Tailieumoi.vn xin giới thiệu bài văn mẫu Mô phỏng hướng dẫn viên du lịch để giới thiệu về một cảnh quan thiên nhiên hay di tích lịch sử nổi tiếng Ngữ văn 9 Kết nối tri thức, gồm dàn ý và các bài văn phân tích mẫu hay nhất giúp các em học sinh có thêm tài liệu tham khảo từ đó học cách viết văn hay hơn.
Mô phỏng hướng dẫn viên du lịch để giới thiệu về một cảnh quan thiên nhiên hay di tích lịch sử nổi tiếng
Đề bài: Mô phỏng cách làm của hướng dẫn viên du lịch (dựa vào quan sát thực tế hoặc việc theo dõi một số chương trình trên truyền hình) để giới thiệu với các bạn trong nhóm học tập về một cảnh quan thiên nhiên hay di tích lịch sử nổi tiếng.
Dàn ý Mô phỏng hướng dẫn viên du lịch để giới thiệu về một cảnh quan thiên nhiên hay di tích lịch sử nổi tiếng
- Mở đầu: Nêu tên đối tượng sẽ được thuyết minh (có thể đưa ra một bức ảnh hay đoạn nhạc dạo của một ca khúc và cho người nghe nhận diện danh lam thắng cảnh hay di tích lịch sử nào được thể hiện trong bức ảnh, ca khúc đó).
- Triển khai: Lần lượt nêu các đặc điểm, giá trị của danh lam thắng cảnh hay di tích lịch sử dưới hình thức vừa miêu tả, cung cấp các thông tin cụ thể, vừa phân tích, đánh giá. (Lưu ý: sự phân tích, đánh giá ở đây mang một tính chất riêng, nhằm “cố định hoá” hình ảnh của một đối tượng cụ thể, trước khi chuyển sang nói tới các đối tượng cụ thể khác trong danh lam thắng cảnh hay di tích lịch sử.)
- Kết thúc: Khẳng định lại giá trị nổi bật của danh lam thắng cảnh hay di tích lịch sử.
Mô phỏng hướng dẫn viên du lịch để giới thiệu về một cảnh quan thiên nhiên hay di tích lịch sử nổi tiếng - Mẫu 1
Xin chào thầy cô và các bạn. Hôm nay em sẽ thuyết trình về một danh lam thắng cảnh nổi tiếng của Hà Nội, đó là Hồ Hoàn Kiếm.
Nhác trông lên chốn kinh đô
Kìa đền Quán Thánh, nọ hồ Hoàn Gươm
(Ca dao)
Câu ca dao quen thuộc ấy đã đi vào trái tim và tiềm thức của hàng triệu, hàng triệu người dân Việt Nam. Để rồi, mỗi lần nhắc tới chốn “kinh đô”, nhắc tới thủ đô Hà Nội chắc hẳn sẽ không ai có thể quên được hình ảnh của hồ Hoàn Kiếm (hồ Gươm).
Như chúng ta đã biết, hồ Hoàn Kiếm còn được gọi là hồ Gươm là một hồ nước ngọt nằm ở trung tâm của thủ đô Hà Nội. Từ trước đến nay, hồ này có nhiều tên gọi khác nhau như hồ Lục Thủy, hồ Thủy Quân, hồ Tả Vọng, hồ Hữu Vọng và đến những năm đầu thế kỉ XV hồ mới có tên gọi là hồ Hoàn Kiếm (hay hồ Gươm). Tên gọi hồ Hoàn Kiếm xuất phát từ truyền thuyết vua Lê Lợi trả gươm cho Rùa thần. Chuyện kể rằng, vào thời giặc Minh xâm lược, đô hộ nước ta làm cho tình cảnh của nhân dân ta hết sức cơ cực, nhiều phong trào đấu tranh đã nổ ra trong đó có khởi nghĩa của Lê Lợi ở Lam Sơn. Lúc đầu, phong trào đấu tranh của nghĩa quân do Lê Lợi đứng đầu liên tiếp thất bại, sau khi được Đức Long quân cho mượn gươm báu thì liên tiếp giành thắng lợi. Sau khi đánh tan quân xâm lược, Lê Lợi dạo thuyền chơi trên hồ thì Rùa thần lên đòi lại gươm báu, Lê Lợi trao gươm cho Rùa thần và kể từ đấy, hồ này có tên là hồ Hoàn Kiếm hay hồ Gươm.
Hồ Hoàn Kiếm có diện tích khoảng 12 héc-ta, ở vị trí kết nối các con phố cổ của thủ đô Hà Nội. Không giống với các hồ nước tự nhiên khác, nước hồ Hoàn Kiếm suốt bốn mùa đều xanh ngắt. Xung quanh hồ cây cối bốn mùa xanh ngắt, tươi tốt, mỗi mùa mỗi loài khác nhau. Đó là những cây phượng vĩ mỗi dịp hè về khoe sắc màu đỏ rực, là những rặng liễu xanh rủ bóng mình xuống dòng nước hồ xanh mát. Và thêm vào đó, những loài hoa đua nhau khoe sắc, tỏa hương, điểm tô cho vẻ đẹp cổ kính của hồ. Đặc biệt, ở giữa hồ có một gò đất nổi, người ta xây lên đó một tòa tháp gọi là tháp Rùa.
Đặc biệt, hồ Hoàn Kiếm là một quần thể rộng lớn, bao gồm nhiều di tích, nhiều cảnh quan khác nhau chứ không phải là một cá thể độc lập. Dân gian ta từ xưa đến nay thường có câu:
Rủ nhau xem cảnh Kiếm Hồ
Xem cầu Thê Húc xem đền Ngọc Sơn
Đài Nghiên, Tháp Bút chưa mòn
Hỏi ai gây dựng nên non nước này!
Bài ca dao ấy của nhân dân ta đã phần nào giúp chúng ta thấy được những cảnh quan, những di tích trong quần thể với hồ Hoàn Kiếm. Đó là Tháp Rùa, tháp nổi giữa lòng hồ Hoàn Kiếm, quanh năm cỏ mọc xanh tươi và tương truyền đây chính là nơi Rùa thần lên nghỉ ngơi. Đó là đền Ngọc Sơn, ngôi đền được xây dựng trên đảo Ngọc vào thế kỉ XIX. Ban đầu, đây là ngôi chùa với tên gọi là Chùa Ngọc Sơn nhưng về sau không thờ phật nữa mà chuyển sang thờ thánh Văn Xương và Trần Văn Đạo nên nó được đổi tên là Đền Ngọc Sơn. Cầu Thê Húc là cây cầu màu đỏ, “cong cong như con tôm, dẫn vào đền Ngọc Sơn”. Ngoài ra, trong quần thể của hồ Hoàn Kiếm còn có Đài Nghiên, tháp Hòa Phong, đền Bà Kiệu, Thủy Tạ,… Tất cả chúng quyện hòa vào nhau tạo nên vẻ đẹp và sức sống lâu đời cho hồ Hoàn Kiếm.
Có thể nói, từ xưa đến nay, hồ Hoàn Kiếm vẫn luôn là một di tích lịch sử, một địa danh du lịch nổi tiếng hấp dẫn thu hút du khách trong nước và du khách thập phương về tham quan. Dường như, hồ Hoàn Kiếm đã góp mình tạo nên bức tranh một thủ đô Hà Nội vừa văn minh, hiện đại vừa cổ kính. Thêm vào đó, nơi đây cũng trở thành nguồn cảm hứng bất tận cho thi, ca, nhạc, họa với nhiều tác phẩm nổi tiếng và có sức sống lâu bền, mãi mãi với năm tháng. Đặc biệt, trong thời đại hiện nay, những khu phố quanh hồ Hoàn Kiếm đang ngày càng phát triển, trở thành những trung tâm buôn bán song hình ảnh hồ Hoàn Kiếm vẫn còn mãi nguyên giá trị văn hóa lịch sử của mình và hơn thế nữa, nó như trở thành một chứng nhân lịch sử chứng kiến bao đổi thay của thủ đô Hà Nội và của cả đất nước, dân tộc Việt Nam.
Tóm lại, hồ Hoàn Kiếm là một trong những danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử nổi tiếng của thủ đô Hà Nội nói riêng và đất nước Việt Nam nói chung, thu hút hàng triệu khách du lịch thập phương. Chính nơi đây đã góp phần điểm tô làm rạng rỡ thêm cho vẻ đẹp của đất nước, con người Việt Nam.
Phần trình bày của em đến đây là kết thúc. Cảm ơn cô và các bạn đã lắng nghe.
Mô phỏng hướng dẫn viên du lịch để giới thiệu về một cảnh quan thiên nhiên hay di tích lịch sử nổi tiếng - Mẫu 2
Xin chào thầy cô và các bạn. Hôm nay em sẽ thuyết trình về một danh lam thắng cảnh nổi tiếng của Hà Nội, đó là Văn miếu – Quốc Tử Giám.
Đất nước thân yêu của chúng ta đã trải qua hàng triệu năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Để rồi, giờ đây, khi chiến tranh đã lùi xa nhưng những dấu ấn của lịch sử, của những chiến công hào hùng, của nền văn hóa truyền thống dường như vẫn còn mãi in dấu nơi những di tích lịch sử ở khắp cả nước. Và về với Hà Nội – thủ đô của cả nước, chúng ta sẽ nhớ ngay tới Văn Miếu Quốc Tử Giám – một trong số những di tích lịch sử nổi tiếng ở nước ta.
Như chúng ta đã biết, Văn Miếu Quốc Tử Giám là một di tích lịch sử, môt danh lam thắng cảnh nổi tiếng, nằm ở phía nam của thành Thăng Long. Bốn mặt của di tích Văn Miếu Quốc Tử Giám đều là phố – phía nam – cổng chính của Văn Miếu chính là phố Quốc Tử Giám, phía bắc là phố Nguyễn Thái Học, phía đông là phố Văn Miếu và cuối cùng, phía tây là phố Tôn Đức Thắng. Nhìn lại chặng đường lịch sử trong quá trình ra đời của Văn Miếu Quốc Tử Giám chúng ta sẽ thấy có nhiều nét độc đáo. Văn Miếu được xây dựng từ năm 1070, vào thời vua Lí Thánh Tông. Vào thời kì này, Văn Miếu không chỉ là nơi thờ cúng các bậc tiên thánh, tiên sư của đạo Nho mà nơi đây còn là một trường học hoàng gia. Đến năm 1253, vua Trần Nhân Tông đã mở rộng phạm vi, từ đó, nơi đây không còn chỉ là trường học hoàng gia mà còn có cả con cái trong các gia đình thường dân nhưng thông minh và có thành tích học tập xuất sắc. Dưới thời vua Lê Thánh Tông, tức vào những năm 1484, mỗi khoa thi Tiến sĩ sẽ có một tấm bia được dựng trên lưng rùa để ghi danh những người xuất sắc. Trải qua thời gian, đặc biệt là trong thời gian thực dân Pháp xâm lược nước ta, đã làm hư hại một số công trình trong khu Văn Miếu Quốc Tử Giám và về sau, một số công trình đã được xây dựng, tu bổ, mô phỏng lại theo lối kiến trúc của truyền thống trên chính nền đất xưa của Văn Miếu Quốc Tử Giám.
Là một trong số những di tích lịch sử độc đáo của nước ta, Văn Miếu Quốc Tử Giám có những nét độc đáo, đặc sắc riêng. Văn Miếu Quốc Tử Giám tọa lạc trên một khu đất hình chữ nhật với tổng diện tích hơn 54000 mét vuông. Xung quanh Văn Miếu Quốc Tử Giám được bao bọc bởi những tường rêu cổ kính đã tồn tại hàng nghìn năm nay. Đi sâu khám phá Văn Miếu Quốc Tử Giám, chúng ta sẽ thấy rằng, Văn Miếu gồm có ba khu vực chính là Hồ Văn, vườn Giám và khu nội tự Văn Miếu – Quốc Tử Giám. Trước hết, Hồ Văn nằm ở phía nam, ngay trước mặt của Văn Miếu, diện tích của nó là hơn 12000 mét vuông. Hồ Văn là một hồ nước trong, quanh năm cây cối tươi tốt, um tùm và giữa hồ có một gò đất nổi lên, ấn mình dưới những tán cây, càng làm tăng lên vẻ đẹp cho hồ. Đây là nơi thường diễn ra hoạt động chơi chữ, đặc biệt là hội chữ mùa xuân và các hội bình thơ. Khu nội tự chính là khu vực chính, khu vực chủ thể của quần thể kiến trúc Văn Miếu Quốc Tử Giám và được chia làm năm khu vực chính. Đầu tiên đó chính là Văn Miếu Môn, đây chính là cổng tam quan phía ngoài. Để đi vào được Văn Miếu Môn phải đi qua tứ trụ và hai tấm bia Hạ Mã. Cũng giống như nhiều cổng tam quan theo lối kiến trúc xưa, Văn Miếu Môn cũng có ba cửa, hai cửa hai bên nhỏ và cửa chính giữa to hơn, được xây hai tầng. Đặc biệt, trước Văn Miếu Môn có hai con rồng đá thời Lê và bên trong là đôi rồng đá dưới triều Nguyễn, đồng thời, hai bên công ở mặt ngoài còn có các câu đối bằng chữ Hán. Qua Văn Miếu Môn, theo con đường thẳng tắp sẽ tới Đại Trung Môn. Cửa Đại Trung môn cũng được xây dựng theo kết cấu ba gian, trên một nền gạch cao và dược lợp bằng mái ngói. Dọc theo con đường thẳng tắp ấy sẽ dẫn chúng ta tới với Khuê Văn Các. Khuê Văn Các chính là một lầu vuông gồm với tám mái – bốn mái thượng và bốn mái hạ – một biểu tượng đẹp, độc đáo của nền văn hóa Việt Nam. Qua lầu Khuê Văn Các, chúng ta sẽ tới với giếng Thiên Quang và bia Tiến sĩ. Nếu như những giếng khác có hình tròn thì giếng Thiên Quang lại có hình vuông. Đúng như tên gọi của nó, giếng Thiên Quang được xây dựng với ý muốn con người sẽ nhận được những tinh túy của vũ trụ, của trời đất để phát triển trí tuệ và nhân phẩm. Đặc biệt, khi nhắc đến Văn Miếu, mọi người sẽ nghĩ ngay đến bia Tiến sĩ. Nhà bia Tiến sĩ với 82 tấm bia đá nhằm vinh danh những người đỗ đạt. Đặc biệt, những tấm bia này được đặt trên lưng rùa, điều đó càng làm tăng thêm giá trị của các bia Tiến sĩ. Và cuối cùng trong quần thể kiến trúc của Văn Miếu Quốc Tử Giám đó chính là khu Thái học – nơi rèn đúc, đào tạo nhân tài cho nhiều triều đại trong lịch sử phong kiến Việt Nam.
Là một quần thể kiến trúc từ lâu đời của nước ta, Văn Miếu Quốc Tử Giám có giá trị, ý nghĩa to lớn về lịch sử và văn hóa. Khi đến với Văn Miếu Quốc Tử Giám, các nhà nghiên cứu lịch sử có thể tìm thấy những thông tin hữu ích về lịch sử, về giáo dục của đất nước ta qua các giai đoạn lịch sử. Đồng thời, từ nơi đây, cũng cung cấp những vấn đề liên quan đến Nho giáo như sự hình thành, phát triển Nho giáo ở nước ta. Với những giá trị to lớn về lịch sử, văn hóa, Văn Miếu Quốc Tử Giám thường được lựa chọn là nơi để vinh danh thủ khoa xuất sắc. Đồng thời, nó là một trong số những địa danh thu hút khách du lịch trong và ngoài nước về tham quan, du lịch. Với những giá trị, đóng góp to lớn ấy của mình, vào tháng 12 năm 2005, quần thể kiến trúc Văn Miếu Quốc Tử Giám vinh dự được công nhận là Di tích đặc biệt cấp quốc gia.
Tóm lại, Văn Miếu Quốc Tử Giám là một công trình kiến trúc, một di tích lịch sử đặc biệt của nước ta. Nó là địa danh thu hút, hấp dẫn khách du lịch, đồng thời, mang lại giá trị, ý nghĩa to lớn về văn hóa, lịch sử, giáo dục cho đất nước ta.
Phần trình bày của em đến đây là kết thúc. Cảm ơn cô và các bạn đã lắng nghe.
Mô phỏng hướng dẫn viên du lịch để giới thiệu về một cảnh quan thiên nhiên hay di tích lịch sử nổi tiếng - Mẫu 3
Xin chào thầy cô và các bạn. Hôm nay em sẽ thuyết trình về một di tích lịch sử nổi tiếng của Sài Gòn, đó là Dinh Độc lập.
Dinh Độc Lập là một công trình kiến trúc, di tích lịch sử nổi bật ở Thành phố Hồ Chí Minh. Đây từng là nơi ở và làm việc của Tổng thống Việt Nam Cộng hòa. Hiện nay, dinh đã được Chính phủ Việt Nam xếp hạng là di tích quốc gia đặc biệt.
Di tích Dinh Độc Lập tọa lạc tại số 135, đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa, phường Bến Thành, quận I, thành phố Hồ Chí Minh, có tổng diện tích là 12ha, bốn mặt là 4 trục đường bao quanh – phía Đông Bắc giáp đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa; phía Tây Nam giáp đường Huyền Trân Công Chúa; phía Tây Bắc giáp đường Nguyễn Thị Minh Khai; phía Đông Nam giáp đường Nguyễn Du. Vị trí Dinh Độc Lập rất gần với Nhà thờ Đức Bà quận 1.
Di tích còn được biết đến với nhiều tên gọi khác, như Dinh Norodom, Dinh Thống đốc, Dinh Toàn quyền. Trải qua nhiều thời kì với những biến cố lớn, dinh Độc Lập trở thành một chứng tích lịch sử quan trọng bậc nhất thành phố
Năm 1858, Pháp nổ súng tấn công Đà Nẵng, mở đầu cho cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. 10 năm sau đó, Pháp chiếm xong 6 tỉnh Nam Kỳ
Năm 1868, để khẳng định quyền cai trị lâu dài, Thống đốc Nam Kỳ Lagrandière đã làm lễ đặt viên đá đầu tiên khởi công xây dựng Dinh Thống đốc Nam Kỳ mới tại Sài Gòn Gia Định, thay cho dinh cũ, được dựng bằng gỗ vào năm 1863 (cả dinh cũ và dinh mới đều ở khu vực di tích hiện nay). Dinh mới được xây dựng theo đồ án do kiến trúc sư Hermite phác thảo.
Kiến trúc này được xây cất trên một diện tích rộng 12ha, bao gồm một dinh thự lớn, với mặt tiền rộng 80m, bên trong có phòng khách chứa được 800 người và một khuôn viên rộng, với nhiều cây xanh và thảm cỏ.
Phần lớn vật tư xây dựng dinh được đưa từ Pháp sang. Do chiến tranh Pháp – Phổ (1870) nên việc xây dựng công trình này phải kéo dài đến 1873. Sau khi khánh thành, dinh này được đặt tên là Dinh Norodom và đại lộ trước dinh cũng được gọi là Đại lộ Norodom, lấy theo tên của Quốc vương Campuchia lúc bấy giờ là Norodom (1834 – 1904).
Từ năm 1871 đến năm 1887, dinh này được dành cho Thống đốc Nam Kỳ (Gouverneur de la Cochinchine) nên được gọi là Dinh Thống đốc.
Từ 1887 đến 1945, các Toàn quyền Đông Dương đã sử dụng dinh thự này làm nơi ở và làm việc, nên được gọi là Dinh Toàn quyền (nơi ở và làm việc của các Thống đốc được chuyển sang một dinh thự gần đó).
Ngày 09/3/1945, Nhật đảo chính Pháp, dinh trở thành nơi làm việc của chính quyền Nhật ở Việt Nam. Nhưng đến tháng 9 năm 1945, Nhật thất bại trong Thế chiến thứ II, Pháp trở lại chiếm Nam Bộ, dinh này lại trở thành trụ sở làm việc của Pháp ở Việt Nam.
Sau năm 1954, người Pháp rút khỏi Việt Nam. dinh được bàn giao cho chính quyền quốc gia miền Nam Việt Nam
Năm 1955, sau một cuộc trưng cầu dân ý, Thủ tướng Ngô Đình Diệm phế truất Quốc trưởng Bảo Đại và lên làm Tổng thống. Ngô Đình Diệm quyết định đổi tên dinh này thành Dinh Độc Lập. Từ đó, Dinh Độc Lập trở thành nơi đại diện cho chính quyền cũng như nơi ở của tổng thống chính quyền tay sai và là nơi chứng kiến nhiều biến cố chính trị. Thời kỳ này, Dinh Độc Lập còn được gọi là Dinh Tổng thống. Theo cái nhìn phong thủy, dinh này được đặt ở vị trí đầu rồng, nên còn được gọi là Phủ Đầu rồng.
Năm 1962, dinh thự bị máy bay ném bom đánh sập. Do không thể khôi phục lại, Ngô Đình Diệm đã cho san bằng và xây một dinh thự mới ngay trên nền đất cũ theo đồ án thiết kế của kiến trúc sư Ngô Viết Thụ – người Việt Nam đầu tiên đoạt giải Khôi nguyên La Mã. Dinh Độc Lập mới xây trở thành trụ sở của chính quyền Việt Nam cộng hòa cho đến năm 1975.
Từ ngày sau 1975, Dinh Độc Lập đã được chọn làm nơi tổ chức Hội nghị Hiệp thương chính trị thống nhất hai miền Nam Bắc trong một đất nước Việt Nam thống nhất. Tiếp đó, các hội nghị hợp nhất các tổ chức quần chúng của cả nước (Công đoàn, Thanh niên, Phụ nữ) cũng đã được tổ chức tại đây. Để kỷ niệm các sự kiện chính trị đặc biệt này, Chính phủ đã quyết định đổi tên Dinh Độc Lập thành Hội trường Thống Nhất.
Khi thiết kế xây dựng lại Dinh Ðộc Lập, vì muốn tìm một ý nghĩa văn hóa đặc biệt cho công trình, nên kiến trúc sư Ngô Viết Thụ đã lấy ý tưởng từ triết lý phương Đông cổ truyền và bản sắc văn hóa của dân tộc để thiết kế. Kiến trúc dinh là sự kết hợp hài hoà giữa nghệ thuật kiến trúc hiện đại với kiến trúc truyền thống phương Ðông.
Dinh có chiều cao 26m, được xây dựng trên diện tích 4.500m², diện tích sử dụng là 20.000m², gồm 3 tầng chính, 1 sân thượng, 2 gác lửng, 1 tầng nền, 2 tầng hầm và một sân thượng cho máy bay trực thăng đáp xuống. Hơn 100 căn phòng của dinh, tùy theo mục đích sử dụng, được trang trí theo nhiều phong cách khác nhau, bao gồm các phòng khánh tiết, phòng họp Hội đồng Nội các, phòng làm việc của Tổng thống và của Phó Tổng thống, phòng trình ủy nhiệm thư, phòng đại yến… và các hồ sen bán nguyệt ở hai bên thềm đi vào chính điện, bao lơn, hành lang… Tất cả đều được thiết kế hết sức hài hòa, hợp lý.
Toàn thể bình diện của dinh làm thành hình chữ “Cát”,có nghĩa là tốt lành, may mắn; trung tâm của dinh là phòng Trình Quốc thư; lầu thượng mang ý nghĩa “Tứ phương vô sự / Bốn biển thanh bình” – lầu hình chữ “Khẩu”, với ý nghĩa đề cao giáo dục và tự do ngôn luận. Hình chữ “Khẩu” có cột cờ ở chính giữa tạo thành hình chữ “Trung”, như nhắc nhở muốn có dân chủ thì phải trung kiên. Nét gạch ngang được tạo bởi mái hiên lầu Tứ phương, bao lơn danh dự và mái hiên lối vào tiền sảnh tạo thành hình chữ “Tam”. Theo quan niệm “dân chủ hữu tam” (Nhân, Minh, Võ), ý mong muốn một đất nước hưng thịnh thì phải có những con người hội đủ 3 yếu tố Nhân, Minh, Võ. Ba nét gạch ngang này được nối liền nét sổ dọc tạo thành hình chữ “Vương”, trên có kỳ đài làm nét chấm, tạo thành hình chữ “Chủ”, tượng trưng cho chủ quyền của đất nước. Mặt trước của dinh thự – toàn bộ bao lơn lầu 2 và lầu 3 kết hợp với mái hiên lối vào cùng 2 cột bọc gỗ phía dưới mái hiên tạo thành hình chữ “Hưng”, ý cầu chúc cho nước nhà được hưng thịnh mãi.
Vẻ đẹp kiến trúc của dinh còn được thể hiện bởi hệ thống rèm hoa đá, mang hình dáng những đốt trúc thanh tao, bao xung quanh lầu 2. Rèm hoa đá được biến cách kiểu cửa của các cung điện Cố đô Huế, không chỉ làm tăng thêm vẻ đẹp của dinh, mà còn có tác dụng lấy ánh sáng mặt trời từ bên ngoài. Bên trong dinh, tất cả các đường nét kiến trúc đều dùng đường ngang bằng, sổ thẳng; các hành lang, đại sảnh, các phòng ốc đều lấy câu “Chính đại quang minh” làm ý tưởng cho các đường nét kiến trúc.
Sân trước của dinh là một thảm cỏ hình oval, có đường kính 102m. Màu xanh của thảm cỏ tạo ra một cảm giác êm dịu, sảng khoái cho khách ngay khi bước qua cổng. Chạy theo suốt chiều ngang của đại sảnh là hồ nước hình bán nguyệt. Trong hồ trồng sen và súng, gợi nên hình ảnh những hồ nước yên ả ở các ngôi đình, ngôi chùa cổ kính của các vùng quê Việt Nam.
Bên ngoài hàng rào phía trước và phía sau dinh là hai công viên cây xanh. Giữa những năm 60 của Thế kỷ 20, đây là công trình có quy mô lớn nhất miền Nam và có chi phí xây dựng cao nhất (150.000 lượng vàng). Các hệ thống phụ trợ bên trong dinh rất hiện đại, với đầy đủ hệ thống điều hòa không khí, phòng, chống cháy, thông tin liên lạc, nhà kho… Tầng hầm chịu được oanh kích của bom lớn và pháo. Các phòng của dinh được trang trí bằng nhiều tác phẩm tranh sơn mài, tranh sơn dầu, với chủ đề “non sông cẩm tú”.
Hiện nay, Dinh Độc Lập do Cục Quản trị II – Văn phòng Chính phủ quản lý. Đặc biệt, Dinh Độc lập chính là nơi ghi dấu thắng lợi hoàn toàn cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, năm 1975.
Trong lịch sử, Dinh Độc Lập là một chứng tích lịch sử đặc biệt quan trọng, nơi diễn ra và chứng kiến nhiều sự kiện lịch sử lớn, trực tiếp tác động đến tiến trình lịch sử nước nhà. Do vị thế đặc biệt của địa điểm này, di tích đã nhiều lần được đầu tư xây dựng, tôn tạo và trở thành một công trình xây dựng hoàn mỹ – sản phẩm của sự kết hợp hài hòa giữa công trình kiến trúc hoành tráng với cảnh quan, môi trường của khu vực xung quanh.
Dinh Độc Lập là một trong những công trình kiến trúc chứa đựng những giá trị to lớn về nhiều mặt, đặc biệt là giá trị về lịch sử, văn hoá. Trải qua thăng trầm lịch sử, dinh Độc Lập không chỉ là một “chứng nhân” lịch sử; là biểu tượng của sự hòa hợp, thống nhất đất nước mà còn là một bảo tàng kiến trúc tiêu biểu; niềm tự hào về kiến trúc – xây dựng của người Việt Nam. Sau khi đất nước hoàn toàn thống nhất, Dinh Độc Lập tiếp tục góp phần vào quá trình xây dựng và phát triển đất nước. Cho đến nay, Dinh đã không ngừng phát huy các giá trị của nó trong tiến trình phát triển của Thành phố Hồ Chí Minh và cả nước. Việc phát huy giá trị của Dinh trở thành vấn đề được Thành phố và nhà nước quan tâm. Trong bài viết này chúng tôi tập trung làm rõ việc phát huy những giá trị về lịch sử – văn hóa của Dinh Độc Lập qua công tác khai thác, bảo tồn.
Với những giá trị lịch sử văn hóa và khoa học đặc biệt của di tích,năm 2009, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định xếp hạng Di tích lịch sử Dinh Độc Lập – nơi ghi dấu thắng lợi hoàn toàn cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước là di tích quốc gia đặc biệt. Dinh Độc Lập không chỉ dừng lại đó, nơi này đã là biểu tượng lòng tự hào của dân tộc, là minh chứng cho một thời kháng chiến chống Mỹ gian khổ mà hào hùng.
Mô phỏng hướng dẫn viên du lịch để giới thiệu về một cảnh quan thiên nhiên hay di tích lịch sử nổi tiếng - Mẫu 4
Xin chào thầy cô và các bạn. Hôm nay em sẽ thuyết trình về một di tích lịch sử nổi tiếng, đó là Cố đô Huế.
Khi bạn đặt chân đến xứ Huế, một trong những điểm đến mơ màng, có ai có thể không ghé thăm quần thể di tích Cố đô Huế ít nhất một lần? Đây chính là chứng tích rạng ngời và thịnh vượng của triều đại Nguyễn, khi đây từng là trung tâm thủ đô của nước Việt Nam trong vòng 143 năm dài đẹp.
Nhìn lại lịch sử xa xưa, Huế đã từng được vị vua tài ba Nguyễn Huệ coi trọng vì tính chiến lược của vị trí địa lý và ông đã quyết định chọn nơi này để đặt đại bản doanh quan trọng. Vào năm 1802, vị vua Nguyễn Ánh, sau này là vua Gia Long, một lần nữa chọn Cố đô Huế làm thủ đô mới cho triều đại Nguyễn. Dự án xây dựng Kinh đô Huế kéo dài từ năm 1802 cho đến năm 1917 trước khi hoàn thành.
Kinh thành Huế nằm bên bờ hai nhánh của dòng sông Hương là Kim Long và Bạch Y, bao gồm 8 làng cổ đại, bao gồm Phú Xuân, Vạn Xuân, Diễn Phát, An Vân, An Hòa, An Mỹ, An Bảo và Thế Lại. Các công trình kiến trúc đồ sộ này được xây dựng theo phong cách truyền thống của Huế, đồng thời thể hiện sự tham khảo của nhiều mẫu kiến trúc Trung Quốc và một số yếu tố phương Tây. Tuy nhiên, vẫn tuân thủ theo nguyên tắc kiến trúc dân tộc Việt Nam theo triết lý Dịch Lý và thuật Phong Thủy để tạo ra sự hài hòa và cân đối với tự nhiên. Tất cả những công trình này tạo nên một quần thể kiến trúc độc đáo và tinh tế, kết hợp tinh hoa của văn hóa xây dựng Đông và Tây. Xung quanh kinh thành là một vòng tường dài 10.571 mét, bao gồm 24 pháo đài, 10 cửa chính cùng với 1 cửa phụ, và còn có một hệ thống kênh rạch phức tạp bao quanh để tăng độ phòng thủ của kinh thành.
Chức năng chính của Hoàng thành là bảo vệ và phục vụ cho cuộc sống của hoàng gia và triều đình. Khu vực Đại Nội bao gồm hệ thống Tử Cấm thành nằm bên trong Hoàng thành và có sự liên kết mật thiết với nhau. Vào năm 1804, vua Gia Long đã chỉ định người chịu trách nhiệm xây dựng Đại Nội. Cơ bản, dưới thời vua Gia Long, Đại Nội đã hoàn thành hầu hết. Khu vực này bao gồm các miếu, điện như Thế Miếu, Triệu Tổ Miếu, Hoàng Khảo Miếu, điện Hoàng Nhân, điện Cần Chánh, cung Trường Thọ, cung Khôn Thái, điện Thái Hòa, viện Thái Y, điện Quang Minh, Điện Trinh Minh, Điện Trung Hòa, Vạc đồng, Thái Bình Lâu, Duyệt Thị Đường và nhiều công trình khác. Tất cả đã được sắp xếp hài hòa với thiên nhiên, bao gồm vườn hoa, cây cầu đá, hồ sen và cây cối xanh mát. Tử Cấm thành nằm bên trong Đại Nội, nơi diễn ra cuộc sống hàng ngày của vua và hoàng tộc. Vùng này bao gồm nhiều công trình như điện Cần Chánh, cung Trường Thọ, cung Khôn Thái, điện Thái Hòa, viện Thái Y, điện Quang Minh, Điện Trinh Minh, và Điện Trung Hòa. Còn lại của khu vực này được xây dựng dưới triều đại của vua Minh Mạng, mang lại diện mạo kiến trúc đáng kinh ngạc cho Hoàng thành và Tử Cấm thành.
Kinh thành Huế có hình vuông, mỗi cạnh dài khoảng 600 mét, được xây dựng hoàn toàn bằng gạch, cao 4 mét và dày 1 mét. Nó được bảo vệ bởi các hào đào và có 4 cửa ra vào theo bốn hướng: Hiển Nhơn, Chương Đức, Ngọ Môn (cửa chính) và Hòa Bình. Bên trong, hệ thống được sắp xếp theo một trục đối xứng, với các công trình dành riêng cho vua nằm ở trục chính giữa. Tất cả đều được sắp xếp hài hòa với thiên nhiên, bao gồm vườn hoa, cầu đá, hồ sen và các cây cối xanh mát. Tử Cấm thành nằm bên trong Đại Nội, ngay sau điện Thái Hòa. Nơi này là nơi sinh hoạt hàng ngày của vua và hoàng tộc và bao gồm các công trình như điện Cần Chánh, nhà Tả Vu và Hữu Vu, điện Kiến Trung, Vạc đồng, Thái Bình Lâu, Duyệt Thị Đường và nhiều công trình khác.
Nhiều công trình khác như Văn miếu Quốc Tử Giam, Thượng Bạc Viện, và Trấn Hải Thành cũng được xây dựng để phục vụ mục đích học tập, ngoại giao và quân sự.
Vào ngày 2 tháng 8 năm 1994, Cố đô Huế đã được công nhận là di sản văn hóa thế giới. Điều này là một niềm tự hào lớn của dân tộc Việt Nam, khi nền văn hóa của họ được thế giới công nhận và bảo vệ. Daniel Janicot, Phó Tổng Giám đốc UNESCO, đã đến Huế để trao tấm bằng chứng nhận này, có chữ ký của Tổng Giám đốc UNESCO, Fédérico Mayor Zaragoza, cùng dòng chữ: "Ghi tên vào danh mục công nhận giá trị toàn cầu đặc biệt của một tài sản văn hóa hoặc thiên nhiên để được bảo vệ vì lợi ích nhân loại".
Phần trình bày của em đến đây là kết thúc. Cảm ơn cô và các bạn đã lắng nghe.
Mô phỏng hướng dẫn viên du lịch để giới thiệu về một cảnh quan thiên nhiên hay di tích lịch sử nổi tiếng - Mẫu 5
Kính thưa các quý vị đại biểu, các thầy cô giáo cùng các bạn học sinh! Hôm nay, tôi xin được thuyết minh về di tích lịch sử Kinh Thành Huế, một trong những biểu tượng văn hóa tâm linh quan trọng nhất của dân tộc Việt Nam.
Đến kinh thành Huế lần đầu
Ngọ Môn năm cửa tiến sâu vào thành
Bước chân cho vội cho nhanh
Đi vào mới biết kinh thành bao la.
Huế được biết đến là một thành phố lãng mạn, trữ tình, nên thơ mang nhiều khúc hát tâm tình làm say đắm lòng người. Cố đô Huế từ xa xưa trải qua bao năm tháng vẫn luôn là địa điểm du lịch nổi tiếng với nhiều công trình kiến trúc cổ xưa mang nét độc đáo trong nghệ thuận, hằng năm luôn thu hút rất động khách du lịch trong và ngoài nước đến ghé thăm.
Triều đại phong kiến cuối cùng của Việt Nam do vua Bảo Đại trị vì cũng được đóng đô ở đây, nơi đã chứng kiến sự đổi thay từng ngày của đất nước trong giai đoạn xây dựng và phát triển.
Một trong số các công trình kiến trúc tiêu biểu nổi tiếng bật nhất ở cố đô Huế không thể bỏ qua quần thể di tích kinh thành Huế uy nghi, tráng lệ này. Kinh thành Huế được biết đến là nơi có từ rất lâu đời, nhờ vào kết cấu đồ sộ vững chắc, chu vi trải rộng đến 11 cây số, thành cao 6.60m và chiều dày trung bình 21m. Chính vì đây là kinh thành đầu tiên được xây dựng nên việc đảm bảo tuổi thọ bền lâu luôn được chú trọng, do đó công trình xây dựng tốn rất nhiều tài nguyên thiên nhiên quốc gia. Phần lớn trong thời kì này, vua Gia Long đã cho huy động toàn bộ lực lượng vận động từ quần chúng nhân dân để xây đắp nên một nơi vô cùng kiên cố này. Được biết trước khi xây dựng thành này thì đã từng có một thành cũ xây dựng từ đời triều chúa Nguyễn cai quản, bởi vì đã lâu đời lại có diện tích nhỏ hẹp ít quy mô nên vua Gia Long đã bàn bạc nhằm mở rộng thành theo lối kiến trúc độc đáo. Điểm đặc biệt trong vị trí đia lý của kinh thành được tính toán rất kĩ lưỡng bởi nó ảnh hưởng đến cả một vận mệnh quốc gia. Vua không cho xây thành ở nơi cách xa Phú Xuân, nơi mà các chúa Nguyễn đã từng dựng phủ ở đây vào năm 1687. Bởi đây là nơi mang vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng, nơi mà nằm cách xa biển có thể tránh các cuộc cướp bóc từ cướp biển vào, xung quanh bao bọc bởi núi rừng phù hợp để tác chiến, nơi ẩn nấp khi có biến cố xảy ra. Cảng sông là nơi giao thương buôn bán lại không chịu sự ảnh hưởng tác động nhiều của quân sự chính trị.
Theo sơ đồ toàn kinh thành Huế, mặt chính của kinh thành thiết kế quay về hướng truyền thống từ xưa là hướng Nam và trục chính của cung vua nằm tại vị trí thuận lợi nhất trong bản đồ. Hướng của hai hòn đảo ở phía thượng nguồn và hạ nguồn của Sông Hương hay còn gọi là “tả thanh long hữu bạch hổ” nhằm tạo vị trí thuận lợi cho vua khi ngồi trên ngai vàng có thể nhìn về hướng Nam.
Kinh Thành Huế lấy hướng Tây Bắc- Đông Nam của núi Ngự Bình làm nơi tọa lạc của vua với độ cao núi 104 mét, nằm cách sông Hương về hướng Nam là khoảng 3 cây số, tạo ra một vòng vây bao quanh kiên cố, an toàn, như là bức bình phong chống lại mọi kẻ thù mưu đồ từ bên ngoài.
Cố đô Huế cách trung tâm thành phố Đà Nẵng 100 km về phía Bắc, đây từng là nơi đóng đô kinh thành của triều đại nhà nguyễn, triểu đại đã mang đến vẻ vang của dân tộc, là triều đại khai sinh ra nước Đại việt trải dài trên mảnh đất hình chữ S này.
Kinh thành Huế với thiết kế đa dạng pha trộn kết hợp giữa kiến trúc Phương Tây và thành quách phương Đông. Kinh thành có cấu trúc gồm 10 cửa chính: cửa chính Bắc nằm ở mặt sau kinh thành, cửa Tây Bắc, cửa Chính Tây, cửa Tây Nam nằm phía bên phải kinh thành, cửa Chính Nam, cửa Quảng Đức, cửa Thể Nhơn, cửa Đông Nam, cửa chính Đông và cửa Đông Bắc.
Ngoài các cửa chính trên, kinh thành có có một cửa đặc biệt thiết kế thông với thành Mang Cá, là một thành phụ tọa lạc ở phía Đông Bắc của kinh thành, nó có tên gọi khác là Trấn Bình Môn hay Trấn Bình Đài. Tính ra đã có 11 cửa thuộc đường bộ, còn về đường thủy thì kinh thành cũng có hai cửa đặt tên là Tây Thành Thủy Quan (hay gọi là cống Thủy Quan) nơi xây dựng cửa vô cùng thuận thiện là nơi giao nối liền giữa sông Ngự Hà và sông đào kẻ Vạn ở Kim Long, cửa đường thủy thứ 2 được biết đến với tên gọi là Đông Thành Thủy Quan (hay còn gọi với cái tên mỹ miều là Cống Lương Y) cũng nằm tại nơi thông nhau giữa 2 con sông lớn là Ngự Hà và sông đào Đông Ba.
Nằm ngay chính giữa mặt nam của kinh thành Huế trong khu vực pháo đài Nam Chánh là nơi dựng cột cờ của Cố Đô Huế, nó còn có tên gọi khác là Kỳ Đài. Kỳ đài có cấu tạo đơn giản chỉ gồm 2 bộ phận là đài cờ và cột cờ, đài cờ là sự cấu thành của ba tầng hình chop cụt chữ nhật xếp chồng lên nhau, cột cờ được xây dựng bằng chất liệu gỗ gồm hai tầng cấu thành.
Phía bên trong kinh thành sẽ là nơi làm việc của vua chúa thời xưa, là khu vực quan trọng nhất của hoàng gia. Hoàng Thành là vòng thành thứ 2 nằm bao quanh ở phía trong kinh thành Huế, nơi đây được biết ngoài việc bàn chính sự làm việc của vua và đại thần còn là nơi thờ phụng tồ tiên của triều đại nhà Nguyễn.
Tiếp đến vòng thành nằm phía trong cùng nhất được Hoàng Thành bao quanh đó là Tử Cấm Thành. Nghe tên mọi người cũng biết đây là nơi vô cùng tuyệt mật, bất khả xâm phạm nhất của kinh thành Huế. Cấu trúc là một hình chữ nhật, ngay phía trước hướng Nam sẽ là Đại Cung Môn, mặt hướng Bắc sẽ là nơi tọa lạc của 2 cửa lớn là Nghi Phụng và Tường Loan, còn mặt đông cũng tiếp giáp hai cửa Đông An và Hưng Khánh, mặt tây là Tây An và Gia Tường. Bốn bề bao vây bởi các cửa to lớn, kiên cố, Tử Cấm Thành từ lâu được biết đến là một trong số những công trình kiến trúc được vua Gia Long chú trọng nhất trong quá trình xây dựng và thiết kế.
Kinh Thành Huế thuộc một trong số những quần thể di tích cấp quốc gia của Cố Đô Huế đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới. Dù đã trải qua bao năm tháng, nhưng kinh thành Huế vẫn mãi trường tồn với thời gian, luôn sừng sững giữa đất trời, xứng đáng là công trình kiến trúc quy mô, đặc sắc, độc đáo và bền lâu nhất của dân tộc Việt Nam.
Chúng ta vừa tìm hiểu xong về một công trình kiến trúc nổi tiếng góp phần làm nên tên tuổi của thành phố Huế mộng mơ thông qua bài thuyết minh về Kinh Thành Huế ở trên.
Bài trình bày của em đến đây là kết thúc, rất mong nhận được những nhận xét, góp ý của cô giáo và các bạn. Em xin cảm ơn!
Xem thêm lời giải soạn văn lớp 9 Kết nối tri thức hay, chi tiết khác:
Xem thêm các bài soạn văn lớp 9 Kết nối tri thức hay, chi tiết khác: