cách lén lút.

Vào năm 1993, Nhà nước đã truy tặng Huân chương Chiến công hạng Nhất và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang cho Võ Thị Sáu. Cô trở thành biểu tượng của lòng dũng cảm và kiên trì, ghi dấu trong lịch sử vĩ đại của đất nước.

Kể lại sự việc có thật liên quan đến một nhân vật lịch sử mà em biết - mẫu 33

Khi Trần Quốc Tuấn còn nhỏ, thân phụ ông với vua Trần Thái Tông, vốn là hai anh em trở nên bất hòa. Năm 1251, trước khi qua đời, Trần Liễu trăng trối với con trai rằng: "Con hãy vì cha mà lấy thiên hạ. Nếu không, nơi chín suối, cha không thể nhắm mắt!". Trần Quốc Tuấn tuy gật đầu, nhưng ông không cho đó là điều phải mà luôn tìm mọi cách xóa bỏ mọi hiềm khích trong hoàng tộc.

Cuối năm 1284, giặc Nguyên - Mông sắp kéo đại binh sang xâm lược nước ta, Trần Quốc Tuấn được vua Trần Nhân Tông cử làm Tiết chế thống lĩnh. Từ Vạn Kiếp, Vương kéo quân mã về Thăng Long để cùng Triều đình bàn kế chống giặc.

Một hôm, Trần Quốc Tuấn mời Thái sư Thượng tướng quân Trần Quang Khải xuống chiếc thuyền đóng tại Đông Bộ Đầu để đàm đạo. Trần Quốc Tuấn đã dùng nước thơm tắm cho Trần Quang Khải. Vừa dội nước thơm lên người Thái sư, vị Tiết chế Quốc công nói:

- Thật hạnh ngộ, tôi được tắm hầu Thái sư.

- Diễm phúc biết bao, tôi được Quốc công tắm cho.

Từ đó, mối tị hiềm giữa hai người được xóa bỏ hẳn.

Lúc bấy giờ thế giặc mạnh lắm, ta nên "đánh" hay nên "hòa"? Trần Quốc Tuấn đã xin Thái Thượng hoàng Trần Thánh Tông và vua Trần Nhân Tông mời các bô lão cao tuổi nhất, danh vọng nhất về Thăng Long để bàn kế giữ nước. Tại điện Diên Hồng tiếng hô "Quyết chiến! Quyết chiến!" của các bô lão rung chuyển Kinh thành.

Trần Quốc Tuấn viết "Hịch tướng sĩ" và "Binh thư yếu lược". Tướng sĩ hăm hở luyện tập cung tên, giáo mác, chiến mã. Hàng vạn hùng binh thích vào cánh tay hai chữ "Sát Thát". Mùa hè năm 1285, 50 vạn quân xâm lược Nguyên - Mông bị đánh tơi tả. Toa Đô bị quân ta chém đầu. Thoát Hoan phải chui vào ống đồng tránh mũi tên tẩm thuốc độc mới thoát chết!

Kể lại sự việc có thật liên quan đến một nhân vật lịch sử mà em biết - mẫu 34

Mạc Đĩnh Chi (1272 - 1346), tự gọi là Tiết Phu, xuất thân từ thôn Lũng Động, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương, là một nhân vật lịch sử đầy sáng tài và đáng kính trọng.

Tài năng vượt trội của Mạc Đĩnh Chi đã nhanh chóng được nhận biết. Với khả năng viết văn xuất sắc và sự thông minh, ông được vua Trần Ích Tắc của Chiêu Quốc nhận làm môn đồ, đồng thời được học tập và được chu cấp. Vào tháng 3 năm Giáp Thìn (1304), vua Trần Anh Tông đã tổ chức kỳ thi Thái học sinh để tìm kiếm tài năng. Trong kỳ thi này, chỉ có bốn mươi bốn thí sinh đỗ, và Mạc Đĩnh Chi là một trong số họ. Ông đạt danh hiệu Trạng nguyên và được bổ nhiệm làm Nội thư gia. Tuy nhiên, ông bị kỳ thị về ngoại hình vì thân hình thấp bé, nhưng Mạc Đĩnh Chi không để bản thân mình bị đánh bại. Ông đã viết bài phú "Ngọc tỉnh liên phú" để tự mình tôn vinh. Vua Trần Anh Tông đọc và không tiết lời khen ngợi ông.

Mạc Đĩnh Chi sau đó được giao nhiệm vụ đi sứ sang Trung Quốc. Tại đây, nhà Nguyên đã cố tình coi thường ông dựa vào ngoại hình. Tuy nhiên, Mạc Đĩnh Chi đã dùng sự thông minh của mình để xử lý tình huống. Trong một buổi gặp quan Tể tướng, ông nhận lầm một bức tranh thêu treo trên tường là con chim sẻ vàng đậu trên cành trúc. Mạc Đĩnh Chi đã giả vờ nhận lầm và nhảy tới chụp bắt con chim ấy, khiến toàn bộ quan đại thần nhà Nguyên cười đùa và cho rằng ông là người quê mùa. Tuy nhiên, ông đã tự tay kéo bức tranh xuống và xé nát nó. Khi mọi người tò mò hỏi lý do, ông giải thích: "Tôi biết rằng các vị cổ nhân chỉ vẽ tranh về mai - tước, chưa bao giờ vẽ tranh về trúc - tước. Vì trúc là biểu tượng của mẫu người quân tử, trong khi chim sẻ là biểu tượng của bọn tiểu nhân. Bức tranh thêu này lại miêu tả con chim sẻ vàng đậu trên cành trúc, tức là đang đặt tiểu nhân lên trên quân tử. Tôi lo sợ rằng làm như vậy sẽ làm đạo đức của tiểu nhân mạnh mẽ hơn, trong khi đạo đức của quân tử sẽ bị suy yếu. Vì thế, tôi xin phép thánh triều cho phép tôi phá bức tranh này." Lúc này, tất cả đều phải khâm phục tài năng và tư duy của ông.

Một sự kiện khác cho thấy sự tài năng của Mạc Đĩnh Chi là khi ông viết bài thơ minh khi tham gia vào một cuộc chầu đầu năm của triều đình Nguyên. Hoàng đế của triều đình Nguyên đọc bài thơ và đã khen ngợi ông rất cao. Từ đó, danh tiếng của Mạc Đĩnh Chi càng lớn lên, và ông được coi là "Lưỡng quốc trạng nguyên."

Có thể khẳng định rằng Mạc Đĩnh Chi là một tài năng vượt trội và đã có những đóng góp lớn cho đất nước trong lịch sử.

Kể lại sự việc có thật liên quan đến một nhân vật lịch sử mà em biết - mẫu 35

Trong hành trình lịch sử của đất nước Việt Nam, chúng ta đã chứng kiến sự nảy sinh của nhiều anh hùng tài năng. Trong số họ, Trần Quốc Toản nổi lên như một biểu tượng đáng ngưỡng mộ và kính phục.

Trần Quốc Toản, hiệu là Hoài Văn hầu, thuộc dòng dõi Trần danh tiếng. Mặc dù không rõ năm sinh và năm mất, nhưng tên tuổi ông đã đi vào lịch sử với những thành tựu đáng tự hào.

Vào năm 1282, vua Trần Nhân Tông đã tổ chức Hội nghị quan trọng tại bến Bình Than, quy tụ các vương hầu và tướng lĩnh để thảo luận về chiến lược đối phó với quân giặc Mông - Nguyên. Do tuổi trẻ, Trần Quốc Toản không được tham dự sự kiện quan trọng này. Tuy nhiên, lòng tự trọng và tinh thần yêu nước không bao giờ rời xa ông. Ông đã biểu tượng hóa tinh thần quyết tâm bằng việc nắm một quả cam và bóp nát nó trong tay.

Không chấp nhận thất bại, Trần Quốc Toản đã huy động hơn nghìn gia nô và những người thân thiết để thu thập vũ khí và xây dựng chiến thuyền. Trên cờ, ông viết sáu chữ vàng: "phá cường địch, báo hoàng ân" (Phá giặc mạnh, đền ơn vua). Những lời kêu gọi và lá cờ của ông đã lan tỏa khắp nơi, truyền đi thông điệp về lòng dũng cảm và lòng yêu nước.

Năm 1285, quân Mông - Nguyên xâm lược nước ta, và lá cờ với sáu chữ vàng của Hoài Văn hầu trở nên phổ biến trên các mặt trận chiến đấu. Trần Quốc Toản đã trực tiếp lãnh đạo quân đội và góp phần quan trọng trong việc đánh bại quân địch tại các trận Hàm Tử, Tây Kết và Chương Dương. Cuối cùng, quân giặc đã phải rút lui khỏi Thăng Long và quay về Kinh Bắc (Bắc Ninh) để tìm đường thoát khỏi nước ta. Mất đi một tài năng quân lãnh, Trần Quốc Toản đã trở thành nguồn động viên lớn lao cho tinh thần chiến đấu của quân đội và nhân dân Việt Nam.

Sau khi hy sinh, vua Trần đã tỏ lòng thương tiếc bằng việc cử hành tang lễ và viết văn tế riêng cho Trần Quốc Toản, trao tặng danh hiệu Hoài Văn Vương.

Trần Quốc Toản không chỉ xuất sắc về tài năng mà còn mang trong mình những phẩm chất tốt đẹp như dũng cảm, kiên cường và nghị lực. Ông đã trở thành một biểu tượng sáng ngời về ý chí và tình yêu đối với quê hương, để lại di sản cho các thế hệ trẻ Việt Nam hôm nay và mai sau.

Kể lại sự việc có thật liên quan đến một nhân vật lịch sử mà em biết - mẫu 36

Một nhân vật lịch sử vĩ đại của dân tộc ta mà em luôn hằng yêu quý và kính trọng là Bác Hồ.

Bác Hồ là một vị lãnh tụ với rất nhiều những phẩm chất tốt đẹp. Những mẩu chuyện nhỏ về cuộc sống đời thường của Bác cũng luôn truyền cảm hứng ý nghĩa cho nhân dân ta. Một sự việc có thật về bác mà em thường nghe kể chính là về một lần Bác trên đường thực hiện công tác. Hôm ấy, Bác cùng các cán bộ ngồi trên xe ô tô để di chuyển đến nơi diễn ra cuộc họp. Giữa đường, xe của Bác dừng lại chờ đèn đỏ khá lâu. Một anh bảo vệ trên xe đã định đi xuống, yêu cầu người gác đèn giao thông chuyển màu xanh để xe Bác được đi. Anh bảo vệ cho rằng, Bác là lãnh tụ của cả nước, hằng ngày có trăm công nghìn việc, nên Bác xứng đáng được ưu tiên trong những tình huống như thế này.

Tuy nhiên, sau khi nghe anh bảo vệ trình bày, thì Bác lắc đầu từ chối. Trong ánh mắt nghi hoặc của anh, Bác từ tốn giải thích. Rằng Bác cho rằng mình trước khi là lãnh tụ, thì cũng là một công dân của nước Việt Nam. Nên việc chấp hành đúng luật an toàn giao thông là điều hết sức hiển nhiên. Hơn nữa, nếu ai cũng lấy lý do là có nhiệm vụ trong người, là bản thân có công với đất nước để đòi quyền ưu tiên thì không được. Nghe Bác nói, anh bảo vệ rất xúc động. Hành động của Bác đã khiến anh càng thêm yêu quý và ngưỡng mộ nhân cách sáng ngời của vị Chủ tịch vĩ đại. Vậy là, anh nghiêm túc ngồi trên xe, cùng Bác chờ đèn xanh.

Câu chuyện trên là một trong rất nhiều những sự kiện liên quan về Bác Hồ mà mọi người vẫn thường kể. Câu chuyện nào cũng thật hay và ý nghĩa, giúp chúng em thêm hiểu để noi theo tấm gương Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Kể lại sự việc có thật liên quan đến một nhân vật lịch sử mà em biết - mẫu 37

“Người dân Việt Nam đời đời nhớ ơn Chủ tịch Hồ Chí Minh” - đó là câu nói khắc ghi vào tâm khảm của người dân nước ta. Cùng những câu chuyện hào hùng về hành trình cứu nước của Bác, nhân dân ta còn truyền nhau những câu chuyện nhỏ đời thường của vị lãnh tụ vĩ đại này.

Có một câu chuyện kể về chuyến đi công tác của Bác. Trên đường di chuyển đến nơi tổ chức cuộc họp, xe của Bác phải dừng lại chờ đèn đỏ khá lâu. Anh chiến sĩ đi cùng trên xe định bước xuống để bảo anh công an giao thông ưu tiên cho xe Bác đi qua, thì bị Bác cản lại. Bác ôn tồn giải thích rằng, mình cũng là một công dân của nước Việt Nam, nên cũng cần tuân thủ luật pháp đã được đặt ra. Nếu ai cũng dùng quyền ưu tiên thì còn gì là luật lệ nữa chứ. Hơn nữa, anh công an giao thông kia đang làm rất tốt nhiệm vụ của mình, không có gì để trách phạt anh ấy cả. Nói rồi, Bác bình tĩnh ngồi trong xe chờ hết đèn đỏ, thì ra hiệu lái xe tiếp tục di chuyển. Hành động nhỏ bé ấy của Chủ tịch nước vĩ đại đã giúp anh chiến sĩ có một bài học đáng quý,

Chỉ qua một mẩu chuyện nhỏ như vậy, em đã hiểu thêm về phẩm chất tốt đẹp và cao quý của Bác Hồ. Thật may mắn cho dân tộc Việt Nam ta khi có một vị lãnh tụ tuyệt vời như Bác.

Kể lại sự việc có thật liên quan đến một nhân vật lịch sử mà em biết - mẫu 38

Ngô Quyền là người anh hùng lịch sử vĩ đại của dân tộc Việt Nam ta. Ông là người mở ra thời kì độc lập, tự do của đất nước ta sau suốt cả ngàn năm bị giặc phương Bắc đô hộ.

Năm đó, Ngô Quyền là một tướng quân tài giỏi lại đức độ dưới trướng Dương Đình Nghệ. Khi ông cai quản vùng Châu Ái đã được nhân dân ở đó hết sức yêu mến và tin tưởng. Bởi ông đã đưa ra những chính sách, đường lối phù hợp cho sự phát triển của vùng đất, lại cai trị bằng tình yêu thương và bao dung. Những phẩm chất của một nhà lãnh đạo đại tài đã được Ngô Quyền thể hiện từ lúc ấy.

Tuy nhiên, những ngày tháng bình yên như thế lại không thể kéo dài. Một tên phản bội hèn hạ là Kiều Công Tiễn đã lén ám sát Dương Đình Nghệ và cầu cứu nhà Nam Hán, khiến chúng có lý do để sang xâm chiếm nước ta lần nữa.

Trước tình thế nguy cấp, Ngô Quyền lập tức đem quân về thành Đại La, giết tên phản bội Kiều Công Tiễn để ổn định lòng dân. Sau đó, ông bình tĩnh suy tính sách lược, đem đại quân di chuyển về sông Bạch Đằng - nơi quân Nam Hán sẽ đi qua để tiến vào nước ta. Tại đây, Ngô Quyền nghĩ ra một kế sách vô cùng sáng suốt, đến tận ngàn năm sau con cháu vẫn nhắc đến với lòng khâm phục. Lợi dụng mực nước khi thủy triều lên xuống ở sông Bạch Đằng, ông đã cho quân vót nhọn, bọc sắt ở những cây cọc lớn, cắm xuống lòng sông. Sao cho khi nước lên, cọc sẽ nằm hoàn toàn dưới mặt nước. Còn khi nước xuống thì cọ nhọn sẽ nhô lên cả, như một cái bẫy khổng lồ. Sau đó, Ngô Quyền chờ khi nước lên, cho quân ra dụ địch, giả vờ thua trận và bỏ chạy để dẫn chúng chạy theo vào trận địa cọc. Đúng lúc giặc chạy vào bẫy, là khi nước thủy triều hạ xuống, những chiếc tàu lớn của quân Nam Hán bị kẹt lại, bị cọc đâm vỡ, tổn thất nặng nề. Nhiều quân lính đã hi sinh trên bãi cọc. Số còn lại thì bị quân ta dùng thuyền nhỏ len qua cọc tấn công nên tử thương càng tăng thêm. Trận chiến ấy đã nhuộm đỏ sông Bạch Đằng bằng máu của bọn xâm lược, khiến chúng sợ hãi, bỏ chạy về nước.

Sau trận chiến ấy, cả nước ta vui sướng vô cùng và nhân dân càng thêm tin tưởng Ngô Quyền. Vì vậy, ông chính thức lên ngôi vua, lãnh đạo nước ta bước vào một kỉ nguyên mới.

Kể lại sự việc có thật liên quan đến một nhân vật lịch sử mà em biết - mẫu 39

Lý Thường Kiệt là một vị tướng tài và có công lớn trong việc bảo vệ bờ cõi nước ta vào thời Lý. Cho đến nay, những trang sử về cuộc đời ông vẫn là những trang sử vàng chói lọi được con cháu kính trọng và tự hào.

Lý Thường Kiệt là một vị danh tướng vừa dũng mãnh, lại thông minh, tài trí. Ông được vua Lý Thánh Tông hết sức tin tưởng, nên giao cho quyền nắm giữ đại quân để bảo vệ đất nước. Năm 1069, quân Chăm Pa quấy phá, cướp bóc và làm loạn ở biên giới phía Nam nước ta. Biết tin, Lý Thường Kiệt liền được vua phong làm Đại Tướng, tiến về phía Chăm Pa để bảo vệ bờ cõi. Không phụ lòng tin của nhà vua và nhân dân, Lý Thường Kiệt dũng mãnh đánh thẳng vào kinh thành Chăm Pa, bắt vua Chăm Pa đưa về Thăng Long. Quá sợ hãi, vua Chăm Pa xin dâng đất để chuộc tội, và xin hứa không bao giờ dám làm loạn nữa. Sau lần ấy, Lý Thường Kiệt được giữ chức Thái Úy, đứng đầu toàn quân đội.

Ít lâu sau, nhà Tống ở phương Bắc lại lăm le xâm chiếm nước ta. Chúng lén lút đưa quân vào từ đường thủy, nhưng điều đó không thể qua mắt được quân đội ta. Lý Thường Kiệt đem quân trấn giữ ở bờ sông Như Nguyệt và có nhiều trận đánh lớn với giặc. Sự dũng mãnh và thiện chiến của quân đội dưới tay ông khiến kẻ địch phải khiếp sợ. Đặc biệt, Lý Thường Kiệt còn sáng tác bài thơ Nam Quốc Sơn Hà, sai người giả bị thần nhập, đọc lên bài thơ đó bên bờ sông, khiến quân địch nghe thấy mà khiếp vía. Khi kẻ địch hoang mang, sợ hãi, Lý Thường Kiệt chủ động đến gặp, đề nghị thương thảo với điều kiện quân Tống rút khỏi nước ta. Cuối cùng, quân Tống đành rút lui về nước khi chưa thể đánh chiếm một huyện thành nào của nước ta. Có được điều đó chính nhờ sự đa mưu túc trí của Lý Thường Kiệt.

Đến ngày nay, những trận đánh của Lý Thường Kiệt vẫn khiến người người phải kính nể. Cả cuộc đời ông đều dành cho việc bảo vệ bờ cõi nước Nam. Vì vậy, ông xứng đáng là một trong những vĩ nhân lịch sử đáng kính trọng nhất của nước ta.

Kể lại sự việc có thật liên quan đến một nhân vật lịch sử mà em biết - mẫu 40

“Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh” - đây là câu nói bất hủ của Bác Hồ, và nó vẫn luôn đúng không chỉ ở hiện tại, mà còn đúng với lịch sử suốt ngàn năm qua của dân tộc ta. Khi nhắc đến những nữ anh hùng oai phong, thì không thể không nhắc đến Hai Bà Trưng.

Hai Bà Trưng là cách gọi chung của hai nữ vương Trưng Trắc và Trưng Nhị. Lúc bấy giờ, nước ta nằm dưới ách đô hộ của giặc phương Bắc, lúc nào cũng phải chịu sự đàn áp, bóc lột nặng nề. Để đề phòng dân ta vùng dậy, hễ có người tài xuất chúng nào nổi lên là giặc tìm cách tiêu diệt cho bằng được. Chính vì vậy, khi thấy chị em Trưng Trắc và Trưng Nhị có tài thao lược lại được lòng dân chúng thì giặc phương Bắc vô cùng e dè. Chúng quyết định ủ mưu giết chết chồng bà Trưng Trắc là Thi Sách để đe dọa, làm thấp đi ý chí của bà. Ngờ đâu, hành động đó lại thổi bùng lên ngọn lửa căm hận trong Trưng Trắc. Vậy là để trả thù nước và cũng để trả nợ nhà, bà đã lãnh đạo nhân dân đứng lên đánh đuổi lũ giặc phương Bắc. Nghĩa quân của bà lớn mạnh nhanh chóng, đi đến đâu cũng được nhân dân ủng hộ, góp sức, góp của. Nhờ vậy, đội quân của Hai Bà Trưng nhanh chóng đánh đuổi được quân giặc, dành lại độc lập cho dân tộc. Tuy nhiên, chỉ hơn hai tháng sau, quân phía Bắc đã cử một binh đoàn mạnh mẽ và tinh nhuệ sang để đàn áp hai bà, chấm dứt thời gian độc lập ngắn ngủi ấy.

Dù vậy, chiến công của Hai Bà Trưng vẫn vô cùng ý nghĩa đối với đất nước ta. Nó đã trở thành mồi lửa đầu tiên trong đống than hồng âm ỉ tình yêu nước và khát vọng độc lập. Để bắt đầu cho chuỗi những khởi nghĩa ngày càng lớn mạnh hơn của dân tộc ta sau này.

Kể lại sự việc có thật liên quan đến một nhân vật lịch sử mà em biết - mẫu 41

Đinh Bộ Lĩnh là một vị vua tài giỏi nổi tiếng của nước ta ở thời kì phong kiến. Ông còn được biết đến với danh xưng “Ông vua cờ lau”.

Đinh Bộ Lĩnh sinh ra khi nước ta đang trong tình trạng chia cắt thành mười hai cát cứ. Từ khi còn nhỏ, ông đã thể hiện được tài năng lãnh đạo và mưu lược của mình, nên được đám trẻ trong làng tôn sùng. Mỗi khi chơi trò đánh trận, Đinh Bộ Lĩnh luôn đành được chiến thắng và được đám trẻ làm kiệu rước đi.

Khi trưởng thành, Đinh Bộ Lĩnh tham gia đạo binh thuộc sứ quân của Trần Lâm. Với sự dũng cảm và mưu lược tài tình của mình, ông nhanh chóng được thăng chức làm Bộ Lĩnh. Sau khi Trần Lâm qua đời, Đinh Bộ Lĩnh thống lĩnh sứ quân dời về Hoa Lư. Rồi bắt đầu chiêu mộ hào kiệt, rèn luyện lực lượng để chuẩn bị cho mục tiêu lớn.

Khi thời cơ đã chín muồi, lực lượng đã lớn mạnh, Đinh Bộ Lĩnh lãnh đạo sứ quân của mình bắt đầu chinh chiến. Chỉ trong vòng một năm, ông đã dẹp loạn mười hai sứ quân, thống nhất đất nước. Nhân dân cả nước vô cùng kính phục ông, nên tôn ông làm Vạn Thắng Vương. Hai năm sau, Đinh Bộ Lĩnh chính thức lên ngôi hoàng đế, đặt tên nước ta là Đại Cồ Việt. Lên ngôi vua, Đinh Bộ Lĩnh đưa ra nhiều chính sách mới giúp đất nước phát triển mạnh mẽ, cuộc sống nhân dân càng thêm ấm no. Vì vậy, ông được muôn dân kính yêu, ca ngợi hết lời.

Tuy nhiên, Đinh Bộ Lĩnh tại vị được mười hai năm thì qua đời khi còn nhiều dự định còn dang dở. Cả cuộc đời của ông đã cống hiến cho sự thống nhất và phát triển của đất nước. Vì vậy, Đinh Bộ Lĩnh xứng đáng là một trong những trang vàng chói lọi nhất của lịch sử nước nhà.

Kể lại sự việc có thật liên quan đến một nhân vật lịch sử mà em biết - mẫu 42

Một trong những nhân vật lịch sử mà em rất yêu quý và kính trọng là anh Kim Đồng. Bởi khác với các nhân vật khác, ngay từ khi còn nhỏ, anh ấy đã bộc lộ rõ nét sự thông minh, dũng cảm của mình khi hoạt động cách mạng.

Trong những năm tháng hoạt động cách mạng, anh Kim Đồng có nhiều câu chuyện để kể, nhưng em ấn tượng nhất là chuyện một lần anh ấy nhận nhiệm vụ canh gác cho cuộc họp Thanh niên cứu quốc bí mật. Lần đó, anh Kim Đồng nhận nhiệm vụ cùng với một đồng chí khác là Thanh Thủy. Anh đã chủ động phân công Thanh Thủy ra bờ sông đào giun cạnh thác nước để giật mõ báo hiệu khi cần. Còn mình thì chạy đi xin một con cá, cho vào giỏ, rồi mới cắm hờ cần câu vào cạnh gốc vối. Xong xuôi, anh trèo lên cành cây nằm vắt vẻo, giả vờ như đang câu cá, nhưng thực ra là đang hết sức tập trung chú ý động tĩnh ngoài bìa rừng.

Khi không khí đang hết sức bình yên, thì từ đằng ngoài khu rừng có tiếng lá khô xào xạc vang lên mạnh mẽ. Đàn chim làm tổ ở phía đó cũng bay vụt cả lên. Thấy vậy, anh Kim Đồng biết ngay là có người tới. Khi nghe thấy âm thanh ngày càng gần, anh giả vờ reo to lên “A, cá cắn câu rồi! To quá đi!”. Âm thanh đó, đã thu hút bọn lính chạy lại chỗ của anh. Đối mặt với những tên lính cao to, anh không hề sợ hãi, mà vẫn tiếp tục giả vờ để giữ chân chúng lại. Một tên lính hỏi anh Kim Đồng: “Đâu, cá đâu? Mày câu được nhiều cá chưa?”. “Dạ chưa, cháu mới câu được mỗi con này”. Nói rồi, anh Kim Đồng đưa cho bọn lính xem con cá nhỏ nằm im trong giỏ, vốn được xin từ lúc nãy. Điều đó đã khiến bọn lính tin là thật và không hề nghi ngờ chút nào. Thấy có con cá nhỏ, chúng tặc lưỡi bỏ qua, rồi lại tiếp tục lên đường tìm kiếm. Còn anh Kim Đồng thì lại trèo lên cành cây, giả vờ tiếp tục nằm câu cá. Nãy giờ, nhờ có anh Kim Đồng thông minh, nhanh trí sắp xếp mọi việc, mà Thanh Thủy có đủ thời gian giật mõ báo tin cho cuộc họp ở trong rừng. Vậy nên, bọn lính khi đi đến thì chẳng còn ai ở đó nữa rồi.

Chỉ qua một mẩu chuyện ấy, cũng đủ để lột tả sự thông minh, nhanh trí và dũng cảm của anh Kim Đồng. Anh ấy chính là một tấm gương sáng ngời cho các bạn thiếu niên noi theo.

Kể lại sự việc có thật liên quan đến một nhân vật lịch sử mà em biết - mẫu 43

Trong suốt hơn 1000 năm dựng nước và giữ nước, đất nước ta đã sản sinh ra lớp lớp những anh tài, những người hùng lịch sử. Bất kì ai trong số họ cũng đã góp xương máu của mình vào nền hòa bình của đất nước hôm nay. Họ ra đi, để lại những câu chuyện hào hùng cho thế hệ trẻ lấy đó làm gương để nỗ lực phấn đấu. Một trong số đó chính là câu chuyện về lần hi sinh anh dũng của anh hùng Phan Đình Giót.

Đó là một sự việc lịch sử hoàn toàn có thật với những chi tiết mang đậm tính sử thi xảy ra vào chiều ngày 13 tháng 3 năm 1954. Lúc đó, Trung đoàn 141 thuộc Đại đoàn 312 đã được lệnh nổ súng tấn công và tiêu diệt cứ điểm Him Lam của giặc. Anh Phan Đình Giót thuộc Đại đội 58 đã triển khai đội hình và tham gia chiến đấu vào lúc 15 giờ cùng ngày. Đến giờ phái bắt đầu bắn, các chiến sĩ rút khỏi khu rừng, phối hợp với sự chi viện của pháo binh và pháo cao xạ, đồng loạt tấn công cứ điểm Him Lam. Không khí chiến đấu dâng lên mạnh mẽ, hào hùng chưa từng có từ ngày thành lập Quân đội nhân dân. Những chiến sĩ trong Đại đội 58 dũng mãnh lao lên mở đường, liên tiếp phá tan các quả bộc phá của địch. Khi đánh đến quả bộc phá thứ chín, anh Giót bị thương nặng ở đùi, nhưng anh vẫn xung phong là người tiên phong đánh quả bộc phá thứ mười. Tinh thần thép ấy đã truyền cho những người lính khác ý chí chiến đấu ngút trời, càng tiến lên ào ạt như vũ bão. Nhưng càng vào sâu cứ điểm của giặc, chúng lại càng bắn pháp mạnh hơn.

Từng đợt hỏa lực của Pháp bắn xuống bội đội ta dày như mưa, khiến quân ta bị thương rất nhiều. Thấy thế, Phan Đình Giót đã dùng quả lựu đạn cuối cùng của mình đánh hỏa điểm, khiến địch tạm thời ngừng bắn. Nhưng khi quân ta tiếp tục tiến lên, thì chúng lại tiếp tục bắn pháo, thậm chí còn mạnh mẽ hơn trước đó. Anh Giót đã liều mình lao về phía trước, đưa tiểu liên của mình cắm vào lô cốt của giặc, bắn hết một băng đạn. Sau đó anh bị thương nặng ở vai, máu chảy đầm đìa nên ngất đi lúc nào không hay. Nhưng với ý chí chiến đấu mạnh mẽ, anh đã nhanh chóng tỉnh dậy sau đó. Lúc này, anh thấy đồng đội của mình bị chặn lại bởi một hỏa điểm đột ngột xuất hiện của giặc. Hai chiến sĩ đặt trung liên tìm cách dập hỏa điểm đó nhưng lại bị giặc bán bị thương nặng. Tình hình ngày càng nguy cấp, khi hỏa điểm càng lúc càng gây nên nhiều thương vong. Các cán bộ trung đội của anh đã bị thương vong gần hết. Phan Đình Giót tự đảm nhiệm vai trò chỉ huy quân đội, nhìn trừng trừng vào hỏa điểm của địch, rồi nằm sấp xuống mặt đất, ép người và bò nhích lên từng chút một. Máu anh nhuộm đỏ đường di chuyển nhưng anh không quan tâm. Nhờ vậy, anh đã bò được đến cạnh lỗ châu mai của giặc, rồi lấy khẩu tiểu liên mang theo bắn liên tục vào lỗ châu mai. Cứ hết băng đạn này, anh lại thay băng đạn khác. Nhưng lỗ châu mai đó vẫn nahr ra từng loạt hoat điểm ác liệt vào phía quân ta. Bỗng anh Giót như quyết tâm làm điều gì đó. Anh đứng thẳng dậy, cơ thể đẫm máu vì những lần bị thương trước đó, hét to lên “Quyết hi sinh vì Đảng, vì dân”. Nói rồi, anh rướn người, lấy đà, tay bám chặt vào thân cây gỗ quanh lõ châu mai, rồi xoay người thật nhanh, áp lồng ngực mình vào lỗ châu mai của địch. Nhờ anh, hỏa điểm mạnh nhất của Pháp bị dập tắt. Chớp lấy cơ hội, quân ra ào ạt xông lên như vũ bão, tiêu diệt cứ điểm Him Lam, giành thắng lợi trong trận đánh mở màn Chiến dịch Điện Biên Phủ.

Câu chuyện về sự hi sinh anh dũng của anh Phan Đình Giót khiến em vô cùng xúc động và tự hào. Trận chiến của anh được khoác lên mình màu sắc sử thi hào hùng, khiến các thế hệ sau luôn kính trọng, biết ơn sâu sắc khi nhớ về. Thật tự hào xiết bao khi đất nước Việt Nam ta có những người anh hùng tuyệt vời như thế.

Kể lại sự việc có thật liên quan đến một nhân vật lịch sử mà em biết - mẫu 44

Trong suốt hơn 1000 năm dựng nước và giữ nước, đất nước Việt Nam ta đã xuất hiện tầng tầng lớp lớp những người anh hùng với tài năng, chí khí ngút trời. Họ xuất hiện khi đất nước cất lời kêu gọi để dùng bờ vai của mình gánh lấy non sông. Một trong những anh hùng ấy là Trần Quốc Toản - người anh hùng thiếu niên mà em hằng kính trọng và ngưỡng mộ.

Trong lịch sử, Trần Quốc Toản sinh ra và lớn lên ở thời nhà Trần. Khi anh còn đang ở độ tuổi thiếu niên, thì đất nước ta đã phải đối mặt với một mối nguy lớn, đó là cuộc xâm chiếm của giặc Nguyên - Mông. Đứng trước tình thế đó, vua Trần đã tổ chức hội nghị ở bến Bình Than, quy tụ các bô lão và người có tài binh lược đến cùng bàn luận cách ứng phó. Trần Quốc Toản lúc này mới chỉ là một thiếu niên nhưng có lòng yêu nước sâu sắc và niềm căm thù giặc cao độ, nên cũng muốn được tham gia. Tuy nhiên, thấy anh còn nhỏ tuổi, vua Trần đã lấy một trái cam đưa cho anh, rồi đuổi về. Hành động đó khiến Trần Quốc Toản rất buồn và tức giận khi lòng đầy hoài bão, khao khát nhưng không có cơ hội giúp nước, giúp dân. Vì thế mà anh đã bóp nát quả cam trong tay lúc nào không hay.

Tuy nhiên, không vì thế mà Trần Quốc Toản bỏ cuộc. Khi về nhà, anh tự mình triệu tập hơn một ngàn thanh niên khỏe mạnh, ngày đêm cùng họ luyện tập võ nghệ. Cùng với đó, anh còn nghiên cứu binh thư, sách lược, tự trang bị cho bản thân mọi thứ để sẵn sàng ứng phó với giặc. Chờ khi giặc Nguyên - Mông sang xâm lược nước ta, Trần Quốc Toản lập tức đi đầu đón giặc. Anh mang theo lá cờ thêu sáu chữ vàng “Phá cường địch, báo hoàng ân”, dẫn theo hơn một nghìn binh lính lao ra trận để giết giặc. Tuy chỉ là một thanh nien trẻ tuổi lần đầu tham chiến, nhưng anh vẫn lập nhiều chiến công vang dội, khiến nhân dân tự hào, tin yêu. Hình ảnh người thiếu niên anh hùng cùng lá cờ bay phấp phới đó đã trở thành bức tượng đài cao lớn, vĩ đại về những người anh hùng nhỏ tuổi trong lịch sử nước ta.

Em rất ngưỡng mộ và tự hào về hình ảnh người anh hùng Trần Quốc Toản. Cùng với đó, em cũng càng thêm quyết tâm học tập và rèn luyện hăng say hơn nữa, để nối tiếp bước chân hào hùng của các thế hệ đi trước.

Kể lại sự việc có thật liên quan đến một nhân vật lịch sử mà em biết - mẫu 45

Trong những năm tháng thăng trầm của lịch sử nước ta, nhân dân đã từng phải sống trong 1000 năm dài đen tối dưới ách thống trị của giặc phương Bắc. Và người anh hùng đã lãnh đạo nhân dân ta thành công thoát khỏi đêm đen ấy chính là Ngô Quyền.

Ngô Quyền là một vị tướng vừa có tài mưu lược, lại vừa có khả năng cai trị sáng suốt. Những ưu điểm đó của ông được bộc lộ rõ nét khi ông được Dương Đình Nghệ tin tưởng giao cho cai quản một vùng đất rộng lớn. Tuy nhiên, một ngày nọ kẻ phản bội Kiều Công Tiễn đã dám lén ám sát Dương Đình Nghệ để dành ngôi vua. Lo sợ Ngô Quyền trả thù, hắn đã cho người sang cầu cứu phương Bắc, mở đường cho quân Nam Hán tiến về nước ta. Tuy nhiên, những điều đó cũng chẳng thể cản được bước chân của Ngô Quyền. Ông đã dũng mãnh lao về kinh thành, giết chết Kiều Công Tiễn để trả thù. Sau đó hành quân về biên giới, chặn đánh giặc ngay từ lối vào nước ta. Gặp địch ở đâu, Ngô Quyền mạnh mẽ phản công đến đó. Tại trận Bạch Đằng, với mưu trí lợi dụng thủy triều để cắm cọc dưới lòng sông, Ngô Quyền đã thành công khiến quân địch tổn thất nặng nề, hoảng loạn bỏ chạy về nước. Nhờ chiến thắng ấy, Ngô Quyền được nhân dân tin tưởng, toàn quân ủng hộ trở thành vị vua mới của nước ta. Từ giây phút ấy, nước ta chính thức trở thành một quốc gia độc lập, thoát khỏi sự đô hộ của giặc phương Bắc.

Những thành tựu mà Ngô Quyền gây dựng được có ý nghĩa vô cùng quan trọng với đất nước ta. Muôn đời về sau, nhân dân vẫn kính trọng và tự hào vô cùng về người anh hùng Ngô Quyền mưu trí, dũng cảm hơn người.

Kể lại sự việc có thật liên quan đến một nhân vật lịch sử mà em biết - mẫu 46

Một trong những cái tên rực rỡ nhất trong dòng chảy lịch sử hào hùng của dân tộc ta, chính là Đinh Bộ Lĩnh.

Tên tuổi của người anh hùng lịch sử này gắn với Hoa Lư, Ninh BÌnh và những ngọn cờ lau. Từ khi còn nhỏ, sự thông minh, gan dạ hơn người của ông đã thể hiện rõ qua những lần chơi trò đánh trận giả với bạn bè. Lần nào ông cũng nắm vai trò lãnh đạo, giúp đội mình chiến thắng. Khi thắng trận, ông sẽ được đám trẻ làm kiệu rước đi, tay thì dương cao bông lau phấp phới. Khi lớn lên, ông tham gia đạo binh của Trần Lâm. Với sự thông minh và thiện chiến của mình, ông nhanh chóng thăng chức làm Bộ Lĩnh. Khi chủ lĩnh qua đời, ông đã đưa sứ quân về Hoa Lư để rèn luyện. Chờ lực lượng lớn mạnh, ông chủ động mở đường dẹp loạn mười hai sứ quân. Chỉ trong vòng một năm, ông đã thành công thống nhất đất nước. Muôn dân trăm họ ai ai cũng nể phục ông. Sau khi lên ngôi, Đinh Bộ Lĩnh đã đưa ra các quyết định sáng suốt, các chính sách nhân đạo nên nhân dân được sống ấm no, thái bình.

Đinh Bộ Lĩnh thật xứng đáng là một trong những bức tượng đài cao lớn nhất trong những người anh hùng lịch sử Việt Nam ta.

Kể lại sự việc có thật liên quan đến một nhân vật lịch sử mà em biết - mẫu 47

Chị Võ Thị Sáu là một nhân vật lịch sử nổi tiếng, và có lẽ không có người dân Việt Nam nào là không biết về chị.

Trong những năm tháng nước ta thực hiện kháng chiến chống thực dân Pháp, chị Sáu lúc ấy còn rất trẻ nhưng đã tham gia hoạt động rất dũng cảm. Chị Sáu tham gia đội Công an xung phong của quận Đất Đỏ và trở thành một chiến sĩ trinh sát, thực hiện nhiều nhiệm vụ nguy hiểm. Chị nhiều lần hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, nên được tổ chức tin tưởng và ủng hộ. Đặc biệt, chị chính là người cầm lựu đạn tấn công cuộc mít-tinh do địch tổ chức tại chợ Đất Đỏ. Khiến cho nhân dân hết lời khen lợi. Tuy nhiên, ít lâu sau, trong một lần thực hiện nhiệm vụ, chị không may bị địch bắt được. Chúng đã tra khảo và mở phiên tòa để buộc tội chị. Đứng trước bè lũ kẻ địch hung hãn, chị Sáu không hề hoảng sợ, mà vẫn dõng dạc khẳng định “Yêu nước chống bọn thực dân xâm lược không phải là tội”. Sau đó, chúng đưa chị qua nhiều trại giam, rồi quyết định xử bắn chị để răn đe những người hoạt động Cách mạng khác. Khi lên pháp trường, chị Võ Thị Sáu vẫn không hề run sợ, chị bước đi hiên ngang và còn tự cài lên mái tóc của mình một đóa hoa. Thậm chí, khi đối mặt với họng súng của kẻ địch, chị đã yêu cầu không cần bịt mắt, để chị có thể nhìn thẳng vào kẻ thù.

Tuy chị Võ Thị Sáu đã hi sinh anh dũng. Nhưng chị và sự dũng cảm, kiên định đã trở thành một biểu tượng về người con gái anh hùng sống mãi trong trái tim người dân Việt Nam.

Kể lại sự việc có thật liên quan đến một nhân vật lịch sử mà em biết - mẫu 48

Chị Võ Thị Sáu là một cái tên quen thuộc mà bất kì ai khi tìm hiểu về những năm tháng khói lửa của dân tộc đều biết đến. Chị ấy là một người con gái anh hùng đến từ vùng Đất Đỏ.

Trong những năm tháng kháng chiến chống thực dân Pháp ác liệt, nhân dân ta đồng lòng gắng sức đứng lên chống giặc. Dù là già trẻ, gái trai, ai ai cũng góp sức theo cách của mình. Chị Sáu cũng không đứng ngoài phong trào ấy. Từ khi còn rất trẻ, chị Sáu đã tham gia hoạt động cách mạng rất năng nổ. Chị tham gia đội Công an xung phong của quận và trở thành một chiến sĩ trinh sát. Các nhiệm vụ nguy hiểm, chị đều xung phong nhận lệnh. Nhiều lần, chị hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, khiến đồng đội vô cùng tin tưởng và nể phục. Cứ như vậy, chị Sáu mặc kệ an nguy của bản thân, liên tục thực hiện các nhiệm vụ nguy hiểm. Và rồi, trong một lần thực hiện nhiệm vụ, chị không may bị giặc bắt được. Đứng trước những kẻ địch hung hãn, những lần tra tấn tàn bạo, chị vẫn dõng dạc tuyên bố “Yêu nước chống bọn thực dân xâm lược không phải là tội”. Cuối cùng, cảm thấy không thể tra hỏi được gì từ chị Sáu, quân địch quyết định xử bắn chị để răn đe những người Cộng Sản khác. Trước lúc ra đi, chị Sáu thản nhiên hái một đóa hoa cài lên mái tóc. Chị cũng chẳng cần đeo bịt mắt, bởi chị không hề sợ hãi một chút nào. Chị đã nhìn thẳng vào kẻ thù cho đến giây phút cuối cùng của cuộc đời mình.

Chị Võ Thị Sáu đã hi sinh anh dũng vì Cách Mạng, vì dân tộc. Tuy chị ra đi, nhưng chị sẽ vẫn sống mãi trong lòng dân tộc, trong kí ức của người dân Việt Nam.

Kể lại sự việc có thật liên quan đến một nhân vật lịch sử mà em biết - mẫu 49

Kể lại sự việc có thật liên quan đến một nhân vật lịch sử Ngô Quyền

Ngô Quyền là người anh hùng lịch sử vĩ đại của dân tộc Việt Nam ta. Ông là người mở ra thời kì độc lập, tự do của đất nước ta sau suốt cả ngàn năm bị giặc phương Bắc đô hộ.

Năm đó, Ngô Quyền là một tướng quân tài giỏi lại đức độ dưới trướng Dương Đình Nghệ. Khi ông cai quản vùng Châu Ái đã được nhân dân ở đó hết sức yêu mến và tin tưởng. Bởi ông đã đưa ra những chính sách, đường lối phù hợp cho sự phát triển của vùng đất, lại cai trị bằng tình yêu thương và bao dung. Những phẩm chất của một nhà lãnh đạo đại tài đã được Ngô Quyền thể hiện từ lúc ấy.

Tuy nhiên, những ngày tháng bình yên như thế lại không thể kéo dài. Một tên phản bội hèn hạ là Kiều Công Tiễn đã lén ám sát Dương Đình Nghệ và cầu cứu nhà Nam Hán, khiến chúng có lý do để sang xâm chiếm nước ta lần nữa.

Trước tình thế nguy cấp, Ngô Quyền lập tức đem quân về thành Đại La, giết tên phản bội Kiều Công Tiễn để ổn định lòng dân. Sau đó, ông bình tĩnh suy tính sách lược, đem đại quân di chuyển về sông Bạch Đằng - nơi quân Nam Hán sẽ đi qua để tiến vào nước ta. Tại đây, Ngô Quyền nghĩ ra một kế sách vô cùng sáng suốt, đến tận ngàn năm sau con cháu vẫn nhắc đến với lòng khâm phục. Lợi dụng mực nước khi thủy triều lên xuống ở sông Bạch Đằng, ông đã cho quân vót nhọn, bọc sắt ở những cây cọc lớn, cắm xuống lòng sông. Sao cho khi nước lên, cọc sẽ nằm hoàn toàn dưới mặt nước. Còn khi nước xuống thì cọ nhọn sẽ nhô lên cả, như một cái bẫy khổng lồ. Sau đó, Ngô Quyền chờ khi nước lên, cho quân ra dụ địch, giả vờ thua trận và bỏ chạy để dẫn chúng chạy theo vào trận địa cọc. Đúng lúc giặc chạy vào bẫy, là khi nước thủy triều hạ xuống, những chiếc tàu lớn của quân Nam Hán bị kẹt lại, bị cọc đâm vỡ, tổn thất nặng nề. Nhiều quân lính đã hi sinh trên bãi cọc. Số còn lại thì bị quân ta dùng thuyền nhỏ len qua cọc tấn công nên tử thương càng tăng thêm. Trận chiến ấy đã nhuộm đỏ sông Bạch Đằng bằng máu của bọn xâm lược, khiến chúng sợ hãi, bỏ chạy về nước.

Sau trận chiến ấy, cả nước ta vui sướng vô cùng và nhân dân càng thêm tin tưởng Ngô Quyền. Vì vậy, ông chính thức lên ngôi vua, lãnh đạo nước ta bước vào một kỉ nguyên mới.

Kể lại sự việc có thật liên quan đến một nhân vật lịch sử mà em biết - mẫu 50

Thánh Gióng là một nhân vật anh hùng mà người dân Việt Nam ai ai cũng biết. Không chỉ vì truyền thuyết về Thánh Gióng vô cùng phổ biến trong dân gian, mà còn bởi đến ngày nay vẫn có nhiều chứng tích và hoạt động lễ hội tưởng nhớ.

Thánh Gióng được biết đến bởi quá trình sinh ra và lớn lên lạ kì. Theo truyền thuyết kể lại, mẹ của Thánh Gióng vì ướm chân lên một vết chân to mà mang thai và sinh ra cậu. Tuy nhiên, suốt ba năm đầu đời, Gióng chỉ nằm im một chỗ, không nói cũng chẳng cười, tựa như một em bé búp bê vậy. Cuộc sống cứ thế lẳng lặng trôi qua, cho đến một ngày điều khó khăn ập đến. Giặc Ân từ nơi xa kéo đến nước ta, tổ chức cuộc xâm lăng man rợ. Đất nước lâm nguy, nhà vua cho sứ giả đi khắp nơi tìm người tài giúp nước. Khi sứ giả đi ngang qua nhà Thánh Gióng, đọc khẩu dụ của nhà vua thì Gióng bỗng trở nên khác lạ. Cậu cử động thân mình, cất tiếng gọi mẹ và nhờ bà gọi sứ giả vào gặp mình. Đó là lần đầu trong suốt bao nhiêu năm cuộc đời Gióng cất tiếng nói, và cũng là để cứu nước. Chi tiết ấy đã cho thấy sứ mệnh vĩ đại của Thánh Gióng khi đến với thế giới này, chính là bảo vệ độc lập của đất nước ta.

Ngay khi gặp sứ giả, Thánh Gióng đã yêu cầu một con ngựa sắt, một bộ giáp sắt và một cây gậy sắt với kích thước to lớn. Hiểu được mình đã gặp được một người anh hùng phi phàm, sứ giả đồng ý ngay và vội vàng về tâu với nhà vua cho sản xuất các món đồ đó. Còn Thánh Gióng, sau khi sứ giả rời đi, thì bỗng nhiên ăn nhiều hơn hẳn. Cậu ăn mãi mà chẳng thấy no, cơ thể cũng theo đó mà cao lớn nhanh chóng. Áo mẹ vừa mặc cho đã sứt chỉ rồi. Thế là, dân làng đã chủ động sang nhà góp gạo, nấu cơm cho Gióng ăn. Cả làng cùng đồng sức đồng lòng để nuôi lớn người anh hùng.

Khi giặc Ân đã chạy đến chân núi, cũng là lúc sứ giả mang các món đồ bằng sắt đến. Ngay lập tức, sóng chạy ra giữa sân, vươn vai một cái rồi biến thành tráng sĩ cao lớn, vạm vỡ. Tráng sĩ mặc giáp sắt vào, tay cầm gậy sắt, tay còn lại vỗ vào mông ngựa, khiến nó sống dậy, phun ra từng ngọn lửa lớn. Xong xuôi, Gióng cưỡi lên lưng ngựa, lao ra chiến trường. Quân giặc đông đúc bị một mình Thánh Gióng đánh cho trở tay không kịp. Chúng nằm xuống như ngả rạ, thương vong nặng nề. Số còn lại thì quá sợ hãi, vứt bỏ vũ khí tìm đường tháo chạy. Tất cả bị Thánh Gióng truy đuổi đến tận biên giới, để đảm bảo cả nước ta không còn hình bóng của một kẻ thù nào. Trên đường đi, gậy sắt bị gãy, Thánh Gióng liền nhổ bụi tre ven đường để thay thế.

Kết thúc trận chiến, nước ta trở lại bình yên. Thánh Gióng đã hoàn thành sứ mệnh của mình bèn cởi áo giáp sắt để lại, rồi cưỡi ngựa bay về trời. Đó là sự việc về người anh hùng lịch sử Thánh Gióng.

Đánh giá

0

0 đánh giá