TOP 10 Thuyết minh bằng hình ảnh về một danh lam thắng cảnh hay di tích lịch sử ở địa phương em

165

Tailieumoi.vn xin giới thiệu bài văn mẫu Thuyết minh bằng hình ảnh về một danh lam thắng cảnh hay di tích lịch sử ở địa phương em Ngữ văn 9 Kết nối tri thức, gồm dàn ý và các bài văn phân tích mẫu hay nhất giúp các em học sinh có thêm tài liệu tham khảo từ đó học cách viết văn hay hơn.

Thuyết minh bằng hình ảnh về một danh lam thắng cảnh hay di tích lịch sử ở địa phương em

Đề bài: Tạo lập văn bản thuyết minh bằng hình ảnh (có kèm theo các lời dẫn giải cần thiết) về một danh lam thắng cảnh hay di tích lịch sử ở địa phương em.

Soạn bài Củng cố, mở rộng lớp 9 trang 109 Tập 2 | Kết nối tri thức

Dàn ý Thuyết minh bằng hình ảnh về một danh lam thắng cảnh hay di tích lịch sử ở địa phương em

a. Mở bài. Nêu tên danh lam thắng cảnh hay di tích lịch sử sẽ thuyết minh và đưa ra những thông tin khái quát nhất về đối tượng.

b. Thân bài:

- Trình bày các đặc điểm của danh lam thắng cảnh hay di tích lịch sử theo một trình tự hợp lí.

- Giải thích các điều kiện tạo nên nét đặc thù của danh lam thắng cảnh hay di tích lịch sử.

- Nêu các giá trị nổi bật của danh lam thắng cảnh hay di tích lịch sử.

- Cung cấp thông tin về tình trạng bảo tồn, phát huy giá trị của danh lam thắng cảnh hay di tích lịch sử.

c. Kết bài: Khái quát ý nghĩa, giá trị của danh lam thắng cảnh hay di tích lịch sử trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội – văn hoá của địa phương và đất nước.

Thuyết minh bằng hình ảnh về một danh lam thắng cảnh hay di tích lịch sử ở địa phương em - Mẫu 1

Địa đạo Củ Chi với chiến công anh dũng đã đi vào lịch sử như một biểu tượng của sức mạnh của dân tộc Việt Nam trong cuộc chiến tranh đấu tranh giành độc lập. Đây là một kỳ tích độc đáo với hệ thống đường hầm rộng lớn, là nơi chứa đựng hàng trăm km đường hầm dưới lòng đất.

Củ Chi không chỉ là một địa danh nổi tiếng mà còn là biểu tượng của sự kiên cường và sức mạnh dân tộc. Trong 21 năm kháng chiến, dân và quân Củ Chi đã thể hiện sự kiên nhẫn và quyết tâm trong cuộc đấu tranh với kẻ thù.

Với hệ thống địa đạo phức tạp, dân và quân Củ Chi đã chiến đấu dũng mãnh, tạo ra những chiến công vĩ đại. Quân Mỹ đã phải đối mặt với sự kháng cự gay gắt từ các địa đạo trong vùng căn cứ của mình.

Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, các chiến sĩ cách mạng đã tổ chức hoạt động ngầm trong những căn hầm bí mật, được nhân dân che chở. Hệ thống hầm này được xây dựng khéo léo, giúp bảo vệ an toàn cho người dân và quân đội.

Cán bộ cách mạng sống trong vùng địch thường ẩn náu dưới lòng đất vào ban ngày và hoạt động trên mặt đất vào ban đêm, đó là một chiến thuật hiệu quả trong cuộc kháng chiến.

Tuy nhiên, hầm bí mật cũng có nhược điểm khi bị phát hiện, dễ bị kẻ địch vây bắt hoặc tiêu diệt do sức mạnh và ưu thế lớn hơn. Do đó, cần phải phát triển hầm thành đường hầm và có nhiều lối ra bí mật để không chỉ trốn tránh mà còn có thể chống trả quân địch và lên kế hoạch thoát khỏi tình huống nguy hiểm.

Nhờ vào sự xuất hiện của địa đạo, hoạt động chiến đấu và công tác của cán bộ, chiến sĩ và nhân dân vùng ven Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định trở nên hiệu quả hơn.

Tại Củ Chi, việc xây dựng địa đạo bắt đầu từ năm 1948 ở hai xã: Tân Phú Trung và Phước Vĩnh An. Ban đầu chỉ là những đoạn đường hầm ngắn được sử dụng để lưu trữ tài liệu, vũ khí và che giấu cán bộ hoạt động trong vùng địch. Sau đó, hệ thống mở rộng ra nhiều xã khác. Từ năm 1961 đến năm 1965, cuộc kháng chiến của dân Củ Chi đã gặt hái được nhiều thành công, góp phần vào việc đánh bại chiến lược 'chiến tranh đặc biệt' của Mỹ.

Trong thời kỳ chống lại sự xâm lược của Mỹ, địa đạo Củ Chi đã phát triển mạnh mẽ, đặc biệt là từ đầu năm 1966. Các cuộc tấn công của quân Mỹ đã khiến cho dân và quân Củ Chi phải đối mặt với những thách thức lớn.

Trước sức mạnh của Mỹ, Khu ủy Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định và Huyện ủy Củ Chi đã lãnh đạo nhân dân và quân đội mạnh mẽ trong việc bảo vệ vùng căn cứ và chiến thắng quân địch.

Phong trào đào địa đạo đã lan rộng khắp nơi, từ trẻ em đến người già, từ nam giới đến nữ giới đều tích cực tham gia. Sức mạnh ý chí đã giúp cho con người vượt qua mọi khó khăn. Chỉ với lưỡi cuốc và chiếc ki xúc đất thô sơ, dân và quân Củ Chi đã xây dựng nên hệ thống đường hầm đồ sộ, kết nối các khu dân cư với nhau như một 'làng ngầm' kỳ diệu.

Sau cuộc tấn công Crimp, vào ngày 08/01/1967, quân Mỹ tiếp tục hành quân Cedar Falls vào vùng 'Tam giác sắt', nhằm tiêu diệt lực lượng cách mạng. Trong thời gian này, hệ thống địa đạo đã mở rộng đạt đến độ dài 250 km và trở thành một mối nguy hiểm đối với quân địch hàng ngày.

Mạng lưới địa đạo uốn khúc trong lòng đất, bắt đầu từ con đường chính rồi lan tỏa thành hàng loạt nhánh dài ngắn, kết nối với nhau hoặc tự lập tùy thuộc vào địa hình. Nhiều nhánh hướng ra sông Sài Gòn, giúp vượt qua sông khi gặp tình huống nguy kịch, chuyển sang vùng căn cứ Bến Cát.

Các đường hầm không quá sâu nhưng có thể chịu được đạn pháo và trọng lượng của xe tăng, xe bọc thép, đặc biệt những đoạn sâu hơn có thể chống lại bom cỡ nhỏ. Có những phần được cấu trúc thành hai hoặc ba tầng (tầng trên là 'thượng', tầng dưới là 'trầm'). Mỗi tầng có cửa hầm bí mật để di chuyển giữa các tầng. Trong địa đạo còn có các điểm chặn để ngăn chặn kẻ thù hoặc chất độc hóa học mà kẻ thù sử dụng. Có những đoạn hẹp, chỉ có thể đi qua khi thật nhẹ nhàng. Dọc theo đường hầm có lỗ thông hơi ở phía trên, được ngụy trang kỹ lưỡng và mở ra từ mặt đất bằng nhiều cửa bí mật. Có vô số cửa được thiết kế thành ổ chiến đấu, ụ súng bắn tỉa linh hoạt, tạo ra điểm bất ngờ với quân địch. Dưới những khu vực nguy hiểm, có các hầm chông, hố đinh, cạm bẫy...

Xung quanh các cửa hầm có nhiều hầm chông, hố đinh, mìn trái (gọi là tử địa), bao gồm cả mìn lớn chống xe tăng và mâm phóng bom bi chống trực thăng, nhằm tiêu diệt và ngăn chặn quân địch.

Liên kết với địa đạo là các hầm rộng dùng để nghỉ ngơi sau khi chiến đấu, được trang bị võng. Có các nơi dành để lưu trữ vũ khí, lương thực, thực phẩm, nước uống, cũng như các cơ sở khác như giếng nước, bếp Hoàng Cầm (bếp giấu khói dưới đất), hầm làm việc cho các lãnh đạo, chỉ huy, phòng phẫu thuật, chăm sóc thương binh, hầm an toàn cho phụ nữ, người già, trẻ em. Có các hầm lớn, được ngụy trang để tổ chức các hoạt động như hội họp, chiếu phim, biểu diễn văn nghệ...

Trong thời kỳ chiến đấu ác liệt, mọi hoạt động của lực lượng và sinh hoạt của dân chúng đều được 'đóng cửa' vào lòng đất. Mặc cho vùng trên mặt đất đầy bom đạn, khói lửa... cuộc sống trong địa đạo vẫn gặp nhiều khó khăn và cực nhọc.

Để duy trì sức mạnh chiến đấu trong thời gian dài, mọi người phải chấp nhận mọi khó khăn, vượt qua giới hạn của sức chịu đựng con người. Trong bóng tối và hẹp hòi của lòng đất, việc di chuyển rất khó khăn, đa phần phải đi quỳ gối hoặc bò. Đường hầm có những khu vực ẩm ướt và thiếu không khí, ánh sáng (chủ yếu từ đèn cầy hoặc đèn pin). Mỗi khi có người ngất xỉu, phải kéo ra khỏi hầm để hô hấp nhân tạo để tỉnh táo. Vào mùa mưa, nhiều loại côn trùng độc hại xuất hiện trong lòng đất, nơi có cả rắn... Đối với phụ nữ, cuộc sống trong địa đạo còn khó khăn hơn nữa. Một số phụ nữ phải sinh con và chăm sóc trẻ em trong lòng đất, đối mặt với những khó khăn không thể tưởng tượng được.

Mỗi ngày, hàng trăm người ra vào qua các cửa hầm mà vẫn giữ bí mật cho địa đạo là một việc cực kỳ phức tạp. Một cọng cỏ bị gãy, một chiếc lá bị rách cũng phải được sửa chữa kỹ lưỡng nếu không muốn bị kẻ địch phát hiện.

Từ những ngày đầu, khi quân Mỹ xâm lược đổ vào Củ Chi, họ đã phải đối mặt với sự chống đối quyết liệt từ chiến sĩ và dân làng ở đây. Kẻ thù gặp nhiều tổn thất về người và vũ khí trong các cuộc tấn công vào vùng giải phóng. Sau những trận đánh, họ nhận ra rằng lực lượng chiến đấu đều xuất phát từ dưới lòng đất, từ các địa đạo, và họ quyết tâm tiêu diệt hệ thống địa đạo đáng sợ này. Kết hợp với việc phá hủy các đường hầm và tiêu diệt căn cứ, họ muốn tiêu diệt và đánh lui các lực lượng cách mạng, tạo ra vùng an toàn để bảo vệ Sài Gòn, trung tâm của chế độ Mỹ - ngụy và thủ đô của chính phủ 'Việt Nam Cộng hòa'.

Trong một thời gian dài, kẻ địch liên tục tấn công và phá hủy căn cứ cũng như hệ thống địa đạo Củ Chi mạnh mẽ.

Nhờ vào giá trị và ý nghĩa của những công lao, của hàng ngàn chiến sĩ và dân làng, khu căn cứ địa đạo Củ Chi đã được Bộ Văn hóa công nhận là Di tích Lịch sử Văn hóa quốc gia.

Địa đạo Củ Chi đã thu hút sự quan tâm của nhiều người. Khách du lịch từ trong và ngoài nước đến tham quan, tìm hiểu càng ngày càng nhiều. Địa đạo Củ Chi trở thành điểm đến truyền thống của nhiều thế hệ Việt Nam và sự kính trọng của bạn bè quốc tế.

Kể từ khi hòa bình trở lại, hàng chục nghìn du khách từ mọi nơi trên thế giới đã đến tham quan địa đạo Củ Chi. Từ các lãnh đạo Đảng Cộng sản, nhà lãnh đạo quốc gia, đến các nhà chính trị, tướng lĩnh, nhà khoa học, triết học, nhà văn, nhà báo, cựu chiến binh Mỹ... đều đã bước chân vào địa đạo với lòng kính phục và xúc động trước vùng đất anh hùng này. Một chính trị gia ở Cộng hòa Liên Bang Đức đã nói: “Nhiều năm qua, tôi luôn nghi ngờ về cuộc chiến của nhân dân Việt Nam. Một quốc gia nhỏ bé và nghèo nàn làm thế nào có thể đánh bại một đế quốc lớn mạnh như Mỹ. Nhưng khi tới đây, bước qua 70m đường hầm, tôi đã tự trả lời được câu hỏi đó”.

Thuyết minh bằng hình ảnh về một danh lam thắng cảnh hay di tích lịch sử ở địa phương em - Mẫu 2

Đạo Phật vốn phát triển ở nước ta từ hơn nghìn năm trước. Trải qua thời gian, phật giáo có sự gắn kết chặt chẽ với đời sống tâm linh con người, hòa quyện trong dòng lịch sử và văn hóa của đất nước. Ngoài việc mang lại cho con người tinh thần từ bi, lối sống tố đẹp, phật giáo còn để lại những di tích chùa chiền hết sức độc đáo, có giá trị tinh thần to lớn. Một trong những công trình xây dựng nổi tiếng nhất đó là Chùa Một Cột, một di tích cổ ở Hà Nội ngày nay.

Chùa Một Cột hay Chùa Mật, Nhất Trụ tháp, Diên Hựu tự. Chùa còn có tên gọi khác là Liên Hoa Đài vì có kiến trúc trong như một đóa hoa sen nở giữa hồ nước. Chùa Một Cột nằm giữa lòng thủ đô Hà Nội, thuộc quần thể di tích lăng chủ tịch Hồ Chí Minh. Đây là ngôi chùa có kiến trúc độc đáo nhất ở Việt Nam.

Chùa Một Cột được vua Lý Thái Tông cho khởi công xây dựng vào năm 1049. Đại Việt ký sự toàn thư ghi lại rằng một đêm vua Lý Thái Tông chiêm bao thấy Phật Quan Âm trên toà sen đưa tay dắt vua lên toà. Khi tỉnh dậy, vua kể lại cho các quan nghe, có người cho là điềm không lành. Sư Thiên Tuế khuyên nhà vua làm chùa, dựng cột đá ở giữa hồ, làm toà sen của Phật Quan Âm như đã thấy trong mộng để trấn áp điều xấu. Chùa xây xong, đài sen ngàn cánh đỡ toà Phật sắc hồng, trong đặt tượng Phật vàng lấp lánh. Các nhà sư đến làm lễ, đi vòng quanh chùa niệm Phật cầu phúc cho vua sống lâu, vì thế đặt tên là chùa Diên Hựu (với nghĩa là “phúc lành dài lâu” hay “phước bền dài lâu”)

Từ lúc được xây dựng cho đến bây giờ, trải qua hơn nghìn năm tồn tại, chùa nhiều lần được trùng tu xây sửa cho bị hư hoại bởi thời gian và sự tàn phá của giặc ngoại xâm. Vẫn tuân theo nguyên tắc cũ, Chùa tọa lạc trên một trụ đá, nằm giữa hồ nước, không hề thay đổi gì.

Về kiến trúc, Chùa Một Cột đạt đến đỉnh cao kiến trúc thời bấy giờ. Nhiều nhà nghiên cứu còn thấy rằng tỉ lệ các bộ phận của chùa tuân thủ tỉ lệ vàng, một tỉ lệ chuẩn mực của kiến trúc đến hoàn hảo.

Chùa Một Cột xây ở giữa hồ nước thả sen, mỗi cạnh hồ 20m, có tường thấp bao xung quanh. Chùa có kiến trúc độc đáo với kết cấu hình vuông, nằm trên một trụ đá, phía trên gồm một hệ thống những thanh gỗ tạo thành bộ khung sườn kiên cố đỡ cho ngôi chùa dựng bên trên, giống như một đóa hoa sen vươn thẳng lên từ mặt hồ. Mái chùa lợp ngói ta, mỗi cạnh 3m, có bốn mái, bốn đầu đao cong được đắp hình đầu rồng. Trụ đá gồm hai khối gắn liền với nhau, đường kính 1,2m, cao 4m (chưa kể phần chìm dưới đất). Lối đi lên chùa là một cầu thang nhỏ làm bằng gạch. Phần trên thân trụ gồm một hệ thống những thanh gỗ tạo thành bộ khung sườn kiên cố đỡ cho ngôi chùa dựng bên trên, giống như một đóa hoa sen vươn thẳng lên từ mặt hồ. Đây chính là nét kiến trúc vô cùng độc đáo của Chùa Một Cột.

Nóc chùa có mặt nguyệt bốc lửa, đầu rồng chầu mặt nguyệt. Trong chùa, tượng đức Phật Quan Âm ngồi trên một bông sen bằng gỗ sơn son thiếp vàng, ở vị trí cao nhất. Phía trên tượng Phật là hoành phi “Liên hoa đài” gợi nhớ sự tích nằm mộng của vua Lý dẫn tới việc xây dựng chùa. Từ sân lên sàn chùa để tụng kinh lễ bái, phải bước qua 13 bậc thang rộng 1,4m, hai bên tường gạch, gắn bia đá giới thiệu lịch sử ngôi chùa.

Tuy quy mô của chùa không lớn nhưng nó lại mang đến một vẻ đẹp rất riêng, được dựng lên chỉ bằng một cột trụ nhưng vẫn có thể đứng vững chãi, không gì đánh đổ được qua thời gian. Khách phương xa mỗi lần có dịp đến thăm chùa đều ngỡ ngàng trước lối kiến trúc độc đáo của nó.

Ngày nay không có những cánh sen trên cột đá như đã nói đến trong bia văn thời nhà Lý, nhưng ngôi chùa dựng trên cột vươn lên khỏi mặt nước vẫn là kiến trúc độc đáo, gợi hình tượng một bông sen vươn thẳng lên khỏi ao. Ao được bao bọc bởi hàng lan can làm bằng những viên gạch sành tráng men xanh. Kiến trúc chùa xây dựng gần với kiến trúc nhà Hậu Lê.

Sự kết hợp táo bạo của ý tưởng tượng, lãng mạn đầy thi vị qua hình tượng bông sen và những giải pháp hoàn hảo về kết cấu kiến trúc gỗ, đá được phù trợ bởi cảnh quan, có ao, có cây cối đã tạo nên sự gần gũi, tinh khiết mà vẫn thanh bạch. Ao hình vuông ở phía dưới biểu tượng cho đất (trời tròn đất vuông) ngôi chùa vươn lên như một ý nghĩa cao cả lòng nhân ái soi tỏ thế gian. Hình ảnh hoa sen là biểu tượng của trí tuệ, của sự trường tồn, sự giải thoát qua nhận thức đậm chất trí tuệ để đi tới cõi niết bàn.

Chùa Một Cột là công trình của phật giáo nhưng kiến trúc lại không giống với bất cứ một tháp Phật nào. Chùa mang đậm tính triết lí nhân văn với vòng ngoài hình vuông tượng trưng cho âm, và cột hình tròn tượng trưng cho dương, trong âm có dương, trong dương có âm. Đây là quy luật tuần hoàn tương sinh, tương khắc của vũ trụ. Vẻ đẹp của nó vừa có vẻ uy nghi cổ kính, lại vừa mang phong thái nhẹ nhàng thanh thoát của cõi Phật.

Chùa Một Cột đã được chọn làm một trong những biểu tượng của thủ đô Hà Nội, ngoài ra biểu tượng Chùa Một Cột còn được thấy ở mặt sau đồng tiền kim loại 5000 đồng của Việt Nam. Tại quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh cũng có một phiên bản Chùa Một Cột. Ngoài ra, tại thủ đô Moskva của Nga cũng có một phiên bản Chùa Một Cột được xây lắp tại Tổ hợp Trung tâm Văn hóa – Thương mại và Khách sạn “Hà Nội – Matxcova”.Chùa còn là biểu tượng cao quý thoát tục của con người Việt Nam.

Chùa Một Cột là nơi quy tục lễ bái và kính ngưỡng của nhân dân thủ đô Hà Nội và các vùng miền khác trong cả nước. Tương truyền trước đây, hằng năm cứ đến ngày 8 tháng 4 âm lịch, vua lại tới chùa làm lễ tắm Phật. Các nhà sư và nhân dân khắp Kinh thành Thăng Long cùng dự lễ. Sau lễ tắm Phật là lễ phóng sinh, vua đứng trên một đài cao trước chùa thả một con chim bay đi, rồi nhân dân cùng tung chim bay theo trong tiếng reo vui của một ngày hội lớn. Ngày nay, những hoạt động ý nghĩa gắn với Chùa Một Cột tiếp tục được duy trì nhằm cầu mong phúc lành, cuộc sống thái bình thịnh trị, muôn dân an ổn.

Ngày 10/11/2012, tổ chức Kỉ lục châu Á đã xác nhận Chùa Một Cột là “Ngôi chùa có kiến trúc độc đáo nhất châu Á”, sau nửa thế kỉ ngôi chùa được xếp hạng Di tích Lịch sử kiến trúc nghệ thuật quốc gia (1962), sau 6 năm chùa được ghi danh trong sách kỉ lục Guiness Việt Nam “Ngôi chùa có kiến trúc độc đáo nhất Việt Nam”.

Trải qua hàng ngàn năm với biết bao thăng trầm của lịch sử, Chùa Một Cột vẫn giữ được cái hồn của Thăng Long xưa. Một ngôi chùa rất nhỏ bé mong manh nhưng giá trị văn hóa, lịch sử vô cùng to lớn, lại trường tồn cùng dân tộc, vẫn uy nghiêm trong tâm linh dân tộc, là hình ảnh biểu trưng của Thủ đô, vững vàng trong dòng thời gian bất tận.

Top 30 Viết bài văn thuyết minh về một danh lam thắng cảnh hay một di tích lịch sử lớp 9 (điểm cao)

Thuyết minh bằng hình ảnh về một danh lam thắng cảnh hay di tích lịch sử ở địa phương em - Mẫu 3

Đến kinh thành Huế lần đầu

Ngọ Môn năm cửa tiến sâu vào thành

Bước chân cho vội cho nhanh

Đi vào mới biết kinh thành bao la.

Huế được biết đến là một thành phố lãng mạn, trữ tình, nên thơ mang nhiều khúc hát tâm tình làm say đắm lòng người. Cố đô Huế từ xa xưa trải qua bao năm tháng vẫn luôn là địa điểm du lịch nổi tiếng với nhiều công trình kiến trúc cổ xưa mang nét độc đáo trong nghệ thuận, hằng năm luôn thu hút rất động khách du lịch trong và ngoài nước đến ghé thăm.

Triều đại phong kiến cuối cùng của Việt Nam do vua Bảo Đại trị vì cũng được đóng đô ở đây, nơi đã chứng kiến sự đổi thay từng ngày của đất nước trong giai đoạn xây dựng và phát triển. Một trong số các công trình kiến trúc tiêu biểu nổi tiếng bật nhất ở cố đô Huế không thể bỏ qua quần thể di tích kinh thành Huế uy nghi, tráng lệ này.

Kinh thành Huế được biết đến là nơi có từ rất lâu đời, nhờ vào kết cấu đồ sộ vững chắc, chu vi trải rộng đến 11 cây số, thành cao 6.60m và chiều dày trung bình 21m. Chính vì đây là kinh thành đầu tiên được xây dựng nên việc đảm bảo tuổi thọ bền lâu luôn được chú trọng, do đó công trình xây dựng tốn rất nhiều tài nguyên thiên nhiên quốc gia.

Phần lớn trong thời kì này, vua Gia Long đã cho huy động toàn bộ lực lượng vận động từ quần chúng nhân dân để xây đắp nên một nơi vô cùng kiên cố này. Được biết trước khi xây dựng thành này thì đã từng có một thành cũ xây dựng từ đời triều chúa Nguyễn cai quản, bởi vì đã lâu đời lại có diện tích nhỏ hẹp ít quy mô nên vua Gia Long đã bàn bạc nhằm mở rộng thành theo lối kiến trúc độc đáo.

Điểm đặc biệt trong vị trí đia lý của kinh thành được tính toán rất kĩ lưỡng bởi nó ảnh hưởng đến cả một vận mệnh quốc gia. Vua không cho xây thành ở nơi cách xa Phú Xuân, nơi mà các chúa Nguyễn đã từng dựng phủ ở đây vào năm 1687. Bởi đây là nơi mang vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng, nơi mà nằm cách xa biển có thể tránh các cuộc cướp bóc từ cướp biển vào, xung quanh bao bọc bởi núi rừng phù hợp để tác chiến, nơi ẩn nấp khi có biến cố xảy ra. Cảng sông là nơi giao thương buôn bán lại không chịu sự ảnh hưởng tác động nhiều của quân sự chính trị.

Theo sơ đồ toàn kinh thành Huế, mặt chính của kinh thành thiết kế quay về hướng truyền thống từ xưa là hướng Nam và trục chính của cung vua nằm tại vị trí thuận lợi nhất trong bản đồ. Hướng của hai hòn đảo ở phía thượng nguồn và hạ nguồn của Sông Hương hay còn gọi là “tả thanh long hữu bạch hổ” nhằm tạo vị trí thuận lợi cho vua khi ngồi trên ngai vàng có thể nhìn về hướng Nam.

Kinh Thành Huế lấy hướng Tây Bắc- Đông Nam của núi Ngự Bình làm nơi tọa lạc của vua với độ cao núi 104 mét, nằm cách sông Hương về hướng Nam là khoảng 3 cây số, tạo ra một vòng vây bao quanh kiên cố, an toàn, như là bức bình phong chống lại mọi kẻ thù mưu đồ từ bên ngoài.

Cố đô Huế cách trung tâm thành phố Đà Nẵng 100 km về phía Bắc, đây từng là nơi đóng đô kinh thành của triều đại nhà nguyễn, triểu đại đã mang đến vẻ vang của dân tộc, là triều đại khai sinh ra nước Đại Việt trải dài trên mảnh đất hình chữ S này.

Kinh thành Huế với thiết kế đa dạng pha trộn kết hợp giữa kiến trúc Phương Tây và thành quách phương Đông. Kinh thành có cấu trúc gồm 10 cửa chính: cửa chính Bắc nằm ở mặt sau kinh thành, cửa Tây Bắc, cửa Chính Tây, cửa Tây Nam nằm phía bên phải kinh thành, cửa Chính Nam, cửa Quảng Đức, cửa Thể Nhơn, cửa Đông Nam, cửa chính Đông và cửa Đông Bắc.

Ngoài các cửa chính trên, kinh thành có có một cửa đặc biệt thiết kế thông với thành Mang Cá, là một thành phụ tọa lạc ở phía Đông Bắc của kinh thành, nó có tên gọi khác là Trấn Bình Môn hay Trấn Bình Đài. Tính ra đã có 11 cửa thuộc đường bộ, còn về đường thủy thì kinh thành cũng có hai cửa đặt tên là Tây Thành Thủy Quan (hay gọi là cống Thủy Quan) nơi xây dựng cửa vô cùng thuận thiện là nơi giao nối liền giữa sông Ngự Hà và sông đào kẻ Vạn ở Kim Long, cửa đường thủy thứ 2 được biết đến với tên gọi là Đông Thành Thủy Quan (hay còn gọi với cái tên mỹ miều là Cống Lương Y) cũng nằm tại nơi thông nhau giữa 2 con sông lớn là Ngự Hà và sông đào Đông Ba.

Nằm ngay chính giữa mặt nam của kinh thành Huế trong khu vực pháo đài Nam Chánh là nơi dựng cột cờ của Cố Đô Huế, nó còn có tên gọi khác là Kỳ Đài. Kỳ đài có cấu tạo đơn giản chỉ gồm 2 bộ phận là đài cờ và cột cờ, đài cờ là sự cấu thành của ba tầng hình chop cụt chữ nhật xếp chồng lên nhau, cột cờ được xây dựng bằng chất liệu gỗ gồm hai tầng cấu thành.

Phía bên trong kinh thành sẽ là nơi làm việc của vua chúa thời xưa, là khu vực quan trọng nhất của hoàng gia. Hoàng Thành là vòng thành thứ 2 nằm bao quanh ở phía trong kinh thành Huế, nơi đây được biết ngoài việc bàn chính sự làm việc của vua và đại thần còn là nơi thờ phụng tồ tiên của triều đại nhà Nguyễn.

Tiếp đến vòng thành nằm phía trong cùng nhất được Hoàng Thành bao quanh đó là Tử Cấm Thành. Nghe tên mọi người cũng biết đây là nơi vô cùng tuyệt mật, bất khả xâm phạm nhất của kinh thành Huế. Cấu trúc là một hình chữ nhật, ngay phía trước hướng Nam sẽ là Đại Cung Môn, mặt hướng Bắc sẽ là nơi tọa lạc của 2 cửa lớn là Nghi Phụng và Tường Loan, còn mặt đông cũng tiếp giáp hai cửa Đông An và Hưng Khánh, mặt tây là Tây An và Gia Tường. Bốn bề bao vây bởi các cửa to lớn, kiên cố, Tử Cấm Thành từ lâu được biết đến là một trong số những công trình kiến trúc được vua Gia Long chú trọng nhất trong quá trình xây dựng và thiết kế. Kinh Thành Huế thuộc một trong số những quần thể di tích cấp quốc gia của Cố Đô Huế đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới. Dù đã trải qua bao năm tháng, nhưng kinh thành Huế vẫn mãi trường tồn với thời gian, luôn sừng sững giữa đất trời, xứng đáng là công trình kiến trúc quy mô, đặc sắc, độc đáo và bền lâu nhất của dân tộc Việt Nam.

Chúng ta vừa tìm hiểu xong về một công trình kiến trúc nổi tiếng góp phần làm nên tên tuổi của thành phố Huế mộng mơ thông qua bài thuyết minh về Kinh Thành Huế ở trên. Có thể thấy, Huế là một nơi có rất nhiều địa danh hay di tích lịch sử nổi tiếng, cũng là địa điểm thu hút được rất nhiều du khách tới mảnh đất này.

Thuyết minh bằng hình ảnh về một danh lam thắng cảnh hay di tích lịch sử ở địa phương em - Mẫu 4

Khu di tích Chiến trường Điện Biên Phủ gồm 45 di tích. Đây là không gian lịch sử quan trọng cũng như điểm đến du lịch nổi bật, góp phần giáo dục truyền thống và phát triển kinh tế cho địa phương.

Trên vùng đất từng chứng kiến cuộc chiến dày công 56 ngày 56 đêm, kết thúc chiến thắng lịch sử chống Pháp, nay trở thành quần thể di tích Chiến trường Điện Biên Phủ, một trong những di tích quốc gia đặc biệt của Việt Nam, góp phần quan trọng vào phát triển du lịch Điện Biên.

Quần thể di tích Chiến trường Điện Biên bao gồm các di tích nổi bật như Đồi A1, Đồi Độc Lập, cứ điểm Hồng Cúm, Him Lam, cầu Mường Thanh, hầm Đờ Cát, tượng đài chiến thắng... Đây là những điểm đến thu hút du khách khi đến với Điện Biên.

Đồi A1, nơi ghi dấu chiến thắng quyết định của quân ta trong cuộc chiến Điện Biên Phủ. Đây là điểm tham quan hấp dẫn với những hầm, hào, lô cốt được bảo tồn nguyên vẹn, nơi khách du lịch có thể trải nghiệm cuộc sống của quân và dân trong thời kỳ chiến tranh.

Hầm chỉ huy Đờ Cát, biểu tượng cho sự thất bại của quân Pháp, là điểm đến đặc biệt thu hút sự quan tâm của du khách. Nơi đây ghi lại hình ảnh cảm động của quân và dân ta trong cuộc chiến lịch sử.

Di tích Đường kéo pháo - biểu tượng cho lòng dũng cảm và tinh thần quyết tâm của người lính Điện Biên trong việc vượt qua những khó khăn, nguy hiểm để kéo pháo vào trận địa, góp phần quyết định vào chiến thắng lịch sử.

Sở chỉ huy chiến dịch, nơi đóng quân của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, đã chứng kiến những quyết sách quan trọng, đóng vai trò không thể phủ nhận trong cuộc chiến Điện Biên Phủ. Rừng Mường Phăng đã trở thành biểu tượng sức mạnh của Quân đội Nhân dân Việt Nam.

Bảo tàng Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, công trình ra đời nhân kỷ niệm 60 năm chiến thắng, đóng vai trò quan trọng trong việc lưu giữ và truyền dạy lịch sử chiến tranh của dân tộc.

Bảo tàng được thiết kế giống như hình dáng của chiếc mũ quân đội xưa của chúng ta. Đây là nơi lưu trữ các hiện vật liên quan đến cuộc chiến lịch sử ở Điện Biên Phủ, bao gồm 2 khu vực trưng bày: Bên ngoài có 112 hiện vật gồm vũ khí của Quân đội Nhân dân Việt Nam và quân đội Pháp sử dụng, bên trong có 274 hiện vật và 202 bức ảnh tư liệu. Bảo tàng đã đóng góp vào việc phát huy giá trị của quần thể di tích lịch sử của chiến trường Điện Biên Phủ và là điểm thu hút du khách đến với Điện Biên.

Trong nhiều năm qua, quần thể di tích lịch sử của Chiến trường Điện Biên Phủ luôn được tỉnh Điện Biên quan tâm bảo tồn và phát triển, trở thành điểm nhấn trong hành trình tham quan của du khách. Bà Vũ Thị Tuyết Nga, Phó Giám đốc Bảo tàng Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ cho biết: Số lượng du khách tham quan quần thể di tích của Chiến trường Điện Biên Phủ ngày càng tăng theo từng năm.

Nhiều điểm di tích tiêu biểu tại đây đã được đầu tư, phục hồi và khai thác giá trị du lịch, góp phần thu hút du khách. Tỉnh Điện Biên cũng rất quan tâm đến việc tuyên truyền, quảng bá và giới thiệu các di tích. Tuy nhiên, việc tôn tạo các di tích vẫn phụ thuộc vào nguồn ngân sách do vấn đề về cơ chế gây ra nhiều khó khăn. Vì vậy, nhiều di tích mặc dù đã xuống cấp nhưng vẫn chưa thể tu bổ ngay lập tức, gây nguy cơ đe dọa đến tính nguyên gốc của di sản.

Để trở thành trung tâm du lịch của khu vực Tây Bắc và cả nước, tỉnh Điện Biên cần bảo tồn và phát huy giá trị của các di sản văn hóa nói chung và quần thể di tích của Chiến trường Điện Biên Phủ nói riêng. Đây là một trong những mục tiêu quan trọng của Ðề án Bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị của di tích Chiến trường Điện Biên Phủ đến năm 2030. Tỉnh Điện Biên đã đầu tư vào việc phục hồi một số điểm di tích như Trung tâm Văn hóa Cựu chiến binh tại đồi E, các di tích Trung tâm tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, Trận địa pháo 105 và H6, đường kéo pháo… để phục vụ du khách và góp phần tuyên truyền sâu rộng về ý nghĩa lịch sử của chiến thắng Điện Biên Phủ.

Việc đầu tư liên tục, lâu dài vào việc bảo tồn và phát triển hệ thống di tích, không gian văn hóa lịch sử của Điện Biên Phủ là biện pháp hiệu quả để khai thác nguồn tài nguyên du lịch con người của tỉnh Điện Biên. Đây cũng là cách để phân biệt sản phẩm du lịch của tỉnh Điện Biên với các tỉnh khác ở vùng Tây Bắc, đồng thời tăng cường giáo dục lòng yêu nước, truyền thống cách mạng cho thế hệ tương lai và thu hút du khách hơn trong tương lai.

Thuyết minh bằng hình ảnh về một danh lam thắng cảnh hay di tích lịch sử ở địa phương em - Mẫu 5

Khi nói đến hành trình du lịch đến Hà Nội, mọi du khách không thể không liên tưởng đến những giá trị vô song của tinh hoa cổ kính, những dấu vết về truyền thống văn hóa và lịch sử bền vững trên mảnh đất có lịch sử văn hiến hàng nghìn năm. Hà Nội trong tưởng tượng của họ không chỉ là một thủ đô hiện đại mà còn là một bức tranh lịch sử lớn với những đặc điểm độc đáo.

Trong danh lam thắng cảnh của thủ đô, Đền Ngọc Sơn là biểu tượng của di sản lịch sử, một đài tượng đài quý báu kết nối những câu chuyện thăng trầm của Hà Nội. Nằm giữa trung tâm thành phố, Đền Ngọc Sơn không chỉ là một di tích quen thuộc với người dân địa phương, mà còn là điểm đến tâm linh thu hút du khách cả trong và ngoài nước.

Ngọc Sơn, tên của ngôi đền, tỏa sáng trên hòn đảo quyến rũ của Hồ Hoàn Kiếm. Xây dựng từ thời nhà Lý, di tích Đền Ngọc Sơn đã trải qua nhiều biến đổi để giữ vững giá trị tinh thần. Thập kỷ 1800, nhà nho Nguyễn Văn Siêu đã khôi phục và cải tạo đền, xây dựng thêm những công trình như đình Trấn Ba, Cầu Thê Húc và Đài Nghiêng, làm thăng hoa thêm không gian tâm linh và văn hóa của khu vực này.

Kiến trúc của Đền Ngọc Sơn tạo nên hình ảnh hài hòa của chữ "Tam", với sự kết hợp khéo léo giữa các yếu tố gỗ và đá. Mái đình hình vuông, hai tầng mái, tám cột đứng vững đáy đình, tạo nên một sự thống nhất và trang trọng. Đến nay, đây vẫn là điểm đến tâm linh quan trọng, nơi người dân thường xuyên đến để cầu nguyện và dâng hương.

Trước khi bước vào thế giới tâm linh của Đền Ngọc Sơn, du khách sẽ khám phá Đài Nghiêng và Tháp Bút, hai tượng đài tượng trưng cho sự tôn nghiêm văn hóa và tri thức. Cây Cầu Thê Húc, với tấm cầu son đỏ rực, là điểm sáng giữa biển nước xanh, gợi lên cảm xúc tinh tế với vẻ đẹp thiên nhiên và kiến trúc nghệ thuật.

Khi bước vào khuôn viên của Đền Ngọc Sơn, mọi người sẽ cảm nhận không gian thanh bình, êm dịu giữa lòng đô thị sôi động. Điều này không chỉ là trải nghiệm của người dân địa phương mà còn của du khách từ xa. Đền Ngọc Sơn không chỉ là điểm đến tâm linh, mà còn là biểu tượng sống động của thủ đô, nơi mọi người có thể tìm thấy khoảnh khắc yên bình và tận hưởng cuộc sống đầy ý nghĩa tại Hà Nội.

Thuyết minh bằng hình ảnh về một danh lam thắng cảnh hay di tích lịch sử ở địa phương em - Mẫu 6

Chưa đi chưa biết Sa Pa

Đi rồi mới thấy mây ba bốn tầng

Nắng viền thác Bạc một vầng

Tình yêu xối xả trắng ngần bay bay

Sa Pa thành phố mờ hơi sương, với biết bao thắng cảnh đẹp đẽ làm say mê lòng người. Ta biết đến một Phanxiphang hùng vĩ, nóc nhà của Đông Dương, những triền đồi vàng óng khi đến mùa lúa được thu hoạch và cũng không thể không nhắc đến khu du lịch Hàm Rồng nổi tiếng vừa hùng vĩ mà cũng rất đỗi nên thơ, trữ tình.

Núi Hàm Rồng nằm ngay trung tâm thị trấn Sa Pa, điểm thấp nhất của núi lên đến 1450m, và cao nhất là 1850 m so với mực nước biển. Núi Hàm Rồng rất hùng vĩ, đan xen nó là các kiểu núi khác nhau, với màu xanh bạt ngàn của cây cối phủ kín bốn phương. Vì là địa hình núi cao, nên mỗi khi mùa đông về, nhiệt độ xuống thấp sẽ xuất hiện hiện tượng băng giá, thậm chí là tuyết gây hứng thú và tò mò với người dân cả nước.

Khu du lịch Hàm Rồng là một trong những địa điểm du lịch nổi tiếng nhất của Sa Pa. Nó được khởi công xây dựng vào năm 1996, với diện tích 148ha. Khu du lịch này khai thác chính những yếu tố thiên nhiên hoang sơ để tạo nên sự thu hút riêng cho mình. Đi từ chân núi lên đến đỉnh núi là những khung cảnh thiên nhiên khác nhau, vừa hùng vĩ lại vô cùng thơ mộng. Là những vườn lan rộng lớn với hơn 6000 giò lan của 194 loại phong lan khác nhau. Hoa thơm nở bốn mùa, ong bướm vây lượn ngày đêm. Bên cạnh vườn lan là những vườn hoa hết sức đa dạng, màu sắc rực rỡ: hoa cánh bướm, thược dược, cẩm tú cầu, hoa bất tử,… cùng hàng chục giống hoa lạ, độc đáo được đưa từ Nga, Pháp, Nhật về trồng thử nghiệm. Đường đi lên Hàm Rồng quanh co, uốn lượn, trước đây chưa được lát gạch quả là một thử thách với du khách, nhưng trong những năm gần đây đã được lát đá thành các bậc thềm tạo điều kiện thuận lợi để mọi người chinh phục đỉnh núi này. Trước khi lên đến đỉnh, chúng ta sẽ phải đi qua một con đường hẹp, dẫn vào hang Tam Môn. Con đường này chỉ vừa cho một người đi qua, và khi đã đi qua đó là cả một khoảng trời mênh mông mở ra trước mặt, với vườn cây ăn trái hết sức đa dạng: đào, lê, mận,…

Lên đến sân mây, tức đỉnh của Hàm Rồng một khung cảnh thiên nhiên kì vĩ mở ra trước mắt chúng ta. Ở độ cao 1800m chúng ta cảm nhận được cái lạnh thấu xương khi vừa mới dưới kia thôi nắng vàng vẫn trải rực rỡ, ta cảm nhận được mây trắng bồng bềnh vườn qua tóc. Một khung cảnh vô cùng lãng mạn.

Núi Hàm Rồng là một trong những tiềm năng du lịch lớn của thành phố Lào Cai. Đến với Sa Pa nếu ta chưa lên đến núi Hàm Rồng ấy là chưa đến Sa Pa vậy. Khu du lịch này có vai trò quan trọng trong quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế của mảnh đất Lào Cai giàu có, phong phú về tài nguyên.

Sa Pa thơ mộng, hùng vĩ càng trở nên đẹp đẽ hơn khi có khu du lịch Hàm Rồng. Khu du lịch này không chỉ đem lại lợi ích kinh tế lớn mà hơn thế còn cho con người không gian nghỉ dưỡng thoải mái, sảng khoái, bỏ lại sau lưng những khói bụi ồn ảo của thành phố. Để con người được hòa mình trọn vẹn vào khung cảnh thiên nhiên.

Không chỉ vậy, Sa Pa nói chung và Hàm Rồng nói riêng còn khơi nguồn cảm hứng sáng tác, sáng tạo cho biết bao thế hệ nghệ sĩ:

Chiều Sa Pa – Huyền Thanh

Hàm Rồng cổng đá chơ vơ

Vườn Lam khói tỏa trăng mờ cheo leo

Hút heo vương ánh tà chiều

Thôn nghèo cô tịch liêu xiêu mẹ già..

Cùng vô vàn những vần thơ hay và đặc sắc khác.

Một lần đến với Sa Pa ta sẽ còn nhớ mãi về hình ảnh những em bé H-mong đáng yêu, nụ cười giòn tan hòa trong cái nắng rực rỡ. Nhớ về một Hàm Rồng hùng vĩ, nhưng bên cạnh đó là nét nguyên sơ, tinh tế, mơ mộng. Sa Pa là thế đấy, cái lạnh thấu xương cũng không thể làm phai nhạt vẻ đẹp của thiên nhiên, sự nồng ấm của tình người.

Thuyết minh bằng hình ảnh về một danh lam thắng cảnh hay di tích lịch sử ở địa phương em - Mẫu 7

Chùa Thầy là một trong số những ngôi chùa cổ kính, nổi tiếng và linh thiêng nhất ở quê hương em.

Vị trí tọa độ và lịch sử hình thành

Chùa Thầy tọa lạc tại núi Thầy, ở xã Sài Sơn, huyện Quốc Oai, thành phố Hà Nội. Chùa được xây dựng từ thời nhà Lý. Ban đầu, chùa Thầy chỉ là một am nhỏ được gọi là Hương Hải am, là nơi Thiền sư Từ Đạo Hạnh làm trụ trì. Về sau, chùa được vua Lý Nhân Tông, Dĩnh Quận Công cùng các hoàng tộc cho xây dựng thêm và chăm lo việc trùng tu. Theo thuyết phong thủy, chùa được xây dựng trên thế đất hình con rồng. Phía trước chùa, bên trái là ngọn Long Đẩu, lưng chùa và bên phải dựa vào núi Sài Sơn. Chùa quay mặt về hướng Nam, trước chùa, nằm giữa Sài Sơn và Long Đẩu là một hồ rộng mang tên Long Chiểu hay Long Trì có nghĩa là ao Rồng. Sân chùa như hàm rồng, thủy đình như viên ngọc rồng ngậm. Cây cầu Nguyệt Tiên Kiều và Nhật Tiên Kiều như hai chiếc râu rồng. Tất cả như tạo nên một vẻ đẹp cổ kính và thanh tịnh cho chùa Thầy.

Đặc điểm kiến trúc của chùa Thầy

Phần chính của chùa Thầy được xây dựng theo lối kiến trúc tiền Phật hậu Thánh. Chùa gồm ba tòa song song với nhau ứng với tên gọi lần lượt là: chùa Hạ, chùa Trung và chùa Thượng. Phía trước chùa là một khoảng sân rộng nhìn ra hồ Long Chiểu, tạo thành hàm của rồng. Hai bên cạnh của sân có hai cây cầu cong bắc qua một phần hồ tạo thành hai chiếc râu rồng, một bên bắc sang một hòn đảo nhỏ nay đã thành khu dân cư, còn một cầu bắc sang đền thờ Tam Phủ. Hai câu cầu này do Phùng Khắc Khoan xây dựng vào năm 1602. Giữa áo chùa có một thủy đình, nhìn từ xa như đang nổi giữa mặt hồ xanh biếc. Thủy đình này rộng khoảng bốn mét vuông, được dựng nên bằng bốn bức tường có tạo kiểu lối vào mái vòm giống nhau. Trên nóc thủy đình là một lớp ngói nhuốm màu rêu phong. Đây cũng chính là nơi diễn ra trò múa rối nước – một hình thức biểu diễn dân gian mà Thiền sư Từ Đạo Hạnh tìm ra và truyền lại cho người dân nơi đây.

Di sản văn hóa

Nằm tại xứ Đoài yên bình, chùa Thầy ít phải chịu những tác động trong hàng ngàn năm của những cuộc chiến chống giặc ngoại xâm, nên ngôi chùa đã giữ lại được bao vẻ bình dị, cổ kính, trở thành trung tâm phật giáo cổ và lớn nhất gần Kinh đô Thăng Long, lưu giữ nhiều di sản văn hóa của các triều đại Lý, Trần, Lê, Mạc, Nguyễn. Ngày 31 tháng 12 năm 2014, chùa Thầy đã được công nhận là di tích Quốc gia đặc biệt.

Cách tham quan chùa Thầy

Để đến chùa Thầy, các bạn có thể sử dụng Google map tra đường, đi theo hướng Đại Lộ Thăng Long rất dễ dàng. Khi tới xã Sài Sơn, cách chùa khoảng 500m có một biển chỉ dẫn lớn dẫn các bạn vào chùa. Trước khi vào, các bạn cần gửi phương tiện đi lại ở khu dân cư và mua vé vào tham quan chùa. Khi vào chùa, các bạn sẽ được các cô, các bác là những người dân địa phương dẫn đi tham quan và lí giải, cung cấp nhiều thông tin về chùa, về những vị Thánh, Phật được thờ phụng trong chùa…

Chùa Thầy là một ngôi chùa cổ kính, linh thiêng với lối kiến trúc vô cùng độc đáo. Đến với chùa Thầy chúng ta sẽ được trải nghiệm một không gian yên bình, tâm hồn ta vì thế cũng như được xoa dịu, chữa lành. Chắc chắn, bạn sẽ không bao giờ cảm thấy hối tiếc khi đặt chân tới ngôi chùa này. 

Thuyết minh bằng hình ảnh về một danh lam thắng cảnh hay di tích lịch sử ở địa phương em - Mẫu 8

Trong số hàng nghìn di tích lịch sử tại Hà Nội, có hơn 500 di tích đã được xếp hạng, và trong số này, Văn Miếu - Quốc Tử Giám nổi bật lên như một biểu tượng không thể tách rời với sự hình thành của kinh đô Thăng Long dưới triều đại Lý. Đây là một di tích có lịch sử gần nghìn năm, mang quy mô tinh tế và uy nghi, tượng trưng cho Hà Nội và là biểu tượng văn hóa và lịch sử của Việt Nam.

10+ Thuyết minh về một danh lam thắng cảnh hay di tích lịch sử ở nơi em sống

Theo sử sách Đại Việt, vào mùa thu năm Canh Tuất - 1070, Vua Lý Thánh Tông đã quyết định khởi công xây dựng Văn Miếu để tôn vinh các tiền nhân, các học giả và những người đã có đóng góp to lớn cho đất nước. Trong danh sách những người được tôn thờ tại đây, không thể không nhắc đến Khổng Tử - người sáng lập nho giáo phương Đông và Chu Văn An - một trong những thầy giáo nổi tiếng, đạo đức và tri thức của nền giáo dục Việt Nam. Chỉ sau sáu năm, năm 1076, Vua Lý Nhân Tông đã quyết định xây dựng Quốc Tử Giám - một trường đại học Nho học hàng đầu thời bấy giờ, với mục tiêu đào tạo nhân tài cho đất nước. Đây là một sự kiện quan trọng đánh dấu sự lựa chọn đầu tiên của triều đình phong kiến Việt Nam trong việc đầu tư và quản lý giáo dục theo mô hình Nho học châu Á.

Văn Miếu - Quốc Tử Giám hiện nay vẫn lưu giữ 82 tấm bia đá, trên đó ghi tên của 1306 người đã đỗ tiến sĩ trong 82 kỳ thi từ năm 1484 đến năm 1780. Trong số những người này, người đỗ tiến sĩ ở tuổi cao nhất trong lịch sử là ông Bàn Tử Quang, khi đó đã 82 tuổi. Ngược lại, người trẻ nhất là Nguyễn Hiền, quê ở Nam Trực (Nam Định), đỗ trạng nguyên năm Đinh Mùi, tức là năm 1247, khi chỉ mới 13 tuổi. Từ đó, Văn Miếu và Quốc Tử Giám - được xem như trường đại học đầu tiên của Việt Nam đã tồn tại suốt đến thế kỷ 19.

Vị trí của Văn Miếu - Quốc Tử Giám tọa lạc trên một khuôn viên rộng hơn 54.000m2, nằm giữa bốn con đường: cổng chính ở đường Quốc Tử Giám (phía Nam), phía Bắc tiếp giáp đường Nguyễn Thái Học, phía Đông giáp phố Tôn Đức Thắng, và phía Tây là phố Văn Miếu. Khu di tích này được chia thành 5 khu vực. Khu vực 1 bao gồm Văn hồ, cổng tam quan ngoại cùng (cổng lớn) và Văn Miếu môn, với cổng lớn có ba cửa và hai tầng, tầng trên với ba chữ Văn Miếu môn. Khu vực thứ hai bao gồm Đại Trung môn, Thánh Dực môn bên trái và Đạt Tài môn bên phải. Khu vực 3 chứa giếng Thiên Quang (tên có nghĩa là giếng trời trong sáng), với 82 bia Tiến sĩ nằm ở hai hàng, mặt bia hướng về giếng, là một di tích có giá trị đặc biệt. Vượt qua cửa Đại Thành, bạn sẽ vào khu vực thứ 4, nơi có dãy Tả Vu và Hữu Vu, với một dãy đặc biệt giữa là Toà Đại Bái đường, tạo thành một kiến trúc hình chữ U truyền thống. Khu vực cuối cùng là nơi dùng để giảng dạy trong trường Quốc Tử Giám thời Lê, nơi đào tạo nhiều thế hệ người tài "nguyên khí của nước nhà."

Mặc dù đã trải qua nhiều biến động và biến cố trong lịch sử, Văn Miếu - Quốc Tử Giám không còn nguyên vẹn như xưa. Các công trình từ thời kỳ Lý và Lê hầu như không còn tồn tại. Tuy nhiên, nó vẫn tồn tại với sự trang nghiêm và tôn kính của một trường đại học có gần 1000 năm lịch sử của Hà Nội. Đây chính là khu di tích văn hóa hàng đầu và nguồn tự hào của người dân Thủ đô khi nhắc đến truyền thống văn hiến hàng nghìn năm của Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội.

Thuyết minh bằng hình ảnh về một danh lam thắng cảnh hay di tích lịch sử ở địa phương em - Mẫu 9

Quê hương em là huyện Đông Anh xinh đẹp với nhiều di tích lịch sử được nhiều người biết đến như đền Sái, đền Cổ Loa. Chắc hẳn khi nhắc đến đền Cổ Loa mọi người sẽ thấy rất quen thuộc bởi đây là một di tích lịch sử gắn liền với những truyền thuyết của dân tộc Việt Nam, như vua An Dương Vương định đô, xây thành, chiếc nỏ thần Kim Quy...

Được mệnh danh là tòa thành cổ lớn nhất Việt Nam, di tích Cổ Loa ngày nay thuộc địa phận xã Cổ Loa huyện Đông Anh. Hằng năm cứ đến ngày mùng 6 tháng Giêng âm lịch người dân trên cả nước lại trẩy hội Cổ Loa để chiêm ngưỡng các nghi lễ trang trọng cũng như những hoạt động nghệ thuật văn hóa dân gian đặc sắc.

Vào thời Âu Lạc, Cổ Loa nằm vị trí đỉnh của tam giác châu thổ sông hồng và là nơi giao lưu quan trọng của đường thủy và bộ. Về giao thông đường thủy, Cổ Loa có một vị trí vô cùng thuận lợi. Đó là vị trí nối liền mạng lưới đường thủy của sông Hồng cùng với mạng lưới đường thủy của sông Thái Bình.

Địa điểm Cổ Loa chính là đất Phong Khê, lúc đó là một vùng đồng bằng trù phú có xóm làng, dân cư đông đúc, sống bằng nghề làm ruộng, đánh cá và thủ công nghiệp. Việc dời đô từ Phong Châu về đây, đánh dấu một giai đoạn phát triển của dân cư Việt cổ, giai đoạn người Việt chuyển trung tâm quyền lực từ vùng Trung du bán sơn địa về định cư tại vùng đồng bằng.

Thành được xây dựng kiểu vòng ốc (nên gọi là Loa thành) tương truyền có tới 9 vòng, dưới thành ngoài là hào sâu ngập nước thuyền bè đi lại được. Ngày nay, ở Cổ Loa còn lại 3 vòng thành đất: thành ngoài (8km), thành giữa (hình đa giác, chu vi 6,5km) và thành trong (hình chữ nhật, chu vi 1,6km). Thân thành ngày nay còn có chiều cao trung bình từ 4 - 5m, có chỗ còn cao tới 12m, chân thành rộng tới 20 - 30m. Các cửa của ba vòng thành cũng được bố trí rất khéo; không hề nằm cùng trên một trục thẳng mà lệch chéo đi rất nhiều. Do đó đường nối hai cửa thành ở cùng một hướng đều là một đường quanh co, lại có ụ phòng ngự ở hai bên nên gây rất nhiều trở ngại cho quân địch khi tiến đánh thành.

Thành nội hình chữ nhật, cao trung bình 5m so với mặt đất, mặt thành rộng từ 6m - 12m, chân rộng từ 20m - 30m, chu vi 1.650 m và có một cửa nhìn vào tòa kiến trúc Ngự triều di quy. Thành trung là một vòng thành không có khuôn hình cân xứng, dài 6.500 m, nơi cao nhất là 10m, mặt thành rộng trung bình 10m, có năm cửa ở các hướng đông, nam, bắc, tây bắc và tây nam, trong đó cửa đông ăn thông với sông Hồng. Thành ngoại cũng không có hình dáng rõ ràng, dài hơn 8.000m, cao trung bình 3 m - 4 m (có chỗ tới hơn 8m).

Mỗi vòng thành đều có hào nước bao quanh bên ngoài, hào rộng trung bình từ 10m đến 30m, có chỗ còn rộng hơn. Các vòng hào đều thông với nhau và thông với sông Hoàng. Sự kết hợp của sông, hào và tường thành không có hình dạng nhất định, khiến thành như một mê cung, là một khu quân sự vừa thuận lợi cho tấn công vừa tốt cho phòng thủ..

Qua các giai đoạn lịch sử, Cổ Loa có rất nhiều tên: Loa thành (thành ốc), thành Côn Lôn, thành Tư Long, Cửu thành, Thành Việt Vương, thành Khả Lũ, Cổ Loa thành. Đến thế kỷ thứ X, thời kỳ Ngô Quyền làm vua, Cổ Loa lại trở thành kinh đô lần thứ hai. Thành Cổ Loa được các nhà khảo cổ học đánh giá là “tòa thành cổ nhất, quy mô lớn vào bậc nhất, cấu trúc cũng thuộc loại độc đáo nhất trong lịch sử xây dựng thành lũy của người Việt cổ”.

Hiện nay Cổ Loa là một trong 21 khu du lịch quốc gia Việt Nam, và Thủ tướng Chính phủ quyết định xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt. Đến với thành Cổ Loa, du khách không chỉ được tham quan tòa thành vĩ đại của lịch sử mà còn cảm nhận được khung cảnh vùng quê với những di tích về truyền thuyết xưa kia. Lịch sử đã qua đi nhưng những mốc lịch sử xưa kia sẽ còn sống mãi cùng Cổ Loa thành.

Thuyết minh bằng hình ảnh về một danh lam thắng cảnh hay di tích lịch sử ở địa phương em - Mẫu 10

Khi bạn đặt chân đến xứ Huế, một trong những điểm đến mơ màng, có ai có thể không ghé thăm quần thể di tích Cố đô Huế ít nhất một lần? Đây chính là chứng tích rạng ngời và thịnh vượng của triều đại Nguyễn, khi đây từng là trung tâm thủ đô của nước Việt Nam trong vòng 143 năm dài đẹp.

Nhìn lại lịch sử xa xưa, Huế đã từng được vị vua tài ba Nguyễn Huệ coi trọng vì tính chiến lược của vị trí địa lý và ông đã quyết định chọn nơi này để đặt đại bản doanh quan trọng. Vào năm 1802, vị vua Nguyễn Ánh, sau này là vua Gia Long, một lần nữa chọn Cố đô Huế làm thủ đô mới cho triều đại Nguyễn. Dự án xây dựng Kinh đô Huế kéo dài từ năm 1802 cho đến năm 1917 trước khi hoàn thành.

Kinh thành Huế nằm bên bờ hai nhánh của dòng sông Hương là Kim Long và Bạch Y, bao gồm 8 làng cổ đại, bao gồm Phú Xuân, Vạn Xuân, Diễn Phát, An Vân, An Hòa, An Mỹ, An Bảo và Thế Lại. Các công trình kiến trúc đồ sộ này được xây dựng theo phong cách truyền thống của Huế, đồng thời thể hiện sự tham khảo của nhiều mẫu kiến trúc Trung Quốc và một số yếu tố phương Tây. Tuy nhiên, vẫn tuân thủ theo nguyên tắc kiến trúc dân tộc Việt Nam theo triết lý Dịch Lý và thuật Phong Thủy để tạo ra sự hài hòa và cân đối với tự nhiên. Tất cả những công trình này tạo nên một quần thể kiến trúc độc đáo và tinh tế, kết hợp tinh hoa của văn hóa xây dựng Đông và Tây. Xung quanh kinh thành là một vòng tường dài 10.571 mét, bao gồm 24 pháo đài, 10 cửa chính cùng với 1 cửa phụ, và còn có một hệ thống kênh rạch phức tạp bao quanh để tăng độ phòng thủ của kinh thành.

Chức năng chính của Hoàng thành là bảo vệ và phục vụ cho cuộc sống của hoàng gia và triều đình. Khu vực Đại Nội bao gồm hệ thống Tử Cấm thành nằm bên trong Hoàng thành và có sự liên kết mật thiết với nhau. Vào năm 1804, vua Gia Long đã chỉ định người chịu trách nhiệm xây dựng Đại Nội. Cơ bản, dưới thời vua Gia Long, Đại Nội đã hoàn thành hầu hết. Khu vực này bao gồm các miếu, điện như Thế Miếu, Triệu Tổ Miếu, Hoàng Khảo Miếu, điện Hoàng Nhân, điện Cần Chánh, cung Trường Thọ, cung Khôn Thái, điện Thái Hòa, viện Thái Y, điện Quang Minh, Điện Trinh Minh, Điện Trung Hòa, Vạc đồng, Thái Bình Lâu, Duyệt Thị Đường và nhiều công trình khác. Tất cả đã được sắp xếp hài hòa với thiên nhiên, bao gồm vườn hoa, cây cầu đá, hồ sen và cây cối xanh mát. Tử Cấm thành nằm bên trong Đại Nội, nơi diễn ra cuộc sống hàng ngày của vua và hoàng tộc. Vùng này bao gồm nhiều công trình như điện Cần Chánh, cung Trường Thọ, cung Khôn Thái, điện Thái Hòa, viện Thái Y, điện Quang Minh, Điện Trinh Minh, và Điện Trung Hòa. Còn lại của khu vực này được xây dựng dưới triều đại của vua Minh Mạng, mang lại diện mạo kiến trúc đáng kinh ngạc cho Hoàng thành và Tử Cấm thành.

Kinh thành Huế có hình vuông, mỗi cạnh dài khoảng 600 mét, được xây dựng hoàn toàn bằng gạch, cao 4 mét và dày 1 mét. Nó được bảo vệ bởi các hào đào và có 4 cửa ra vào theo bốn hướng: Hiển Nhơn, Chương Đức, Ngọ Môn (cửa chính) và Hòa Bình. Bên trong, hệ thống được sắp xếp theo một trục đối xứng, với các công trình dành riêng cho vua nằm ở trục chính giữa. Tất cả đều được sắp xếp hài hòa với thiên nhiên, bao gồm vườn hoa, cầu đá, hồ sen và các cây cối xanh mát. Tử Cấm thành nằm bên trong Đại Nội, ngay sau điện Thái Hòa. Nơi này là nơi sinh hoạt hàng ngày của vua và hoàng tộc và bao gồm các công trình như điện Cần Chánh, nhà Tả Vu và Hữu Vu, điện Kiến Trung, Vạc đồng, Thái Bình Lâu, Duyệt Thị Đường và nhiều công trình khác.

Nhiều công trình khác như Văn miếu Quốc Tử Giam, Thượng Bạc Viện, và Trấn Hải Thành cũng được xây dựng để phục vụ mục đích học tập, ngoại giao và quân sự.

Vào ngày 2 tháng 8 năm 1994, Cố đô Huế đã được công nhận là di sản văn hóa thế giới. Điều này là một niềm tự hào lớn của dân tộc Việt Nam, khi nền văn hóa của họ được thế giới công nhận và bảo vệ. Daniel Janicot, Phó Tổng Giám đốc UNESCO, đã đến Huế để trao tấm bằng chứng nhận này, có chữ ký của Tổng Giám đốc UNESCO, Fédérico Mayor Zaragoza, cùng dòng chữ: "Ghi tên vào danh mục công nhận giá trị toàn cầu đặc biệt của một tài sản văn hóa hoặc thiên nhiên để được bảo vệ vì lợi ích nhân loại".

 
Đánh giá

0

0 đánh giá