Tailieumoi.vn xin giới thiệu bài văn mẫu Phân tích từ ngữ, hình ảnh đặc sắc trong đoạn thơ Dân chài lưới, làn da ngăm rám nắng, giúp các em có thêm tài liệu tham khảo trong quá trình ôn tập, củng cố kiến thức cho bài thi sắp tới. Mời các bạn đón xem:
Phân tích từ ngữ, hình ảnh đặc sắc trong đoạn thơ Dân chài lưới, làn da ngăm rám nắng
Đề bài: Em hãy chọn phân tích một số từ ngữ, hình ảnh đặc sắc trong đoạn thơ sau: "Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng ...... Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ".
Phân tích từ ngữ, hình ảnh đặc sắc trong đoạn thơ Dân chài lưới, làn da ngăm rám nắng - mẫu 1
Hình ảnh người dân chài có làn da ngăm rám nắng: 'Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng/ Cả thân hình nồng thở vị xa xăm' là một hình ảnh tiêu biểu cho con người ở làng chài ven biển. Hàng ngày, người dân chài phải đội mưa, đội nắng ngoài biển khơi để mang về những mẻ cá tươi ngon. Chính vì vậy, thân hình của họ đều bị cháy nắng và thấm đẫm nước biển. Tác giả mô tả rất chân thực nhưng không kém phần lãng mạn thân hình của những người dân chài.
Trong bài thơ “Quê hương” của Tế Hanh, tôi cảm thấy ấn tượng với đoạn thơ:
Dân chài lưới, làn da ngăm rám nắng,
Cả thân hình nồng thở vị xa xăm;
Chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm
Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ.
Bốn câu thơ đã miêu tả hình ảnh người dân chài và con thuyền sau chuyến ra khơi. Câu thơ mở đầu tả thực, người dân chài lưới có nước da ngăm nhuộm nắng, nhuộm gió. Câu sau là một sáng tạo độc đáo, thú vị gợi ra hình ảnh thân hình vạm vỡ, thấm vị mặn mòi, nồng tỏa ra “vị xa xăm” của biển khơi. Hình ảnh người dân chài được miêu tả vừa chân thực vừa lãng mạn, trở nên có tầm vóc phi thường. Tiếp theo là hình ảnh con thuyền được nhân hóa với từ “im”, “mỏi, “trở về” và “nằm”. Sau một ngày lao động vất vả, con thuyền cũng giống như con người, biết mệt mỏi nên đã nằm lặng im để nghỉ ngơi. Ẩn dụ chuyển đổi cảm giác “nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ” gợi ra cảm nhận tinh tế. Con thuyền cũng có linh hồn, đang cảm nhận được hương vị của biển cả đang thấm dần trong “cơ thể” của mình. Những hình ảnh, từ ngữ được tác giả sử dụng thật độc đáo, giàu sức gợi.
Câu thơ ba và bốn miêu tả về con thuyền nằm im trên bến đỗ cũng là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo, toát lên vẻ mặn mòi của biển, thấm đượm xúc cảm bâng khuâng thương nhớ của người con xa quê hương. Trong câu thơ này tác giả tiếp tục sử dụng biện pháp ẩn dụ chuyển đổi cảm giác: chất muối thấm dần chúng ta cảm nhận bằng thị giác và cảm giác nhưng ở đây nhà thơ nghe được sự thấm tháp đó. Nhà thơ không chỉ thấy con thuyền nằm im trên bến mà còn thấy cả sự mệt mỏi của nó. Cũng như dân chài, con thuyền có vị mặn của nước biển, con thuyền như đang lắng nghe chất muối của đại dương đang thấm trong từng thớ vỏ của nó. Thuyền trở nên có hồn hơn, nó không còn là một vật vô tri vô giác nữa mà đã trở thành người bạn của ngư dân.
Thân hình của ngư dân lưới 'nồng thở vị xa xăm'. 'Nồng thở' là một cụm từ chỉ hương vị. Điều này thể hiện đặc điểm của người dân làng chài: hương vị nồng của cá, của biển, của những ngày ra khơi bi thương. Mùi hương này không chỉ là một hương vị, mà còn là đặc điểm của người dân làng chài, là kỷ niệm, là nỗi nhớ về những ngày sống ven biển. 'Nồng thở' là một cụm từ mà không phải từ đơn lẻ vì 'nồng' và 'thở' ban đầu là hai từ khác biệt, được kết hợp để tạo ra hiệu ứng nghệ thuật trong thơ. 'Thở' là một hành động của hô hấp, của sự sống. 'Nồng thở' vừa ám chỉ hương vị, vừa thể hiện hương vị ấy chính là đặc trưng sống còn của người dân làng chài ven biển.
'Chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm': Trong câu thơ và hình ảnh này, tác giả đã sử dụng phép tu từ nhân hoá, khiến cho chiếc thuyền cũng có tính cách như con người, biết 'im', biết 'trở về', biết nghỉ ngơi. Sau những ngày ra khơi, chiếc thuyền hăng hái như một con ngựa đã cần có thời gian nghỉ ngơi, giống như con người. Nó không còn chinh phục sóng biển, lướt qua những con sóng mạnh mẽ nữa mà đã trở về bến bãi. Hình ảnh này gợi lên trong đầu người đọc cảm giác về những ngày sau khi đi câu, ngư dân trở về để nghỉ ngơi, một cách yên bình. Đó là sự yên bình cần thiết, như hơi thở, như sự sống, là một thời gian nghỉ ngơi để chờ đợi cho những chuyến ra khơi tiếp theo.
Sau thời gian lao động vất vả, thuyền không giấu giếm vẻ mệt mỏi: 'Chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm'. Biện pháp nhân hoá hình dung rõ dáng vẻ nặng nề, thấm mệt của thuyền khi chậm chạp neo vào bến đỗ. Nó lặng im 'Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ'. Trong câu thơ này, Tế Hanh sử dụng ẩn dụ chuyển đổi cảm giác một cách tinh tế. 'Nghe' là động từ chỉ hoạt động của thính giác, 'thấm' là cảm nhận của xúc giác. Thuyền nằm nghỉ đồng thời cảm nhận từng chuyển động tinh vi nhất trong mình. Cách viết gợi mệt nhọc và tinh tế của thuyền, thể hiện sự tinh tế của nhà thơ, tưởng như Tế Hanh đồng cảm sâu sắc với cảm giác, cảm xúc của thuyền...
Thân hình dân chài lưới 'nồng thở vị xa xăm'. 'Nồng thở' là cụm từ chỉ mùi hương. Nó thể hiện đặc điểm của dân chài lưới: mùi của cá, của biển, của những ngày đằng đẵng ra khơi. Mùi hương không chỉ là mùi hương, nó còn là kí ức, nỗi nhớ của người làng chài ven biển. 'Nồng thở' không chỉ mùi hương, mà còn là sự sống còn của dân chài. Tác giả sử dụng cụm từ này để tạo hiệu quả nghệ thuật trong thơ. 'Thở' là hoạt động hô hấp của con người, gắn liền với sự sống. 'Nồng thở' vừa chỉ mùi hương, vừa thể hiện mùi hương ấy chính là đặc điểm sống còn của dân chài...
Giữa trời nước bao la, con thuyền hiên ngang, hăng hái, đầy sinh lực dưới bàn tay điều khiển thành thạo của dân trai tráng như con tuấn mã. Tác giả khắc hoạ tư thế kiêu hãnh chinh phục sông dài, biển rộng của người làng chài. Lời thơ như băng băng về phía trước, như rướn lên cao bao la cùng với con thuyền, với cánh buồm. Tác giả cảm nhận cuộc sống lao động của làng quê bằng cả tâm hồn thiết tha gắn bó nên mới liên tưởng Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng. Bao nhiêu trìu mến thiêng liêng, bao nhiêu hi vọng mưu sinh của người lao động được gửi gắm ở đấy.
Từ tả thực, những câu thơ lại dần nghiêng về sắc thái biểu tượng sâu sắc. Điều đó tạo cho bài thơ cấu trúc hài hoà, cân đối. Trên là cảnh rẽ sóng vượt trùng dương, đến đây là cảnh nghỉ ngơi. Sự tĩnh lặng liền ngay sau sự động nhưng không hoàn toàn tách biệt. Có một sợi dây liên kết, một sự gắn bó rất mật thiết phía sau hình ảnh 'làn da ngăm rám nắng' và 'thân hình nồng thở vị xa xăm' của những người trai làng chài, bên cạnh đó còn phải kể đến chi tiết rất gợi cảm: chiếc thuyền đã trở về nghỉ ngơi trên bến nhưng vẫn 'nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ'. Từ 'chất muối' đến hơi thở 'vị xa xăm' gợi đến biển cả, đến những chuyển động vượt qua muôn ngàn sóng gió. Đó là khát vọng chinh phục đại dương rất mãnh liệt, đã ngấm sâu trong huyết quản của những người dân làng chài, được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.