TOP 20 bài Thuyết trình về lễ hội Đền Hùng 2024 SIÊU HAY

664

Tailieumoi.vn xin giới thiệu bài văn mẫu Thuyết trình về lễ hội Đền Hùng Ngữ văn 10 Cánh diều, gồm dàn ý và các bài văn phân tích mẫu hay nhất giúp các em học sinh có thêm tài liệu tham khảo từ đó học cách viết văn hay hơn.

Thuyết trình về lễ hội Đền Hùng

TOP 20 bài Thuyết trình về lễ hội Đền Hùng 2024 SIÊU HAY (ảnh 1)

Đề bài: Thuyết trình về lễ hội Đền Hùng

Dàn ý Thuyết trình về lễ hội Đền Hùng

1. Mở bài: Giới thiệu về di tích lịch sử Đền Hùng.

2. Thân bài

- Lịch sử hình thành: Vua Hùng lựa chọn để đóng đô.

- Đặc điểm

Vị trí: nằm trên núi Nghĩa Lĩnh, giữa đất Phong Châu, ngày nay là xã Hy Cương, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ.

Gồm bốn đền chính là đền Hạ, đền Trung, đền Thượng và đền Giếng.

Điểm bắt đầu của Khu di tích là Đại Môn, xây năm 1917 theo kiểu vòm uốn.

Đền Hạ: xây vào thế kỷ 17 – 18, cấu trúc chữ Nhị, được tương truyền là nơi Âu Cơ sinh bọc trăm trứng, nở thành trăm người con.

Chùa Thiên Quang: nằm kề bên đền Hạ, được xây vào thời Trần.

Đền Trung: tên chữ là Hùng Vương Tổ Miếu, tồn tại từ thời Lý – Trần, cấu trúc đơn giản hình chữ Nhất. Tại đây Lang Liêu đã dâng lên vua cha bánh chưng nhân dịp lễ tết.

Ðền Thượng: nằm trên đỉnh núi Nghĩa Lĩnh, thờ Thánh Gióng và vua Hùng.

Lăng vua Hùng: là mộ của Hùng Vương thứ 6. Lăng được thiết kế theo cấu trúc hình vuông với cột liền tường và hướng mặt về phía đông nam. Bên trong lăng có xây dựng mộ vua Hùng.

Đền Giếng: nằm ở phía Đông Nam chân núi Nghĩa Lĩnh. Đền xây vào thế kỷ 18, đây là ngôi đền mà hai cô con gái vua là Tiên Dung và Ngọc Hoa đã từng ngang qua, tại đây họ thường soi gương và chải tóc.

- Ý nghĩa văn hóa, tín ngưỡng của khu di tích

Thể hiện truyền thống “uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ kẻ trồng cây” của dân tộc ta từ ngàn đời xưa.

Là di sản có giá trị sâu sắc thể hiện tình cảm, sự biết ơn sâu sắc đến các thế hệ đi trước, đặc biệt là đối với vua Hùng, người đã tiên phong khai sinh nên bờ cõi nước Việt.

3. Kết bài: Khẳng định lại giá trị của khu di tích Đền Hùng.

Thuyết trình về lễ hội Đền Hùng - Mẫu 1

Truyền thống "uống nước nhớ nguồn" của con người Việt Nam có từ nghìn xưa trở thành đạo lý và lẽ sống của các dân tộc. Trải qua hàng nghìn năm Bắc thuộc nhưng ở đời nào, triều đại nào nhân dân ta đều không hề quên tổ chức lễ hội Đền Hùng. Đây là một lễ hội lớn mang tính quốc gia để tưởng nhớ các vua Hùng đã có công dựng nước. Như vậy phong tục giỗ tổ Hùng Vương đã trở thành truyền thống văn hoá lâu đời ở nước ta. Đó là ngày hội toàn quốc, toàn dân và trong tâm thức dân gian Việt Nam nó mang tính thiêng liêng cao cả nhất. Vì thế mà lễ hội được tổ chức long trọng hàng năm với nghi thức đại lễ quốc gia, với sự hành hương "trở về cội nguồn dân tộc" của hàng chục vạn người từ khắp các nơi trong nước và kiều bào sống ở nước ngoài.

Khu di tích đền Hùng là một quần thể kiến trúc đẹp trên núi Nghĩa Lĩnh, tức núi Hùng, thuộc xã Huy Cương, huyện Phong Châu, tỉnh Phú Thọ. Khởi thủy các ngôi đền này đều được làm bằng đá để thờ các vị thần núi và các vị vua Hùng. Và từ đó đến nay, trải qua mấy nghìn năm lịch sử, qua các triều đại, các ngôi đền đều được nhân dân địa phương trông coi, sửa chữa, tôn tạo hoặc xây dựng để chống lại sự phong hoá của thời gian và do các cuộc chiến tranh tàn phá. Để có được những ngôi đền với diện mạo bề thế khang trang như ngày nay là kỳ tích và công sức của bao thế hệ con cháu duy tu bảo dưỡng. Các di tích này từ lâu đã trở thành một di sản văn hóa quý giá và là bảo tàng lịch sử của dân tộc ta.

Mỗi công trình kiến trúc của di tích đền Hùng đều hàm chứa nội dung huyền thoại hòa lẫn hiện thực, theo dòng lịch sử chảy trôi, làm cho người đi hội hôm nay như thấy quá khứ và hiện tại quyện vào nhau. Khí thiêng sông núi như tôn thêm cho ngày hội non sông thêm rạng rỡ. Từ cổng tiền lớn (Đai môn) dưới chân núi, bức đại tự phía trên mang dòng chữ "Cao sơn cảnh hàng" (Núi cao đường lớn) vui vẻ chào đón mọi người. Vượt 225 mác xi măng, khách tới đền Hạ, nơi bà Âu Cơ sinh bọc trăm trứng, nở thành trăm con trai. Có lẽ đây là sự tích về nguồn gốc của người Việt Nam được cùng sinh ra một bọc. Vì vậy mà trong ngôn ngữ của ta, dân gian vẫn dùng hai tiếng "đồng bào" (cùng một bọc) cho đến tận ngày nay. Khi Âu Cơ sinh bọc trăm trứng thì Lạc Long Quân dẫn 50 người về xuôi còn Âu Cơ dẫn 49 con lên ngược, để lại người con trưởng làm vua, xưng là Hùng Vương, định đô ở Phong Châu. Vượt 168 bậc nữa là tới đền Trung. Tương truyền nơi đền Trung là chỗ xưa kia các vua Hùng thường họp bàn việc nước với các quan đại thần trong triều. Đây cũng là nơi nghỉ ngơi thoải mái của các vua Hùng cùng các tướng lĩnh sau những cuộc viễn du săn bắn dài ngày. Nơi đền Trung còn liên quan đến sự tích "bánh chưng, bánh dày" và cuộc thi cổ do vua Hùng Vương thứ 6 tổ chức nhằm mục đích tìm người nối ngôi. Lang Liêu là con trai út vì lòng hiếu thảo đã chế ra được hai loại bánh từ gạo nếp thơm là bánh chưng và bánh dày. Lại vượt 102 bậc nữa là tới đền Thượng. Tục truyền rằng ở thời Hùng Vương, các vua Hùng thường cùng các vị tướng soái hay tổ chức tế trời trên đỉnh núi Nghĩa Lĩnh, để cầu khấn trời phù hộ cho mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, dân chúng được ấm no hạnh phúc. Cũng tại khu vực đền Thượng, vua Hùng Vương thứ 6 đã lập bàn thờ Thánh Gióng để tưởng niệm người anh hùng làng Phù Đổng. Và sự tích Thục Phán dựng hai cột đá thề, khi được vua Hùng Vương thứ 18 nhường ngôi cho và hứa tiếp tục sự nghiệp của các vua Hùng. Cạnh đền có ngôi mộ nhỏ, cổ kính được gọi là mộ Tổ. Đây chính là phần mộ của Hùng Vương thứ 6, dân gian dựa vào lời dặn của nhà vua lúc băng hà rằng: "Hãy chôn ta trên núi Cả, để đứng trên núi cao ta còn trông nom bờ cõi cho con cháu muôn đời về sau". Từ đền Thượng, phóng tầm mắt về phía trước, khách chiêm ngưỡng 99 ngọn núi lớn nhỏ, hình bầy voi quỳ hướng về núi Mẹ – Nghĩa Lĩnh – uy nghiêm – riêng một con quay lưng lại, "ăn ở ra lòng riêng tư", đã bị mất đầu mãi mãi phải xa lìa bầy đàn, nguồn cội. Bài học bằng đá cho tới nay vẫn có giá trị nhắc nhở hậu thế về lòng hiếu nghĩa ở đời.

Trở xuống đền Hạ, chếch về phía Đông Nam là đền Giếng. Tục truyền rằng ở thời Hùng Vương thứ 18, có hai nàng công chúa tên là Tiên Dung và Ngọc Hoa, theo vua cha đi kinh lý qua đây thường hay đến giếng nước trong vắt chốn này để soi gương chải tóc. Cả hai nàng công chúa đều đẹp người, đẹp nết đã có công dạy dân trồng lúa, trồng dâu nuôi tằm, phát triển buôn bán trao đổi, đem lại cuộc sống ấm no hạnh phúc cho muôn dân trăm họ. Nên để tưởng nhớ ơn hai vị công chúa, nhân dân đã xây dựng ngôi đền Giếng để thờ tự cúng lễ.

Lễ hội đền Hùng là dịp giỗ tổ thiêng liêng. Bởi vì trong tâm thức của mỗi người dân đất Việt đều tự hào là dòng giống Lạc Hồng, con Rồng cháu Tiên. Để rồi cứ mỗi độ xuân về người Việt lại nô nức hành hương về đất Tổ để tưởng nhớ công lao to lớn trong sự nghiệp mở nước và dựng nước, khai sáng nền văn minh Lạc Việt và lập nên nước Văn Lang cổ đại.

Hội đền Hùng kéo dài từ mùng 8 đến ngày 11 tháng 3 âm lịch, mà mùng 10 là chính hội. Cũng như mọi lễ hội khác ở đồng bằng Bắc Bộ, ở lễ hội đền Hùng gồm có 2 phần: Phần lễ và phần hội. Phần tế lễ được cử hành rất trọng thể mang tính quốc lễ. Lễ vật dâng cúng là "lễ tam sinh" (1 lợn, 1 dê và 1 bò), bánh chưng, bánh dày và xôi nhiều màu, nhạc khí là trống đồng cổ. Sau khi một hồi trống đồng vang lên, các vị chức sắc vào tế lễ dưới sự điều khiển của chủ lễ. Tiếp theo đến các cụ bô lão của làng xã sở tại quanh đền Hùng vào tế lễ. Sau cùng là nhân dân và du khách hành hương vào tế lễ trong các đền thờ, tưởng niệm các vua Hùng. Sau phần lễ là đến phần hội. Ở lễ hội đền Hùng năm nào cũng tổ chức cuộc thi kiệu của các làng xung quanh. Với sự xuất hiện của các đám rước linh đình mà không khí lễ hội trở nên tưng bừng náo nhiệt hơn. Các cỗ kiệu của các làng phải tập trung trước vài ngày thì mới kịp cuộc thi. Nếu như cỗ kiệu nào đoạt giải nhất của kỳ thi năm nay, thì đến kỳ hội sang năm được thay mặt các cỗ kiệu còn lại, rước lên đền Thượng để triều đình cử hành quốc lễ. Vì vậy, cỗ kiệu nào đoạt giải nhất thì đó là niềm tự hào và vinh dự lớn lao của dân làng ấy. Bởi họ cho rằng, đã được các vua Hùng cùng các vị thần linh phù hộ cho nhiều may mắn, nhân khang, vật thịnh… Tuy nhiên, để có được đám rước các cỗ kiệu đẹp lộng lẫy phải chuẩn bị rất công phu và chu đáo từ trước. Những khó khăn vất vả của dân làng đã thôi thúc họ vượt qua được để đến với cái linh thiêng cao thượng và hướng về Tổ tiên giống nòi. Đó là đời sống tâm linh của dân chúng, được biểu hiện rõ nét qua một hình thức sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng dân gian cổ truyền mang tính cộng cảm với cộng mệnh sâu sắc. Sinh hoạt văn hóa dân gian này đã thành nhu cầu không thể thiếu được đối với các cộng đồng làng xã cư trú quanh đền Hùng.

Mỗi một đám rước kiệu có 3 cỗ kiệu đi liền nhau. Được sơn son thiếp vàng, chạm trổ rất tinh xảo. Sự bày biện trang trí trên cỗ kiệu cũng rất khéo léo và đẹp mắt. Cỗ kiệu đi đầu bày hương hoa, đèn nhang, trầu cau, chén nước và bầu rượu. Cỗ kiệu thứ 2 có đặt hương án, bài vị của Thánh, có lọng và quạt với nhiều sắc màu trang hoàng tôn nghiêm. Cỗ thứ 3 rước bánh chưng và bánh dày, 1 cái thủ lợn luộc để nguyên, đi sau 3 cỗ kiệu này là các vị quan chức và bô lão trong làng. Các vị chức sắc thì mặc áo thụng theo kiểu các bá quan triều đình, còn các cụ bô lão cũng mặc áo thụng đỏ, hoặc mặc quần trắng, áo the, đầu đội khăn xếp. Trong hội đền Hùng, nhân ngày giỗ Tổ có tiến hành nghi lễ hát thờ (tục gọi là hát Xoan). Đây là một lễ thức rất quan trọng và độc đáo. Dân gian truyền rằng hát Xoan xưa kia gọi là hát Xuân và điệu múa hát Xoan có từ thời Hùng Vương và được lưu truyền rộng rãi trong dân cư của các làng xã quanh vùng. Điệu múa hát Xoan này được nhiều người ưa thích, đặc biệt là bà Lan Xuân, vợ của vua Lý Thần Tông. Bà đã cảm nhận được âm hưởng dân ca đặc biệt và độc đáo của nó, nên bà đã cho sưu tầm và cải biên thành điệu hát thờ tại một số đền, đình làng thờ các vua Hùng.

Ở đền Hạ có hát ca trù (gọi là hát nhà tơ, hát ả đào). Đây cũng là loại hát thờ trước cửa đình trong dịp hội làng, do phường hát Do Nghĩa trình diễn. Ngoài sân đền Hạ, ở nơi thoáng đãng có đu tiên. Mỗi bàn đều có hai cô tiên (cô gái Mường trẻ mặc đẹp) ngồi. Đu quay được là do các cô luân phiên lấy chân đạp đất. Đu tiên là trò chơi đẹp mắt, nhịp nhàng của phụ nữ. Xung quanh khu vực dưới chân núi Hùng là các trò diễn và trò chơi dân gian cổ truyền, diễn ra rất sôi động, được nhiều người tham dự như trò chơi ném côn, chơi đu, đấu vật, chọi gà,… Những trò đánh cờ người và tổ tôm điếm được các cụ cao niên tâm đắc. Còn các đám trai gái tụm năm, tụm ba trên các đồi đó trổ tài hát ví, hát trống quân hoặc hát đối đáp giao duyên…Tối đến có tổ chức hát chèo, hát tuồng ở các bãi rộng ngay cửa đền Hạ hoặc đền Giếng… Không khí ngày hội vừa trang nghiêm phấn khởi, vừa hào hứng sôi nổi đã làm rung động tâm khảm trái tim bao người đến dự hội.

Lễ hội Đền Hùng là phong tục đẹp trong truyền thống của người dân đất Việt. Và từ rất lâu đời trong tâm thức dân gian, vùng đất Tổ đã trở thành "Thánh địa linh thiêng" của cả nước, nơi phát nguyên nguồn gốc dân tộc. Trải qua bao thời đại lịch sử tuy có lúc thịnh, lúc suy nhưng lễ hội đền Hùng vẫn được tổ chức. Điều này đã thể hiện rõ bản lĩnh phi thường và nền văn hiến rực rỡ, đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam. Người dân hành hương về đất Tổ không hề có sự phân biệt tôn giáo, chỉ cần là người Việt Nam thì trong tâm khảm họ đều có quyền tự hào là con cháu muôn đời của vua Hùng. Bởi vậy, hễ ai là người Việt Nam nếu có sẵn tâm thành và lòng ham muốn hành hương về đất Tổ thì tự mình có thể thực hiện ước nguyện chính đáng đó một cách dễ dàng và thuận tiện.

Hội đền Hùng hay giỗ tổ Hùng Vương là ngày hội quần tụ, ca ngợi sự hưng thịnh của nòi giống, là biểu tượng của tinh thần cộng đồng. Người đến hội mang theo lòng ngưỡng mộ sâu đậm về quê cha đất tổ, một tín ngưỡng đã ăn sâu vào tâm thức người Việt Nam cho dù họ sống ở bất cứ phương trời nào.

Thuyết trình về lễ hội Đền Hùng - Mẫu 2

Dù ai đi ngược về xuôi

Nhớ ngày giỗ tổ mùng 10 tháng 03

Câu ca dao ấy từ bao đời nay luôn nhắc nhở con cháu Việt Nam nhớ về công lao dựng nước và dựng nước của các bậc vua Hùng

Giỗ tổ Hùng Vương là lễ hội truyền thống có nguồn gốc từ thời vua Lê Thánh Tông. Đến đời vua Lê Kính Tông năm 1601 đã chọn ngày 11 và 12 tháng 3 âm lịch hàng năm càng ngày giỗ tổ. Sau đó tới thời nhà Nguyễn năm Khải Định thứ hai nhà vua chính thức chọn ngày mùng 10 tháng 3 âm lịch hàng năm là ngày giỗ tổ Hùng Vương để tưởng nhớ công lao dựng nước giữ nước của các bậc Vua Hùng, đồng thời nhắc nhở con cháu thờ cúng tổ tiên. Lễ hội được tổ chức tại đền Hùng tại xã Hy Cương, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ vào ngày mùng 10 tháng 3 âm lịch. Tuy nhiên lễ hội sẽ được diễn ra sớm hơn 1 tuần với các phong tục như đánh trống đồng của dân tộc Mường, công cuộc hành hương tưởng niệm các vua Hùng của con cháu trên cả nước và kết thúc vào ngày mùng 10 tháng 3 âm lịch.

Ngày giỗ tổ Hùng Vương sẽ được diễn ra hai phần đó là phần lễ và phần hội . Phần lễ có lễ rước kiệu và dâng hương lên đền Thượng để tưởng nhớ công lao của các vị vua Hùng. Nước ta đã tổ chức lễ lớn vào những năm chẵn. Phần lễ được chuẩn bị tang nghiêm trong các đền chùa. Có hai lễ được cử hành trong ngày đó là lễ rước kiệu mua và lễ dâng hương. Lễ rước kiệu với sự đa dạng màu sắc của cờ hoa, lọng, kiệu với các trang phục truyền thống được xuất phát từ chân núi lần lượt đi qua các đền và điểm cuối cùng là đền Thượng để làm lễ dâng hương. Lễ dâng hương được tiến hành bởi những người hành hương từ khắp mọi nơi trên đất nước. Mọi người thường tới đền Hùng với nhu cầu tâm linh. Mọi người khi đến đây đều thành tâm thắp những nén hương thơm để tỏ lòng biết ơn đối với các bậc vua Hùng đã có công dựng nước.

Sau phần lễ chính là phần hội được diễn ra tưng bừng và náo nhiệt. Phần lễ hội có rất nhiều các trò chơi dân gian như hát xoan là một hình thức dân ca của Phú Thọ với những lời ca tinh tế đã đem tới cho lễ hội Đền Hùng những nét đặc trưng riêng biệt. Ngoài ra còn có các trò chơi khác như thi vật, kéo co, bơi chải... . Ngày nay lễ hội Đền Hùng còn có sự giao lưu văn hóa giữa các vùng như sự giao lưu trống đồng giữa người Mường để cầu một năm mưa thuận gió hòa, Quốc Thái dân an

Giỗ tổ Hùng Vương là một phong tục đẹp đẽ trong đời sống tâm linh của người Việt. Giỗ tổ là một phong tục mang những nét đẹp có giá trị về văn hóa lịch sử to lớn đồng hành cùng với sự phát triển của đất nước. Vì vậy và từ lâu đời Phú Thọ được coi là mảnh đất thánh địa của cả nước, là cái nôi của dân tộc. Trải qua một quãng thời gian dài với biết bao thăng trầm trong lịch sử đất nước vẫn luôn cố gắng tổ chức và gìn giữ nét đẹp độc đáo này để tưởng nhớ tới những vị vua đầu tiên khai hoang lập quốc. Đối với những người con Việt Nam việc hành hương về nơi đất tổ thể hiện niềm thành kính và mong muốn gửi lên tấm lòng của mình đối với tổ tiên.

Với những giá trị và ý nghĩa vô cùng to lớn ngày mùng 6 tháng 12 năm 2012 giỗ tổ Hùng Vương đã được Unesco công nhận tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương ở Phú Thọ là một di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.

Giỗ tổ Hùng Vương là một lễ hội truyền thống lớn của dân tộc lễ hội. Nó góp phần tô điểm thêm cho nền văn hóa dân tộc Việt Nam nhiều màu sắc hơn và thể hiện sự kính yêu và tưởng nhớ của dân tộc Việt Nam tới những người đã có công khai hoang lập quốc.

Thuyết trình về lễ hội Đền Hùng - Mẫu 3

Là người Việt Nam, không ai là không biết đến câu ca:

“Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày Giỗ Tổ mùng mười tháng ba
Khắp miền truyền mãi câu ca
Nước non vẫn nước non nhà ngàn năm.”

Lễ hội đền Hùng giỗ tổ Hùng Vương (được tổ chức ngày mồng mười tháng ba hàng năm) từ lâu đã trở thành một tục lệ trong đời sống tinh thần của người Việt Nam, một điểm tựa của tinh thần văn hoá. Giỗ Tổ Hùng Vương từ rất lâu đã trở thành ngày lễ hội trọng đại của cả dân tộc. Dù ở phương trời nào, người Việt Nam đều nhớ ngày giỗ Tổ mà hướng về vùng đất Phú Thọ. Từ các triều đại phong kiến Việt Nam, Đinh Lý Trần Lê, Đền Hùng đã là nơi tưởng nhớ, tôn vinh công lao các Vua Hùng, là biểu tượng của khối đại đoàn kết dân tộc ta.

Ngày này hàng năm, lễ hội đền Hùng vẫn được tổ chức theo truyền thống văn hoá của dân tộc. Không chỉ để tưởng nhớ tổ tiên cội nguồn, lễ hội Đền Hùng còn nhằm giáo dục truyền thống "Uống nước nhớ nguồn", ghi nhớ mười tám vị Vua Hùng đã có công dựng nước và lớp lớp các bậc tiền nhân kiên cường chống giặc ngoại xâm giữ nước.

Lễ hội đền Hùng được diễn ra vào ngày mồng mười tháng ba:

“Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày giỗ Tổ mùng mười tháng ba”

Từ thuở xưa lễ hội đền Hùng đã có một đặc thù riêng là phần lễ nặng hơn phần hội. Người về dự hội là hướng về tổ tiên với sự tôn kính và lòng biết ơn sâu sắc (Uống nước nhớ nguồn). Phần hội chỉ là phần phụ để không khí thêm vui tươi, náo nhiệt trong ngày này.

Phần lễ gồm tế lễ của triều đình sau đó là phần lễ của dân. 41 làng thuộc tỉnh Phú Thọ được rước kiệu từ đình làng mình đến Đền Hùng. Các kiểu đều được sơn son thếp vàng, chạm trổ đẹp mắt, được rước đi trong không khí vừa trang nghiêm vừa vui vẻ với tiếng chiêng, trống, nhạc bát âm rộn rã một vùng. Phần hội gồm các trò chơi dân gian như đánh vật, ném còn, cờ người, bắn cung nỏ… và đặc biệt nhất là các đêm hát xoan, hát ghẹo – hai làn điệu dân ca độc đáo riêng ở Châu Phong.

Vào những năm chẵn (5 năm một lần), giỗ Tổ được tổ chức theo đúng nghi lễ quốc gia, năm lẻ do tỉnh Phú Thọ tổ chức. Dù năm chẵn hay lẻ lễ hội Giỗ Tổ vẫn rất chặt chẽ, bao gồm hai phần lễ và hội. Ngày 2-9-1945, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa được khai sinh đánh dấu bước ngoặt lịch sử mới của dân tộc ta. Giỗ Tổ Hùng Vương năm 1946 là một sự kiện hết sức đặc biệt, đáng ghi nhớ.Cụ Huỳnh Thúc Kháng, Phó Chủ tịch nước bấy giờ, đã thay mặt Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hoà lên làm lễ dâng hương tại Đền Hùng.

Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn cán bộ "Các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước". Lời căn dặn như lời hứa quyết tâm của vị lãnh tụ đứng đầu đất nước.

Có lẽ không một dân tộc nào trên thế giới có chung một ngày giỗ Tổ như dân tộc ta. Từ huyền thoại Âu Cơ và Lạc Long Quân đẻ ra trăm trứng, nửa theo Cha xuống biển, nửa theo mẹ lên rừng đã khơi dậy ý thức về dân tộc và gắn kết chúng ta thành một khối đại đoàn kết. Vì thế mà hai chữ đồng bào là khởi nguồn của yêu thương, đùm bọc, của sức mạnh Việt Nam.

Phần lễ được tổ chức trang nghiêm trong các đền, chùa trên núi Hùng. Nghi thức dâng hương, dâng hoa của các đoàn đại biểu của Đảng, Chính phủ, các địa phương trong toàn quốc,… được tổ chức trang nghiêm và long trọng tại đền Thượng. Từ chiều ngày mùng 9, làng được Ban tổ chức lễ hội cho phép rước kiệu dâng lễ đã tập trung đông đủ tại nhà bảo tàng dưới chân núi, trên kiệu đặt lễ vật. Sáng mồng 10, các đoàn đại biểu tập trung ở thành phố Việt Trì, xe tiêu binh rước vòng hoa dẫn đầu, diễu hành đến chân núi Hùng.

Tới trước thềm của "Điện Kính Thiên”, đoàn đại biểu kính cẩn dâng lễ vào thượng cung đền Thượng. Nguyên thủ quốc gia hoặc đại biểu đại diện Bộ Văn hoá, thay mặt cho tỉnh và nhân dân cả nước đọc chúc văn lễ Tổ. Toàn bộ nghi thức hành lễ được báo chí, truyền hình đưa tin hoặc tường thuật trực tiếp để đồng bào cả nước theo dõi lễ hội. Người đi lễ dâng lễ trong các đền, chùa trên núi, ai cũng có tâm nguyện cầu mong tổ tiên phù hộ độ trì cho con cháu.

Lễ hội ngày nay có nhiều hình thức diễn ra văn hoá hoá xưa. Các hình thức văn hoá được đan xen giữa truyền thống và hiện đại. Trong khu vực diễn ra hội, nhiều cửa hàng bán đồ lưu niệm, văn hoá phẩm, các cửa hàng dịch vụ ăn uống, các khu văn hóa, thể thao,… được duy trì trong nhiều năm nay.

Các trò chơi văn hoá dân gian được duy trì đến ngày nay như: đu quay, đấu vật, chọi gà, kéo lửa, nấu cơm thi, đánh cờ tướng (cờ người)… Bên cạnh đó là sân khấu của các đoàn nghệ dân chuyên nghiệp: chèo, hát quan họ, kịch nói,… Đây chính là nơi để thi tuyển và giao lưu văn hoá giữa các vùng. Những làn điệu hát Xoan – Ghẹo với lời ca tinh tế mượt mà đã đem tới cho lễ hội một nét đặc trưng, thấm đượm văn hoá vùng đất Phú Thọ.

Tổ tiên người Việt Nam luôn muốn nhắc nhở con cháu: nên làm tròn bổn phận nhiệm vụ của mình, giữ kỷ cương, gia đình sẽ yên ổn, xã hội được an cư lạc nghiệp phồn vinh, phát triển. Lời dạy bảo này không chỉ được nhắc nhở hằng năm thông qua ngày hội giỗ mà còn được khắc ghi trên trống đồng Đông Sơn, biểu tượng thiêng của dân tộc, gửi gắm trong hình tượng mặt trời nằm rạng rỡ giữa trống đồng.

Thông qua lễ hội đền Hùng, tổ tiên ta còn muốn nhắc nhở hậu thế những kế sách giữ nước, yên dân. Suốt mấy nghìn năm trông coi và gìn giữ, đánh giặc và dựng xây, lễ hội đền Hùng đã trở thành biểu tượng của tinh thần, là cội nguồn của sức mạnh, chói sáng của một nền văn hóa.

Không chỉ người Việt chúng ta tự hào về Đền Hùng và ngày giỗ Tổ, mà nhìn vào những dòng lưu bút của các đoàn đại biểu quốc tế và bạn bè khắp năm châu bốn biển cũng đã từng đến thăm viếng Đền Hùng. Chúng ta thật sự tự hào khi được biết Đến Hùng và các di tích trên đỉnh núi Nghĩa Lĩnh đã làm cho cả thế giới phải cúi đầu vị nể ý thức cội nguồn dân tộc của chúng ta. Trong những dòng lưu bút thừa nhận. "Đền Hùng là nơi đặt nền móng cho lịch sử Việt Nam…".

Lịch sử là một dòng chảy liên tục. Qua mấy nghìn năm, bao biến động thăng trầm, Đền Hùng và ngày giỗ Tổ mùng mười tháng ba âm lịch vẫn là điểm sáng của bốn phương tụ hội, nơi con cháu lưu công đức Tổ tiên, là biểu tượng của dân tộc và văn hóa Việt Nam – một dân tộc đã có truyền thống dựng nước và giữ nước hàng nghìn năm.

TOP 20 bài Thuyết trình về lễ hội Đền Hùng 2024 SIÊU HAY (ảnh 3)

Thuyết trình về lễ hội Đền Hùng - Mẫu 4

Dù ai đi ngược về xuôi

Nhớ ngày giỗ tổ mùng mười tháng ba

Từ xưa đến nay câu ca dao đã nhắc nhở biết bao đời con cháu Vua Hùng giữ vững truyền thống uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ kẻ trồng cây. Chính vì vậy cứ đến ngày 10/3 âm lịch hàng năm người dân trên cẩ nước lại một lòng hướng về ngày lễ hội đền Hùng cũng như tưởng nhớ công ơn dựng nước của các vua Hùng.

Giỗ Tổ Hùng Vương hay còn được gọi là lễ hội đền Hùng là một trong những dịp lễ hội truyền thống quan trọng nhất trong năm của người Việt để bày tỏ sự tri ân, tưởng nhớ công lao dựng nước và bảo vệ đất nước của các vị Hùng Vương – Văn Lang ngày xưa. Lễ hội được tổ chức vào ngày mùng mười tháng ba âm lịch, với các nghi thức truyền thống được tổ chức tại đền Hùng, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ.

Từ nhiều đời nay, trong đời sống tinh thần của người Việt Nam, đã luôn hướng tới một điểm tựa của tinh thần văn hoá – đó là lễ hội Đền Hùng và Giỗ Tổ Hùng Vương, được tổ chức vào ngày 10 tháng 3 âm lịch. Giỗ Tổ Hùng Vương – từ rất lâu đã trở thành ngày Giỗ trọng đại của cả dân tộc, đã in đậm trong cõi tâm linh của mỗi người dân đất Việt. Dù ở phương trời nào, người Việt Nam đều nhớ ngày giỗ Tổ, đều hướng về vùng đít Cội nguồn – xã Hy Cương – Lâm Thao – Phú Thọ. Nơi đây chính là điểm hội tụ văn hóa tâm linh của dân tộc Việt Nam.

Đền Hùng là nơi tưởng nhớ, tôn vinh công lao các Vua Hùng, là biểu tượng của khối đại đoàn kết dân tộc Việt Nam. Người Việt Nam may mắn khi có chung một Tổ để hướng về, có chung một miền Đất Tổ để nhớ, có chung một đền thờ Tổ để tri ân. Ngày nay hàng năm, lễ hội Giỗ Tổ vẫn được tổ chức theo truyền thống văn hoá của dân tộc. Không chỉ để tưởng nhớ tổ tiên, Giỗ Tổ Hùng Vương – Lễ hội Đền Hùng còn nhằm giáo dục truyền thống yêu nước “Uống nước nhớ nguồn”, biết ơn sâu sắc các Vua Hùng đã có công dựng nước và lớp lớp các bậc tiền nhân kiên cường chống giặc ngoại xâm giữ nước.

Tiếp nối truyền thống vốn có, phần lễ trước tiên bao gồm các nghi thức cúng Tổ, dâng hương và hoa của các đoàn đại biểu sẽ được tổ chức bên trong đền Thượng. Khác với thời xưa khi mỗi làng đều phải rước kiệu của mình để về giỗ Tổ, ngày nay, kiệu của Giỗ Tổ chỉ có một và được ban tổ chức lễ hội rước ra từ chiều ngày mùng chín đặt ở dưới chân núi. Sau đó, các đoàn đại biểu cùng vòng hoa kính viếng sẽ theo sau đội khiêng kiệu lần lượt vào đền trong tiếng nhạc bát âm. Như truyền thống vào những năm chẵn khoảng năm năm, lễ Giỗ Tổ sẽ được tổ chức theo nghi thức quốc gia, còn những năm khác đều do tỉnh ủy tỉnh Phú Thọ chỉ đạo tổ chức. Khi kiệu được rước đến trước thềm của điện Kính Tiêu, một vị đại biểu lãnh đạo sẽ thay mặt cho nhân dân cả nước đọc chúc văn lễ Tổ. Những nghi lễ trang nghiêm này sẽ được ghi hình và phát trực tiếp cho đồng bào trên khắp thế giới có thể theo dõi cùng. Sau lễ đọc chúc văn và làm lễ của đoàn đại biểu, các đồng bào cũng tham gia dâng lễ tế tổ tiên, các vị vua Hùng để cầu xin về một năm mới may mắn và làm ăn phát đạt.

Tiếp theo sau khi những nghi thức truyền thống đã kết thúc, ban tổ chức lễ hội cũng tổ chức thêm phần hội bao gồm các trò chơi dân gian và văn nghệ ở phía dưới chân đền. Cùng với đó là các hoạt động thể thao, văn hóa cũng diễn ra vô cùng sôi nổi và phong phú. Thêm vào đó, mỗi năm, ban tổ chức sẽ mở ra các trò chơi mới như thi gói bánh chưng, thi nấu cơm, để dâng lên vua Hùng cùng với lòng thành kính, bày tỏ sự biết ơn đối các vị vua đã tạo nên một phong tục đẹp. Bên cạnh các trò chơi dân gian là các đoàn hát nghệ thuật cũng góp vui, mang đến nhiều không khí lễ hội tưng bừng đầy phấn khởi.

Thông qua ngày giỗ Tổ, Tổ tiên ta còn có hoài bão muốn nhắc nhở hậu thế những kế sách giữ nước an dân. Mấy nghìn năm trông coi và gìn giữ, đánh giặc và dựng xây, Đền Hùng đã trở thành biểu tượng của tinh thần dân tộc, là cội nguồn của sức mạnh, niềm tin, chói sáng của một nền văn hóa.

Không chỉ người Việt chúng ta tự hào về Đền Hùng và ngày giỗ Tổ , mà tìm vào những dòng lưu bút của các đoàn đại biểu quốc tế và bạn bè khắp năm châu bốn biển từng đến thăm viếng Đền Hùng, chúng ta thật sự xúc động khi được biết Đền Hùng và các di tích trên Nghĩa Lĩnh đã làm cho cả thế giới phải cúi đầu vị nể ý thức cội nguồn dân tộc của chúng ta. Nhiều dòng lưu bút thừa nhận. “Đền Hùng là nơi đặt nền móng cho lịch sử Việt Nam.

Dòng sông lịch sử vẫn luôn cuồn cuộn chảy suốt bốn ngàn năm qua cùng dân tộc Việt Nam. Thế nhưng, trải qua bao thăng trầm, biến động ấy, lễ hội Đền Hùng – Giỗ Tổ Hùng Vương vẫn là một lễ hội tâm linh, tín ngưỡng quan trọng bậc nhất của người Việt. Từ truyền thống tốt đẹp đã được giữ gìn hàng trăm năm ấy, chúng ta những con người của thế hệ sau phải biết cố gắng kế thừa và phát huy hơn những truyền thống tốt đẹp như thế này của dân tộc. Con cháu dân tộc ta, dù có ở bất cứ đâu, cứ tới ngày mùng mười tháng ba âm lịch sẽ nhắc cho nhau về ngày giỗ Tổ của một dân tộc ngàn năm văn hiến với truyền thống dựng nước và giữ nước vững bền.

Thuyết trình về lễ hội Đền Hùng - Mẫu 5

Lịch sử dân tộc Việt Nam là những trang sử hào hùng về những tháng năm dựng nước và giữ nước. Đất nước rạng rỡ ngày hôm nay được bắt đầu từ thuở Hùng Vương lập nước. Đến muôn đời sau, con dân nước Việt vẫn nhớ ơn Vua Hùng. Truyền thống ấy được Bác Hồ ca ngợi: “Các Vua Hùng đã có công dựng nước. Bác cháu ta phải giữ lấy nước” và thể hiện ở lễ hội Đền Hùng hằng năm.

Trong tiến trình lịch sử dựng nước và giữ nước, người Việt đã hình thành trong tâm thức của mình Vua Hùng là vị vua dựng nước. Giỗ Tổ Hùng Vương mùng 10 tháng 3 Âm lịch hàng năm là ngày để cả dân tộc tưởng nhớ, biết ơn tiền nhân đã có công sinh thành giống nòi, khai mở bờ cõi, tạo dựng hình hài đất nước. Ngày lễ trọng đại ấy đã đi vào ca dao:

“Dù ai đi ngược về xuôi

Nhớ ngày Giỗ Tổ mồng Mười tháng Ba”

Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương không phân biệt huyết thống, dòng họ, không phân chia địa lý, vùng miền, dân tộc, làm nên giá trị cốt lõi của văn hóa Việt Nam và sức mạnh khối đại đoàn kết dân tộc.

Lễ hội Đền Hùng hàng năm được tổ chức tại Đền Hùng, tọa lạc trên núi Nghĩa Lĩnh, xã Hy Cương, Thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ. Lễ hội thường kéo dài từ ngày 6/3 đến hết ngày 10/3 âm lịch, tùy theo thời gian từng năm. Trong những ngày đó, trên địa bàn tỉnh Phú Thọ cũng triển khai rất nhiều hoạt động, chương trình chào mừng đặc sắc khác để du khách gần xa có thể đến tham gia.

Phần lễ của lễ hội này được tổ chức rất trang trọng, hoành tráng, có sự tham dự của các chính khách ở Trung ương và những vị chức sắc, vai vế lớn trong làng. Mở đầu buổi lễ, khi tiếng nhạc phường bát âm bắt đầu phát ra, chủ tế sẽ đọc lời cầu nguyện trước ngai thờ của vua Hùng. Kết thúc mỗi lần đọc sẽ kèm theo một hồi trống và chiêng hiệu, sau đó đoàn tế tiến lên phía trước tiền đường, thực hiện nghi thức quỳ lạy rồi lùi về sau. Tham gia phần lễ, bạn sẽ được chiêm ngưỡng hình ảnh lễ hội Đền Hùng rực rỡ với những đoàn kiệu sơn son thiếp vàng, cờ hoa, ô lọng đầy màu sắc, được rước bởi những nam thanh nữ tú trong làng.

Về phần hội của lễ hội Đền Hùng có rất nhiều hoạt động hấp dẫn. Đầu tiên phải kể đến việc chiêm ngưỡng các tác phẩm, ấn phẩm, tư liệu về Hùng Vương. Bạn có thể đến Bảo tàng, khu di tích Đền Hùng để ngắm nhìn những tác phẩm, tư liệu liên quan đến Hùng Vương cũng như phong tục, tín ngưỡng thờ cúng của người dân. Không chỉ vậy, ta còn có thể thưởng thức những tiết mục biểu diễn văn hóa dân gian đặc sắc như: đánh trống đồng, hát xoan, đâm đuống, trình diễn múa rối nước,... Ngoài ra, các hội thi thú vị mang đậm văn hóa cội nguồn là một nét đẹp không thể thiếu. Hàng loạt hội thi nấu bánh chưng và giã bánh dày siêu thú vị, thi bơi chải trên Hồ công viên Văn Lang,... đã từng nhận được rất nhiều sự quan tâm của du khách.

Hiện nay, trên cả nước có 1.417 di tích thờ Hùng Vương và các nhân vật thời Hùng Vương, trải khắp các vùng, miền, riêng tỉnh Phú Thọ - vùng đất cội nguồn dân tộc có 345 di tích. Lễ hội Đền Hùng còn có ý nghĩa sâu sắc đối với đời sống tâm linh của người dân Việt Nam, được tổ chức để tưởng nhớ và tôn vinh công lao dựng nước và giữ nước của các vị vua Hùng. Việc bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống lễ hội dân gian tại các di tích này đã tạo thành hệ thống di sản vật thể và phi vật thể mang đậm bản sắc văn hóa Việt Nam.

Dịp Giỗ Tổ Hùng Vương - Lễ hội Đền Hùng hàng năm như một niềm tự hào hãnh diện với thế giới về một di sản văn hóa vô cùng giá trị, độc đáo, đã tồn tại hàng nghìn năm, ăn sâu vào tâm hồn, tình cảm, trở thành truyền thống đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” của đồng bào cả nước và kiều bào ta ở nước ngoài. Qua đó, nhân dân ta tiếp tục khơi dậy, phát huy sức mạnh truyền thống đại đoàn kết dân tộc trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam ngày càng vững mạnh và phát triển.

Thuyết trình về lễ hội Đền Hùng - Mẫu 6

“Ta về tìm lại ngày xưa

Trời xanh rất vắng, nắng trưa rất vàng

Ta về gom những mơ màng

Tìm trong trầm tích Văn Lang một thời.”

(Trích thơ Văn Việt Trì)

Qua những vần thơ trên đã diễn tả những cảm xúc dạt dào, tha thiết về cội nguồn của dân tộc, về lịch sử 4000 năm dựng nước và giữ nước của ông cha ta, của các vị vua Hùng.

Dù ở bất cứ đâu những người con Việt Nam mãi luôn nhớ về những chiến công vang dội, những công lao to lớn đặt xây nền móng đầu tiên từ lúc sơ khai của đất nước Việt Nam. Hằng năm, cứ đến mồng 10 tháng 3 là con dân ở khắp đất nước, kiều bào đều tụ hội về đền Hùng để tưởng niệm, nhớ ơn, thể hiện tấm lòng thành kính trước tổ tiên, thế hệ đi trước, đây cũng chính là nét văn hóa lâu đời từ ngàn đời nay của dân tộc Việt Nam.

“Cây có cội, nước có nguồn”, cội nguồn của dân tộc Việt Nam là hai tiếng đồng bào thân thương, gắn liền với truyền thuyết xa xưa Lạc Long Quân và Âu Cơ sinh ra bọc trăm trứng với 50 người con xuống biển, 50 người con lên non thay nhau cai quản. Nhà nước Văn Lang là nhà nước đầu tiên ra đời và phát triển trên nền tảng của nền văn hóa sơn vi rực rỡ. Khu di tích Đền Hùng nằm trên vùng đất Đế Đô của nhà nước Văn Lang đã mang trong mình từ chiều dài từ hàng ngàn năm lịch sử. Nằm trong khu vực trung tâm chính của nhà nước Văn Lang, được tọa lạc vị thế độc đáo ngay giữa hai dòng sông biếc bao bọc lấy cố đô.

Đền Hùng được dựng núi Nghĩa Linh giữa vùng đất Phong Châu, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ, trải dài từ chân núi đến đỉnh núi Nghĩa Linh với chiều cao 175 mét. Núi Nghĩa Linh hay còn được gọi là núi Cả hay núi Hùng là ngọn núi cao nhất ở đây. Núi Hùng trông từ xa như một cái đầu rồng lớn đầy uy nghi, hùng vĩ, uốn lượn trong mây trời, ở phía xa xa là dãy núi san sát nối liền nhau xa tít tận chân trời. Tương truyền vua Hùng phải đi khảo sát nhiều nơi, mới có thể tìm ra vùng đất ngút ngàn linh khí, hòa hợp giữa đất trời, thiên nhiên, vạn vật này để định đô, có lẽ vì thế mà dù trải qua hàng nghìn năm nhưng những cảnh sắc, cây cỏ nơi đây vẫn luôn mang sự huyền ảo, rực rỡ, cuốn hút đến vậy.

Đền thấp nhất ở chân núi chỉ cần leo thêm 168 bậc nữa là sẽ đến đền Trung, đây là ngôi đền được biết đến xây dựng vào khoảng thế kỷ 14 và được trùng tu vào những năm 1988. Nhắc đến đền Thượng, người dân xưa thường tương truyền đây là nơi thường diễn ra các buổi tế lễ, cúng kiến cầu mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, đất nước thịnh vượng, thái bình. Mộ của vị vua Hùng thứ 6, tương truyền ông là người lãnh đạo nhân dân Văn Lang chống lại sự xâm lược của nhà Ân, được đặt phía bên trái của đền Thượng, mặt lăng qua theo hướng đông nam, vốn là một mộ đất.

“Dù ai đi ngược về xuôi, nhớ ngày giỗ tổ mùng 10 tháng 3”, quả thật vậy hoạt động văn hóa, lễ hội như mang tính truyền thống gắn kết của cả một dân tộc, từ thế hệ này sang thế hệ khác. Từ chân núi sẽ là nơi thấp nhất gọi là đền Hạ đây là nơi được người xưa kể rằng mẹ Âu Cơ đã sinh ra bọc 100 trứng sinh ra con người Văn Lang. Tiếp lên trên sẽ là đền Trung là nơi bàn chính sự, hội họp, bàn bạc việc quan trọng của vua và các quần thần. Và lên cao nhất ở đỉnh núi đó là đền Thượng, đây cũng chính là nơi thờ của vị vua Hùng thứ 6. Hằng năm, con dân từ khắp đất nước đều tụ hội về đền Hùng trang trọng cung kính biết ơn.

Ngoài nghi thức trang nghiêm này còn có các hoạt động văn hóa đa dạng như lễ rước kiệu vua và lễ dâng hương. Đây là hình thức lễ hội vô cùng trang nghiệm, kính lễ với các bậc đi trước, những người đã khuất, mọi người sẽ nâng kiệu từ ở dưới chân núi qua các đền và chùa ở trên núi Hùng. Đoàn người nâng kiệu ăn mặc gọn gàng, trang trọng và cẩn thận nhất, mỗi người cầm một loại vũ khí thời xưa để mô phỏng tái hiện lại công lao to lớn của ông cha ta. Tiếng chiêng, tiếng trống rộn ràng, đoàn rước kiệu đi đến đầu tiên là “điện kính thiên”, tại đây cả đoàn sẽ tạm dừng để thực hiện nghi lễ dân hương.

Sau nghi thức dâng hương mọi người sẽ tiếp tục di chuyển lên đến ngôi đền cao nhất đền Thượng, vị đại biểu cho nhân dân cả nước sẽ đứng lên phát biểu sự trân trọng, biết ơn đối với các vị vua Hùng, những hy vọng mong ước an lành thịnh vượng của đất nước. Bên cạnh lễ hội truyền thống còn có các sinh hoạt văn hóa cổ xưa như chọi gà, đấu vật, đánh cờ người. Đặc biệt là nghệ thuật hát xoan, chèo, quan họ đặc trưng của dân tộc ta, làn điệu mượt mà như cuốn hút con người về với đất tổ thân thương, hòa mình vào truyền thống lịch sử vẻ vang của dân tộc từ ngàn đời. Với đa dạng các hoạt động cổ xưa, truyền thống, mỗi năm cứ đến mùng 10 tháng 3 là lượt khách đến thăm đền Hùng lại vô cùng đông đúc, ai cũng muốn được bày tỏ sự biết ơn của mình, trân trọng sâu sắc.

Lễ hội đền Hùng là một phong tục tập quán có từ ngàn đời, nối gót thế hệ đi trước luôn gìn giữ và phát huy những giá trị đẹp của dân tộc. Ai ai đến đây đều mang trong lòng sự thành kính đối với các vị vua Hùng, làm cho chúng ta càng thêm tự hào về nguồn cội con rồng cháu tiên, về truyền thuyết bọc trăm trứng từ xa xưa của cả một dân tộc kiên cường, anh hùng. Khu di tích lịch sử Đền Hùng vào năm 2009 được công nhận là di tích lịch sử đặc biệt quốc gia. Năm 2011, nghệ thuật hát xoan, khúc hát vang dội dấu ấn lịch sử Hùng Vương đã trân trọng được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể cần được gìn giữ và phát triển.

Giỗ tổ Hùng Vương, là lễ hội lớn của dân tộc ta, về với đền Hùng là về với cội nguồn dân tộc thân thương, về với những chiến công hiển hách, công lao dựng nước giữ nước của ông cha ta. Đền Hùng đã và đang ngày càng khẳng định nét văn hóa, di sản to lớn đáng tự hào của đồng bào dân tộc Việt Nam qua bao đời thế hệ.

Thuyết trình về lễ hội Đền Hùng - Mẫu 7

Thưa cô và các bạn, em tên là Nguyễn Hải Ninh. Trong buổi thực hành nói và nghe ngày hôm nay, em xin được thuyết trình về lễ hội Đền Hùng. Mong cô và các bạn chú ý lắng nghe!

Chắc hẳn mỗi chúng ta đều ghi nhớ câu ca dao: "Dù ai đi ngược về xuôi/ Nhớ ngày giỗ Tổ mùng 10 tháng Ba". Câu ca dao này đã nhắc nhở chúng ta về cội nguồn của dân tộc. Như cô và các bạn đã biết, ngày giỗ Tổ Hùng Vương là ngày lễ lớn của cả dân tộc. Đây không chỉ là dịp để người dân Việt Nam nhớ về cội nguồn của mình mà còn là dịp để mỗi người thể hiện lòng biết ơn đối với các thế hệ cha ông đã có công xây dựng và bảo vệ đất nước.

Lễ hội Đền Hùng được tổ chức từ ngày mồng 1 đến ngày mồng 10 tháng ba hàng năm tại núi Nghĩa Lĩnh, xã Hy Cương, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ. Lễ hội được chia làm hai phần chính bao gồm: phần lễ và phần hội.

Trước hết, lễ giỗ đức Quốc Tổ Lạc Long Quân và lễ dâng hương tưởng niệm Tổ Mẫu u Cơ sẽ được tổ chức vào ngày mồng 6 tháng ba âm lịch. Đến ngày mồng 10, ngày chính của lễ hội, người dân sẽ tiến hành lễ rước kiệu và dâng hương trên đền Thượng. Rước kiệu vua xuất phát từ dưới chân núi, đi qua lần lượt các đền rồi kết thúc tại đền Thượng, nơi làm lễ dâng hương. Trong lễ dâng hương, người dân sẽ dâng lễ vật lên ban thờ các vị vua để thể hiện lòng thành của mình.

Sau tế lễ, có rất nhiều hoạt động sôi nổi, thú vị diễn ra như đánh trống đồng, đâm đuống tại khu vực nhà Công Quán, trình diễn Hát Xoan làng cổ, trình diễn múa rối nước. Một số hội thi và trò chơi dân gian được tổ chức càng làm cho bầu không khí của buổi lễ thêm phần náo nhiệt, tươi vui hơn, có thể kể đến như hội thi gói, nấu bánh chưng và giã bánh giầy, giải bơi chải trên hồ công viên Văn Lang,... Đây đều là những hoạt động được người dân và du khách tham quan mong chờ, tham gia, hưởng ứng.

Chính vì vậy, lễ hội Đền Hùng đã trở thành biểu tượng văn hóa của dân tộc Việt Nam, mang giá trị văn hóa tâm linh sâu sắc, thể hiện đạo lí "uống nước nhớ nguồn" và tinh thần đoàn kết, gắn bó của toàn thể dân tộc Việt Nam.

Phần thuyết trình của em đến đây là kết thúc. Em cảm ơn cô và các bạn đã chú ý lắng nghe! Em mong rằng sẽ nhận được lời góp ý từ cô và các bạn để bài thuyết trình ngày càng hoàn thiện hơn nữa!

Thuyết trình về lễ hội Đền Hùng - Mẫu 8

Đền Hùng biểu tượng lịch sử của dân tộc Việt Nam, khu di tích lịch sử Đền Hùng là nơi thờ phụng các Vua Hùng những người có công dựng nước từ xa xưa. Giỗ Tổ mồng 10 tháng 3 trở thành ngày lễ trọng đại của dân tộc.

Đền Hùng xây dựng trên núi Nghĩa Lĩnh, hiện nay thuộc Hy Cương, Việt Trì, Phú Thọ. Nơi đây là tập hợp lăng tẩm, miếu, thờ các vua Hùng. Nếu du khách đi từ chân núi sẽ bắt đầu khám phá nơi thấp nhất đó là đền Hạ – nơi đây theo dân gian tương truyền mẹ Âu Cơ đẻ ra bọc trứng, nửa còn lại theo cha số còn lại theo mẹ. Tiếp đến du khách sẽ được khám phá đền Trung địa điểm thường tổ chức các cuộc hội họp bàn các vấn đề quốc gia của vua Hùng thử xưa, qua đền Trung sẽ đến đền Thượng nơi thờ vua Hùng thứ 6 đây chính là vị trí cao nhất.

Mỗi năm ngày giỗ tổ Hùng Vương được tổ chức rất linh đình theo nghi thức quốc gia, Giỗ Tổ bao gồm có 2 phần riêng biệt đó là phần lễ và phần hội. Lễ Rước Kiệu với các đền, chùa trên núi, các vị lãnh đạo của đất nước dâng hương lên vua Hùng tổ chức tại đền Thượng. Các nghi thức tổ chức, dâng hương sẽ được tổ chức long trọng, thành kính và sẽ được báo chí, phát thanh truyền hình đưa tin. Đồng bào trong cả nước được dâng lễ trong các đền, chùa, với sự thành kính và cầu mong yên bình, làm ăn thành công.

Bên cạnh đó phải nhắc đến lễ Dâng Hương các đền, chùa trên núi. Lễ hội còn giúp người dân tham gia sinh hoạt văn hoá cổ xưa. Người dân sẽ được xem các trò chơi như đấu vật, chọi gà, rước kiệu, đánh cờ người…. Còn có sân khấu riêng của các đoàn nghệ thuật: chèo, kịch nói, hát quan họ,… Các nghệ sĩ, nghệ nhân từ nhiều nơi về đây để trình diễn những làn điệu hát xoan mượt mà, đặc sắc mang đến cho cho lễ hội đền Hùng đặc trưng riêng của Đất Tổ.

Những người đến đây không chỉ là xem lễ hội mà còn thể hiện sự tâm linh, thành kính với quê hương đất Tổ, ai cũng biết đây là nơi gốc gác linh thiêng,cội nguồn của dân tộc. Hàng năm, cứ đến mùng 10 tháng 3, người dân và du khách tham gia trẩy hội đền Hùng, đây là nét đẹp truyền thống của dân tộc Việt Nam. Lễ hội rất linh thiêng và thể hiện sự biết ơn công lao dựng nước và giữ nước của các vua Hùng.

Thuyết trình về lễ hội Đền Hùng - Mẫu 9

Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày Giỗ Tổ mồng 10 tháng 3
Khắp miền truyền mãi câu ca
Nước non vẫn nước non nhà ngàn năm.

Từ nhiều đời nay, trong đời sống tinh thần của người Việt Nam, đã luôn hướng tới một điểm tựa của tinh thần văn hoá – đó là lễ hội Đền Hùng và Giỗ Tổ Hùng Vương, được tổ chức vào ngày 10 tháng 3 âm lịch. Hàng năm, lễ hội Giỗ Tổ vẫn được tổ chức theo truyền thống văn hoá của dân tộc. Vào những năm chẵn (5 năm một lần), Giỗ Tổ được tổ chức theo nghi lễ quốc gia, năm lẻ do tỉnh Phú Thọ tổ chức. Việc tổ chức lễ hội Giỗ Tổ rất chặt chẽ, bao gồm hai phần: lễ và hội.

Lễ hội Rước Kiệu được duy trì trang nghiêm trong các đền, chùa trên núi Hùng. Nghi thức dâng hương hoa của các đoàn đại biểu của Đảng, Chính phủ, các địa phương trong toàn quốc,… được tổ chức long trọng tại đền Thượng. Từ chiều ngày mồng 9, làng nào được Ban tổ chức lễ hội cho phép rước kiệu dâng lễ đã tập trung tại nhà bảo tàng dưới chân núi, trên kiệu đặt lễ vật. Sáng sớm ngày mồng 10, các đoàn đại biểu tập trung ở một địa điểm tại thành phố Việt Trì, có xe tiêu binh rước vòng hoa dẫn đầu, diễu hành tới chân núi Hùng. Các đoàn đại biểu xếp hàng chỉnh tề đi sau kiệu lễ, lần lượt lên đền theo tiếng nhạc của phường bát âm và đội múa sinh tiền. Tới trước thềm của “Điện Kính Thiên”, đoàn dừng lại, kính cẩn dâng lễ vào thượng cung đền Thượng. Một đồng chí lãnh đạo tỉnh (năm chẵn là nguyên thủ quốc gia hoặc đại biểu đại diện Bộ Văn hoá), thay mặt cho tỉnh và nhân dân cả nước đọc chúc căn lễ Tổ. Toàn bộ nghi thức hành lễ được hệ thống báo chí, phát thanh truyền hình đưa tin hoặc tường thuật trực tiếp để đồng bào cả nước có thể theo dõi lễ hội. Đồng bào dâng lễ trong các đền, chùa trên núi, ai cũng có tâm nguyện cầu mong tổ tiên chứng giám, phù hộ độ trì cho con cháu. Lễ Dâng Hương sẽ được diễn ra tưng bừng, náo nhiệt xung quanh các đền, chùa và dưới chân núi Hùng. Lễ hội ngày nay có nhiều hình thức sinh hoạt văn hoá hơn xưa. Các hình thức văn hoá truyền thống và hiện đại được đan xen nhau. Trong khu vực của hội, nhiều cửa hàng bán đồ lưu niệm, văn hoá phẩm, các cửa hàng dịch vụ ăn uống, các khu văn thể,… được tổ chức và duy trì một cách trật tự, quy củ. Tại khu văn thể, các trò chơi văn hoá dân gian được bảo lưu có chọn lọc như: đu quay, đấu vật, chọi gà, bắn nỏ, rước kiệu, kéo lửa nấu cơm thi, đánh cờ tướng (cờ người)…. Có năm còn diễn trò “Bách nghệ khôi hài”, “Rước chúa gái”, “Rước lúa thần” và trò “Trám” tại khu vực hội. Cạnh đó là sân khấu của các đoàn nghệ thuật chuyên nghiệp: chèo, kịch nói, hát quan họ,… Hội ngày nay chính là nơi để thi tuyển và giao lưu văn hoá giữa các vùng, các nghệ nhân người Mường mang đến lễ hội thanh âm của tiếng trống đồng một thời dóng trên đỉnh núi Hùng, gọi mặt trời làm mưa, làm nắng thuận hoà, cho mùa màng tốt tươi, muôn dân hạnh phúc. Những làn điệu Xoan – Ghẹo với lời ca tinh tế, mượt mà đã đem tới cho lễ hội đền Hùng một nét đặc trưng, thấm đượm văn hoá vùng Trung du Đất Tổ. Một điểm quan trọng nằm ở giữa trung tâm lễ hội là nhà bảo tàng Hùng Vương, ở đây lưu giữ vô số những cổ vật đích thực của thời đại các Vua Hùng.

Thời đại của chúng ta ngày nay đang ngày càng góp sức tô điểm và phát huy sự cao đẹp của lễ hội Giỗ Tổ Hùng Vương. Hàng năm, ý nghĩa tâm linh của cuộc trẩy hội về Đền Hùng đã trở thành nếp nghĩ, nếp sinh hoạt truyền thống không thể thiếu trong đời sống văn hoá tinh thần tín ngưỡng của người Việt Nam. Không phân biệt già trẻ, không phân biệt tuổi tác, không phân biệt tôn giáo…. Tất cả những người con đang sống trên mọi miền Tổ quốc, những người con xa xứ đều bình đẳng về mộ Tổ, thăm đền và dự lễ hội Giỗ Tổ Hùng Vương.

Thuyết trình về lễ hội Đền Hùng - Mẫu 10

Là người Việt Nam, không ai là không biết đến câu ca:

“Dù ai đi ngược về xuôi

Nhớ ngày Giỗ Tổ mồng mười tháng ba

Khắp miền truyền mãi câu ca

Nước non vẫn nước non nhà ngàn năm.”

Lễ hội đền Hùng giỗ tổ Hùng Vương (được tổ chức ngày mồng mười tháng ba hàng năm) từ lâu đã trở thành một tục lệ trong đời sống tinh thần của người Việt Nam, một điểm tựa của tinh thần văn hoá. Giỗ Tổ Hùng Vương từ rất lâu đã trở thành ngày lễ hội trọng đại của cả dân tộc. Dù ở phương trời nào, người Việt Nam đều nhớ ngày giỗ Tổ mà hướng về vùng đất Phú Thọ. Từ các triều đại phong kiến Việt Nam, Đinh Lý Trần Lê, Đền Hùng đã là nơi tưởng nhớ, tôn vinh công lao các Vua Hùng, là biểu tượng của khối đại đoàn kết dân tộc ta.

Ngày này hàng năm, lễ hội đền Hùng vẫn được tổ chức theo truyền thống văn hoá của dân tộc. Không chỉ để tưởng nhớ tổ tiên cội nguồn, lễ hội Đền Hùng còn nhằm giáo dục truyền thống "Uống nước nhớ nguồn", ghi nhớ mười tám vị Vua Hùng đã có công dựng nước và lớp lớp các bậc tiền nhân kiên cường chống giặc ngoại xâm giữ nước.

Lễ hội đền Hùng được diễn ra vào ngày mồng mười tháng ba. Từ thuở xưa lễ hội đền Hùng đã có một đặc thù riêng là phần lễ nặng hơn phần hội. Người về dự hội là hướng về tổ tiên với sự tôn kính và lòng biết ơn sâu sắc (Uống nước nhớ nguồn). Phần hội chỉ là phần phụ để không khí thêm vui tươi, náo nhiệt trong ngày này.

Phần lễ gồm tế lễ của triều đình sau đó là phần lễ của dân. 41 làng thuộc tỉnh Phú Thọ được rước kiệu từ đình làng mình đến Đền Hùng. Các kiệu đều được sơn son thếp vàng, chạm trổ đẹp mắt, được rước đi trong không khí vừa trang nghiêm vừa vui vẻ với tiếng chiêng, trống, nhạc bát âm rộn rã một vùng. Phần hội gồm các trò chơi dân gian như đánh vật, ném còn, cờ người, bắn cung nỏ… và đặc biệt nhất là các đêm hát xoan, hát ghẹo – hai làn điệu dân ca độc đáo riêng ở Châu Phong.

Vào những năm chẵn (5 năm một lần), giỗ Tổ được tổ chức theo đúng nghi lễ quốc gia, năm lẻ do tỉnh Phú Thọ tổ chức. Dù năm chẵn hay lẻ lễ hội Giỗ Tổ vẫn rất chặt chẽ, bao gồm hai phần lễ và hội. Ngày 2-9-1945, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa được khai sinh đánh dấu bước ngoặt lịch sử mới của dân tộc ta. Giỗ Tổ Hùng Vương năm 1946 là một sự kiện hết sức đặc biệt, đáng ghi nhớ.Cụ Huỳnh Thúc Kháng, Phó Chủ tịch nước bấy giờ, đã thay mặt Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hoà lên làm lễ dâng hương tại Đền Hùng.

Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn cán bộ "Các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước". Lời căn dặn như lời hứa quyết tâm của vị lãnh tụ đứng đầu đất nước.

Có lẽ không một dân tộc nào trên thế giới có chung một ngày giỗ Tổ như dân tộc ta. Từ huyền thoại Âu Cơ và Lạc Long Quân đẻ ra trăm trứng, nửa theo Cha xuống biển, nửa theo mẹ lên rừng đã khơi dậy ý thức về dân tộc và gắn kết chúng ta thành một khối đại đoàn kết. Vì thế mà hai chữ đồng bào là khởi nguồn của yêu thương, đùm bọc, của sức mạnh Việt Nam.

Phần lễ được tổ chức trang nghiêm trong các đền, chùa trên núi Hùng. Nghi thức dâng hương, dâng hoa của các đoàn đại biểu của Đảng, Chính phủ, các địa phương trong toàn quốc,… được tổ chức trang nghiêm và long trọng tại đền Thượng. Từ chiều ngày mồng 9, làng được Ban tổ chức lễ hội cho phép rước kiệu dâng lễ đã tập trung đông đủ tại nhà bảo tàng dưới chân núi, trên kiệu đặt lễ vật. Sáng mồng 10, các đoàn đại biểu tập trung ở thành phố Việt Trì, xe tiểu binh rước vòng hoa dẫn đầu, diễu hành đến chân núi Hùng.

Tới trước thềm của "Điện Kính Thiên”, đoàn đại biểu kính cẩn dâng lễ vào thượng cung đền Thượng. Nguyên thủ quốc gia hoặc đại biểu đại diện Bộ Văn hoá, thay mặt cho tỉnh và nhân dân cả nước đọc chúc văn lễ Tổ. Toàn bộ nghi thức hành lễ được báo chí, truyền hình đưa tin hoặc tường thuật trực tiếp để đồng bào cả nước theo dõi lễ hội. Người đi lễ dâng lễ trong các đền, chùa trên núi, ai cũng có tâm nguyện cầu mong tổ tiên phù hộ độ trì cho con cháu.

Lễ hội ngày nay có nhiều hình thức diễn ra văn hoá hoá xưa. Các hình thức văn hoá được đan xen giữa truyền thống và hiện đại. Trong khu vực diễn ra hội, nhiều cửa hàng bán đồ lưu niệm, văn hoá phẩm, các cửa hàng dịch vụ ăn uống, các khu văn hóa, thể thao,… được duy trì trong nhiều năm nay.

Các trò chơi văn hoá dân gian được duy trì đến ngày nay như: đu quay, đấu vật, chọi gà, kéo lửa, nấu cơm thi, đánh cờ tướng (cờ người)… Bên cạnh đó là sân khấu của các đoàn nghệ dân chuyên nghiệp: chèo, hát quan họ, kịch nói,… Đây chính là nơi để thi tuyển và giao lưu văn hoá giữa các vùng. Những làn điệu hát Xoan – Ghẹo với lời ca tinh tế mượt mà đã đem tới cho lễ hội một nét đặc trưng, thấm đượm văn hoá vùng đất Phú Thọ.

Tổ tiên người Việt Nam luôn muốn nhắc nhở con cháu: nên làm tròn bổn phận nhiệm vụ của mình, giữ kỷ cương, gia đình sẽ yên ổn, xã hội được an cư lạc nghiệp phồn vinh, phát triển. Lời dạy bảo này không chỉ được nhắc nhở hằng năm thông qua ngày hội giỗ mà còn được khắc ghi trên trống đồng Đông Sơn, biểu tượng thiêng của dân tộc, gửi gắm trong hình tượng mặt trời nằm rạng rỡ giữa trông đồng.

Thông qua lễ hội đền Hùng, tổ tiên ta còn muốn nhắc nhở hậu thế những kế sách giữ nước, yên dân. Suốt mấy nghìn năm trông coi và gìn giữ, đánh giặc và dựng xây, lễ hội đền Hùng đã trở thành biểu tượng của tinh thần, là cội nguồn của sức mạnh, chói sáng của một nền văn hóa.

Không chỉ người Việt chúng ta tự hào về Đền Hùng và ngày giỗ Tổ, mà nhìn vào những dòng lưu bút của các đoàn đại biểu quốc tế và bạn bè khắp năm châu bốn biển cũng đã từng đến thăm viếng Đền Hùng. Chúng ta thật sự tự hào khi được biết Đến Hùng và các di tích trên đỉnh núi Nghĩa Lĩnh đã làm cho cả thế giới phải cúi đầu vị nể ý thức cội nguồn dân tộc của chúng ta. Trong những dòng lưu bút thừa nhận. "Đền Hùng là nơi đặt nền móng cho lịch sử Việt Nam…".

Lịch sử là một dòng chảy liên tục. Qua mấy nghìn năm, bao biến động thăng trầm, Đền Hùng và ngày giỗ Tổ mồng mười tháng ba âm lịch vẫn là điểm sáng của bốn phương tụ hội, nơi con cháu lưu công đức Tổ tiên, là biểu tượng của dân tộc và văn hóa Việt Nam – một dân tộc đã có truyền thống dựng nước và giữ nước hàng nghìn năm.

Đánh giá

0

0 đánh giá