TOP 10 Mô phỏng hướng dẫn viên du lịch để giới thiệu về một cảnh quan thiên nhiên hay di tích lịch sử nổi tiếng

126

Tailieumoi.vn xin giới thiệu bài văn mẫu Mô phỏng hướng dẫn viên du lịch để giới thiệu về một cảnh quan thiên nhiên hay di tích lịch sử nổi tiếng Ngữ văn 9 Kết nối tri thức, gồm dàn ý và các bài văn phân tích mẫu hay nhất giúp các em học sinh có thêm tài liệu tham khảo từ đó học cách viết văn hay hơn.

Mô phỏng hướng dẫn viên du lịch để giới thiệu về một cảnh quan thiên nhiên hay di tích lịch sử nổi tiếng

Đề bài: Mô phỏng cách làm của hướng dẫn viên du lịch (dựa vào quan sát thực tế hoặc việc theo dõi một số chương trình trên truyền hình) để giới thiệu với các bạn trong nhóm học tập về một cảnh quan thiên nhiên hay di tích lịch sử nổi tiếng.

Soạn bài Củng cố, mở rộng lớp 9 trang 109 Tập 2 | Kết nối tri thức

Dàn ý Mô phỏng hướng dẫn viên du lịch để giới thiệu về một cảnh quan thiên nhiên hay di tích lịch sử nổi tiếng

- Mở đầu: Nêu tên đối tượng sẽ được thuyết minh (có thể đưa ra một bức ảnh hay đoạn nhạc dạo của một ca khúc và cho người nghe nhận diện danh lam thắng cảnh hay di tích lịch sử nào được thể hiện trong bức ảnh, ca khúc đó).

- Triển khai: Lần lượt nêu các đặc điểm, giá trị của danh lam thắng cảnh hay di tích lịch sử dưới hình thức vừa miêu tả, cung cấp các thông tin cụ thể, vừa phân tích, đánh giá. (Lưu ý: sự phân tích, đánh giá ở đây mang một tính chất riêng, nhằm “cố định hoá” hình ảnh của một đối tượng cụ thể, trước khi chuyển sang nói tới các đối tượng cụ thể khác trong danh lam thắng cảnh hay di tích lịch sử.)

- Kết thúc: Khẳng định lại giá trị nổi bật của danh lam thắng cảnh hay di tích lịch sử.

Mô phỏng hướng dẫn viên du lịch để giới thiệu về một cảnh quan thiên nhiên hay di tích lịch sử nổi tiếng - Mẫu 1

Xin chào thầy cô và các bạn. Hôm nay em sẽ thuyết trình về một danh lam thắng cảnh nổi tiếng của Hà Nội, đó là Hồ Hoàn Kiếm.

Nhác trông lên chốn kinh đô

Kìa đền Quán Thánh, nọ hồ Hoàn Gươm

(Ca dao)

Câu ca dao quen thuộc ấy đã đi vào trái tim và tiềm thức của hàng triệu, hàng triệu người dân Việt Nam. Để rồi, mỗi lần nhắc tới chốn “kinh đô”, nhắc tới thủ đô Hà Nội chắc hẳn sẽ không ai có thể quên được hình ảnh của hồ Hoàn Kiếm (hồ Gươm).

Như chúng ta đã biết, hồ Hoàn Kiếm còn được gọi là hồ Gươm là một hồ nước ngọt nằm ở trung tâm của thủ đô Hà Nội. Từ trước đến nay, hồ này có nhiều tên gọi khác nhau như hồ Lục Thủy, hồ Thủy Quân, hồ Tả Vọng, hồ Hữu Vọng và đến những năm đầu thế kỉ XV hồ mới có tên gọi là hồ Hoàn Kiếm (hay hồ Gươm). Tên gọi hồ Hoàn Kiếm xuất phát từ truyền thuyết vua Lê Lợi trả gươm cho Rùa thần. Chuyện kể rằng, vào thời giặc Minh xâm lược, đô hộ nước ta làm cho tình cảnh của nhân dân ta hết sức cơ cực, nhiều phong trào đấu tranh đã nổ ra trong đó có khởi nghĩa của Lê Lợi ở Lam Sơn. Lúc đầu, phong trào đấu tranh của nghĩa quân do Lê Lợi đứng đầu liên tiếp thất bại, sau khi được Đức Long quân cho mượn gươm báu thì liên tiếp giành thắng lợi. Sau khi đánh tan quân xâm lược, Lê Lợi dạo thuyền chơi trên hồ thì Rùa thần lên đòi lại gươm báu, Lê Lợi trao gươm cho Rùa thần và kể từ đấy, hồ này có tên là hồ Hoàn Kiếm hay hồ Gươm.

Hồ Hoàn Kiếm có diện tích khoảng 12 héc-ta, ở vị trí kết nối các con phố cổ của thủ đô Hà Nội. Không giống với các hồ nước tự nhiên khác, nước hồ Hoàn Kiếm suốt bốn mùa đều xanh ngắt. Xung quanh hồ cây cối bốn mùa xanh ngắt, tươi tốt, mỗi mùa mỗi loài khác nhau. Đó là những cây phượng vĩ mỗi dịp hè về khoe sắc màu đỏ rực, là những rặng liễu xanh rủ bóng mình xuống dòng nước hồ xanh mát. Và thêm vào đó, những loài hoa đua nhau khoe sắc, tỏa hương, điểm tô cho vẻ đẹp cổ kính của hồ. Đặc biệt, ở giữa hồ có một gò đất nổi, người ta xây lên đó một tòa tháp gọi là tháp Rùa.

Đặc biệt, hồ Hoàn Kiếm là một quần thể rộng lớn, bao gồm nhiều di tích, nhiều cảnh quan khác nhau chứ không phải là một cá thể độc lập. Dân gian ta từ xưa đến nay thường có câu:

Rủ nhau xem cảnh Kiếm Hồ

Xem cầu Thê Húc xem đền Ngọc Sơn

Đài Nghiên, Tháp Bút chưa mòn

Hỏi ai gây dựng nên non nước này!

Bài ca dao ấy của nhân dân ta đã phần nào giúp chúng ta thấy được những cảnh quan, những di tích trong quần thể với hồ Hoàn Kiếm. Đó là Tháp Rùa, tháp nổi giữa lòng hồ Hoàn Kiếm, quanh năm cỏ mọc xanh tươi và tương truyền đây chính là nơi Rùa thần lên nghỉ ngơi. Đó là đền Ngọc Sơn, ngôi đền được xây dựng trên đảo Ngọc vào thế kỉ XIX. Ban đầu, đây là ngôi chùa với tên gọi là Chùa Ngọc Sơn nhưng về sau không thờ phật nữa mà chuyển sang thờ thánh Văn Xương và Trần Văn Đạo nên  nó được đổi tên là Đền Ngọc Sơn. Cầu Thê Húc là cây cầu màu đỏ, “cong cong như con tôm, dẫn vào đền Ngọc Sơn”. Ngoài ra, trong quần thể của hồ Hoàn Kiếm còn có Đài Nghiên, tháp Hòa Phong, đền Bà Kiệu, Thủy Tạ,… Tất cả chúng quyện hòa vào nhau tạo nên vẻ đẹp và sức sống lâu đời cho hồ Hoàn Kiếm.

Có thể nói, từ xưa đến nay, hồ Hoàn Kiếm vẫn luôn là một di tích lịch sử, một địa danh du lịch nổi tiếng hấp dẫn thu hút du khách trong nước và du khách thập phương về tham quan. Dường như, hồ Hoàn Kiếm đã góp mình tạo nên bức tranh một thủ đô Hà Nội vừa văn minh, hiện đại vừa cổ kính. Thêm vào đó, nơi đây cũng trở thành nguồn cảm hứng bất tận cho thi, ca, nhạc, họa với nhiều tác phẩm nổi tiếng và có sức sống lâu bền, mãi mãi với năm tháng. Đặc biệt, trong thời đại hiện nay, những khu phố quanh hồ Hoàn Kiếm đang ngày càng phát triển, trở thành những trung tâm buôn bán song hình ảnh hồ Hoàn Kiếm vẫn còn mãi nguyên giá trị văn hóa lịch sử của mình và hơn thế nữa, nó như trở thành một chứng nhân lịch sử chứng kiến bao đổi thay của thủ đô Hà Nội và của cả đất nước, dân tộc Việt Nam.

Tóm lại, hồ Hoàn Kiếm là một trong những danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử nổi tiếng của thủ đô Hà Nội nói riêng và đất nước Việt Nam nói chung, thu hút hàng triệu khách du lịch thập phương. Chính nơi đây đã góp phần điểm tô làm rạng rỡ thêm cho vẻ đẹp của đất nước, con người Việt Nam.

Phần trình bày của em đến đây là kết thúc. Cảm ơn cô và các bạn đã lắng nghe.

Mô phỏng hướng dẫn viên du lịch để giới thiệu về một cảnh quan thiên nhiên hay di tích lịch sử nổi tiếng - Mẫu 2

Xin chào thầy cô và các bạn. Hôm nay em sẽ thuyết trình về một danh lam thắng cảnh nổi tiếng của Hà Nội, đó là Văn miếu – Quốc Tử Giám.

Đất nước thân yêu của chúng ta đã trải qua hàng triệu năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Để rồi, giờ đây, khi chiến tranh đã lùi xa nhưng những dấu ấn của lịch sử, của những chiến công hào hùng, của nền văn hóa truyền thống dường như vẫn còn mãi in dấu nơi những di tích lịch sử ở khắp cả nước. Và về với Hà Nội – thủ đô của cả nước, chúng ta sẽ nhớ ngay tới Văn Miếu Quốc Tử Giám – một trong số những di tích lịch sử nổi tiếng ở nước ta.

Như chúng ta đã biết, Văn Miếu Quốc Tử Giám là một di tích lịch sử, môt danh lam thắng cảnh nổi tiếng, nằm ở phía nam của thành Thăng Long. Bốn mặt của di tích Văn Miếu Quốc Tử Giám đều là phố – phía nam – cổng chính của Văn Miếu chính là phố Quốc Tử Giám, phía bắc là phố Nguyễn Thái Học, phía đông là phố Văn Miếu và cuối cùng, phía tây là phố Tôn Đức Thắng. Nhìn lại chặng đường lịch sử trong quá trình ra đời của Văn Miếu Quốc Tử Giám chúng ta sẽ thấy có nhiều nét độc đáo. Văn Miếu được xây dựng từ năm 1070, vào thời vua Lí Thánh Tông. Vào thời kì này, Văn Miếu không chỉ là nơi thờ cúng các bậc tiên thánh, tiên sư của đạo Nho mà nơi đây còn là một trường học hoàng gia. Đến năm 1253, vua Trần Nhân Tông đã mở rộng phạm vi, từ đó, nơi đây không còn chỉ là trường học hoàng gia mà còn có cả con cái trong các gia đình thường dân nhưng thông minh và có thành tích học tập xuất sắc. Dưới thời vua Lê Thánh Tông, tức vào những năm 1484, mỗi khoa thi Tiến sĩ sẽ có một tấm bia được dựng trên lưng rùa để ghi danh những người xuất sắc. Trải qua thời gian, đặc biệt là trong thời gian thực dân Pháp xâm lược nước ta, đã làm hư hại một số công trình trong khu Văn Miếu Quốc Tử Giám và về sau, một số công trình đã được xây dựng, tu bổ, mô phỏng lại theo lối kiến trúc của truyền thống trên chính nền đất xưa của Văn Miếu Quốc Tử Giám.

Là một trong số những di tích lịch sử độc đáo của nước ta, Văn Miếu Quốc Tử Giám có những nét độc đáo, đặc sắc riêng. Văn Miếu Quốc Tử Giám tọa lạc trên một khu đất hình chữ nhật với tổng diện tích hơn 54000 mét vuông. Xung quanh Văn Miếu Quốc Tử Giám được bao bọc bởi những tường rêu cổ kính đã tồn tại hàng nghìn năm nay. Đi sâu khám phá Văn Miếu Quốc Tử Giám, chúng ta sẽ thấy rằng, Văn Miếu gồm có ba khu vực chính là Hồ Văn, vườn Giám và khu nội tự Văn Miếu – Quốc Tử Giám. Trước hết, Hồ Văn nằm ở phía nam, ngay trước mặt của Văn Miếu, diện tích của nó là hơn 12000 mét vuông. Hồ Văn là một hồ nước trong, quanh năm cây cối tươi tốt, um tùm và giữa hồ có một gò đất nổi lên, ấn mình dưới những tán cây, càng làm tăng lên vẻ đẹp cho hồ. Đây là nơi thường diễn ra hoạt động chơi chữ, đặc biệt là hội chữ mùa xuân và các hội bình thơ. Khu nội tự chính là khu vực chính, khu vực chủ thể của quần thể kiến trúc Văn Miếu Quốc Tử Giám và được chia làm năm khu vực chính. Đầu tiên đó chính là Văn Miếu Môn, đây chính là cổng tam quan phía ngoài. Để đi vào được Văn Miếu Môn phải đi qua tứ trụ và hai tấm bia Hạ Mã. Cũng giống như nhiều cổng tam quan theo lối kiến trúc xưa, Văn Miếu Môn cũng có ba cửa, hai cửa hai bên nhỏ và cửa chính giữa to hơn, được xây hai tầng. Đặc biệt, trước Văn Miếu Môn có hai con rồng đá thời Lê và bên trong là đôi rồng đá dưới triều Nguyễn, đồng thời, hai bên công ở mặt ngoài còn có các câu đối bằng chữ Hán. Qua Văn Miếu Môn, theo con đường thẳng tắp sẽ tới Đại Trung Môn. Cửa Đại Trung môn cũng được xây dựng theo kết cấu ba gian, trên một nền gạch cao và dược lợp bằng mái ngói. Dọc theo con đường thẳng tắp ấy sẽ dẫn chúng ta tới với Khuê Văn Các. Khuê Văn Các chính là một lầu vuông gồm với tám mái – bốn mái thượng và bốn mái hạ – một biểu tượng đẹp, độc đáo của nền văn hóa Việt Nam. Qua lầu Khuê Văn Các, chúng ta sẽ tới với giếng Thiên Quang và bia Tiến sĩ. Nếu như những giếng khác có hình tròn thì giếng Thiên Quang lại có hình vuông. Đúng như tên gọi của nó, giếng Thiên Quang được xây dựng với ý muốn con người sẽ nhận được những tinh túy của vũ trụ, của trời đất để phát triển trí tuệ và nhân phẩm. Đặc biệt, khi nhắc đến Văn Miếu, mọi người sẽ nghĩ ngay đến bia Tiến sĩ. Nhà bia Tiến sĩ với 82 tấm bia đá nhằm vinh danh những người đỗ đạt. Đặc biệt, những tấm bia này được đặt trên lưng rùa, điều đó càng làm tăng thêm giá trị của các bia Tiến sĩ. Và cuối cùng trong quần thể kiến trúc của Văn Miếu Quốc Tử Giám đó chính là khu Thái học – nơi rèn đúc, đào tạo nhân tài cho nhiều triều đại trong lịch sử phong kiến Việt Nam.

Là một quần thể kiến trúc từ lâu đời của nước ta, Văn Miếu Quốc Tử Giám có giá trị, ý nghĩa to lớn về lịch sử và văn hóa. Khi đến với Văn Miếu Quốc Tử Giám, các nhà nghiên cứu lịch sử có thể tìm thấy những thông tin hữu ích về lịch sử, về giáo dục của đất nước ta qua các giai đoạn lịch sử. Đồng thời, từ nơi đây, cũng cung cấp những vấn đề liên quan đến Nho giáo như sự hình thành, phát triển Nho giáo ở nước ta. Với những giá trị to lớn về lịch sử, văn hóa, Văn Miếu Quốc Tử Giám thường được lựa chọn là nơi để vinh danh thủ khoa xuất sắc. Đồng thời, nó là một trong số những địa danh thu hút khách du lịch trong và ngoài nước về tham quan, du lịch. Với những giá trị, đóng góp to lớn ấy của mình, vào tháng 12 năm 2005, quần thể kiến trúc Văn Miếu Quốc Tử Giám vinh dự được công nhận là Di tích đặc biệt cấp quốc gia.

Tóm lại, Văn Miếu Quốc Tử Giám là một công trình kiến trúc, một di tích lịch sử đặc biệt của nước ta. Nó là địa danh thu hút, hấp dẫn khách du lịch, đồng thời, mang lại giá trị, ý nghĩa to lớn về văn hóa, lịch sử, giáo dục cho đất nước ta.

Phần trình bày của em đến đây là kết thúc. Cảm ơn cô và các bạn đã lắng nghe.

20+ Thuyết minh về một danh lam thắng cảnh hay một di tích lịch sử lớp 9 (điểm cao)

Mô phỏng hướng dẫn viên du lịch để giới thiệu về một cảnh quan thiên nhiên hay di tích lịch sử nổi tiếng - Mẫu 3

Xin chào thầy cô và các bạn. Hôm nay em sẽ thuyết trình về một di tích lịch sử nổi tiếng của Sài Gòn, đó là Dinh Độc lập.

Dinh Độc Lập là một công trình kiến trúc, di tích lịch sử nổi bật ở Thành phố Hồ Chí Minh. Đây từng là nơi ở và làm việc của Tổng thống Việt Nam Cộng hòa. Hiện nay, dinh đã được Chính phủ Việt Nam xếp hạng là di tích quốc gia đặc biệt.

Di tích Dinh Độc Lập tọa lạc tại số 135, đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa, phường Bến Thành, quận I, thành phố Hồ Chí Minh, có tổng diện tích là 12ha, bốn mặt là 4 trục đường bao quanh – phía Đông Bắc giáp đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa; phía Tây Nam giáp đường Huyền Trân Công Chúa; phía Tây Bắc giáp đường Nguyễn Thị Minh Khai; phía Đông Nam giáp đường Nguyễn Du. Vị trí Dinh Độc Lập rất gần với Nhà thờ Đức Bà quận 1.

Di tích còn được biết đến với nhiều tên gọi khác, như Dinh Norodom, Dinh Thống đốc, Dinh Toàn quyền. Trải qua nhiều thời kì với những biến cố lớn, dinh Độc Lập trở thành một chứng tích lịch sử quan trọng bậc nhất thành phố

Năm 1858, Pháp nổ súng tấn công Đà Nẵng, mở đầu cho cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. 10 năm sau đó, Pháp chiếm xong 6 tỉnh Nam Kỳ

Năm 1868, để khẳng định quyền cai trị lâu dài, Thống đốc Nam Kỳ Lagrandière đã làm lễ đặt viên đá đầu tiên khởi công xây dựng Dinh Thống đốc Nam Kỳ mới tại Sài Gòn Gia Định, thay cho dinh cũ, được dựng bằng gỗ vào năm 1863 (cả dinh cũ và dinh mới đều ở khu vực di tích hiện nay). Dinh mới được xây dựng theo đồ án do kiến trúc sư Hermite phác thảo.

Kiến trúc này được xây cất trên một diện tích rộng 12ha, bao gồm một dinh thự lớn, với mặt tiền rộng 80m, bên trong có phòng khách chứa được 800 người và một khuôn viên rộng, với nhiều cây xanh và thảm cỏ.

Phần lớn vật tư xây dựng dinh được đưa từ Pháp sang. Do chiến tranh Pháp – Phổ (1870) nên việc xây dựng công trình này phải kéo dài đến 1873. Sau khi khánh thành, dinh này được đặt tên là Dinh Norodom và đại lộ trước dinh cũng được gọi là Đại lộ Norodom, lấy theo tên của Quốc vương Campuchia lúc bấy giờ là Norodom (1834 – 1904).

Từ năm 1871 đến năm 1887, dinh này được dành cho Thống đốc Nam Kỳ (Gouverneur de la Cochinchine) nên được gọi là Dinh Thống đốc.

Từ 1887 đến 1945, các Toàn quyền Đông Dương đã sử dụng dinh thự này làm nơi ở và làm việc, nên được gọi là Dinh Toàn quyền (nơi ở và làm việc của các Thống đốc được chuyển sang một dinh thự gần đó).

Ngày 09/3/1945, Nhật đảo chính Pháp, dinh trở thành nơi làm việc của chính quyền Nhật ở Việt Nam. Nhưng đến tháng 9 năm 1945, Nhật thất bại trong Thế chiến thứ II, Pháp trở lại chiếm Nam Bộ, dinh này lại trở thành trụ sở làm việc của Pháp ở Việt Nam.

Sau năm 1954, người Pháp rút khỏi Việt Nam. dinh được bàn giao cho chính quyền quốc gia miền Nam Việt Nam

Năm 1955, sau một cuộc trưng cầu dân ý, Thủ tướng Ngô Đình Diệm phế truất Quốc trưởng Bảo Đại và lên làm Tổng thống. Ngô Đình Diệm quyết định đổi tên dinh này thành Dinh Độc Lập. Từ đó, Dinh Độc Lập trở thành nơi đại diện cho chính quyền cũng như nơi ở của tổng thống chính quyền tay sai và là nơi chứng kiến nhiều biến cố chính trị. Thời kỳ này, Dinh Độc Lập còn được gọi là Dinh Tổng thống. Theo cái nhìn phong thủy, dinh này được đặt ở vị trí đầu rồng, nên còn được gọi là Phủ Đầu rồng.

Năm 1962, dinh thự bị máy bay ném bom đánh sập. Do không thể khôi phục lại, Ngô Đình Diệm đã cho san bằng và xây một dinh thự mới ngay trên nền đất cũ theo đồ án thiết kế của kiến trúc sư Ngô Viết Thụ – người Việt Nam đầu tiên đoạt giải Khôi nguyên La Mã. Dinh Độc Lập mới xây trở thành trụ sở của chính quyền Việt Nam cộng hòa cho đến năm 1975.

Từ ngày sau 1975, Dinh Độc Lập đã được chọn làm nơi tổ chức Hội nghị Hiệp thương chính trị thống nhất hai miền Nam Bắc trong một đất nước Việt Nam thống nhất. Tiếp đó, các hội nghị hợp nhất các tổ chức quần chúng của cả nước (Công đoàn, Thanh niên, Phụ nữ) cũng đã được tổ chức tại đây. Để kỷ niệm các sự kiện chính trị đặc biệt này, Chính phủ đã quyết định đổi tên Dinh Độc Lập thành Hội trường Thống Nhất.

Khi thiết kế xây dựng lại Dinh Ðộc Lập, vì muốn tìm một ý nghĩa văn hóa đặc biệt cho công trình, nên kiến trúc sư Ngô Viết Thụ đã lấy ý tưởng từ triết lý phương Đông cổ truyền và bản sắc văn hóa của dân tộc để thiết kế. Kiến trúc dinh là sự kết hợp hài hoà giữa nghệ thuật kiến trúc hiện đại với kiến trúc truyền thống phương Ðông.

Dinh có chiều cao 26m, được xây dựng trên diện tích 4.500m², diện tích sử dụng là 20.000m², gồm 3 tầng chính, 1 sân thượng, 2 gác lửng, 1 tầng nền, 2 tầng hầm và một sân thượng cho máy bay trực thăng đáp xuống. Hơn 100 căn phòng của dinh, tùy theo mục đích sử dụng, được trang trí theo nhiều phong cách khác nhau, bao gồm các phòng khánh tiết, phòng họp Hội đồng Nội các, phòng làm việc của Tổng thống và của Phó Tổng thống, phòng trình ủy nhiệm thư, phòng đại yến… và các hồ sen bán nguyệt ở hai bên thềm đi vào chính điện, bao lơn, hành lang… Tất cả đều được thiết kế hết sức hài hòa, hợp lý.

Toàn thể bình diện của dinh làm thành hình chữ “Cát”,có nghĩa là tốt lành, may mắn; trung tâm của dinh là phòng Trình Quốc thư; lầu thượng mang ý nghĩa “Tứ phương vô sự / Bốn biển thanh bình” – lầu hình chữ “Khẩu”, với ý nghĩa đề cao giáo dục và tự do ngôn luận. Hình chữ “Khẩu” có cột cờ ở chính giữa tạo thành hình chữ “Trung”, như nhắc nhở muốn có dân chủ thì phải trung kiên. Nét gạch ngang được tạo bởi mái hiên lầu Tứ phương, bao lơn danh dự và mái hiên lối vào tiền sảnh tạo thành hình chữ “Tam”. Theo quan niệm “dân chủ hữu tam” (Nhân, Minh, Võ), ý mong muốn một đất nước hưng thịnh thì phải có những con người hội đủ 3 yếu tố Nhân, Minh, Võ. Ba nét gạch ngang này được nối liền nét sổ dọc tạo thành hình chữ “Vương”, trên có kỳ đài làm nét chấm, tạo thành hình chữ “Chủ”, tượng trưng cho chủ quyền của đất nước. Mặt trước của dinh thự – toàn bộ bao lơn lầu 2 và lầu 3 kết hợp với mái hiên lối vào cùng 2 cột bọc gỗ phía dưới mái hiên tạo thành hình chữ “Hưng”, ý cầu chúc cho nước nhà được hưng thịnh mãi.

Vẻ đẹp kiến trúc của dinh còn được thể hiện bởi hệ thống rèm hoa đá, mang hình dáng những đốt trúc thanh tao, bao xung quanh lầu 2. Rèm hoa đá được biến cách kiểu cửa của các cung điện Cố đô Huế, không chỉ làm tăng thêm vẻ đẹp của dinh, mà còn có tác dụng lấy ánh sáng mặt trời từ bên ngoài. Bên trong dinh, tất cả các đường nét kiến trúc đều dùng đường ngang bằng, sổ thẳng; các hành lang, đại sảnh, các phòng ốc đều lấy câu “Chính đại quang minh” làm ý tưởng cho các đường nét kiến trúc.

Sân trước của dinh là một thảm cỏ hình oval, có đường kính 102m. Màu xanh của thảm cỏ tạo ra một cảm giác êm dịu, sảng khoái cho khách ngay khi bước qua cổng. Chạy theo suốt chiều ngang của đại sảnh là hồ nước hình bán nguyệt. Trong hồ trồng sen và súng, gợi nên hình ảnh những hồ nước yên ả ở các ngôi đình, ngôi chùa cổ kính của các vùng quê Việt Nam.

Bên ngoài hàng rào phía trước và phía sau dinh là hai công viên cây xanh. Giữa những năm 60 của Thế kỷ 20, đây là công trình có quy mô lớn nhất miền Nam và có chi phí xây dựng cao nhất (150.000 lượng vàng). Các hệ thống phụ trợ bên trong dinh rất hiện đại, với đầy đủ hệ thống điều hòa không khí, phòng, chống cháy, thông tin liên lạc, nhà kho… Tầng hầm chịu được oanh kích của bom lớn và pháo. Các phòng của dinh được trang trí bằng nhiều tác phẩm tranh sơn mài, tranh sơn dầu, với chủ đề “non sông cẩm tú”.

Hiện nay, Dinh Độc Lập do Cục Quản trị II – Văn phòng Chính phủ quản lý. Đặc biệt, Dinh Độc lập chính là nơi ghi dấu thắng lợi hoàn toàn cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, năm 1975.

Trong lịch sử, Dinh Độc Lập là một chứng tích lịch sử đặc biệt quan trọng, nơi diễn ra và chứng kiến nhiều sự kiện lịch sử lớn, trực tiếp tác động đến tiến trình lịch sử nước nhà. Do vị thế đặc biệt của địa điểm này, di tích đã nhiều lần được đầu tư xây dựng, tôn tạo và trở thành một công trình xây dựng hoàn mỹ – sản phẩm của sự kết hợp hài hòa giữa công trình kiến trúc hoành tráng với cảnh quan, môi trường của khu vực xung quanh.

Dinh Độc Lập là một trong những công trình kiến trúc chứa đựng những giá trị to lớn về nhiều mặt, đặc biệt là giá trị về lịch sử, văn hoá. Trải qua thăng trầm lịch sử, dinh Độc Lập không chỉ là một “chứng nhân” lịch sử; là biểu tượng của sự hòa hợp, thống nhất đất nước mà còn là một bảo tàng kiến trúc tiêu biểu; niềm tự hào về kiến trúc – xây dựng của người Việt Nam. Sau khi đất nước hoàn toàn thống nhất, Dinh Độc Lập tiếp tục góp phần vào quá trình xây dựng và phát triển đất nước. Cho đến nay, Dinh đã không ngừng phát huy các giá trị của nó trong tiến trình phát triển của Thành phố Hồ Chí Minh và cả nước. Việc phát huy giá trị của Dinh trở thành vấn đề được Thành phố và nhà nước quan tâm. Trong bài viết này chúng tôi tập trung làm rõ việc phát huy những giá trị về lịch sử – văn hóa của Dinh Độc Lập qua công tác khai thác, bảo tồn.

Với những giá trị lịch sử văn hóa và khoa học đặc biệt của di tích,năm 2009, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định xếp hạng Di tích lịch sử Dinh Độc Lập – nơi ghi dấu thắng lợi hoàn toàn cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước là di tích quốc gia đặc biệt. Dinh Độc Lập không chỉ dừng lại đó, nơi này đã là biểu tượng lòng tự hào của dân tộc, là minh chứng cho một thời kháng chiến chống Mỹ gian khổ mà hào hùng.

Mô phỏng hướng dẫn viên du lịch để giới thiệu về một cảnh quan thiên nhiên hay di tích lịch sử nổi tiếng - Mẫu 4

Xin chào thầy cô và các bạn. Hôm nay em sẽ thuyết trình về một di tích lịch sử nổi tiếng, đó là Cố đô Huế.

Khi bạn đặt chân đến xứ Huế, một trong những điểm đến mơ màng, có ai có thể không ghé thăm quần thể di tích Cố đô Huế ít nhất một lần? Đây chính là chứng tích rạng ngời và thịnh vượng của triều đại Nguyễn, khi đây từng là trung tâm thủ đô của nước Việt Nam trong vòng 143 năm dài đẹp.

Nhìn lại lịch sử xa xưa, Huế đã từng được vị vua tài ba Nguyễn Huệ coi trọng vì tính chiến lược của vị trí địa lý và ông đã quyết định chọn nơi này để đặt đại bản doanh quan trọng. Vào năm 1802, vị vua Nguyễn Ánh, sau này là vua Gia Long, một lần nữa chọn Cố đô Huế làm thủ đô mới cho triều đại Nguyễn. Dự án xây dựng Kinh đô Huế kéo dài từ năm 1802 cho đến năm 1917 trước khi hoàn thành.

Kinh thành Huế nằm bên bờ hai nhánh của dòng sông Hương là Kim Long và Bạch Y, bao gồm 8 làng cổ đại, bao gồm Phú Xuân, Vạn Xuân, Diễn Phát, An Vân, An Hòa, An Mỹ, An Bảo và Thế Lại. Các công trình kiến trúc đồ sộ này được xây dựng theo phong cách truyền thống của Huế, đồng thời thể hiện sự tham khảo của nhiều mẫu kiến trúc Trung Quốc và một số yếu tố phương Tây. Tuy nhiên, vẫn tuân thủ theo nguyên tắc kiến trúc dân tộc Việt Nam theo triết lý Dịch Lý và thuật Phong Thủy để tạo ra sự hài hòa và cân đối với tự nhiên. Tất cả những công trình này tạo nên một quần thể kiến trúc độc đáo và tinh tế, kết hợp tinh hoa của văn hóa xây dựng Đông và Tây. Xung quanh kinh thành là một vòng tường dài 10.571 mét, bao gồm 24 pháo đài, 10 cửa chính cùng với 1 cửa phụ, và còn có một hệ thống kênh rạch phức tạp bao quanh để tăng độ phòng thủ của kinh thành.

Chức năng chính của Hoàng thành là bảo vệ và phục vụ cho cuộc sống của hoàng gia và triều đình. Khu vực Đại Nội bao gồm hệ thống Tử Cấm thành nằm bên trong Hoàng thành và có sự liên kết mật thiết với nhau. Vào năm 1804, vua Gia Long đã chỉ định người chịu trách nhiệm xây dựng Đại Nội. Cơ bản, dưới thời vua Gia Long, Đại Nội đã hoàn thành hầu hết. Khu vực này bao gồm các miếu, điện như Thế Miếu, Triệu Tổ Miếu, Hoàng Khảo Miếu, điện Hoàng Nhân, điện Cần Chánh, cung Trường Thọ, cung Khôn Thái, điện Thái Hòa, viện Thái Y, điện Quang Minh, Điện Trinh Minh, Điện Trung Hòa, Vạc đồng, Thái Bình Lâu, Duyệt Thị Đường và nhiều công trình khác. Tất cả đã được sắp xếp hài hòa với thiên nhiên, bao gồm vườn hoa, cây cầu đá, hồ sen và cây cối xanh mát. Tử Cấm thành nằm bên trong Đại Nội, nơi diễn ra cuộc sống hàng ngày của vua và hoàng tộc. Vùng này bao gồm nhiều công trình như điện Cần Chánh, cung Trường Thọ, cung Khôn Thái, điện Thái Hòa, viện Thái Y, điện Quang Minh, Điện Trinh Minh, và Điện Trung Hòa. Còn lại của khu vực này được xây dựng dưới triều đại của vua Minh Mạng, mang lại diện mạo kiến trúc đáng kinh ngạc cho Hoàng thành và Tử Cấm thành.

Kinh thành Huế có hình vuông, mỗi cạnh dài khoảng 600 mét, được xây dựng hoàn toàn bằng gạch, cao 4 mét và dày 1 mét. Nó được bảo vệ bởi các hào đào và có 4 cửa ra vào theo bốn hướng: Hiển Nhơn, Chương Đức, Ngọ Môn (cửa chính) và Hòa Bình. Bên trong, hệ thống được sắp xếp theo một trục đối xứng, với các công trình dành riêng cho vua nằm ở trục chính giữa. Tất cả đều được sắp xếp hài hòa với thiên nhiên, bao gồm vườn hoa, cầu đá, hồ sen và các cây cối xanh mát. Tử Cấm thành nằm bên trong Đại Nội, ngay sau điện Thái Hòa. Nơi này là nơi sinh hoạt hàng ngày của vua và hoàng tộc và bao gồm các công trình như điện Cần Chánh, nhà Tả Vu và Hữu Vu, điện Kiến Trung, Vạc đồng, Thái Bình Lâu, Duyệt Thị Đường và nhiều công trình khác.

Nhiều công trình khác như Văn miếu Quốc Tử Giam, Thượng Bạc Viện, và Trấn Hải Thành cũng được xây dựng để phục vụ mục đích học tập, ngoại giao và quân sự.

Vào ngày 2 tháng 8 năm 1994, Cố đô Huế đã được công nhận là di sản văn hóa thế giới. Điều này là một niềm tự hào lớn của dân tộc Việt Nam, khi nền văn hóa của họ được thế giới công nhận và bảo vệ. Daniel Janicot, Phó Tổng Giám đốc UNESCO, đã đến Huế để trao tấm bằng chứng nhận này, có chữ ký của Tổng Giám đốc UNESCO, Fédérico Mayor Zaragoza, cùng dòng chữ: "Ghi tên vào danh mục công nhận giá trị toàn cầu đặc biệt của một tài sản văn hóa hoặc thiên nhiên để được bảo vệ vì lợi ích nhân loại".

Phần trình bày của em đến đây là kết thúc. Cảm ơn cô và các bạn đã lắng nghe.

Mô phỏng hướng dẫn viên du lịch để giới thiệu về một cảnh quan thiên nhiên hay di tích lịch sử nổi tiếng - Mẫu 5

Kính thưa các quý vị đại biểu, các thầy cô giáo cùng các bạn học sinh! Hôm nay, tôi xin được thuyết minh về di tích lịch sử Kinh Thành Huế, một trong những biểu tượng văn hóa tâm linh quan trọng nhất của dân tộc Việt Nam.

Đến kinh thành Huế lần đầu

Ngọ Môn năm cửa tiến sâu vào thành

Bước chân cho vội cho nhanh

Đi vào mới biết kinh thành bao la.

Huế được biết đến là một thành phố lãng mạn, trữ tình, nên thơ mang nhiều khúc hát tâm tình làm say đắm lòng người. Cố đô Huế từ xa xưa trải qua bao năm tháng vẫn luôn là địa điểm du lịch nổi tiếng với nhiều công trình kiến trúc cổ xưa mang nét độc đáo trong nghệ thuận, hằng năm luôn thu hút rất động khách du lịch trong và ngoài nước đến ghé thăm.

Triều đại phong kiến cuối cùng của Việt Nam do vua Bảo Đại trị vì cũng được đóng đô ở đây, nơi đã chứng kiến sự đổi thay từng ngày của đất nước trong giai đoạn xây dựng và phát triển.

Một trong số các công trình kiến trúc tiêu biểu nổi tiếng bật nhất ở cố đô Huế không thể bỏ qua quần thể di tích kinh thành Huế uy nghi, tráng lệ này. Kinh thành Huế được biết đến là nơi có từ rất lâu đời, nhờ vào kết cấu đồ sộ vững chắc, chu vi trải rộng đến 11 cây số, thành cao 6.60m và chiều dày trung bình 21m. Chính vì đây là kinh thành đầu tiên được xây dựng nên việc đảm bảo tuổi thọ bền lâu luôn được chú trọng, do đó công trình xây dựng tốn rất nhiều tài nguyên thiên nhiên quốc gia. Phần lớn trong thời kì này, vua Gia Long đã cho huy động toàn bộ lực lượng vận động từ quần chúng nhân dân để xây đắp nên một nơi vô cùng kiên cố này. Được biết trước khi xây dựng thành này thì đã từng có một thành cũ xây dựng từ đời triều chúa Nguyễn cai quản, bởi vì đã lâu đời lại có diện tích nhỏ hẹp ít quy mô nên vua Gia Long đã bàn bạc nhằm mở rộng thành theo lối kiến trúc độc đáo. Điểm đặc biệt trong vị trí đia lý của kinh thành được tính toán rất kĩ lưỡng bởi nó ảnh hưởng đến cả một vận mệnh quốc gia. Vua không cho xây thành ở nơi cách xa Phú Xuân, nơi mà các chúa Nguyễn đã từng dựng phủ ở đây vào năm 1687. Bởi đây là nơi mang vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng, nơi mà nằm cách xa biển có thể tránh các cuộc cướp bóc từ cướp biển vào, xung quanh bao bọc bởi núi rừng phù hợp để tác chiến, nơi ẩn nấp khi có biến cố xảy ra. Cảng sông là nơi giao thương buôn bán lại không chịu sự ảnh hưởng tác động nhiều của quân sự chính trị.

Theo sơ đồ toàn kinh thành Huế, mặt chính của kinh thành thiết kế quay về hướng truyền thống từ xưa là hướng Nam và trục chính của cung vua nằm tại vị trí thuận lợi nhất trong bản đồ. Hướng của hai hòn đảo ở phía thượng nguồn và hạ nguồn của Sông Hương hay còn gọi là “tả thanh long hữu bạch hổ” nhằm tạo vị trí thuận lợi cho vua khi ngồi trên ngai vàng có thể nhìn về hướng Nam.

Kinh Thành Huế lấy hướng Tây Bắc- Đông Nam của núi Ngự Bình làm nơi tọa lạc của vua với độ cao núi 104 mét, nằm cách sông Hương về hướng Nam là khoảng 3 cây số, tạo ra một vòng vây bao quanh kiên cố, an toàn, như là bức bình phong chống lại mọi kẻ thù mưu đồ từ bên ngoài.

Cố đô Huế cách trung tâm thành phố Đà Nẵng 100 km về phía Bắc, đây từng là nơi đóng đô kinh thành của triều đại nhà nguyễn, triểu đại đã mang đến vẻ vang của dân tộc, là triều đại khai sinh ra nước Đại việt trải dài trên mảnh đất hình chữ S này.

Kinh thành Huế với thiết kế đa dạng pha trộn kết hợp giữa kiến trúc Phương Tây và thành quách phương Đông. Kinh thành có cấu trúc gồm 10 cửa chính: cửa chính Bắc nằm ở mặt sau kinh thành, cửa Tây Bắc, cửa Chính Tây, cửa Tây Nam nằm phía bên phải kinh thành, cửa Chính Nam, cửa Quảng Đức, cửa Thể Nhơn, cửa Đông Nam, cửa chính Đông và cửa Đông Bắc.

Ngoài các cửa chính trên, kinh thành có có một cửa đặc biệt thiết kế thông với thành Mang Cá, là một thành phụ tọa lạc ở phía Đông Bắc của kinh thành, nó có tên gọi khác là Trấn Bình Môn hay Trấn Bình Đài. Tính ra đã có 11 cửa thuộc đường bộ, còn về đường thủy thì kinh thành cũng có hai cửa đặt tên là Tây Thành Thủy Quan (hay gọi là cống Thủy Quan) nơi xây dựng cửa vô cùng thuận thiện là nơi giao nối liền giữa sông Ngự Hà và sông đào kẻ Vạn ở Kim Long, cửa đường thủy thứ 2 được biết đến với tên gọi là Đông Thành Thủy Quan (hay còn gọi với cái tên mỹ miều là Cống Lương Y) cũng nằm tại nơi thông nhau giữa 2 con sông lớn là Ngự Hà và sông đào Đông Ba.

Nằm ngay chính giữa mặt nam của kinh thành Huế trong khu vực pháo đài Nam Chánh là nơi dựng cột cờ của Cố Đô Huế, nó còn có tên gọi khác là Kỳ Đài. Kỳ đài có cấu tạo đơn giản chỉ gồm 2 bộ phận là đài cờ và cột cờ, đài cờ là sự cấu thành của ba tầng hình chop cụt chữ nhật xếp chồng lên nhau, cột cờ được xây dựng bằng chất liệu gỗ gồm hai tầng cấu thành.

Phía bên trong kinh thành sẽ là nơi làm việc của vua chúa thời xưa, là khu vực quan trọng nhất của hoàng gia. Hoàng Thành là vòng thành thứ 2 nằm bao quanh ở phía trong kinh thành Huế, nơi đây được biết ngoài việc bàn chính sự làm việc của vua và đại thần còn là nơi thờ phụng tồ tiên của triều đại nhà Nguyễn.

Tiếp đến vòng thành nằm phía trong cùng nhất được Hoàng Thành bao quanh đó là Tử Cấm Thành. Nghe tên mọi người cũng biết đây là nơi vô cùng tuyệt mật, bất khả xâm phạm nhất của kinh thành Huế. Cấu trúc là một hình chữ nhật, ngay phía trước hướng Nam sẽ là Đại Cung Môn, mặt hướng Bắc sẽ là nơi tọa lạc của 2 cửa lớn là Nghi Phụng và Tường Loan, còn mặt đông cũng tiếp giáp hai cửa Đông An và Hưng Khánh, mặt tây là Tây An và Gia Tường. Bốn bề bao vây bởi các cửa to lớn, kiên cố, Tử Cấm Thành từ lâu được biết đến là một trong số những công trình kiến trúc được vua Gia Long chú trọng nhất trong quá trình xây dựng và thiết kế.

Kinh Thành Huế thuộc một trong số những quần thể di tích cấp quốc gia của Cố Đô Huế đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới. Dù đã trải qua bao năm tháng, nhưng kinh thành Huế vẫn mãi trường tồn với thời gian, luôn sừng sững giữa đất trời, xứng đáng là công trình kiến trúc quy mô, đặc sắc, độc đáo và bền lâu nhất của dân tộc Việt Nam.

Chúng ta vừa tìm hiểu xong về một công trình kiến trúc nổi tiếng góp phần làm nên tên tuổi của thành phố Huế mộng mơ thông qua bài thuyết minh về Kinh Thành Huế ở trên. 

Bài trình bày của em đến đây là kết thúc, rất mong nhận được những nhận xét, góp ý của cô giáo và các bạn. Em xin cảm ơn!

Mô phỏng hướng dẫn viên du lịch để giới thiệu về một cảnh quan thiên nhiên hay di tích lịch sử nổi tiếng - Mẫu 6

Ví dụ: Giới thiệu về Vịnh Hạ Long

Chào mừng các bạn đến với Vịnh Hạ Long - Di sản thiên nhiên thế giới!

Tôi tên là …………., là hướng dẫn viên du lịch của hôm nay. Hôm nay, tôi rất vinh dự được giới thiệu với các bạn về Vịnh Hạ Long - một trong những điểm đến du lịch nổi tiếng nhất Việt Nam.

Vịnh Hạ Long nằm ở tỉnh Quảng Ninh, cách Hà Nội khoảng 160km. Vịnh có diện tích hơn 1.500km², bao gồm hơn 1.600 hòn đảo lớn nhỏ, được bao phủ bởi hệ sinh thái rừng nhiệt đới đa dạng. Vịnh Hạ Long được UNESCO công nhận là Di sản thiên nhiên thế giới vào năm 1994.

Đến với Vịnh Hạ Long, du khách sẽ được chiêm ngưỡng vẻ đẹp hùng vĩ của hàng ngàn hòn đảo đá vôi nhấp nhô trên mặt nước biển xanh biếc. Mỗi hòn đảo đều mang một hình thù độc đáo, kích thích trí tưởng tượng của du khách.

Vịnh Hạ Long cũng là nơi sinh sống của nhiều loài động thực vật quý hiếm. Du khách có thể tham gia các hoạt động như chèo thuyền kayak, lặn biển để khám phá thế giới sinh vật biển phong phú của vịnh.

Ngoài ra, du khách còn có thể tham quan các hang động kỳ bí như động Thiên Cung, động Sửng Sốt,... Mỗi hang động đều mang một vẻ đẹp riêng, với những nhũ đá, măng đá muôn hình vạn trạng.

Vịnh Hạ Long không chỉ đẹp bởi cảnh quan thiên nhiên mà còn bởi văn hóa của người dân địa phương. Du khách có thể tham gia các làng chài ven biển để tìm hiểu về cuộc sống của người dân nơi đây, thưởng thức những món ăn đặc sản như: sá sùng, chả mực, ngao,...

Vịnh Hạ Long là một điểm đến du lịch lý tưởng cho những ai muốn hòa mình vào thiên nhiên, khám phá những giá trị văn hóa độc đáo và tận hưởng những trải nghiệm thú vị.

Xin trân trọng cảm ơn các bạn!

Mô phỏng hướng dẫn viên du lịch để giới thiệu về một cảnh quan thiên nhiên hay di tích lịch sử nổi tiếng - Mẫu 7

Giới thiệu về Lăng vua Tự Đức

Tôi tên là Nguyễn Văn A, là hướng dẫn viên du lịch của hôm nay. Hôm nay, tôi rất vinh dự được giới thiệu với các bạn về Lăng Vua Tự Đức - một trong những điểm đến du lịch nổi tiếng Việt Nam.

Lăng Tự Đức là một trong những công trình đẹp nhất của kiến trúc thời Nguyễn. Ông vua thi sĩ Tự Đức (1848-1883) đã chọn cho mình một nơi yên nghỉ xứng đáng với ngôi vị của mình, phù hợp với sở thích và nguyện vọng của con người có học vấn uyên thâm và lãng tử bậc nhất trong hàng vua chúa nhà Nguyễn. Lăng tọa lạc trong một thung lũng hẹp thuộc làng Dương Xuân Thượng, tổng Cư Chánh (nay là thôn Thượng Ba, xã Thủy Xuân, thành phố Huế).

Với 36 năm trị vì, Tự Đức là ông vua tại vị lâu nhất trong số 13 vua nhà Nguyễn. Ông tên là Nguyễn Phúc Hồng Nhậm, con trai thứ hai của vua Thiệu Trị. Theo luật thế tập của chế độ phong kiến, lẽ ra anh trai ông là Hồng Bảo mới là người nối ngôi. Nhưng do tài năng thấp kém, tính khí ngông nghênh nên Hồng Bảo bị vua cha phế truất khỏi ngôi Tiềm để, Hồng Nhậm được đưa lên ngai vàng trở thành vua Tự Đức – một vị vua, một nhà thơ hiền lành, thương dân, yêu nước nhưng thể chất yếu đuối, tính cách có phần bạc nhược và bi quan.

Làm vua trong bối cảnh xã hội khó khăn, bên ngoài giặc ngoại xâm tấn công, bên trong huynh đệ lục đục giành nhau ngôi báu, bản thân nhà vua lại đau ốm, bệnh hoạn nên không có con. Tự Đức quả là một số phận của những bi kịch éo le. Để trốn tránh cuộc đời khắc nghiệt đó, Tự Đức cho xây dựng khu lăng tẩm này như một hành cung thứ hai để tiêu sầu và phòng lúc “ra đi bất chợt”, bởi như vua từng nói: “người khỏe còn lo chuyện bất thường huống chi kẻ yếu!” (Khiêm Cung Ký) .

Khi mới khởi công xây dựng, vua Tự Đức lấy tên Vạn Niên Cơ đặt cho công trình. Nhưng sau khởi nghĩa Chày Vôi do anh em Đoàn Hữu Trưng khởi xướng, vua cho đổi tên thành Khiêm Cung, sau khi vua mất gọi là Khiêm Lăng.

Bố cục khu lăng gồm 2 phần chính, bố trí trên 2 trục dọc song song với nhau, cùng lấy núi Giáng Khiêm ở phía trước làm tiền án, núi Dương Xuân làm hậu chẩm, hồ Lưu Khiêm làm yếu tố minh đường.

Toàn cảnh lăng Tự Đức như một công viên rộng lớn. Ở đó quanh năm có suối chảy, thông reo, muôn chim ca hát. Yếu tố được tôn trọng triệt để trong lăng Tự Đức là sự hài hòa của đường nét. Không có những con đường thẳng tắp, đầy góc cạnh như các kiến trúc khác, thay vào đó là con đường lát gạch Bát Tràng bắt đầu từ cửa Vụ Khiêm đi qua trước Khiêm Cung Môn rồi uốn lượn quanh co ở phía trước lăng mộ và đột ngột khuất vào những hàng cây sứ đại thụ ở gần lăng Hoàng hậu Lệ Thiên Anh.

Sự sáng tạo của con người hài hòa với cảnh quan tự nhiên tạo nên một khung cảnh thơ mộng, diễm lệ. Trong cái quyến rũ của mây nước, hương hoa đó, người ta như quên đi rằng đó là lăng tẩm của một người quá cố mà ngỡ là thiên đường của cỏ cây, của thi ca và mộng tưởng…

Gần 50 công trình trong lăng ở cả hai khu vực tẩm điện và lăng mộ đều có chữ Khiêm trong tên gọi. Qua khỏi cửa Vụ Khiêm và miếu thờ Sơn Thần, du khách đi trên con đường chính dẫn vào khu vực điện thờ, nơi trước đây là chỗ nghỉ ngơi, giải trí của vua. Thoạt tiên là Chí Khiêm Đường ở phía trái, nơi thờ các bà vợ vua.

Tiếp đến là 3 dãy tam cấp bằng đá Thanh dẫn vào Khiêm Cung Môn – một công trình hai tầng dạng vọng lâu như một thế đối đầu tiên với hồ Lưu Khiêm ở đằng trước. Hồ Lưu Khiêm nguyên là một con suối nhỏ chảy trong khu vực lăng, được đào rộng thành hồ. Đó là yếu tố “minh đường” để “tụ thủy”, “tích phúc”, đồng thời là nơi để thả hoa sen tạo cảnh.

Giữa hồ có đảo Tịnh Khiêm với những mảnh đất trồng hoa và những hang nhỏ để nuôi thú hiếm. Trên hồ Lưu Khiêm có Xung Khiêm Tạ và Dũ Khiêm Tạ, nơi nhà vua đến ngắm hoa, làm thơ, đọc sách… Ba cây cầu Tuần Khiêm, Tiễn Khiêm và Do Khiêm bắt qua hồ dẫn người ta đến đồi thông bạt ngàn và đảo xanh ngát hương cỏ hoa, như đưa họ sang thế giới thần tiên, mộng ảo ngay giữa chốn đời thường.

Bên trong Khiêm Cung Môn là khu vực dành cho vua nghỉ ngơi mỗi khi đến đây. Chính giữa là điện Hòa Khiêm để vua làm việc, nay là nơi thờ cúng bài vị của vua và Hoàng hậu. Hai bên tả, hữu là Pháp Khiêm Vu và Lễ Khiêm Vu dành cho các quan văn võ theo hầu. Sau điện Hòa Khiêm là điện Lương Khiêm, xưa là chỗ nghỉ ngơi của vua, về sau được dùng để thờ vong linh bà Từ Dũ, mẹ vua Tự Đức. Bên phải điện Lương Khiêm là Ôn Khiêm Đường – nơi cất đồ ngự dụng.

Đặc biệt, phía trái điện Lương Khiêm có nhà hát Minh Khiêm để nhà vua xem hát, được coi là một trong những nhà hát cổ nhất của Việt Nam hiện còn. Có một hành lang từ điện Ôn Khiêm dẫn ra Trì Khiêm Viện và Y Khiêm Viện là chỗ ở của các cung phi theo hầu nhà vua, ngay cả khi vua còn sống cũng như khi vua đã chết. Cạnh đó là Tùng Khiêm Viện, Dung Khiêm Viện và vườn nuôi nai của vua.

Ra khỏi khu vực tẩm điện, du khách theo con đường quanh co dẫn sang khu lăng mộ. Ngay sau Bái Đình với hai hàng tượng quan viên văn võ uy nghi là Bi Đình với tấm bia bằng đá Thanh nặng 20 tấn có khắc bài “Khiêm Cung Ký” do nhà vua soạn thảo. Tuy có đến 103 bà vợ nhưng Tự Đức không có con nối dõi nên đã viết bài văn bia này thay cho bia “Thánh đức thần công” trong các lăng khác.

Toàn bài văn dài 4.935 chữ, là một bản tự thuật của nhà vua về cuộc đời, vương nghiệp cũng như những rủi ro, bệnh tật của mình. Tự Đức muốn dùng tấm bia khổng lồ đó để kể công và nhận tội trước lịch sử. Ông tự nhận tội mình: “Không sáng suốt trong việc biết người, ấy là của ta; dùng người không đúng chỗ, cũng là tội của ta; hàng trăm việc không làm được; đều là tội của ta cả…” và ông nhường cho sử sách đời sau đánh giá công, tội của mình.

Tiếp sau tấm bia kia, hai trụ biểu sừng sững như hai ngọn đuốc tỏa sáng quyền uy và tài đức của nhà vua cùng với hồ Tiểu Khiêm hình trăng non đựng nước mưa để linh hồn vua rửa tội, thì đúng là Tự Đức thật chu toàn đối với việc đón nhận cái chết. Mới hay, Tự Đức là hiện thân sự thâm thúy siêu tuyệt của Nho gia! Giờ đây, yên nghỉ trong ngôi nhà bằng đá bên trong Bửu Thành, giữa một rừng thông vi vu gió lộng hẳn nhà vua hoàn toàn mãn nguyện với sự dàn xếp, lựa chọn cho cái chết của mình.

Ông vua thi sĩ đã nằm xuống giữa một không gian của thơ và nhạc, của sự yên bình trong tổng thể kiến trúc trác tuyệt về nghệ thuật xây dựng lăng tẩm thời Nguyễn. Người đời sau mỗi khi đứng trước khung cảnh thơ mộng này, ai cũng nghĩ đến một câu thơ đề tặng “ngôi nhà vĩnh cửu” của vua Tự Đức với sự tâm đắc, ngưỡng mộ: “Tứ bề núi phủ mây phong, Mảnh trăng thiên cổ, bóng tùng Vạn Niên”.

Lăng vua Tự Đức là một điểm đến du lịch lý tưởng cho những ai muốn khám phá những giá trị văn hóa, lịch sử độc đáo của dân tộc.Xin trân trọng cảm ơn các bạn!

Mô phỏng hướng dẫn viên du lịch để giới thiệu về một cảnh quan thiên nhiên hay di tích lịch sử nổi tiếng - Mẫu 8

Xin chào tất cả các quý vị du khách!

Hôm nay tôi rất vinh dự được đồng hành cùng quý vị trong chuyến tham quan động Phong Nha Kẻ Bàng – Di sản thiên nhiên thế giới được UNESCO công nhận lần đầu tiên vào năm 2003.

Tôi tin chắc rằng, đây sẽ là một trải nghiệm tuyệt vời, bởi sau hành trình vất vả quý vị sẽ thực sự hài lòng và cảm thấy thích thú bởi vẻ tuyệt mỹ do chính bản thân mọi người khám phá ra, khi tham quan động Phong Nha, nơi được mệnh danh là đệ nhất kỳ quan này. Và bây giờ chúng ta sẽ bắt đầu cuộc hành trình, xin mọi người đi theo sự hướng dẫn của tôi!

Động phong Nha nằm trong quần thể núi đá vôi Kẻ Bàng, nằm tại xã Sơn Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình, cách thành phố Đồng Hới khoảng 50 km về phía Tây Bắc, cách thủ đô Hà Nội khoảng 500 km về phía nam. Có ý kiến giải thích cho rằng nguồn gốc tên gọi Phong Nha xuất phát từ chữ Hán, Phong Nha có nghĩa là gió thổi qua hàm răng, nhưng cũng có ý kiến cho rằng đây là tên một ngôi làng gần đấy.

Và ngay bây giờ chúng ta đang đứng trước cửa động Phong Nha, mọi người có thể thấy rất nhiều dơi và chim én đang đậu trên cửa động, chim én là loài báo hiệu mùa xuân về tuy nhiên ở Phong Nha thì chim én có mặt quanh năm. Động phong Nha gồm hai bộ phận phận là động khô và động nước, trong đó động nước vẫn tương đối được các du khách ưu ái tham quan, bởi cảm giác thích thú khi vừa ngồi thuyền lênh đênh trên sông nước, vừa được chiêm ngưỡng vẻ đẹp tuyệt mỹ của tạo hóa trong hang động. Chúng ta sẽ tiến vào động tham quan bằng phương tiện duy nhất là thuyền, mời quý vị lên thuyền và mặc áo phao theo hướng dẫn của tôi!

Từ vị trí này chúng ta sẽ đi thuyền được chèo bằng tay để đi sâu vào 1200 mét hang động, chiêm ngưỡng vẻ đẹp của dòng sông ngầm trong động Phong Nha, mà người ta đánh giá rằng đây là một trong những con sông ngầm đẹp và tráng lệ nhất thế giới. Có người nhận xét rằng động Phong Nha giống như một con rồng khổng lồ đang nhả ra dòng nước trong xanh như ngọc để chào đón du khách khi đến tham quan với động Phong Nha, có chỗ thắt lại như cuống họng con rồng, bởi vậy du khách đến đây thường có cảm giác như đang đi trong mình một con rồng khổng lồ, quả thật rất thú vị. Như mọi người thấy, nơi này là chỗ có trần động thấp nhất trong hang, chỉ khoảng 3,5m, nên cũng lý giải vì sao các nhà thuyền lại làm phần mái thuyền thấp và không làm cao rộng hơn nữa. Qua đoạn này, trước mắt là nơi được mệnh danh “giao thoa của hai vùng ánh sáng”, thứ nhất là nguồn sáng của tự nhiên vào hang động và thứ hai là nguồn sáng của ánh đèn điện vàng mờ ảo hắt ra từ trong hang, tạo cảm giác ra rời thực tại nhuốm bụi trần bước vào cõi tiên cảnh bồng lai, quý vị có cảm thấy như vậy không ạ? Có một nhà thơ khi đến thăm quan động Phong Nha, chứng kiến vẻ đẹp giao hòa tuyệt diệu này, đã thốt lên hai câu thơ rằng: “Ai về thăm động Phong Nha/Có con sông chảy đưa ngày vào đêm”. Từ giã thế giới ban ngày, mọi người sẽ tiến vào bóng đêm để khám phá vẻ đẹp lung linh huyền ảo của động Phong Nha. Hướng mắt sang bên phải chúng ta thấy rất nhiều khối đá bị đổ vỡ và nằm chồng chất lên nhau, đây là do ảnh hưởng của quá trình chấn động địa chất. Ngước nhìn lên trần động, du khách đến tham quan hay mường tượng ra mình đang ở dưới đáy đại dương, các khối nhũ đá đơn độc nhìn như những cây san hô với vẻ đẹp kỳ dị, thể hiện cho ý chí của người dân Việt Nam ta, giữa hoang tàn đổ nát hay khó khăn gian khổ vẫn hiên ngang, anh dũng, cố gắng vươn lên để khắc phục khó khăn trong cuộc sống. Qua đoạn này nhìn sang bên phải là Hang Tiên chúng ta sẽ tham quan trong lúc quay ra, còn bây giờ chúng ta sẽ tiếp tục vào sâu thêm 1 ki-lô-mét nữa để chiêm ngưỡng vẻ xinh đẹp của dòng sông ngầm và hệ thống thạch nhũ trên trần động. Và ngay trước mắt chúng ta là khối thạch nhũ lớn, nằm chính giữ mặt nước, người ta thấy nó có hình giống tượng Quan Thế Âm Bồ Tát, và đây cũng là khối nhũ đá duy nhất trong động còn đón được ánh sáng mặt trời, khi tắt hết đèn điện trong động, ánh sáng này được ví như là ánh hào quang của phật bà tỏa ra, huyền diệu vô cùng, soi sáng cho các sinh linh sống trong động, và các du khách khi tham quan đi qua chân phật bà, cũng như được phù hộ độ trì cho bình an. Thỉnh thoảng quý vị lại thấy từ trên trần có những giọt nước rơi xuống, người ví đây như là giọt nước cam lộ mà Quan Thế Âm Bồ Tát ban cho du khách tham quan.

Và bây giờ quý vị đang đi đến nơi có trần động cao nhất, mà theo như nhóm nghiên cứu thuộc Hoàng gia Anh khảo sát thì người ta đo được nó có độ cao khoảng 30 mét tính từ mặt nước lên trần động, còn độ sâu của nước ở đây cũng khoảng hơn 30 mét. Đây là nơi cao nhất cũng là nơi sâu nhất trong động Phong Nha. Du khách khi tham quan đến đây thấy rằng vòm hang động ở đây có cấu tạo hình chóp và xuôi nhọn hai bên, khiến người ta liên tưởng đến mái nhà rông của đồng bào dân tộc thiểu số Tây Nguyên.

Người dân Việt Nam ta rất tin tưởng vào con cóc, ông bà ta quan niệm rằng cóc là thần mang mưa đến, chỉ cần cóc nghiến răng thì trời sẽ mưa. Vâng, thật kỳ diệu ngay trước mũi thuyền của chúng ta đây có một khối nhũ đá từ bên vách tường mọc ra có hình dáng như hình con cóc, đây chính là con vật đã dẫn đầu đoàn sinh linh lên trời cầu mưa, sau đó được mệnh danh là “cậu ông trời” và về đây yên vị nghỉ ngơi. Nhìn sang bên phải ta lại thấy có rất nhiều khối nhũ đá đang buông rủ từ trên cao xuống, giống như những tấm rèm bằng gấm rủ xuống trong cung điện của nhà vua, nên người ta thường ví đây là cung điện của vua thủy tề. Bên dưới mặt nước quý vị lại thấy một khối thạch nhũ có hình như con rùa đang nằm nghỉ.

Động Phong Nha đã được hình thành cách đây 30 triệu năm, tuy nhiên cho tới tận bây giờ người ta vẫn chưa biết ai là người đầu tiên khám phá ra quần thể hang động này và khám phá vào khi nào. Chỉ biết rằng xưa rất là xưa, khi có người dân đến đây định cư thì hang động đã được biết đến và từng in dấu chân người rồi. Trong quan niệm truyền thống thì hang động là một nơi rất bí ẩn và liêng thiêng, là nơi đi về của các bậc thần linh, tôn thánh, không được phép mạo phạm, nên người dân không dám đi quá sâu vào hang động. Đến khoảng thế kỷ thứ 9, người Chăm đến và chọn nơi đây là nơi thờ tự, và gọi động này với tên là Phờ Nha. 

Mọi người nhìn sang bên phải ta lại thấy các khối thạch nhũ trông như tháp Chàm của người Chăm, bên cạnh là hình hai con cá sấu, một con rướn lên trên, một con hướng xuống phía dưới, tượng trưng cho vị thần giữ lửa mà theo quan niệm ngũ hành lửa là dương, bên dưới có nước là âm, biểu trưng quan hệ âm dương hòa hợp. Và đến đây, xin mời mọi người hướng mắt lên trần động để chiêm ngưỡng một khối nhũ đá được đánh giá là độc nhất vô nhị trong động Phong Nha, người ta ước tính rằng nó nặng khoảng 10 tấn, mọc từ trên trần hang động mọc xuống, tựa như một cái đèn chùm đầy tính nghệ thuật, bên cạnh đó còn có các khối nhũ đá nhỏ hơn như những cái đèn lồng, góp phần tô điểm cho trần động. Du khách có cảm giác như đang lạc vào phố cổ Hội An những đêm rằm thơ mộng. Nhìn sang phía trái quý vị sẽ được chiêm ngưỡng một cấu trúc độc đáo mà hiếm hang động nước nào có được, đó là những bãi cát tự nhiên nằm rải rác trong hang, nguồn gốc của những bãi cát này là do vào mùa mưa lũ nước từ trên thượng nguồn đổ xuống, mang theo rất nhiều cát và trôi dạt về đây bồi thành từng bãi cát lớn.
Tiếp theo đến đây ta lại thấy là hang động bắt đầu thu hẹp lại, bên phải chúng ta lại thấy một khối đá nhô ra, qua quá trình nước xâm thực, mài mòn, bây giờ khối đá nhìn như hình đầu con hổ đang nhô ra khỏi vách đá. Ngay bên cạnh là những khối đá chảy rủ xuống mặt nước, như những con voi đang thả vòi nghịch nước, và người ta gọi tổ hợp hai khối đá này với cái tên rất hấp dẫn “voi chầu hổ phục” hay “anh hùng tương ngộ”. Trước mũi thuyền ta lại tiếp tục thấy một khối nhũ đá như hình ông phật Di Lặc đang chắp tay trước bụng với điệu cười từ ái. Trong thời kỳ chiến tranh khu vực hang động này còn là nơi để bộ đội ta hội họp, trú ẩn và làm nơi cứu chữa thương bệnh binh, người ta nói rằng vì rất linh thiêng nên cứ bộ đội nào bị thương đưa vào đây cứu chữa đều rất nhanh lành bệnh.

Thế là chúng ta đã kết thúc chuyến tham quan sông ngầm dài 1200 mét. Trước khi đi thì mời quý vị cùng nhìn xuống mặt nước một lần nữa, ta thấy có một bình gốm, bình gốm này được trung tâm Du lịch Phong Nha Kẻ Bàng phát hiện ra vào ngày 20 tháng 3 năm 2013, các chuyên gia khảo cổ kết luận rằng đây là bình gốm của người Việt, có thể trong quá trình lũ lụt nó đã bị cuốn đi và mắc kẹt ở đây. Và bây giờ chủ thuyền sẽ đưa chúng ta vòng lại để đến với chuyến tham quan tiếp, quý vị có thể chiêng ngưỡng lại một lần nữa vẻ đẹp trong hang động, trước khi lên bờ.

Và cuối cùng xin cảm ơn quý vị du khách đã lắng nghe trong suốt hành trình, chúc quý vị có một chuyến du lịch tham quan thú vị và đầy ý nghĩa. Xin chào và hẹn gặp lại vào một ngày không xa.

Mô phỏng hướng dẫn viên du lịch để giới thiệu về một cảnh quan thiên nhiên hay di tích lịch sử nổi tiếng - Mẫu 9

   Kính chào các quý vị du khách!

   Rất hân hạnh được chào đón quý khách đến tham quan động Phong Nha!

   Sau một hành trình vất vả, tôi tin rằng quý khách sẽ được đền đáp bằng những điều bất ngờ và lí thú ngoài sức tưởng tượng khi tham quan động Phong Nha, một hang động được mệnh danh là Đệ nhất kì quan.

   Động Phong Nha nằm trong một quần thể hang động thuộc dãy núi đá vôi Kẻ Bàng ở phía Tây tỉnh Quảng Bình. Chúng ta có thể dễ dàng đến Phong Nha bằng hai con đường: đường thuỷ và đường bộ. Đường thuỷ ngược dòng sông Gianh, đến đoạn sông Gianh gặp sông Son thì cứ theo sông Son mà vào. Đường bộ theo tỉnh lộ số 2 đến bến sông Son, dài chừng 20 cây số. Từ bến sông này đi thuyền máy độ ba mươi phút là tới Phong Nha. Đoàn tham quan của chúng ta vừa đi theo đường bộ.

   Thưa quý khách!

   Hiện giờ, chúng ta đang đứng trước cửa động. Phong Nha gồm hai bộ phận: Động khô và Động nước. Động khô ở độ cao 200m. Theo các nhà địa lí học thì chỗ này thuở xưa vốn là một dòng sông ngầm chảy qua dãy núi đá vôi, nay đã kiệt nước. Nước biển cùng với gió và thời tiết trải mấy ngàn năm đã bào mòn núi thành hang động. Trong hang là những vòm đá trắng nổi vân như mây và vô số cột đá màu xanh ngọc bích óng ánh.

   Trước mắt chúng ta là động chính của Phong Nha gồm mười bốn buồng, tức mười bốn hang nối với nhau bằng một hành lang đá dài hơn ngàn rưởi mét. Độ cao của hang từ ngoài vào trong khá chênh lệch, ở những buồng ngoài, vòm hang chỉ cách mặt nước chừng 10 mét nhưng từ buồng thứ tư trở đi thì vòm hang cao tới 25 - 40 mét. Càng vào sâu, hang càng lớn. Chỉ mới có một vài đoàn thám hiểm đặt chân tới đó với đầy đủ trang thiết bị hiện đại.

   Hấp dẫn du khách nhiều nhất vẫn là Động nước. Trái với Động khô, Động nước hiện thời vẫn đang có một con sông dài chảy suốt ngày đêm. Sông khá sâu và nước rất trong.

   Thú vị tuyệt vời là lúc thuyền nhẹ lướt trên sông, đưa du khách thưởng ngoạn khung cảnh hữu tình non xanh nước biếc ngay trong lòng động. Gió từ biển Đông thổi vào hoà quyện với hơi lạnh từ các dãy núi đá thoang thoảng mùihương của hoa phong lan và các loại hoa rừng đang nở rộ khiến không khí trong lành, dễ chịu vô cùng.

   Vì trong hang khá tối nên xin quý vị nào có đèn pin hãy bật lên để chúng ta có thể chiêm ngưỡng được vẻ đẹp kì lạ có một không hai của động Phong Nha.

   Du khách bước vào cửa động sẽ bị choáng ngợp bởi vẻ đẹp huyền ảo, đa dạng của động. Vách động cao và thẳng đứng được bao bọc bởi những nhũ đá. Dưới ánh sáng lung linh của đèn đuốc, các khối thạch nhũ hiện lên đủ mọi hình khối và màu sắc lộng lẫy. Có khối hình con gà, con cóc, có khối xếp thành hình đốt trúc dựng đứng trên mặt nước... Lại có khối hình mâm xôi, hình cái khánh hoặc hình các tiên ông đang ngồi đánh cờ, tiên nữ đang múa hát... Bàn tay tài hoa của Tạo hoá đã khéo tạo cho các khối thạch nhũ không chỉ đẹp về đường nét mà còn huyền ảo về sắc màu, một sắc màu lóng lánh như kim cương khống bút nào tả xiết... Cửa động nhỏ hẹp được giấu kín trong lòng núi nhưng càng vào sâu càng mở rộng khiến cho người xem đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác.

   Dọc theo sông có nhiều bãi cát, bãi đá để cho khách đi thuyền tạm dừng chân. Những con thuyền nhỏ soi mình trên mặt nước trong xanh giống như những dấu lặng làm cho bản tình ca của thiên nhiên ngân thêm những cung bậc trữ tình bâng khuâng, xao xuyến.

   Chúng ta hãy men theo các ngõ ngách trong hang để thăm thú đó đây, chụp ảnh kỉ niệm hoặc thắp hương trên những bàn thờ của người Chăm, người Việt dựng nên từ thuở xưa. Bàn tay điêu khắc kì diệu của thiên nhiên đã làm cho cảnh đẹp Phong Nha phong phú và đa dạng. Khung cảnh ở đây vừa hoang sơ, bí hiểm lại vừa thanh thoát và giàu chất thơ. Quý vị sẽ thấy khung cảnh hiện ra trước mắt không phải là khung cảnh thường thấy ở ngoài đời mà là cảnh thần tiên chỉ có trong thế giới thần thoại hay cổ tích.

   Thưa quý khách!

   Phong Nha chỉ mới đưa vào khai thác Động nướcvà Động khô, hai trong quần thể 300 hang động, vậy mà danh thắng này đã hấp dẫn rất nhiều du khách trong và ngoài nước. Nếu khu động Phong Nha bí hiểm làm kinh ngạc người xem và là đề tài nghiên cứu lâu dài của các nhà khảo cổ, địa chất học thì khu rừng nguyên sinh 40. 000 ha với hàng ngàn loài động, thực vật trên rừng, dưới biển là một thế giới vẫn còn cất giữ bao điều huyền bí thú vị, hấp dẫn mà con người chưa biết hết.

   Đây chỉ là một phần nhỏ trong khu vườn quốc gia rộng gần 100. 000 ha nằm giữa hoang mạc đá vôi hình thành cách nay hơn 300 triệu năm, chạy dài từ đất Việt qua tận đất Lào, được coi là lớn nhất thế giới.

   Trong tương lai gần, khi các tuyến du lịch mở rộng phạm vi ra hết các hang động ở đây thì quy mô khu du lịch này chẳng kém gì vịnh Hạ Long, nơi được đánh giá là kì quan thiên nhiên của thế giới.

   Theo kết quả khảo sát của các nhà thám hiểm hang động Hội Địa lí hoàng gia Anh thì hang Vòm còn kì vĩ hơn động Phong Nha và chiều sâu hang này lên đến 28 km! Nếu du khách ngồi thuyền ngược sông Chày lên phía Tây, dọc hai bên bờ sông là những hang động trổ cửa ra bờ sông mà ngắm cảnh trí ngoài hang thì thật quyến rũ chẳng kém Phong Nha. Với màu nước sông xanh đến mê hồn, hai bên vách đá dựng đứng sừng sững cao tới hàng trăm mét sẽ tạo cho khách cái cảm giác mạo hiểm rờn rợn không thể nào quên.

   Đi ngược sông Chày còn gặp một vùng nước lạ sau thác Trộ Mợng, nơi dòng chảy của sông gặp núi đá vôi lặn xuống thành sông ngầm, rồi lại hiện lên sau núi đá. Tại vùng nước này, nhân dân địa phương đã phát hiện ra một loài cá chép lạ đặt tên là cá Quảng Bình.

   Còn trên những vách đá dựng đứng cheo leo là những bầy voọc chuyền thoăn thoắt qua cành cây. Từ động Phong Nha băng qua vách núi dựng ấy (nếu đi tour mạo hiểm) hoặc chạy xe trên đường 20, du khách sẽ gặp một thung lũng rộng hàng trăm hecta, có tên Sinh Tồn. Đó là một đồng cỏ bằng phẳng giữa bốn bề núi dựng mà vây quanh nó là những cánh rừng nguyên sinh với những thân cổ thụ vút thẳng, dưới tán rừng là thảm lá khô dày, hoàn toàn không có cây bụi hay dây leo.

   Sắp tới, nhà nước sẽ đầu tư cho khu du lịch sinh thái tại đây với tổng kinh phí lên đến hàng trăm tỉ đồng. Một trung tâm cứu hộ động vật hoang dã sẽ được xây dựng và những loài chim thú quý hiếm sau khi được cứu sẽ thả trở lại rừng. Du khách có thể quan sát chúng từ những chòi cao. Các công trình như khách sạn, sân golf... đang được tập trung xây dựng ở vùng đệm của vườn quốc gia.

   Phong Nha - Kẻ Bàng có một hệ động thực vật phong phú vào bậc nhất trong các vườn quốc gia tại Việt Nam (26/67 loài thú ở đây được ghi vào sách đỏ). Ngoài ra, Phong Nha - Kẻ Bàng còn có những địa danh gắn liền với cuộc kháng chiến chống Mĩ như bến phà Xuân Sơn, sân bay Khe Cát, hang "Tám Cô"... cùng những cổ tự Chăm bí ẩn trong các lòng hang động hay huyền thoại về kho báu của vua Hàm Nghi thời cần Vương chống thực dân Pháp.

   Khu du lịch Phong Nha hiện nay đã có hệ thống dịch vụ khá chu đáo như khách sạn, cửa hàng bán đồ lưu niệm, phòng hướng dẫn... Sau một ngày thăm thú hang động, du khách sẽ về Đồng Hới nghỉ đêm.

   Nếu tham gia tour du lịch dài ngày thì quý khách sẽ kết hợp du lịch hang động, du lịch sinh thái, du lịch mạo hiểm và tìm hiểu văn hoá của các dân tộc thiểu số... Phong cảnh sơn thuỷ hữu tình sẽ níu chân du khách trong những đêm ở vùng sơn cước này.

   Du khách nghỉ đêm trên con thuyền đôi chắc chắn, rộng rãi đủ chỗ cho khoảng dăm bảy chục người. Con thuyền có thể thả trôi theo sông Son để nghe những làn điệu dân ca rẻo cao hay xem các nghệ nhân làng tuồng Khương Hà (một gánh tuồng nổi tiếng của Quảng Bình) biểu diễn. Trên thuyền có đủ rượu cần với cá sông Son. Đây là những món ăn du khách sẽ nhớ đời. Du khách vừa uống rượu vừa ngắm trăng thượng huyền đổ bóng trên sông Son và nghe bài Sơn nữ ca loang trên khói sóng: Một đêm trong rừng vắng, ánh trăng chênh chếch đầu ghềnh thấp thoáng...

   Sau khi tham quan Phong Nha, nhà thám hiểm Hao-ớt Lim-be, trưởng đoàn thám hiểm Hội địa lí Hoàng gia Anh đã phát biểu: Với kinh nghiệm của mười sáu năm thám hiểm hang động ở tổ chức nghiên cứu hang động mạnh nhất của Hoàng gia Anh, tôi khẳng định Phong Nha là hang động dài nhất và đẹp nhất thế giới. Trong báo cáo khoa học của đoàn thám hiểm nói trên, động Phong Nha có bảy cái nhất: hang động dài nhất; cửa hang cao và rộng nhất; bãi cát, bãi đá rộng và đẹp nhất; có những hồ ngầm đẹp nhất; hang khô rộng và đẹp nhất; thạch nhũ tráng lệ và kì ảo nhất; sông ngầm dài nhất.

   Kính thưa quý khách!

   Chúng ta đã được nhìn thấy tận mắt vẻ đẹp kì thú của động Phong Nha. Động Phong Nha chỉ là một trong nhiều danh lam thắng cảnh của đất nước Việt Nam. Tôi tin rằng những chuyến du lịch bổ ích như thế này sẽ phần nào giúp cho quý khách hiểu thêm về cội nguồn của lòng yêu nước thiết tha, mãnh liệt của dân tộc Việt Nam.

   Chúng tôi vô cùng tự hào về giang sơn gấm vóc của mình và mong ước rằng cả nhân loại sẽ sống vui vẻ, hoà bình trong môi trường thiên nhiên tuyệt đẹp mà tạo hoá đã hào phóng ban tặng cho loài người.

   Xin cảm ơn quý khách đã lắng nghe! Xin chào và hẹn gặp lại!

 
Đánh giá

0

0 đánh giá