Tailieumoi.vn giới thiệu giải Chuyên đề học tập Kinh tế Pháp luật lớp 12 Chuyên đề 3: Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế sách Chân trời sáng tạo hay, chi tiết giúp học sinh xem và so sánh lời giải từ đó biết cách làm Chuyên đề KTPL 12. Mời các bạn đón xem:
Giải Chuyên đề KTPL 12 Chuyên đề 3: Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế
Mở đầu trang 31 Chuyên đề Kinh tế Pháp luật 12: Lựa chọn một trong những mốc thời gian trong sơ đồ dưới đây để trình bày hiểu biết của em về sự kiện đó và nêu ý nghĩa của sự kiện đối với Việt Nam khi hội nhập quốc tế
Lời giải:
- Ngày 7/11/2006, lễ kết nạp Việt Nam gia nhập WTO được tổ chức tại trụ sở WTO ở Geneva, Thụy Sĩ. Sau đó, kể từ ngày 11/1/2007, Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại lớn nhất thế giới này.
- Sự kiện lớn nói trên đã để lại nhiều dấu ấn tích cực trên hành trình đổi mới và hội nhập quốc tế của Việt Nam: Dấu ấn sâu đậm nhất của việc tham gia WTO và hội nhập quốc tế đối với Việt Nam là góp phần đổi mới tư duy chính sách, hoàn thiện chuẩn mực quản lý nhà nước, quản trị doanh nghiệp, định hình khung khổ pháp lý và các chuẩn mực phát triển các thể chế kinh tế-thương mại, tạo cơ sở pháp lý vững chắc làm cầu nối và xung lực tích cực để đất nước từng bước mở cửa, mở rộng quy mô thị trường hàng hóa và dịch vụ, cải thiên cơ cấu và nâng cao hiệu quả hoạt động thương mại quốc tế theo các thỏa thuận đa phương và song phương đã cam kết.
1. Những cơ hội và thách thức đối với Việt Nam khi hội nhập kinh tế quốc tế
Câu hỏi trang 32 Chuyên đề Kinh tế Pháp luật 12: Dựa vào thông tin trong bài, em hãy: Cho biết các cơ hội và thách thức của Việt Nam khi hội nhập kinh tế quốc tế và cho ví dụ để làm rõ các cơ hội và thách thức đó.
Lời giải:
- Những cơ hội: tạo điều kiện thuận lợi để thực hiện thành công các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội:
+ Về vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam tăng cao nhất ở thời điểm từ năm 2017 - 2019, tuy nhiên đến năm 2020 có giảm xuống do tác động của tình hình dịch bệnh. Việt Nam đã trở thành điểm đến đầu tư của các đối tác nước ngoài như Samsung, Lego, Pepsi, Coca Cola, P&G, ...
+ Hội nhập kinh tế quốc tế giúp Việt Nam: mở rộng thị trường cho xuất, nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ; thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, các nguồn vốn, thành tựu khoa học - công nghệ.
+ Hội nhập kinh tế quốc tế tác động đến nguồn nhân lực: kích thích sự phát triển nhanh chóng của khoa học - công nghệ, đòi hỏi người dân nói chung và lực lượng lao động nói riêng phải không ngừng nâng cao trình độ để theo kịp sự phát triển, yêu cầu của công việc, cuộc sống. Người lao động cần phải học tập, tiếp thu thêm về kĩ năng làm nghề, năng lực quản lí và tác phong làm việc hiện đại.
+ Hội nhập kinh tế quốc tế giúp tiếp thu những tinh hoa của nhân loại tiến bộ, giúp Việt Nam có thêm điều kiện để nâng cao trình độ dân trí, xây dựng con người để phát triển đất nước; tạo cơ hội phát huy, quảng bá những giá trị văn hoa truyền thống đến bạn bè quốc tế.
+ Hội nhập kinh tế giúp Việt Nam bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo vệ chủ quyền quốc gia.
+ Việt Nam cùng các quốc gia khác phối hợp giải quyết các vấn đề chung như tình trạng khan hiếm nguồn năng lượng, cạn kiệt tài nguyên, môi trường tự nhiên bị huỷ hoại, …
- Những thách thức:
+ Tạo nên cuộc cạnh tranh cam go và phức tạp giữa các nước trên thế giới, nguy cơ mất độc lập tự chủ về kinh tế và nguy cơ tụt hậu trong cuộc cạnh tranh quốc tế.
+ Tạo sức ép rất lớn đối với các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp quốc doanh, các doanh nghiệp vừa và nhỏ; gia tăng khoảng cách giàu - nghèo; làm cho nền kinh tế có thể rơi vào trạng thái mất cân đối.
Ngày 7/11/2006, lễ kết nạp Việt Nam gia nhập WTO được tổ chức tại trụ sở WTO ở Geneva, Thụy Sĩ. Sau đó, kể từ ngày 11/1/2007, Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại lớn nhất thế giới này.
- Sự kiện lớn nói trên đã để lại nhiều dấu ấn tích cực trên hành trình đổi mới và hội nhập quốc tế của Việt Nam: Dấu ấn sâu đậm nhất của việc tham gia WTO và hội nhập quốc tế đối với Việt Nam là góp phần đổi mới tư duy chính sách, hoàn thiện chuẩn mực quản lý nhà nước, quản trị doanh nghiệp, định hình khung khổ pháp lý và các chuẩn mực phát triển các thể chế kinh tế-thương mại, tạo cơ sở pháp lý vững chắc làm cầu nối và xung lực tích cực để đất nước từng bước mở cửa, mở rộng quy mô thị trường hàng hóa và dịch vụ, cải thiên cơ cấu và nâng cao hiệu quả hoạt động thương mại quốc tế theo các thỏa thuận đa phương và song phương đã cam kết.
2. Chủ trương, chính sách và một số biện pháp, chính sách nhằm giải quyết các vấn đề liên quan đến kinh tế, văn hóa, xã hội trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
Câu hỏi trang 34 Chuyên đề Kinh tế Pháp luật 12: Dựa vào thông tin trong bài, em hãy: Phân tích và làm rõ chủ trương, chính sách về hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng và Nhà nước.
Lời giải:
- Chủ trương, chính sách về hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng và Nhà nước:
+ Hội nhập kinh tế quốc tế là do yêu cầu nội sinh, do yêu cầu xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
+ Hội nhập kinh tế quốc tế là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị.
+ Hội nhập kinh tế quốc tế phải gắn liền với việc giữ vững độc lập dân tộc và chủ quyền đất nước.
+ Chủ động hội nhập, dựa vào nguồn lực trong nước là chính, đi đôi với tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài.
+ Điều chỉnh cơ cấu thị trường, xây dựng đồng bộ thị trường trong nước (thị trường hàng hoa, thị trường nhân lực, thị trường tiền tệ, thị trường bất động sản) để đủ sức hội nhập với khu vực và hội nhập toàn cầu, xử lí đúng đắn lợi ích giữa nước ta và các đối tác.
+ Xây dựng các doanh nghiệp vững mạnh, là đội quân xung kích vô cùng quan trọng trong quá trình hội nhập kinh tế.
+ Chủ động tham gia cộng đồng thương mại thế giới, tích cực tham gia đàm phán thương mại, tham gia các diễn đàn, các tổ chức, các hiệp định, định chế quốc tế một cách chọn lọc với những bước đi tỉnh táo và thích hợp.
Câu hỏi trang 34 Chuyên đề Kinh tế Pháp luật 12: Dựa vào thông tin trong bài, em hãy: Cho biết các biện pháp, chính sách được để cập nhằm giải quyết vấn đề liên quan đến kinh tế, văn hoá, xã hội trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Hãy cho chính sách khác của Việt Nam mà em biết.
Lời giải:
Các biện pháp, chính sách nhằm giải quyết vấn đề liên quan đến kinh tế, văn hoá, xã hội trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam:
+ Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò của các cơ quan quản lí nhà nước trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
+ Chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
+ Rà soát, củng cố, hoàn thiện một cách căn bản thể chế thực thi và giám sát thực hiện các nghị quyết, chủ trương liên quan đến hội nhập kinh tế quốc tế.
+ Chủ động và tích cực hơn trong việc tham gia các thể chế đa phương, lựa chọn đối tác và xây dựng phương án đàm phán với từng đối tác.
+ Có chính sách phát triển, chuyển dịch cơ cấu kinh tế hợp lí.
+ Gắn hội nhập kinh tế quốc tế với củng cố an ninh quốc phòng.
+ Tạo điều kiện, hỗ trợ phát triển doanh nghiệp Việt Nam lớn mạnh, trở thành nòng cốt của kinh tế đất nước.
3. Những thành tựu và hạn chế trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam
Câu hỏi trang 36 Chuyên đề Kinh tế Pháp luật 12: Dựa vào thông tin trong bài, em hãy: Nêu những kết quả đạt được về hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Từ đó, cho biết những mặt tích cực mà hội nhập kinh tế quốc tế đã tác động đến kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội của đất nước.
Lời giải:
Thành tựu của Việt Nam:
- Về quan hệ đối ngoại:
+ Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 189/193 quốc gia thành viên Liên hợp quốc. Đảng Cộng sản Việt Nam đã thiết lập quan hệ với 247 chính đảng ở 111 quốc gia, Quốc hội Việt Nam có quan hệ với Quốc hội, Nghị viện của hơn 140 nước.
+ Việt Nam là thành viên tích cực và có trách nhiệm của hơn 70 tổ chức, diễn đàn quốc tế quan trọng như Liên hợp quốc, ASEAN, APEC, ASEM, WTO, ...
- Về kinh tế:
+ Việt Nam có hơn 500 hiệp định song phương và đa phương trên nhiều lĩnh vực. Trong đó, Việt Nam tham gia vào 17 hiệp định thương mại tự do (FTA); thiết lập quan hệ kinh tế với khoảng 230 nước và vùng lãnh thổ, cũng như là đối tác chiến lược của 17 quốc gia (trong đó có 4 đối tác chiến lược toàn diện, 13 đối tác toàn diện), ...
+ Một số hiệp định thương mại song phương của Việt Nam với các quốc gia trên thế giới được kí kết, như: Hiệp định Đối tác kinh tế Việt Nam - Nhật Bản (VJEPA, năm 2009), Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Chile (VCFTA, năm 2011), Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Hàn Quốc (VKFTA, năm 2015), Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Liên minh Kinh tế Á - Âu (EAEU, năm 2016).
+ Việt Nam tiếp tục được thúc đẩy thông qua việc hình thành Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) vào cuối năm 2015, CPTPP (năm 2016), EVFTA (năm 2020), Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP, năm 2020), Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam, Anh và Bắc Ireland (UKVFTA, năm 2020).
+ Đến đầu năm 2022, Việt Nam đã tham gia và đang đàm phán 17 FTA, trong đó, có 15 FTA có hiệu lực và đang thực thi cam kết, 2 FTA đang đàm phán (FTA giữa Việt Nam và Khối thương mại tự do châu Âu (EFTA FTA), FTA Việt Nam - Israel).
- Về chính trị:
+ Việt Nam đã trở thành quốc gia tích cực đóng góp xây dựng, định hình các thể chế đa phương, sẵn sàng đóng góp có trách nhiệm vào công việc của thế giới với vị thế ngày càng cao, góp phần gìn giữ môi trường hoà bình, ổn định để phát triển đất nước; nâng cao uy tín và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
+ Việt Nam tổ chức thành công nhiều hội nghị quốc tế lớn và hoàn thành nhiều trọng trách quốc tế quan trọng với tư cách Uỷ viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, Chủ tịch luân phiên ASEAN, chủ nhà Hội nghị cấp cao ASEM, Hội nghị thượng đỉnh APEC, Diễn đàn Kinh tế thế giới về ASEAN, ...
+ Hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách tiếp tục được bổ sung, hoàn thiện phù hợp với yêu cầu xây dựng nền kinh tế thị trường hiện đại, định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Về văn hoá - xã hội:
+ Giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ đạt nhiều thành tựu, tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
+ Khoa học và công nghệ từng bước khẳng định vai trò là động lực trong phát triển kinh tế - xã hội.
Câu hỏi trang 36 Chuyên đề Kinh tế Pháp luật 12: Dựa vào thông tin trong bài, em hãy: Cho biết Việt Nam có những hạn chế nào khi hội nhập kinh tế quốc tế. Em hãy lấy ví dụ làm rõ những hạn chế đối với Việt Nam.
Lời giải:
+ Gia tăng sự cạnh tranh: Việt Nam phải đối mặt với sự cạnh tranh từ các doanh nghiệp nước ngoài. Ví dụ, sau khi Việt Nam gia nhập WTO, nhiều doanh nghiệp trong lĩnh vực bán lẻ như Big C, Metro, Lotte đã mở rộng hoạt động tại Việt Nam, tạo ra sự cạnh tranh lớn với các doanh nghiệp trong nước.
+ Gia tăng sự phụ thuộc vào thị trường bên ngoài: Việt Nam có thể trở nên phụ thuộc vào thị trường xuất khẩu và nguồn cung cấp nguyên liệu từ nước ngoài. Ví dụ, nền kinh tế Việt Nam đã bị ảnh hưởng nặng nề bởi cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008-2009.
+ Gia tăng khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội: Hội nhập quốc tế có thể tạo ra sự phân hóa về thu nhập và tài sản. Ví dụ, trong quá trình đổi mới và hội nhập, Việt Nam đã ghi nhận sự gia tăng của khoảng cách giàu nghèo, đặc biệt là giữa đô thị và nông thôn.
+ Gia tăng nguy cơ bản sắc văn hóa dân tộc bị ảnh hưởng, xói mòn: Việt Nam cần bảo vệ và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Ví dụ, sự lan rộng của văn hóa tiêu dùng hiện đại có thể ảnh hưởng đến các giá trị văn hóa truyền thống của Việt Nam.
+ Gia tăng thách thức về an ninh quốc gia: Việt Nam cần đảm bảo an ninh quốc gia trong quá trình hội nhập quốc tế. Ví dụ, việc mở cửa thị trường có thể tạo ra các rủi ro về an ninh lương thực, an ninh năng lượng, và an ninh thông tin.
4. Công dân toàn cầu và các vấn đề hợp tác quốc tế, giải quyết xung đột quốc tế về kinh tế trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế
Câu hỏi trang 38 Chuyên đề Kinh tế Pháp luật 12: Dựa vào thông tin trong bài, em hãy: Xác định những yêu cầu cụ thể và cho ví dụ minh hoạ về kiến thức, kĩ năng, thái độ cần rèn luyện để trở thành công dân toàn cầu
Lời giải:
- Những yêu cầu cụ thể để trở thành công dân toàn cầu:
+ Về kiến thức: Hiểu biết về các hoạt động của thế giới; Nhận thức về thế giới rộng lớn; Hiểu biết về sự đa dạng các giá trị văn hoá.
+ Về kĩ năng: Nhận thức về vai trò của mình như một công dân thế giới; Cần có tư duy phê phán/ giải quyết vấn đề không những trong bối cảnh quốc gia mà còn trong vấn đề mang tính toàn cầu; Khả năng giao tiếp và cộng tác với người khác trên phương diện quốc gia sinh sống, cũng như ở quốc gia khác; Giải quyết xung đột, dung hoà lợi ích giữa các phía.
+ Về thái độ: Tôn trọng sự đa dạng các giá trị văn hoá; Chịu trách nhiệm về hành vi của mình; Có trách nhiệm tham gia các hoạt động vì cộng đồng; Sẵn sàng hành động cùng người khác để làm cho thế giới công bằng và bền vững hơn.
Câu hỏi trang 39 Chuyên đề Kinh tế Pháp luật 12: Dựa vào thông tin trong bài, em hãy: Cho biết các nguyên tắc giải quyết các xung đột quốc tế về kinh tế. Lấy ví dụ làm rõ cách giải quyết các xung đột quốc tế về kinh tế đó.
Lời giải:
- Các nguyên tắc giải quyết các xung đột quốc tế về kinh tế:
+ Ứng phó và xử lí thích hợp đối với thực tiễn quan hệ quốc tế về kinh tế.
+ Đề xuất huỷ bỏ điều khoản xung đột hoặc yêu cầu chấm dứt hiệu lực điều ước quốc tế song phương về tự do thương mại.
+ Vận dụng các quy định về hiệu lực của điều ước quốc tế trong kí kết và thực hiện điều ước quốc tế theo quy định của Công ước Viên về Luật Điều ước quốc tế năm 1969.
+ Kết hợp đàm phán chính trị và ngoại giao để giải quyết.
- Ví dụ về cáo buộc bán phá giá của một số quốc gia với Việt Nam và cách giải quyết của Việt Nam như giải quyết ở cấp độ song phương, tiến hành khiếu nại 5 biện pháp phòng vệ thương mại của nước ngoài ra cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO.
Luyện tập
Luyện tập 1 trang 42 Chuyên đề Kinh tế Pháp luật 12: Em hãy bình luận về các nhận định sau:
a. Khi hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam có cơ hội khai thác tối ưu lợi thế quốc gia trong phân công lao động quốc tế.
b. Hội nhập kinh tế quốc tế giúp doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận với thị trường quốc tế, nâng cao năng lực cạnh tranh.
c. Sự xâm nhập của văn hoá nước ngoài vào Việt Nam sẽ làm giàu đẹp hơn văn hoá dân tộc ở mọi góc độ.
d. Hội nhập kinh tế là trọng tâm, hội nhập trong các lĩnh vực khác phải tạo thuận lợi cho hội nhập kinh tế.
e. Trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế, xung đột về kinh tế là không thể tránh khỏi, nhưng đây vừa là cơ hội, vừa là thách thức để các quốc gia cùng nhau trao đổi và thống nhất cách giải quyết những vấn đề toàn cầu.
Lời giải:
- Đồng tình với nhận định a vì hội nhập kinh tế quốc tế là mở rộng thị trường cho các quốc gia, vì vậy khi Việt nam gia nhập các tổ chức quốc tế sẽ mở rộng quan hệ bạn hàng. Việt Nam sẽ tập trung sản xuất và cung cấp một số sản phẩm, dịch vụ nhất định dựa trên ưu thế của đất nước về trình độ khoa học - công nghệ, điều kiện tự nhiên, ... để đáp ứng nhu cầu của quốc gia thông qua trao đổi quốc tế. Ví dụ Việt Nam là thành viên của nhiều chuỗi cung ứng toàn cầu như Samsung, Apple, ... khi tham gia vào phân công lao động quốc tế, như vậy, Việt Nam giữ vai trò là nước tham gia vào chuỗi gia công, lắp ráp (đây là ưu thế trong lao động của quốc gia khi Việt Nam có nguồn nhân lực trẻ, tay nghề cao và số lượng lớn) trong sự phân công lao động quốc tế này.
- Đồng tình với nhận định b vì hội nhập kinh tế quốc tế tạo điều kiện cho Việt Nam xuất khẩu các mặt hàng có lợi thế cạnh tranh, tiếp cận với thị trường quốc tế và học hỏi, tiếp thu khoa học - công nghệ, vốn, kinh nghiệm quản lí của các quốc gia khác để cải thiện chất lượng mặt hàng xuất khẩu của nước mình, nâng cao năng lực cạnh tranh.
- Không đồng tình với nhận định c vì bên cạnh những tác động tích cực (làm đa dạng, giàu đẹp) cho nền văn hoa nước nhà, hội nhập kinh tế quốc tế sẽ có mặt trái là tiềm ẩn nguy cơ xâm lấn của văn hoá ngoại lai nếu chúng ta không tiếp thu có chọn lọc.
- Đồng tình với nhận định d vì hội nhập kinh tế là trọng tâm, là một trong những động lực quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội, nhờ đó các lĩnh vực khác mới có cơ hội để phát triển. Hội nhập kinh tế quốc tế làm tăng sức mạnh tổng hợp của quốc gia, từng bước đưa Việt Nam khẳng định được vị thế trên trường quốc tế, vì vậy hội nhập trong các lĩnh vực khác phải tạo thuận lợi cho hội nhập kinh tế.
- Đồng tình với nhận định e vì trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế, mỗi quốc gia sẽ có những nhu cầu về lợi ích riêng, vì vậy không tránh khỏi việc xung đột về kinh tế giữa các quốc gia. Đây chính là tiền đề để các quốc gia thực hiện việc kí kết hoặc gia nhập các điều ước quốc tế nhằm tạo ra những cơ hội trong qua trình hợp tác quốc tế và cùng nhau giải quyết các xung đột quốc tế theo nguyên tắc thích hợp tuỳ tình hình thực tiễn.
Luyện tập 2 trang 42 Chuyên đề Kinh tế Pháp luật 12: Em hãy tìm hiểu những cơ hội và thách thức ở địa phương khi hội nhập kinh tế quốc tế. Từ đó, cho biết những cơ hội và thách thức đối với bản thân và người lao động tại địa phương em.
Lời giải:
♦ Đối với địa phương:
- Cơ hội:
+ Thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
+ Tạo công ăn việc làm cho người lao động.
+ Nâng cao đời sống cho nhân dân.
+ Góp phần thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế.
- Thách thức:
+ Tạo ra sự phân hoá giàu + nghèo.
+ Gia tăng vấn đề ô nhiễm môi trường.
+ Tác động tiêu cực đến văn hoá, đạo đức, lối sống.
♦ Đối với người lao động
- Cơ hội:
+ Có nhiều lựa chọn việc làm.
+ Góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của bản thân và gia đình.
+ Có điều kiện học hỏi, trau dồi chuyên môn và ngoại ngữ, kĩ năng mềm.
- Thách thức: Cạnh tranh với nguồn lao động chất lượng từ các địa phương khác đến.
♦ Đối với bản thân em
- Cơ hội:
+ Định hướng được công việc yêu thích trong tương lai.
+ Được tiếp cận với sự tiến bộ về khoa học + kĩ thuật từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường.
- Thách thức:
+ Cần tự tin, năng động, chủ động trong việc tìm kiếm cơ hội và thực hành trong thực tế.
+ Cập nhật kịp thời những yêu cầu về việc làm từ thị trường quốc tế.
Luyện tập 3 trang 42 Chuyên đề Kinh tế Pháp luật 12: Em hãy thực hiện bài thuyết trình về những thành tựu của hội nhập kinh tế quốc tế ở địa phương.
Lời giải:
(*) Tham khảo: Những thành tựu kinh tế đối ngoại của Hà Nội
Trên cơ sở tư duy kinh tế đổi mới, đặc biệt sau khi có Luật Đầu tư nước ngoài, nhiều doanh nghiệp nước ngoài đã tìm kiếm cơ hội và kinh doanh tại Hà Nội. Năm 1989, Hà Nội thu hút được 4 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) với tổng kinh phí đầu tư đăng ký là 48 triệu USD (4). Đây là những dự án FDI đầu tiên được cấp phép trên địa bàn Hà Nội. Trong ba năm tiếp theo (1990 - 1992), Hà Nội thu hút 47 dự án với tổng số vốn FDI là 722 triệu USD, tăng gần 12 lần về số lượng dự án và 15 lần về số vốn đầu tư so với năm 1989. Mặc dù khởi đầu khiêm tốn nhưng những dự án FDI đầu tiên vào Hà Nội có ý nghĩa quan trọng, hình thành một kênh huy động vốn mới cho kinh tế Thủ đô. Từ năm 1986 đến năm 2021, tổng hợp báo cáo của Sở Kế hoạch và đầu tư thành phố Hà Nội cho biết, số lượng dự án FDI của Hà Nội ngày càng tăng nhanh, với sự xuất hiện của nhiều dự án có quy mô lớn. Cụ thể trong vòng 10 năm, từ năm 2000 đến năm 2009, số lượng dự án FDI vào Hà Nội đã tăng lên 7 lần, từ 41 dự án lên 275 dự án/năm. Từ năm 2010 đến năm 2019, vốn FDI vào Hà Nội duy trì được tốc độ tăng trưởng, cả về số lượng dự án đăng ký mới lẫn số vốn đăng ký và số vốn thực hiện hằng năm. Đến nay, mặc dù trong bối cảnh dịch bệnh COVID-19, song Hà Nội vẫn là một trong những địa phương thu hút FDI nhiều nhất cả nước. Tính đến đầu năm 2021, trên địa bàn thành phố có hơn 6.300 dự án FDI còn hiệu lực, với tổng số vốn đăng ký hơn 46,8 tỷ USD.
Một bộ phận khác của kinh tế đối ngoại là viện trợ phát triển chính thức (ODA) của Hà Nội cũng không ngừng tăng cả về số lượng và quy mô. Từ năm 1993, Hà Nội nhận được sự hợp tác tài trợ của các tổ chức quốc tế, của nhân dân và chính phủ các nước đang phát triển. Hầu hết các dự án ODA có quy mô lớn được đầu tư cho kết cấu hạ tầng, như hệ thống giao thông đô thị, môi trường, cấp và thoát nước…, góp phần quan trọng thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Hiện nay, Nhật Bản là quốc gia cung cấp vốn ODA cho thành phố Hà Nội với quy mô lớn nhất với tổng số tiền cam kết khoảng 2,6 tỷ USD, chiếm 56,4% tổng vốn ODA.
Cùng với thu hút vốn đầu tư, hoạt động xuất nhập khẩu của Hà Nội cũng thu được nhiều thành tựu quan trọng. Hoạt động xuất nhập khẩu từ chỗ chỉ gói gọn trong thị trường các nước xã hội chủ nghĩa với sự độc quyền của nhà nước đã vươn sang các thị trường khác; sản phẩm xuất khẩu ngày càng có chất lượng, kim ngạch xuất khẩu ngày càng tăng; thành phần tham gia xuất khẩu đa dạng. Kim ngạch xuất nhập khẩu của thành phố Hà Nội giai đoạn 2008 - 2012 đạt bình quân 8.390 triệu USD/năm, tăng trưởng bình quân 15,25%/năm. Từ năm 2016 - 2020, kim ngạch xuất khẩu của Hà Nội đạt trung bình 11,52%/năm. Theo báo cáo của Sở Công Thương Hà Nội, hoạt động xuất - nhập khẩu của thành phố Hà Nội trong nửa đầu năm 2022 đạt kết quả tích cực. Tính chung 8 tháng năm 2022, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa ước tính đạt 27,7 tỷ USD, tăng 42,2% so với cùng kỳ năm 2021, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 22,5 tỷ USD, tăng 48%; khu vực có FDI đạt 5,2 tỷ USD, tăng 21,6%. Một số nhóm hàng có giá trị nhập khẩu lớn như: Máy móc thiết bị, phụ tùng đạt 4.349 triệu USD, tăng 14,9%; máy vi tính, hàng điện tử và linh kiện đạt 1.921 triệu USD, tăng 37,8%; phương tiện vận tải và phụ tùng đạt 1.709 triệu USD, tăng 8,2%; sắt thép đạt 1.433 triệu USD, tăng 63,8%; chất dẻo đạt 1.028 triệu USD, tăng 23,7%; sản phẩm hóa chất đạt 903 triệu USD, tăng 44,7%; hàng hóa khác đạt 8.763 triệu USD, tăng 48,7% (5). Trong khi đó, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa ước tính đạt 11,1 tỷ USD, tăng 32,4% so với cùng kỳ năm 2021, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 6,1 tỷ USD, tăng 30,5%; khu vực có FDI đạt 5 tỷ USD, tăng 34,7%. Một số nhóm hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn trong 8 tháng năm 2022 tăng so với cùng kỳ, như: Hàng dệt, may đạt 1.701 triệu USD, tăng 47,6%; máy vi tính, hàng điện tử và linh kiện đạt 1.471 triệu USD, tăng 42,9%; máy móc, thiết bị phụ tùng đạt 1.312 triệu USD, tăng 14,8%; phương tiện vận tải và phụ tùng đạt 968 triệu USD, tăng 5,6%; gỗ và sản phẩm từ gỗ đạt 592 triệu USD, tăng 45,9%; hàng nông sản đạt 542 triệu USD, tăng 24%; hàng hóa khác đạt 2.884 triệu USD, tăng 32,2%. Riêng nhóm hàng điện thoại và linh kiện đạt 88 triệu USD, giảm 57% (6).
Với gần 6.000 di tích, hơn 1.350 làng nghề, Hà Nội hội tụ nhiều tiềm năng để phát triển du lịch văn hóa, du lịch làng nghề, du lịch tâm linh. Cùng với đó, vùng ngoại thành với nhiều nguồn tài nguyên tự nhiên phong phú, phù hợp để Hà Nội phát triển loại hình du lịch giải trí, du lịch thể thao, du lịch sinh thái, du lịch nông nghiệp... Trong những năm đầu thực hiện đổi mới, ngành du lịch Hà Nội còn gặp nhiều khó khăn. Song, với sự tích cực, chủ động của Thành ủy và Ủy ban nhân dân thành phố, du lịch Hà Nội từng bước vươn lên trở thành một trong những thế mạnh, không chỉ đóng góp nguồn lợi đáng kể vào ngân sách Thủ đô mà còn giữ vai trò quan trọng đối với sự phát triển của ngành du lịch Việt Nam. Hà Nội hiện là thành viên Hội đồng xúc tiến du lịch châu Á (CPTA), Tổ chức xúc tiến du lịch các thành phố châu Á - Thái Bình Dương (TPO)… Số lượng khách du lịch quốc tế đến Hà Nội tăng đều hằng năm. Từ năm 1990 - 2000 tăng khoảng 20% - 30%/năm, chiếm 30% thị phần khách quốc tế đến Việt Nam. Tốc độ tăng trưởng khách quốc tế trong giai đoạn 2000 - 2010 bình quân tăng 11,8%/năm. Hiện nay, trên địa bàn Hà Nội có 3.725 cơ sở lưu trú du lịch với hơn 70.000 phòng, trong đó có 591 khách sạn đã được xếp hạng từ 1 đến 5 sao với 24.415 phòng, chiếm 15,9% tổng số cơ sở lưu trú du lịch trên địa bàn.
Năm 2009, Thủ đô Hà Nội được Tổ chức Giáo dục, Khoa học, Văn hóa Liên hợp quốc (UNESCO) vinh danh là “Thành phố vì hòa bình”. Từ đó, Hà Nội trở thành một trong những trung tâm kết nối giá trị toàn cầu, nơi trao đổi các sáng kiến khu vực và quốc tế, vì nền hòa bình, ổn định và phát triển. Quan hệ giữa Thủ đô với các nước láng giềng, khu vực và trên thế giới ngày càng được củng cố và mở rộng. Năm 2019, Hà Nội chính thức gia nhập Mạng lưới các thành phố sáng tạo của UNESCO. Đến nay, Hà Nội đã có quan hệ hữu nghị, hợp tác với hơn 100 thủ đô, thành phố lớn trên thế giới, thành viên của các tổ chức liên đô thị quốc tế.
Luyện tập 4 trang 42 Chuyên đề Kinh tế Pháp luật 12: Em hãy xử lý tình huống sau:
Bạn A chia sẻ ý kiến rằng: “Chat GPT xuất hiện đã làm thay đổi cục diện của nền kinh tế thế giới. Hiện nay, nếu không tìm hiểu và học cách sử dụng Chat GPT đúng cách, con người sẽ dần dần bị Chat GPT thay thế. Chat GPT có thể giúp thúc đẩy vẫn để hợp tác quốc tế về khoa học và công nghệ, giáo dục, xã hội,... giữa các quốc gia, góp phần đưa ra cách giải quyết xung đột quốc tế về kinh tế trong bối cảnh toàn cầu hoá và những ai làm chủ được Chat GPT sẽ hội nhập kinh tế quốc tế một cách dễ dàng. Ngoài ra, Chất GPT còn là hình mẫu của một người công dân toàn cầu mà ai cũng khao khát hướng đến bởi sự hiểu biết “khổng lồ” và các tính năng “ưu việt” mà nó mang đến”.
Em có đồng tình với ý kiến của bạn A không? Vì sao?
Lời giải:
- Không đồng tình với ý kiến của bạn A. ChatGPT mang lại nhiều điểm ưu việt như thúc đẩy vấn đề hợp tác quốc tế về khoa học và công nghệ, giáo dục, xã hội, ... giữa các quốc gia, góp phần đưa ra cách giải quyết xung đột quốc tế về kinh tế trong bối cảnh toàn cầu hoá. Tuy nhiên, hình mẫu của một người công dân toàn cầu không chỉ là về kiến thức mà còn đòi hỏi cả về kĩ năng và thái độ khi tham gia giải quyết những vấn đề toàn cầu.
Vận dụng
Vận dụng trang 42 Chuyên đề Kinh tế Pháp luật 12: Em hãy lựa chọn và thực hiện bài thuyết trình về những cơ hội và thách thức khi Việt Nam ký kết một hiệp định kinh tế.
Lời giải:
(*) Tham khảo: Cơ hội và thách thức của Việt Nam khi tham gia Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP)
► Vài nét khái quát về CPTPP
Sau khi Mỹ tuyên bố rút khỏi Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) vào tháng 01-2017, các nước thành viên còn lại (TPP-11) thành lập Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) vào tháng 11-2017.
Mặc dù Mỹ - đối tác thương mại lớn nhất, quan trọng nhất không tham gia, song CPTPP vẫn là một trong những khối thương mại lớn nhất thế giới, bao gồm cả 3 châu lục: châu Á, châu Mỹ và châu Đại Dương với thị trường khoảng 500 triệu dân, chiếm khoảng 13,5% GDP và hơn 15% tổng thương mại toàn cầu.
► Cơ hội đối với Việt Nam
Dù Mỹ không tham gia CPTPP, nhưng với thị trường khoảng 500 triệu dân, quy mô kinh tế của nhiều nền kinh tế trong CPTPP tương đối lớn, đem lại lợi ích rõ rệt đối với Việt Nam.
Thứ nhất, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Theo đánh giá của Viện Nghiên cứu kinh tế quốc tế Peterson, CPTPP giúp Việt Nam tăng thêm hơn 2% GDP vào năm 2030(1), thậm chí, tăng trưởng có thể lên tới 3,5% GDP nếu có kích thích tăng năng suất. Ngoài tác động tích cực tới tăng trưởng kinh tế, CPTPP có vai trò quan trọng trong việc chống lại chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch đang cản trở tăng trưởng thương mại toàn cầu, đặc biệt trong bối cảnh cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung Quốc đang leo thang và có nguy cơ lan rộng
Ngoài ra, Việt Nam còn được tiếp cận những thị trường tốt hơn với thuế suất thấp hơn và những thị trường mà hiện Việt Nam chưa ký kết hiệp định tự do thương mại, như Ca-na-đa, Mê-hi-cô, Chi-lê và Pê-ru. Hiệp định sẽ bổ sung động lực cho mô hình tăng trưởng dựa trên đầu tư và xuất khẩu của Việt Nam.
Thứ hai, CPTPP sẽ tạo cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường thế giới.
Là một nền kinh tế mở với quy mô xuất, nhập khẩu cao, việc ký kết CPTPP với các thị trường lớn, như Nhật Bản, Ca-na-đa, Ô-xtrây-li-a, Niu Di-lân, Mê-hi-cô... cùng với lộ trình giảm thuế xuất khẩu xuống còn 0% - 5% giúp các doanh nghiệp Việt Nam nâng cao năng lực cạnh tranh về giá cả sản phẩm. Việc giảm thuế sang các quốc gia nhập khẩu giúp các doanh nghiệp Việt Nam có thêm cơ hội mới để mở rộng việc cung cấp các sản phẩm vào thị trường các quốc gia thành viên. Giảm thuế nhập khẩu cho sản phẩm khi về Việt Nam cũng sẽ giúp các doanh nghiệp Việt Nam có thêm chủng loại hàng hóa mới để mở rộng quy mô hàng hóa cho hoạt động sản xuất, kinh doanh. Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương tạo ra một “sân chơi” công bằng, minh bạch, là cơ sở, nền tảng để các doanh nghiệp có định hướng phát triển bền vững. Tham gia CPTPP là cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam nâng cao năng lực cạnh tranh, cải thiện chất lượng hàng hóa, dịch vụ và phát triển sản xuất, bắt kịp xu hướng phát triển của thế giới, từ đó tham gia hiệu quả hơn vào chuỗi cung ứng toàn cầu.
Thứ ba, CPTPP tạo cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam thu hút mạnh mẽ vốn đầu tư nước ngoài cũng như khả năng tiếp cận công nghệ hiện đại.
Quá trình tự do hóa thương mại và hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng và CPTPP sẽ giúp Việt Nam trở thành một trong những địa chỉ hấp dẫn về đầu tư, từ đó các doanh nghiệp có thể thu hút được dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) với giá trị lớn hơn, có được kinh nghiệm quản lý điều hành và nhận chuyển giao công nghệ hiện đại từ các tập đoàn lớn nước ngoài. Tham gia CPTPP giúp các doanh nghiệp Việt Nam có thể tham gia chuỗi giá trị ở khu vực và trong khối, từ đó hạn chế sự phụ thuộc vào một khu vực hay một thị trường.
Đầu tư nước ngoài sẽ chảy vào nền kinh tế Việt Nam nhiều hơn, dẫn tới việc xây mới hoặc thuê các khu công nghiệp để phục vụ sản xuất. Nhờ sự vận động này, nhóm doanh nghiệp kinh doanh kết cấu hạ tầng sẽ có đà phát triển trong trung và dài hạn. Doanh nghiệp FDI đầu tư vào Việt Nam giúp thay đổi ngành công nghiệp hỗ trợ và Việt Nam sẽ thu hút các doanh nghiệp FDI ngành công nghiệp hỗ trợ chứ không phải là đơn thuần lắp ráp. Các doanh nghiệp FDI sản xuất linh phụ kiện ngay tại Việt Nam, đáp ứng được yếu tố “nguồn gốc xuất xứ” giúp giảm thâm hụt thương mại với Trung Quốc.
Đầu tư tăng làm cho xuất khẩu ít phụ thuộc vào nguyên liệu nhập khẩu hơn, thay vào đó sẽ dựa nhiều hơn vào chuỗi cung ứng trong nước để khắc phục các hạn chế của quy tắc xuất xứ. Tăng trưởng đầu tư nước ngoài kéo theo tăng trưởng ngành dịch vụ và tăng năng suất lao động. Các doanh nghiệp tư nhân trong nước sẽ có thêm cơ hội tham gia chuỗi giá trị toàn cầu, nhờ vậy khuyến khích phát triển khu vực doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương tạo thuận lợi cho hoạt động đầu tư qua biên giới, do vậy khi Hiệp định có hiệu lực thì Việt Nam có điều kiện tốt hơn để thu hút FDI từ các nước thành viên khác vì thương mại gắn liền với đầu tư, nhất là với các nước mà Việt Nam chưa có thỏa thuận thương mại tự do, như Ca-na-đa, Mê-hi-cô...
Thứ tư, cơ hội mở rộng thị trường xuất khẩu.
Tham gia CPTPP giúp Việt Nam đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, từ đó thúc đẩy tăng trưởng nhiều ngành sản xuất trong nước. Dệt may và da giày được cho là những ngành sẽ hưởng lợi nhiều nhất về tăng thêm quy mô sản xuất cũng như giá trị xuất khẩu. Tốc độ xuất khẩu tăng thêm của dệt may sẽ ở mức cao, từ 8,3% đến 10,8% bởi đây là ngành có sức cạnh tranh về giá lớn hơn ở các thị trường mới trong CPTPP, trong khi vẫn giữ được các thị trường chủ lực là Mỹ và Liên minh châu Âu (EU). Tham gia CPTPP sẽ là cơ hội lớn để ngành dệt may Việt Nam đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường các nước nội khối, nhất là những thị trường tiềm năng, như Ô-xtrây-li-a và Ca-na-đa - hai thị trường có mức tiêu thụ khoảng 10 tỷ USD/năm trong khi thị phần xuất khẩu dệt may Việt Nam vào các thị trường này còn nhỏ, chỉ khoảng 500 triệu USD. Vì vậy, dung lượng mở rộng thị phần rất lớn, đóng góp vào mục tiêu tăng trưởng hơn 10% của ngành dệt may.
Các doanh nghiệp Việt Nam khi xuất khẩu hàng hóa sang thị trường của các nước thành viên CPTPP sẽ được hưởng những cam kết cắt giảm thuế từ hơn 90%, thậm chí lên đến 95%. Lợi ích từ CPTPP không chỉ là tăng xuất khẩu mà còn bao gồm tăng hàm lượng công nghệ của hàng xuất khẩu, góp phần thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa sang các thị trường lớn, như Nhật Bản, Ca-na-đa, Ô-xtrây-li-a và Mê-hi-cô.
Thứ năm, góp phần xóa đói, giảm nghèo và tạo thêm nhiều việc làm.
Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và nhiều lợi ích xã hội, tạo ra khoảng 17.000 - 27.000 việc làm từ năm 2020. Tham gia CPTPP không chỉ tạo thêm số lượng việc làm mà còn hứa hẹn sẽ đem lại điều kiện làm việc, mức lương tốt hơn cho người lao động. Mặc dù mức việc làm tạo ra chỉ bằng 1/2 so với TPP, nhưng CPTPP tạo cơ hội mới cho cả người lao động và doanh nghiệp, góp phần nâng cao mức sống của người lao động, giảm nghèo, thúc đẩy tăng trưởng bền vững. Theo Ngân hàng Thế giới (WB), CPTPP giúp Việt Nam giảm được gần 1 triệu người thuộc diện đói nghèo.
Thứ sáu, tạo động lực để Việt Nam đẩy mạnh cải cách thể chế.
Bên cạnh việc tận dụng cơ hội CPTPP mang lại về ưu đãi thuế, CPTPP còn tạo áp lực thúc đẩy cải cách thể chế để mở rộng thị trường, tạo môi trường đầu tư, kinh doanh thông thoáng, minh bạch. Cải cách thể chế sẽ mang lại nhiều lợi ích cho Việt Nam nên vừa là nhu cầu, vừa là yêu cầu bắt buộc khi Việt Nam tham gia “sân chơi chung”. Việt Nam phải duy trì được đà cải cách liên tục và có chất lượng sau khi gia nhập CPTPP. Nếu cải cách thể chế có tính thụ động và thiếu sự tích cực, xuyên suốt tới các cấp cơ sở thì chắc chắn thách thức sẽ nhiều hơn cơ hội mà CPTPP mang lại.
► Một số thách thức từ CPTTP
Bên cạnh những thuận lợi, CPTPP cũng đặt ra nhiều thách thức cho Việt Nam bởi nhiều điều khoản có lợi cho những nước công nghiệp phát triển hơn là cho các nước đang phát triển như Việt Nam:
Thứ nhất, áp lực cạnh tranh gay gắt từ các doanh nghiệp nước ngoài.
Sự cạnh tranh diễn ra quyết liệt không chỉ ở thị trường các nước tham gia Hiệp định mà ngay tại thị trường Việt Nam trên cả ba cấp độ: sản phẩm, doanh nghiệp và quốc gia.
Các doanh nghiệp nước ngoài, với những thuận lợi về tài chính, trình độ quản trị, chuỗi phân phối toàn cầu sẽ nhanh hơn doanh nghiệp Việt Nam trong việc hưởng lợi từ các ưu đãi thuế quan. Bên cạnh đó, do tiềm lực của các doanh nghiệp Việt Nam yếu, sự liên kết với nhau kém nên sức ép cạnh tranh trên thị trường nước ngoài cũng là thách thức lớn. Việc phải mở cửa cho hàng hóa, dịch vụ của các nước đối tác tại thị trường Việt Nam đồng nghĩa với việc doanh nghiệp Việt Nam phải cạnh tranh gay gắt hơn tại “sân nhà”, điều này sẽ gây nên không ít áp lực cho hàng hóa Việt Nam trong việc cạnh tranh với hàng hóa của các quốc gia khác ngay tại thị trường nội địa. Do khả năng thích nghi của doanh nghiệp Việt Nam với kinh tế thị trường kém nên nguy cơ thất bại của các doanh nghiệp trong nước cũng vì thế gia tăng.
Việc xóa bỏ hàng rào thuế quan sẽ khiến áp lực cạnh tranh giữa các nước thành viên gia tăng, buộc các nước thành viên nói chung và doanh nghiệp nói riêng phải chuyển đổi, cơ cấu lại phù hợp với thông lệ quốc tế. Nếu không làm được những điều này, nhiều doanh nghiệp có thể phải đối mặt với nguy cơ thất bại. Hậu quả là nhiều lao động có thể bị mất việc và sự chênh lệch giàu nghèo gia tăng.
Thứ hai, thách thức về hoàn thiện khung khổ pháp luật, thể chế.
Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương đòi hỏi các quốc gia phải chủ động và linh hoạt trong cải cách thể chế, chuyển đổi cơ cấu kinh tế, điều chỉnh mô hình tăng trưởng; các doanh nghiệp phải nâng cao khả năng cạnh tranh, coi trọng hiệu quả quản lý, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực,... để phát triển sản xuất, kinh doanh.
Để thực thi cam kết trong CPTPP, Việt Nam sẽ phải điều chỉnh, sửa đổi một số quy định pháp luật về thương mại, hải quan, sở hữu trí tuệ, lao động... Tuy nhiên, sức ép thay đổi hệ thống pháp luật để tuân thủ những chuẩn mực mới của Hiệp định sẽ vượt qua được bởi phần lớn những cam kết tuy mới nhưng phù hợp hoàn toàn với đường lối, chủ trương của Đảng cũng như pháp luật của Nhà nước (ví dụ như trong lĩnh vực mua sắm của Chính phủ, bảo vệ môi trường, doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp nhỏ và vừa...) nên sức ép thay đổi hệ thống pháp luật không lớn. Trong khi, cam kết khó nhất, đòi hỏi nguồn lực thực thi lớn (trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ) lại được “tạm hoãn” do Mỹ không tham gia.
Thứ ba, thách thức đáp ứng được các tiêu chuẩn cao của FTA thế hệ mới.
Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương là một FTA thế hệ mới, tiêu chuẩn cao và toàn diện, không chỉ đề cập tới các lĩnh vực truyền thống, như cắt giảm thuế quan đối với hàng hóa, mở cửa thị trường dịch vụ, sở hữu trí tuệ, hàng rào kỹ thuật liên quan đến thương mại... mà còn xử lý những vấn đề mới, phi truyền thống, như lao động, môi trường, mua sắm của chính phủ, doanh nghiệp nhà nước. CPTPP đặt ra các yêu cầu và tiêu chuẩn cao về minh bạch hóa, các quy định về bảo hộ sở hữu trí tuệ, đưa ra cơ chế giải quyết tranh chấp có tính ràng buộc và chặt chẽ, do vậy, tham gia Hiệp định này không tránh khỏi những khó khăn khi phải đáp ứng đầy đủ những chuẩn mực về chất lượng hàng xuất khẩu, cạnh tranh nguồn lao động chất lượng cao... CPTPP đưa ra một số quy định rất khó khăn, đặc biệt quy tắc xuất xứ nguyên liệu đầu vào đối với ngành dệt may (sợi phải được nhập từ các nước thành viên CPTPP).
Thứ tư, thách thức về giảm nguồn thu ngân sách nhà nước.
Việc cắt giảm thuế nhập khẩu theo cam kết sẽ làm giảm doanh thu của nhà nước, tuy nhiên sẽ không tác động đột ngột do trong CPTPP có đến 7/10 nước đã có FTA với Việt Nam; chỉ còn 3 nước là Ca-na-đa, Mê-hi-cô và Pê-ru là chưa có FTA với Việt Nam, nhưng thương mại với 3 nước hiện còn khiêm tốn. Sức ép thương mại song phương với 3 nước không lớn bởi cơ cấu xuất, nhập khẩu của những nước này có tính bổ sung hơn là cạnh tranh đối với cơ cấu xuất, nhập khẩu của Việt Nam và hiện Việt Nam đang xuất siêu sang cả 3 nước.
Thứ năm, thách thức về ổn định lao động - xã hội.
Thách thức liên quan đến sửa đổi luật pháp về quyền thành lập tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp và sự quản lý của Nhà nước để bảo đảm hoạt động của các tổ chức luôn tuân thủ đúng pháp luật Việt Nam, phù hợp với nguyên tắc “tuân thủ pháp luật của nước sở tại”, đồng thời giữ vững ổn định chính trị - xã hội. Cạnh tranh tăng lên khi tham gia CPTPP có thể làm cho một số doanh nghiệp lâm vào tình trạng khó khăn, kéo theo đó là khả năng thất nghiệp trong một bộ phận lao động sẽ xảy ra. Tuy nhiên, do cơ cấu xuất, nhập khẩu của phần lớn các nền kinh tế trong CPTPP không cạnh tranh trực tiếp với Việt Nam, nên tác động này có tính cục bộ, quy mô không đáng kể và chỉ mang tính ngắn hạn.
► Triển vọng với Việt Nam trong thời gian tới
Mở rộng thêm quốc gia thành viên là hướng đi không thể thiếu trong lộ trình mở rộng quy định về tiêu chuẩn của CPTPP ra thế giới. CPTPP nhận được sự quan tâm lớn của nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ, như Thái Lan, Anh, Hàn Quốc, In-đô-nê-xi-a, Đài Bắc (Trung Hoa) và Phi-líp-pin... Thái Lan đang cạnh tranh mạnh mẽ với 2 thành viên CPTPP của ASEAN là Ma-lai-xi-a và Việt Nam trong lĩnh vực sản xuất thiết bị điện tử, nông sản và hải sản. Hàn Quốc mong muốn gia nhập các hiệp định đa phương và chống lại sự lan rộng của chủ nghĩa bảo hộ thương mại. Sau khi chính thức rời khỏi EU (Brexit) vào tháng 3-2019, Anh đang tìm hiểu để tham gia CPTPP. Càng có nhiều quốc gia gia nhập CPTPP, Việt Nam càng có nhiều cơ hội được tiếp cận nhiều thị trường rộng lớn hơn, giúp tăng kim ngạch xuất khẩu và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Mỹ và 28 nước trong EU cũng muốn đàm phán lại với nhóm các nước CPTPP trên cơ sở đa phương hoặc song phương để xin gia nhập. Khả năng Mỹ sẽ tái nhập CPTPP cao bởi một số lý do sau:
Thứ nhất, tất cả 11 quốc gia trong CPTPP đều có quan hệ đối tác với Mỹ.
Thứ hai, Chính quyền của Tổng thống Đ. Trăm đưa thêm yếu tố an ninh vào quan hệ kinh tế cũng là nhằm tạo lợi thế cạnh tranh với các cường quốc chưa tham gia CPTPP.
Thứ ba, nhiều nền kinh tế khác, như Hàn Quốc, Đài Bắc Trung Hoa và một số nước Đông Nam Á đang tìm hiểu để tham gia CPTPP.
Do tác động của cắt giảm thuế quan, CPTPP giúp GDP của Việt Nam tăng thêm 4,7% vào năm 2035 so với năm 2017. Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sẽ tăng bình quân 4,32%/năm và thị trường xuất khẩu được đa dạng hơn. Tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sẽ đạt 311,1 tỷ USD (năm 2030) so với mức ước tính 179,5 tỷ USD (năm 2017). CPTPP tạo thêm 20.000 - 26.000 việc làm/năm. Tham gia CPTPP sẽ mở ra dư địa mới cho Việt Nam trong gia tăng thu hút các dòng vốn đầu tư nước ngoài. Dịch vụ và đầu tư sẽ có tác dụng tích cực trong việc cải thiện môi trường đầu tư, góp phần thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài. /.
Xem thêm các bài giải Chuyên đề học tập Kinh tế Pháp luật 12 Chân trời sáng tạo hay, chi tiết khác:
Chuyên đề 1: Phát triển kinh tế và sự biến đổi văn hóa, xã hội
Chuyên đề 2: Một số vấn đề về luật doanh nghiệp
Chuyên đề 3: Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế