TOP 10 Thuyết minh bằng hình ảnh về một danh lam thắng cảnh hay di tích lịch sử ở địa phương em

115

Tailieumoi.vn xin giới thiệu bài văn mẫu Thuyết minh bằng hình ảnh về một danh lam thắng cảnh hay di tích lịch sử ở địa phương em Ngữ văn 9 Kết nối tri thức, gồm dàn ý và các bài văn phân tích mẫu hay nhất giúp các em học sinh có thêm tài liệu tham khảo từ đó học cách viết văn hay hơn.

Thuyết minh bằng hình ảnh về một danh lam thắng cảnh hay di tích lịch sử ở địa phương em

Đề bài: Tạo lập văn bản thuyết minh bằng hình ảnh (có kèm theo các lời dẫn giải cần thiết) về một danh lam thắng cảnh hay di tích lịch sử ở địa phương em.

Soạn bài Củng cố, mở rộng lớp 9 trang 109 Tập 2 | Kết nối tri thức

Dàn ý Thuyết minh bằng hình ảnh về một danh lam thắng cảnh hay di tích lịch sử ở địa phương em

a. Mở bài. Nêu tên danh lam thắng cảnh hay di tích lịch sử sẽ thuyết minh và đưa ra những thông tin khái quát nhất về đối tượng.

b. Thân bài:

- Trình bày các đặc điểm của danh lam thắng cảnh hay di tích lịch sử theo một trình tự hợp lí.

- Giải thích các điều kiện tạo nên nét đặc thù của danh lam thắng cảnh hay di tích lịch sử.

- Nêu các giá trị nổi bật của danh lam thắng cảnh hay di tích lịch sử.

- Cung cấp thông tin về tình trạng bảo tồn, phát huy giá trị của danh lam thắng cảnh hay di tích lịch sử.

c. Kết bài: Khái quát ý nghĩa, giá trị của danh lam thắng cảnh hay di tích lịch sử trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội – văn hoá của địa phương và đất nước.

Thuyết minh bằng hình ảnh về một danh lam thắng cảnh hay di tích lịch sử ở địa phương em - Mẫu 1

Địa đạo Củ Chi với chiến công anh dũng đã đi vào lịch sử như một biểu tượng của sức mạnh của dân tộc Việt Nam trong cuộc chiến tranh đấu tranh giành độc lập. Đây là một kỳ tích độc đáo với hệ thống đường hầm rộng lớn, là nơi chứa đựng hàng trăm km đường hầm dưới lòng đất.

Củ Chi không chỉ là một địa danh nổi tiếng mà còn là biểu tượng của sự kiên cường và sức mạnh dân tộc. Trong 21 năm kháng chiến, dân và quân Củ Chi đã thể hiện sự kiên nhẫn và quyết tâm trong cuộc đấu tranh với kẻ thù.

Với hệ thống địa đạo phức tạp, dân và quân Củ Chi đã chiến đấu dũng mãnh, tạo ra những chiến công vĩ đại. Quân Mỹ đã phải đối mặt với sự kháng cự gay gắt từ các địa đạo trong vùng căn cứ của mình.

Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, các chiến sĩ cách mạng đã tổ chức hoạt động ngầm trong những căn hầm bí mật, được nhân dân che chở. Hệ thống hầm này được xây dựng khéo léo, giúp bảo vệ an toàn cho người dân và quân đội.

Cán bộ cách mạng sống trong vùng địch thường ẩn náu dưới lòng đất vào ban ngày và hoạt động trên mặt đất vào ban đêm, đó là một chiến thuật hiệu quả trong cuộc kháng chiến.

Tuy nhiên, hầm bí mật cũng có nhược điểm khi bị phát hiện, dễ bị kẻ địch vây bắt hoặc tiêu diệt do sức mạnh và ưu thế lớn hơn. Do đó, cần phải phát triển hầm thành đường hầm và có nhiều lối ra bí mật để không chỉ trốn tránh mà còn có thể chống trả quân địch và lên kế hoạch thoát khỏi tình huống nguy hiểm.

Nhờ vào sự xuất hiện của địa đạo, hoạt động chiến đấu và công tác của cán bộ, chiến sĩ và nhân dân vùng ven Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định trở nên hiệu quả hơn.

Tại Củ Chi, việc xây dựng địa đạo bắt đầu từ năm 1948 ở hai xã: Tân Phú Trung và Phước Vĩnh An. Ban đầu chỉ là những đoạn đường hầm ngắn được sử dụng để lưu trữ tài liệu, vũ khí và che giấu cán bộ hoạt động trong vùng địch. Sau đó, hệ thống mở rộng ra nhiều xã khác. Từ năm 1961 đến năm 1965, cuộc kháng chiến của dân Củ Chi đã gặt hái được nhiều thành công, góp phần vào việc đánh bại chiến lược 'chiến tranh đặc biệt' của Mỹ.

Trong thời kỳ chống lại sự xâm lược của Mỹ, địa đạo Củ Chi đã phát triển mạnh mẽ, đặc biệt là từ đầu năm 1966. Các cuộc tấn công của quân Mỹ đã khiến cho dân và quân Củ Chi phải đối mặt với những thách thức lớn.

Trước sức mạnh của Mỹ, Khu ủy Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định và Huyện ủy Củ Chi đã lãnh đạo nhân dân và quân đội mạnh mẽ trong việc bảo vệ vùng căn cứ và chiến thắng quân địch.

Phong trào đào địa đạo đã lan rộng khắp nơi, từ trẻ em đến người già, từ nam giới đến nữ giới đều tích cực tham gia. Sức mạnh ý chí đã giúp cho con người vượt qua mọi khó khăn. Chỉ với lưỡi cuốc và chiếc ki xúc đất thô sơ, dân và quân Củ Chi đã xây dựng nên hệ thống đường hầm đồ sộ, kết nối các khu dân cư với nhau như một 'làng ngầm' kỳ diệu.

Sau cuộc tấn công Crimp, vào ngày 08/01/1967, quân Mỹ tiếp tục hành quân Cedar Falls vào vùng 'Tam giác sắt', nhằm tiêu diệt lực lượng cách mạng. Trong thời gian này, hệ thống địa đạo đã mở rộng đạt đến độ dài 250 km và trở thành một mối nguy hiểm đối với quân địch hàng ngày.

Mạng lưới địa đạo uốn khúc trong lòng đất, bắt đầu từ con đường chính rồi lan tỏa thành hàng loạt nhánh dài ngắn, kết nối với nhau hoặc tự lập tùy thuộc vào địa hình. Nhiều nhánh hướng ra sông Sài Gòn, giúp vượt qua sông khi gặp tình huống nguy kịch, chuyển sang vùng căn cứ Bến Cát.

Các đường hầm không quá sâu nhưng có thể chịu được đạn pháo và trọng lượng của xe tăng, xe bọc thép, đặc biệt những đoạn sâu hơn có thể chống lại bom cỡ nhỏ. Có những phần được cấu trúc thành hai hoặc ba tầng (tầng trên là 'thượng', tầng dưới là 'trầm'). Mỗi tầng có cửa hầm bí mật để di chuyển giữa các tầng. Trong địa đạo còn có các điểm chặn để ngăn chặn kẻ thù hoặc chất độc hóa học mà kẻ thù sử dụng. Có những đoạn hẹp, chỉ có thể đi qua khi thật nhẹ nhàng. Dọc theo đường hầm có lỗ thông hơi ở phía trên, được ngụy trang kỹ lưỡng và mở ra từ mặt đất bằng nhiều cửa bí mật. Có vô số cửa được thiết kế thành ổ chiến đấu, ụ súng bắn tỉa linh hoạt, tạo ra điểm bất ngờ với quân địch. Dưới những khu vực nguy hiểm, có các hầm chông, hố đinh, cạm bẫy...

Xung quanh các cửa hầm có nhiều hầm chông, hố đinh, mìn trái (gọi là tử địa), bao gồm cả mìn lớn chống xe tăng và mâm phóng bom bi chống trực thăng, nhằm tiêu diệt và ngăn chặn quân địch.

Liên kết với địa đạo là các hầm rộng dùng để nghỉ ngơi sau khi chiến đấu, được trang bị võng. Có các nơi dành để lưu trữ vũ khí, lương thực, thực phẩm, nước uống, cũng như các cơ sở khác như giếng nước, bếp Hoàng Cầm (bếp giấu khói dưới đất), hầm làm việc cho các lãnh đạo, chỉ huy, phòng phẫu thuật, chăm sóc thương binh, hầm an toàn cho phụ nữ, người già, trẻ em. Có các hầm lớn, được ngụy trang để tổ chức các hoạt động như hội họp, chiếu phim, biểu diễn văn nghệ...

Trong thời kỳ chiến đấu ác liệt, mọi hoạt động của lực lượng và sinh hoạt của dân chúng đều được 'đóng cửa' vào lòng đất. Mặc cho vùng trên mặt đất đầy bom đạn, khói lửa... cuộc sống trong địa đạo vẫn gặp nhiều khó khăn và cực nhọc.

Để duy trì sức mạnh chiến đấu trong thời gian dài, mọi người phải chấp nhận mọi khó khăn, vượt qua giới hạn của sức chịu đựng con người. Trong bóng tối và hẹp hòi của lòng đất, việc di chuyển rất khó khăn, đa phần phải đi quỳ gối hoặc bò. Đường hầm có những khu vực ẩm ướt và thiếu không khí, ánh sáng (chủ yếu từ đèn cầy hoặc đèn pin). Mỗi khi có người ngất xỉu, phải kéo ra khỏi hầm để hô hấp nhân tạo để tỉnh táo. Vào mùa mưa, nhiều loại côn trùng độc hại xuất hiện trong lòng đất, nơi có cả rắn... Đối với phụ nữ, cuộc sống trong địa đạo còn khó khăn hơn nữa. Một số phụ nữ phải sinh con và chăm sóc trẻ em trong lòng đất, đối mặt với những khó khăn không thể tưởng tượng được.

Mỗi ngày, hàng trăm người ra vào qua các cửa hầm mà vẫn giữ bí mật cho địa đạo là một việc cực kỳ phức tạp. Một cọng cỏ bị gãy, một chiếc lá bị rách cũng phải được sửa chữa kỹ lưỡng nếu không muốn bị kẻ địch phát hiện.

Từ những ngày đầu, khi quân Mỹ xâm lược đổ vào Củ Chi, họ đã phải đối mặt với sự chống đối quyết liệt từ chiến sĩ và dân làng ở đây. Kẻ thù gặp nhiều tổn thất về người và vũ khí trong các cuộc tấn công vào vùng giải phóng. Sau những trận đánh, họ nhận ra rằng lực lượng chiến đấu đều xuất phát từ dưới lòng đất, từ các địa đạo, và họ quyết tâm tiêu diệt hệ thống địa đạo đáng sợ này. Kết hợp với việc phá hủy các đường hầm và tiêu diệt căn cứ, họ muốn tiêu diệt và đánh lui các lực lượng cách mạng, tạo ra vùng an toàn để bảo vệ Sài Gòn, trung tâm của chế độ Mỹ - ngụy và thủ đô của chính phủ 'Việt Nam Cộng hòa'.

Trong một thời gian dài, kẻ địch liên tục tấn công và phá hủy căn cứ cũng như hệ thống địa đạo Củ Chi mạnh mẽ.

Nhờ vào giá trị và ý nghĩa của những công lao, của hàng ngàn chiến sĩ và dân làng, khu căn cứ địa đạo Củ Chi đã được Bộ Văn hóa công nhận là Di tích Lịch sử Văn hóa quốc gia.

Địa đạo Củ Chi đã thu hút sự quan tâm của nhiều người. Khách du lịch từ trong và ngoài nước đến tham quan, tìm hiểu càng ngày càng nhiều. Địa đạo Củ Chi trở thành điểm đến truyền thống của nhiều thế hệ Việt Nam và sự kính trọng của bạn bè quốc tế.

Kể từ khi hòa bình trở lại, hàng chục nghìn du khách từ mọi nơi trên thế giới đã đến tham quan địa đạo Củ Chi. Từ các lãnh đạo Đảng Cộng sản, nhà lãnh đạo quốc gia, đến các nhà chính trị, tướng lĩnh, nhà khoa học, triết học, nhà văn, nhà báo, cựu chiến binh Mỹ... đều đã bước chân vào địa đạo với lòng kính phục và xúc động trước vùng đất anh hùng này. Một chính trị gia ở Cộng hòa Liên Bang Đức đã nói: “Nhiều năm qua, tôi luôn nghi ngờ về cuộc chiến của nhân dân Việt Nam. Một quốc gia nhỏ bé và nghèo nàn làm thế nào có thể đánh bại một đế quốc lớn mạnh như Mỹ. Nhưng khi tới đây, bước qua 70m đường hầm, tôi đã tự trả lời được câu hỏi đó”.

Thuyết minh bằng hình ảnh về một danh lam thắng cảnh hay di tích lịch sử ở địa phương em - Mẫu 2

Đạo Phật vốn phát triển ở nước ta từ hơn nghìn năm trước. Trải qua thời gian, phật giáo có sự gắn kết chặt chẽ với đời sống tâm linh con người, hòa quyện trong dòng lịch sử và văn hóa của đất nước. Ngoài việc mang lại cho con người tinh thần từ bi, lối sống tố đẹp, phật giáo còn để lại những di tích chùa chiền hết sức độc đáo, có giá trị tinh thần to lớn. Một trong những công trình xây dựng nổi tiếng nhất đó là Chùa Một Cột, một di tích cổ ở Hà Nội ngày nay.

Chùa Một Cột hay Chùa Mật, Nhất Trụ tháp, Diên Hựu tự. Chùa còn có tên gọi khác là Liên Hoa Đài vì có kiến trúc trong như một đóa hoa sen nở giữa hồ nước. Chùa Một Cột nằm giữa lòng thủ đô Hà Nội, thuộc quần thể di tích lăng chủ tịch Hồ Chí Minh. Đây là ngôi chùa có kiến trúc độc đáo nhất ở Việt Nam.

Chùa Một Cột được vua Lý Thái Tông cho khởi công xây dựng vào năm 1049. Đại Việt ký sự toàn thư ghi lại rằng một đêm vua Lý Thái Tông chiêm bao thấy Phật Quan Âm trên toà sen đưa tay dắt vua lên toà. Khi tỉnh dậy, vua kể lại cho các quan nghe, có người cho là điềm không lành. Sư Thiên Tuế khuyên nhà vua làm chùa, dựng cột đá ở giữa hồ, làm toà sen của Phật Quan Âm như đã thấy trong mộng để trấn áp điều xấu. Chùa xây xong, đài sen ngàn cánh đỡ toà Phật sắc hồng, trong đặt tượng Phật vàng lấp lánh. Các nhà sư đến làm lễ, đi vòng quanh chùa niệm Phật cầu phúc cho vua sống lâu, vì thế đặt tên là chùa Diên Hựu (với nghĩa là “phúc lành dài lâu” hay “phước bền dài lâu”)

Từ lúc được xây dựng cho đến bây giờ, trải qua hơn nghìn năm tồn tại, chùa nhiều lần được trùng tu xây sửa cho bị hư hoại bởi thời gian và sự tàn phá của giặc ngoại xâm. Vẫn tuân theo nguyên tắc cũ, Chùa tọa lạc trên một trụ đá, nằm giữa hồ nước, không hề thay đổi gì.

Về kiến trúc, Chùa Một Cột đạt đến đỉnh cao kiến trúc thời bấy giờ. Nhiều nhà nghiên cứu còn thấy rằng tỉ lệ các bộ phận của chùa tuân thủ tỉ lệ vàng, một tỉ lệ chuẩn mực của kiến trúc đến hoàn hảo.

Chùa Một Cột xây ở giữa hồ nước thả sen, mỗi cạnh hồ 20m, có tường thấp bao xung quanh. Chùa có kiến trúc độc đáo với kết cấu hình vuông, nằm trên một trụ đá, phía trên gồm một hệ thống những thanh gỗ tạo thành bộ khung sườn kiên cố đỡ cho ngôi chùa dựng bên trên, giống như một đóa hoa sen vươn thẳng lên từ mặt hồ. Mái chùa lợp ngói ta, mỗi cạnh 3m, có bốn mái, bốn đầu đao cong được đắp hình đầu rồng. Trụ đá gồm hai khối gắn liền với nhau, đường kính 1,2m, cao 4m (chưa kể phần chìm dưới đất). Lối đi lên chùa là một cầu thang nhỏ làm bằng gạch. Phần trên thân trụ gồm một hệ thống những thanh gỗ tạo thành bộ khung sườn kiên cố đỡ cho ngôi chùa dựng bên trên, giống như một đóa hoa sen vươn thẳng lên từ mặt hồ. Đây chính là nét kiến trúc vô cùng độc đáo của Chùa Một Cột.

Nóc chùa có mặt nguyệt bốc lửa, đầu rồng chầu mặt nguyệt. Trong chùa, tượng đức Phật Quan Âm ngồi trên một bông sen bằng gỗ sơn son thiếp vàng, ở vị trí cao nhất. Phía trên tượng Phật là hoành phi “Liên hoa đài” gợi nhớ sự tích nằm mộng của vua Lý dẫn tới việc xây dựng chùa. Từ sân lên sàn chùa để tụng kinh lễ bái, phải bước qua 13 bậc thang rộng 1,4m, hai bên tường gạch, gắn bia đá giới thiệu lịch sử ngôi chùa.

Tuy quy mô của chùa không lớn nhưng nó lại mang đến một vẻ đẹp rất riêng, được dựng lên chỉ bằng một cột trụ nhưng vẫn có thể đứng vững chãi, không gì đánh đổ được qua thời gian. Khách phương xa mỗi lần có dịp đến thăm chùa đều ngỡ ngàng trước lối kiến trúc độc đáo của nó.

Ngày nay không có những cánh sen trên cột đá như đã nói đến trong bia văn thời nhà Lý, nhưng ngôi chùa dựng trên cột vươn lên khỏi mặt nước vẫn là kiến trúc độc đáo, gợi hình tượng một bông sen vươn thẳng lên khỏi ao. Ao được bao bọc bởi hàng lan can làm bằng những viên gạch sành tráng men xanh. Kiến trúc chùa xây dựng gần với kiến trúc nhà Hậu Lê.

Sự kết hợp táo bạo của ý tưởng tượng, lãng mạn đầy thi vị qua hình tượng bông sen và những giải pháp hoàn hảo về kết cấu kiến trúc gỗ, đá được phù trợ bởi cảnh quan, có ao, có cây cối đã tạo nên sự gần gũi, tinh khiết mà vẫn thanh bạch. Ao hình vuông ở phía dưới biểu tượng cho đất (trời tròn đất vuông) ngôi chùa vươn lên như một ý nghĩa cao cả lòng nhân ái soi tỏ thế gian. Hình ảnh hoa sen là biểu tượng của trí tuệ, của sự trường tồn, sự giải thoát qua nhận thức đậm chất trí tuệ để đi tới cõi niết bàn.

Chùa Một Cột là công trình của phật giáo nhưng kiến trúc lại không giống với bất cứ một tháp Phật nào. Chùa mang đậm tính triết lí nhân văn với vòng ngoài hình vuông tượng trưng cho âm, và cột hình tròn tượng trưng cho dương, trong âm có dương, trong dương có âm. Đây là quy luật tuần hoàn tương sinh, tương khắc của vũ trụ. Vẻ đẹp của nó vừa có vẻ uy nghi cổ kính, lại vừa mang phong thái nhẹ nhàng thanh thoát của cõi Phật.

Chùa Một Cột đã được chọn làm một trong những biểu tượng của thủ đô Hà Nội, ngoài ra biểu tượng Chùa Một Cột còn được thấy ở mặt sau đồng tiền kim loại 5000 đồng của Việt Nam. Tại quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh cũng có một phiên bản Chùa Một Cột. Ngoài ra, tại thủ đô Moskva của Nga cũng có một phiên bản Chùa Một Cột được xây lắp tại Tổ hợp Trung tâm Văn hóa – Thương mại và Khách sạn “Hà Nội – Matxcova”.Chùa còn là biểu tượng cao quý thoát tục của con người Việt Nam.

Chùa Một Cột là nơi quy tục lễ bái và kính ngưỡng của nhân dân thủ đô Hà Nội và các vùng miền khác trong cả nước. Tương truyền trước đây, hằng năm cứ đến ngày 8 tháng 4 âm lịch, vua lại tới chùa làm lễ tắm Phật. Các nhà sư và nhân dân khắp Kinh thành Thăng Long cùng dự lễ. Sau lễ tắm Phật là lễ phóng sinh, vua đứng trên một đài cao trước chùa thả một con chim bay đi, rồi nhân dân cùng tung chim bay theo trong tiếng reo vui của một ngày hội lớn. Ngày nay, những hoạt động ý nghĩa gắn với Chùa Một Cột tiếp tục được duy trì nhằm cầu mong phúc lành, cuộc sống thái bình thịnh trị, muôn dân an ổn.

Ngày 10/11/2012, tổ chức Kỉ lục châu Á đã xác nhận Chùa Một Cột là “Ngôi chùa có kiến trúc độc đáo nhất châu Á”, sau nửa thế kỉ ngôi chùa được xếp hạng Di tích Lịch sử kiến trúc nghệ thuật quốc gia (1962), sau 6 năm chùa được ghi danh trong sách kỉ lục Guiness Việt Nam “Ngôi chùa có kiến trúc độc đáo nhất Việt Nam”.

Trải qua hàng ngàn năm với biết bao thăng trầm của lịch sử, Chùa Một Cột vẫn giữ được cái hồn của Thăng Long xưa. Một ngôi chùa rất nhỏ bé mong manh nhưng giá trị văn hóa, lịch sử vô cùng to lớn, lại trường tồn cùng dân tộc, vẫn uy nghiêm trong tâm linh dân tộc, là hình ảnh biểu trưng của Thủ đô, vững vàng trong dòng thời gian bất tận.

Top 30 Viết bài văn thuyết minh về một danh lam thắng cảnh hay một di tích lịch sử lớp 9 (điểm cao)

Thuyết minh bằng hình ảnh về một danh lam thắng cảnh hay di tích lịch sử ở địa phương em - Mẫu 3

Đến kinh thành Huế lần đầu

Ngọ Môn năm cửa tiến sâu vào thành

Bước chân cho vội cho nhanh

Đi vào mới biết kinh thành bao la.

Huế được biết đến là một thành phố lãng mạn, trữ tình, nên thơ mang nhiều khúc hát tâm tình làm say đắm lòng người. Cố đô Huế từ xa xưa trải qua bao năm tháng vẫn luôn là địa điểm du lịch nổi tiếng với nhiều công trình kiến trúc cổ xưa mang nét độc đáo trong nghệ thuận, hằng năm luôn thu hút rất động khách du lịch trong và ngoài nước đến ghé thăm.

Triều đại phong kiến cuối cùng của Việt Nam do vua Bảo Đại trị vì cũng được đóng đô ở đây, nơi đã chứng kiến sự đổi thay từng ngày của đất nước trong giai đoạn xây dựng và phát triển. Một trong số các công trình kiến trúc tiêu biểu nổi tiếng bật nhất ở cố đô Huế không thể bỏ qua quần thể di tích kinh thành Huế uy nghi, tráng lệ này.

Kinh thành Huế được biết đến là nơi có từ rất lâu đời, nhờ vào kết cấu đồ sộ vững chắc, chu vi trải rộng đến 11 cây số, thành cao 6.60m và chiều dày trung bình 21m. Chính vì đây là kinh thành đầu tiên được xây dựng nên việc đảm bảo tuổi thọ bền lâu luôn được chú trọng, do đó công trình xây dựng tốn rất nhiều tài nguyên thiên nhiên quốc gia.

Phần lớn trong thời kì này, vua Gia Long đã cho huy động toàn bộ lực lượng vận động từ quần chúng nhân dân để xây đắp nên một nơi vô cùng kiên cố này. Được biết trước khi xây dựng thành này thì đã từng có một thành cũ xây dựng từ đời triều chúa Nguyễn cai quản, bởi vì đã lâu đời lại có diện tích nhỏ hẹp ít quy mô nên vua Gia Long đã bàn bạc nhằm mở rộng thành theo lối kiến trúc độc đáo.

Điểm đặc biệt trong vị trí đia lý của kinh thành được tính toán rất kĩ lưỡng bởi nó ảnh hưởng đến cả một vận mệnh quốc gia. Vua không cho xây thành ở nơi cách xa Phú Xuân, nơi mà các chúa Nguyễn đã từng dựng phủ ở đây vào năm 1687. Bởi đây là nơi mang vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng, nơi mà nằm cách xa biển có thể tránh các cuộc cướp bóc từ cướp biển vào, xung quanh bao bọc bởi núi rừng phù hợp để tác chiến, nơi ẩn nấp khi có biến cố xảy ra. Cảng sông là nơi giao thương buôn bán lại không chịu sự ảnh hưởng tác động nhiều của quân sự chính trị.

Theo sơ đồ toàn kinh thành Huế, mặt chính của kinh thành thiết kế quay về hướng truyền thống từ xưa là hướng Nam và trục chính của cung vua nằm tại vị trí thuận lợi nhất trong bản đồ. Hướng của hai hòn đảo ở phía thượng nguồn và hạ nguồn của Sông Hương hay còn gọi là “tả thanh long hữu bạch hổ” nhằm tạo vị trí thuận lợi cho vua khi ngồi trên ngai vàng có thể nhìn về hướng Nam.

Kinh Thành Huế lấy hướng Tây Bắc- Đông Nam của núi Ngự Bình làm nơi tọa lạc của vua với độ cao núi 104 mét, nằm cách sông Hương về hướng Nam là khoảng 3 cây số, tạo ra một vòng vây bao quanh kiên cố, an toàn, như là bức bình phong chống lại mọi kẻ thù mưu đồ từ bên ngoài.

Cố đô Huế cách trung tâm thành phố Đà Nẵng 100 km về phía Bắc, đây từng là nơi đóng đô kinh thành của triều đại nhà nguyễn, triểu đại đã mang đến vẻ vang của dân tộc, là triều đại khai sinh ra nước Đại Việt trải dài trên mảnh đất hình chữ S này.

Kinh thành Huế với thiết kế đa dạng pha trộn kết hợp giữa kiến trúc Phương Tây và thành quách phương Đông. Kinh thành có cấu trúc gồm 10 cửa chính: cửa chính Bắc nằm ở mặt sau kinh thành, cửa Tây Bắc, cửa Chính Tây, cửa Tây Nam nằm phía bên phải kinh thành, cửa Chính Nam, cửa Quảng Đức, cửa Thể Nhơn, cửa Đông Nam, cửa chính Đông và cửa Đông Bắc.

Ngoài các cửa chính trên, kinh thành có có một cửa đặc biệt thiết kế thông với thành Mang Cá, là một thành phụ tọa lạc ở phía Đông Bắc của kinh thành, nó có tên gọi khác là Trấn Bình Môn hay Trấn Bình Đài. Tính ra đã có 11 cửa thuộc đường bộ, còn về đường thủy thì kinh thành cũng có hai cửa đặt tên là Tây Thành Thủy Quan (hay gọi là cống Thủy Quan) nơi xây dựng cửa vô cùng thuận thiện là nơi giao nối liền giữa sông Ngự Hà và sông đào kẻ Vạn ở Kim Long, cửa đường thủy thứ 2 được biết đến với tên gọi là Đông Thành Thủy Quan (hay còn gọi với cái tên mỹ miều là Cống Lương Y) cũng nằm tại nơi thông nhau giữa 2 con sông lớn là Ngự Hà và sông đào Đông Ba.

Nằm ngay chính giữa mặt nam của kinh thành Huế trong khu vực pháo đài Nam Chánh là nơi dựng cột cờ của Cố Đô Huế, nó còn có tên gọi khác là Kỳ Đài. Kỳ đài có cấu tạo đơn giản chỉ gồm 2 bộ phận là đài cờ và cột cờ, đài cờ là sự cấu thành của ba tầng hình chop cụt chữ nhật xếp chồng lên nhau, cột cờ được xây dựng bằng chất liệu gỗ gồm hai tầng cấu thành.

Phía bên trong kinh thành sẽ là nơi làm việc của vua chúa thời xưa, là khu vực quan trọng nhất của hoàng gia. Hoàng Thành là vòng thành thứ 2 nằm bao quanh ở phía trong kinh thành Huế, nơi đây được biết ngoài việc bàn chính sự làm việc của vua và đại thần còn là nơi thờ phụng tồ tiên của triều đại nhà Nguyễn.

Tiếp đến vòng thành nằm phía trong cùng nhất được Hoàng Thành bao quanh đó là Tử Cấm Thành. Nghe tên mọi người cũng biết đây là nơi vô cùng tuyệt mật, bất khả xâm phạm nhất của kinh thành Huế. Cấu trúc là một hình chữ nhật, ngay phía trước hướng Nam sẽ là Đại Cung Môn, mặt hướng Bắc sẽ là nơi tọa lạc của 2 cửa lớn là Nghi Phụng và Tường Loan, còn mặt đông cũng tiếp giáp hai cửa Đông An và Hưng Khánh, mặt tây là Tây An và Gia Tường. Bốn bề bao vây bởi các cửa to lớn, kiên cố, Tử Cấm Thành từ lâu được biết đến là một trong số những công trình kiến trúc được vua Gia Long chú trọng nhất trong quá trình xây dựng và thiết kế. Kinh Thành Huế thuộc một trong số những quần thể di tích cấp quốc gia của Cố Đô Huế đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới. Dù đã trải qua bao năm tháng, nhưng kinh thành Huế vẫn mãi trường tồn với thời gian, luôn sừng sững giữa đất trời, xứng đáng là công trình kiến trúc quy mô, đặc sắc, độc đáo và bền lâu nhất của dân tộc Việt Nam.

Chúng ta vừa tìm hiểu xong về một công trình kiến trúc nổi tiếng góp phần làm nên tên tuổi của thành phố Huế mộng mơ thông qua bài thuyết minh về Kinh Thành Huế ở trên. Có thể thấy, Huế là một nơi có rất nhiều địa danh hay di tích lịch sử nổi tiếng, cũng là địa điểm thu hút được rất nhiều du khách tới mảnh đất này.

Thuyết minh bằng hình ảnh về một danh lam thắng cảnh hay di tích lịch sử ở địa phương em - Mẫu 4

Khu di tích Chiến trường Điện Biên Phủ gồm 45 di tích. Đây là không gian lịch sử quan trọng cũng như điểm đến du lịch nổi bật, góp phần giáo dục truyền thống và phát triển kinh tế cho địa phương.

Trên vùng đất từng chứng kiến cuộc chiến dày công 56 ngày 56 đêm, kết thúc chiến thắng lịch sử chống Pháp, nay trở thành quần thể di tích Chiến trường Điện Biên Phủ, một trong những di tích quốc gia đặc biệt của Việt Nam, góp phần quan trọng vào phát triển du lịch Điện Biên.

Quần thể di tích Chiến trường Điện Biên bao gồm các di tích nổi bật như Đồi A1, Đồi Độc Lập, cứ điểm Hồng Cúm, Him Lam, cầu Mường Thanh, hầm Đờ Cát, tượng đài chiến thắng... Đây là những điểm đến thu hút du khách khi đến với Điện Biên.

Đồi A1, nơi ghi dấu chiến thắng quyết định của quân ta trong cuộc chiến Điện Biên Phủ. Đây là điểm tham quan hấp dẫn với những hầm, hào, lô cốt được bảo tồn nguyên vẹn, nơi khách du lịch có thể trải nghiệm cuộc sống của quân và dân trong thời kỳ chiến tranh.

Hầm chỉ huy Đờ Cát, biểu tượng cho sự thất bại của quân Pháp, là điểm đến đặc biệt thu hút sự quan tâm của du khách. Nơi đây ghi lại hình ảnh cảm động của quân và dân ta trong cuộc chiến lịch sử.

Di tích Đường kéo pháo - biểu tượng cho lòng dũng cảm và tinh thần quyết tâm của người lính Điện Biên trong việc vượt qua những khó khăn, nguy hiểm để kéo pháo vào trận địa, góp phần quyết định vào chiến thắng lịch sử.

Sở chỉ huy chiến dịch, nơi đóng quân của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, đã chứng kiến những quyết sách quan trọng, đóng vai trò không thể phủ nhận trong cuộc chiến Điện Biên Phủ. Rừng Mường Phăng đã trở thành biểu tượng sức mạnh của Quân đội Nhân dân Việt Nam.

Bảo tàng Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, công trình ra đời nhân kỷ niệm 60 năm chiến thắng, đóng vai trò quan trọng trong việc lưu giữ và truyền dạy lịch sử chiến tranh của dân tộc.

Bảo tàng được thiết kế giống như hình dáng của chiếc mũ quân đội xưa của chúng ta. Đây là nơi lưu trữ các hiện vật liên quan đến cuộc chiến lịch sử ở Điện Biên Phủ, bao gồm 2 khu vực trưng bày: Bên ngoài có 112 hiện vật gồm vũ khí của Quân đội Nhân dân Việt Nam và quân đội Pháp sử dụng, bên trong có 274 hiện vật và 202 bức ảnh tư liệu. Bảo tàng đã đóng góp vào việc phát huy giá trị của quần thể di tích lịch sử của chiến trường Điện Biên Phủ và là điểm thu hút du khách đến với Điện Biên.

Trong nhiều năm qua, quần thể di tích lịch sử của Chiến trường Điện Biên Phủ luôn được tỉnh Điện Biên quan tâm bảo tồn và phát triển, trở thành điểm nhấn trong hành trình tham quan của du khách. Bà Vũ Thị Tuyết Nga, Phó Giám đốc Bảo tàng Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ cho biết: Số lượng du khách tham quan quần thể di tích của Chiến trường Điện Biên Phủ ngày càng tăng theo từng năm.

Nhiều điểm di tích tiêu biểu tại đây đã được đầu tư, phục hồi và khai thác giá trị du lịch, góp phần thu hút du khách. Tỉnh Điện Biên cũng rất quan tâm đến việc tuyên truyền, quảng bá và giới thiệu các di tích. Tuy nhiên, việc tôn tạo các di tích vẫn phụ thuộc vào nguồn ngân sách do vấn đề về cơ chế gây ra nhiều khó khăn. Vì vậy, nhiều di tích mặc dù đã xuống cấp nhưng vẫn chưa thể tu bổ ngay lập tức, gây nguy cơ đe dọa đến tính nguyên gốc của di sản.

Để trở thành trung tâm du lịch của khu vực Tây Bắc và cả nước, tỉnh Điện Biên cần bảo tồn và phát huy giá trị của các di sản văn hóa nói chung và quần thể di tích của Chiến trường Điện Biên Phủ nói riêng. Đây là một trong những mục tiêu quan trọng của Ðề án Bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị của di tích Chiến trường Điện Biên Phủ đến năm 2030. Tỉnh Điện Biên đã đầu tư vào việc phục hồi một số điểm di tích như Trung tâm Văn hóa Cựu chiến binh tại đồi E, các di tích Trung tâm tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, Trận địa pháo 105 và H6, đường kéo pháo… để phục vụ du khách và góp phần tuyên truyền sâu rộng về ý nghĩa lịch sử của chiến thắng Điện Biên Phủ.

Việc đầu tư liên tục, lâu dài vào việc bảo tồn và phát triển hệ thống di tích, không gian văn hóa lịch sử của Điện Biên Phủ là biện pháp hiệu quả để khai thác nguồn tài nguyên du lịch con người của tỉnh Điện Biên. Đây cũng là cách để phân biệt sản phẩm du lịch của tỉnh Điện Biên với các tỉnh khác ở vùng Tây Bắc, đồng thời tăng cường giáo dục lòng yêu nước, truyền thống cách mạng cho thế hệ tương lai và thu hút du khách hơn trong tương lai.

Thuyết minh bằng hình ảnh về một danh lam thắng cảnh hay di tích lịch sử ở địa phương em - Mẫu 5

Khi nói đến hành trình du lịch đến Hà Nội, mọi du khách không thể không liên tưởng đến những giá trị vô song của tinh hoa cổ kính, những dấu vết về truyền thống văn hóa và lịch sử bền vững trên mảnh đất có lịch sử văn hiến hàng nghìn năm. Hà Nội trong tưởng tượng của họ không chỉ là một thủ đô hiện đại mà còn là một bức tranh lịch sử lớn với những đặc điểm độc đáo.

Trong danh lam thắng cảnh của thủ đô, Đền Ngọc Sơn là biểu tượng của di sản lịch sử, một đài tượng đài quý báu kết nối những câu chuyện thăng trầm của Hà Nội. Nằm giữa trung tâm thành phố, Đền Ngọc Sơn không chỉ là một di tích quen thuộc với người dân địa phương, mà còn là điểm đến tâm linh thu hút du khách cả trong và ngoài nước.

Ngọc Sơn, tên của ngôi đền, tỏa sáng trên hòn đảo quyến rũ của Hồ Hoàn Kiếm. Xây dựng từ thời nhà Lý, di tích Đền Ngọc Sơn đã trải qua nhiều biến đổi để giữ vững giá trị tinh thần. Thập kỷ 1800, nhà nho Nguyễn Văn Siêu đã khôi phục và cải tạo đền, xây dựng thêm những công trình như đình Trấn Ba, Cầu Thê Húc và Đài Nghiêng, làm thăng hoa thêm không gian tâm linh và văn hóa của khu vực này.

Kiến trúc của Đền Ngọc Sơn tạo nên hình ảnh hài hòa của chữ "Tam", với sự kết hợp khéo léo giữa các yếu tố gỗ và đá. Mái đình hình vuông, hai tầng mái, tám cột đứng vững đáy đình, tạo nên một sự thống nhất và trang trọng. Đến nay, đây vẫn là điểm đến tâm linh quan trọng, nơi người dân thường xuyên đến để cầu nguyện và dâng hương.

Trước khi bước vào thế giới tâm linh của Đền Ngọc Sơn, du khách sẽ khám phá Đài Nghiêng và Tháp Bút, hai tượng đài tượng trưng cho sự tôn nghiêm văn hóa và tri thức. Cây Cầu Thê Húc, với tấm cầu son đỏ rực, là điểm sáng giữa biển nước xanh, gợi lên cảm xúc tinh tế với vẻ đẹp thiên nhiên và kiến trúc nghệ thuật.

Khi bước vào khuôn viên của Đền Ngọc Sơn, mọi người sẽ cảm nhận không gian thanh bình, êm dịu giữa lòng đô thị sôi động. Điều này không chỉ là trải nghiệm của người dân địa phương mà còn của du khách từ xa. Đền Ngọc Sơn không chỉ là điểm đến tâm linh, mà còn là biểu tượng sống động của thủ đô, nơi mọi người có thể tìm thấy khoảnh khắc yên bình và tận hưởng cuộc sống đầy ý nghĩa tại Hà Nội.

 
Đánh giá

0

0 đánh giá