TOP 20 bài Phân tích một đoạn thơ em yêu thích trong Truyện Kiều 2024 SIÊU HAY

1.3 K

Tailieumoi.vn xin giới thiệu bài văn mẫu Phân tích một đoạn thơ em yêu thích trong Truyện Kiều Ngữ văn 9 Cánh diều, gồm dàn ý và các bài văn phân tích mẫu hay nhất giúp các em học sinh có thêm tài liệu tham khảo từ đó học cách viết văn hay hơn.

Phân tích một đoạn thơ em yêu thích trong Truyện Kiều

Đề bài: Hãy phân tích một đoạn thơ mà em yêu thích trong Truyện Kiều (Nguyễn Du).

Dàn ý Phân tích một đoạn thơ em yêu thích trong Truyện Kiều

a. Mở bài

- Giới thiệu về Truyện Kiều và đoạn trích Chị em Thúy Kiều:

+ Truyện Kiều là kiệt tác văn học của Nguyễn Du, giàu tính hiện thực, nhân đạo và mang nhiều giá trị nghệ thuật to lớn.

+ Đoạn trích nằm ở phần mở đầu tác phẩm, giới thiệu gia cảnh của Thuý Kiều, đặc biệt miêu tả tài sắc của Thuý Kiều và Thuý Vân.

b. Thân bài

* Khái quát vấn đề chung

+ Miêu tả nhân vật, khắc họa tính cách và số phận của con người là tài năng của Nguyễn Du, đây là thành công lớn của ông.

+ Miêu tả nhân vật chính diện: sử dụng bút pháp lý tưởng hóa nhân vật. Miêu tả nhân vật phản diện: bút pháp hiện thực hóa. Đoạn trích Chị em Thúy Kiều thể hiện vẻ đẹp toàn bích tới chuẩn mực Á Đông là hai nàng Vân, Kiều.

* Phân tích vẻ đẹp nhân vật Thúy Vân

-Ban đầu, Nguyễn Du gợi tả vẻ đẹp của chị em Thúy Kiều từ hình ảnh thiên nhiên: mai, tuyết. Bút pháp ước lệ gợi ấn tượng về vẻ đẹp với cốt cách như mai, thanh tao, và cốt cách trong trắng, tinh khôi như tuyế

- Bốn câu thơ miêu tả vẻ đẹp của Thúy Vân: thanh cao, duyên dáng, trong trắng.

+ Câu thơ “Vân xem trang trọng khác vời” khái quát được vẻ đẹp cao sang, quý phái của nàng.

+ Vẻ đẹp của Vân sánh với những thứ đẹp nhất từ tự nhiên như hoa, mây trắng, tuyết, ngọc.

+ Chân dung của Thúy Vân đẹp từ khuôn mặt, nụ cười, mái tóc, làn da, với phong thái điềm đạm (các chi tiết so sánh, ẩn dụ thú vị trong thơ).

→ Vẻ đẹp của Vân hơn mọi chuẩn mực của tự nhiên, khiến tự nhiên cúi đầu chịu ‘thua”, “nhường”, ắt hẳn cuộc đời nàng sẽ được an ổn, không sóng gió.

* Phân tích vẻ đẹp Thúy Kiều

- Tác giả tả vẻ đẹp Thúy Vân trước để làm nổi bật vẻ đẹp Thúy Kiều:

+ Kiều càng sắc sảo mặn mà: Vẻ đẹp của Thúy Kiều mặn mà về tâm hồn, sắc sảo về trí tuệ.

+ Tác giả sử dụng lối ước lệ tượng trưng: thu thủy, xuân sơn để đặc tả riêng đôi mắt trong sáng, long lanh của Kiều.

+ Thúy Kiều gợi lên là trang tuyệt thế giai nhân với vẻ đẹp khiến tự nhiên phải ganh ghét, đố kị: hoa ghen, liễu hờn.

+ Cái tài của Thúy Kiều đạt đến mức lí tưởng theo quan niệm thẩm mĩ phong kiến: cầm, kì, thi, họa.

+ Nhấn mạnh tài đàn của nàng, đặc biệt cung đàn bạc mệnh của nàng (Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân) là tiếng lòng của trái tim đa sầu, đa cảm.

→ Chân dung Thúy Kiều khiến tạo hóa ganh ghét, tài hoa thiên bẩm, tâm hồn đa sầu đa cảm dự báo số phận trắc trở, nghiệt ngã đầy sóng gió bởi “Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau”.

- Nguyễn Du miêu tả Thúy Vân trước rồi miêu tả Thúy Kiều, thủ pháp đòn bẩy này làm nổi bật vẻ đẹp của Thúy Kiều.

- Sử dụng tài tình các tính từ miêu tả vẻ đẹp Vân, Kiều (vẻ đẹp mang số phận): mặn mà, trang trọng, sắc sảo...

- Các biện pháp so sánh, ẩn dụ, nhân hóa, đối xứng, liệt kê, tăng tiến, điển tích điển cố... được sử dụng linh hoạt trong đoạn trích.

→ Bút pháp ước lệ tượng trưng là cách thể hiện con người quen thuộc trong thơ ca trung đại (miêu tả qua những công thức, chuẩn mực có sẵn được quy ước trong nghệ thuật)

c. Kết bài

- Đoạn trích khắc họa rõ nét chân dung chị em Thúy Kiều nhờ bút pháp ước lệ tượng trưng, thủ pháp đòn bẩy và các biện pháp tu từ.

- Nguyễn Du thể hiện cảm hứng nhân văn qua việc đề cao con người, ca ngợi vẻ đẹp tài năng của con người và dự cảm về kiếp người tài hoa bạc mệnh.

TOP 20 bài Phân tích một đoạn thơ em yêu thích trong Truyện Kiều 2024 SIÊU HAY (ảnh 1)

Phân tích một đoạn thơ em yêu thích trong Truyện Kiều - Mẫu 1 - Chị em Thúy Kiều

Nguyễn Du là đại thi hào của dân tộc Việt Nam, danh nhân văn hoá thế giới. Truyện Kiều là một kiệt tác của thiên tài Nguyễn Du và của nền văn học Việt Nam từ xưa đến nay. Đây là tác phẩm có giá trị rất lớn về nội dung tư tưởng và nghệ thuật. Đoạn trích “Chị em Thuý Kiều” được trích ở phần 1: Gặp gỡ và đính ước, trong Truyện Kiều. Bằng những nét vẽ điêu luyện, tài tình, Nguyễn Du đã khắc họa chân thực và sống động vẻ đẹp của hai chị em Thúy Kiều. Tuy mỗi người một vẻ nhưng ai cũng mang vẻ đẹp xưa nay hiếm có.

Mở đầu đoạn thơ, tác giả gợi tả vẻ đẹp chung của chị em Thúy Kiều. Nét phác thảo đơn sơ nhưng cũng đủ để làm hiện hình vẻ đẹp của hai tuyệt thế giai nhân:

Đầu lòng hai ả tố nga
Thuý Kiều là chị em là Thuý Vân
Mai cốt cách tuyết tinh thần
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười.

Sau khi giới thiệu vai chị vai em, Nguyễn Du đi vào miêu tả. Bút pháp tả người của Nguyễn Du trước hết là bút pháp ước lệ tượng trưng thường gặp trong thơ cổ điển. Hình ảnh ẩn dụ, ước lệ, tượng trưng “mai cốt cách tuyết tinh thần” được sử dụng tài tình để miêu tả vẻ đẹp của chị em Thuý Kiều. Cả hai chị em mang vóc dáng thanh cao, mảnh dẻ, yểu điệu, mềm mại như dáng mai. Suy nghĩ, tình cảm, tâm hồn trắng trong như tuyết. Hai người với hai vẻ đẹp khác nhau nhưng đều đẹp “mười phân vẹn mười”.

Tiếp sau đó, tác giả gợi tả vẻ đẹp của Thuý Vân bằng các hình ảnh chọn lọc, từ ngữ tiêu biểu:

Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da.

Câu thơ mở đầu giới thiệu khái quát được nhân vật bằng 4 chữ “trang trọng khác vời”, nói lên vẻ đẹp cao sang quí phái của Thuý Vân. Vẫn bằng bút pháp ước lệ tượng trưng với những hình ảnh quen thuộc nhưng khi tả Thúy Vân, tác giả có nhiều hướng tả cụ thể trong thủ pháp liệt kê cụ thể, trong việc sử dụng từ ngữ để làm nổi bật riêng, đối tượng miêu tả “đầy đặn”, “nở nang”, “đoan trang”. Nguyễn Du còn sử dụng biện pháp ẩn dụ nhân hoá: khuôn trăng nét ngài hoa cười ngọc thốt mây thua tuyết nhường góp phần thể hiện vẻ đẹp phúc hậu cao quý của Thuý Vân. Khuôn mặt tròn trịa toả sáng đầy đặn như mặt trăng, lông mày sắc nét đậm như con ngài, miệng cười tươi như hoa, giọng nói trong trẻo toát ra từ hàm răng ngà ngọc, mái tóc đen óng nhẹ hơn mây, da trắng mịn hơn tuyết, tính cách nghiêm trang đứng đắn. Qua đó, Thuý Vân hiện lên là cô gái đoan trang phúc hậu. Chân dung Thuý Vân là chân dung mang tính cách, số phận. Vẻ đẹp của Thuý Vân tạo sự hoà hợp êm đềm với xung quanh mây thua tuyết nhường , nên nàng sẽ có một cuộc đời bình lặng suôn sẻ hạnh phúc.

Sau khi miêu tả vẻ đẹp của Thuý Vân tác giả miêu tả vẻ đẹp của Thuý Kiều. Nếu Thuý Vân được giới thiệu qua 4 câu với vẻ đẹp cộng phẩm chất thì Thuý Kiều được miêu tả qua 12 câu. Đây là nghệ thuật đòn bẩy nhằm làm nổi bật nhân vật chính của tác giả:

Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn
Làn thu thuỷ nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh
Một mai nghiêng nước nghiêng thành
Sắc đành đòi một tài đành hoạ hai.

Cũng như lúc tả Vân, câu thơ đầu khái quát đặc điểm nhân vật. Kiều sắc sảo về trí tuệ, mặn mà về tâm hồn. Gợi tả vẻ đẹp của Kiều, tác giả vẫn dùng những hình ảnh ước lệ ẩn dụ làn thu thuỷ nét xuân sơn (nước mùa thu, núi mùa xuân). Nét vẽ của thi nhân thiên về gợi tả về vẻ đẹp của một giai nhân tuyệt thế. Điều đáng chú ý là khi hoạ bức chân dung Kiều, tác giả tập trung gợi tả vẻ đẹp đôi mắt, bởi đôi mắt thể hiện phần hình ảnh của tâm hồn và trí tuệ. “Làn thu thuỷ” gợi lên vẻ đẹp của đôi mắt trong sáng, long lanh, linh hoạt. “Nét xuân sơn” gợi lên đôi lông mày thanh tú, mềm mại, tươi non trên gương mặt trẻ trung. Bằng hình ảnh nhân hoá “hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh”, tác giả làm nổi bật dung nhan của Kiều đằm thắm khiến hoa phải ghen, dáng trẻ trung đầy sức sống khiến liễu phải hờn. Nàng có vẻ đẹp làm say đắm, chinh phục lòng người qua điển tích điển cố nghiêng nước nghiêng thành. Nàng quả là một trang tuyệt thế giai nhân nhưng nàng không chỉ đẹp mà còn rất đa tài:

Thông minh vốn sẵn tính trời
Pha nghề thi hoạ đủ mùi ca ngâm
Cung thương lầu bậc ngũ âm
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương
Khúc nhà tay lựa nên trương
Một thiên bạc mệnh lại càng lão nhân.

Nàng thông minh bẩm sinh, có tài làm thơ vẽ pha nghề ca hát đủ mùi, tài đàn ăn đứt, âm luật giỏi đến mức làu bậc, còn sáng tác nhạc “một thiên bạc mệnh” – chính là sự ghi lại tiếng lòng của một trái tim đa sắc đa cảm. Vẻ đẹp của Kiều là sự kết hợp giữa sắc tài và tình. Chân dung Thuý Kiều cũng là chân dung mang tính cách số phận vẻ đẹp của nàng làm cho tạo hoá phải ghen ghét vẻ đẹp của nàng hoa ghen liễu hờn nên số phận của nàng sẽ éo le đau khổ.

Bốn câu thơ cuối Nguyễn Du giới thiệu về cuộc sống của chị em Thuý Kiều tuy là khách hồng quần đẹp thế lại phong lưu rất mực, đã tới tuần cập kê nhưng cả hai vẫn sống một cuộc đời êm đềm trong khuôn phép gia giáo:

Êm đềm trướng rủ màn che
Tường đông ong bướm đi về mặc ai.

Đoạn thơ có âm điệu nhẹ nhàng tạo nên một cuộc sống yên vui êm ấm của những thiếu nữ phòng khuê.

Đoạn trích Chị em Thuý Kiều là một trong những đoạn thơ hay nhất đẹp nhất trong Thuý Kiều. Ngôn ngữ thơ điêu luyện, giàu cảm xúc, nét vẽ hàm súc gợi cảm, sử dụng biện pháp ẩn dụ nhân hoá để dựng lên bức chân dung sống động của hai chị em Thuý Kiều. Đáng quý là bức chân dung tuyệt vời ấy lại được dựng lên bằng tình yêu thương trân trọng đối với con người của tác giả.

Phân tích một đoạn thơ em yêu thích trong Truyện Kiều - Mẫu 2 - Chị em Thúy Kiều

Nguyễn Du (1765 - 1820), nhà thơ lỗi lạc của dân tộc Việt Nam, được UNESCO vinh danh là Danh nhân văn hóa thế giới, đã để lại cho đời kiệt tác "Đoạn trường tân thanh" hay còn gọi là "Truyện Kiều". Trong tác phẩm đồ sộ này, đoạn trích "Chị em Thúy Kiều" nổi bật với nghệ thuật miêu tả tinh tế, tài hoa, góp phần làm sáng tỏ vẻ đẹp tài sắc của hai nhân vật Thúy Kiều và Thúy Vân.

Mở đầu đoạn trích "Chị em Thúy Kiều", bốn câu thơ như bản dạo nhạc nhẹ nhàng, dẫn dắt người đọc vào thế giới của hai thiếu nữ xinh đẹp, tài hoa - Thúy Kiều và Thúy Vân. Bằng ngòi bút tài hoa, Nguyễn Du đã giới thiệu hai nhân vật một cách ấn tượng, đầy đủ và tinh tế.

“Đầu lòng hai ả tố nga,

Thuý Kiều là chị, em là Thuý Vân.

Mai cốt cách, tuyết tinh thần,

Mỗi người mỗi vẻ mười phân vẹn mười

"Đầu lòng hai ả tố nga, Thuý Kiều là chị, em là Thuý Vân" - câu thơ đầu tiên giới thiệu hai nhân vật chính là hai người con gái đầu lòng của gia đình họ Vương. "Tố nga" là cách gọi những người phụ nữ xinh đẹp, thanh tao, như tiên nữ giáng trần. Ngay từ đầu, tác giả đã khẳng định vẻ đẹp ngoại hình xuất chúng của hai chị em.

Câu thơ tiếp theo xác định vị thứ của hai người: "Thuý Kiều là chị, em là Thuý Vân". Cách giới thiệu này tưởng chừng đơn giản nhưng lại tạo sự tò mò, thu hút người đọc, muốn khám phá thêm về hai nhân vật này. Sử dụng hình ảnh ẩn dụ "mai" và "tuyết", Nguyễn Du đã vẽ nên bức chân dung tinh tế về vẻ đẹp của hai chị em: "Mai cốt cách, tuyết tinh thần". "Mai" tượng trưng cho sự thanh tao, mảnh mai, "tuyết" tượng trưng cho sự trong trắng, tinh khiết. Vẻ đẹp của Thúy Kiều và Thúy Vân không chỉ hoàn hảo về ngoại hình mà còn toát lên phẩm chất cao quý, thanh tao từ bên trong.

Câu thơ chốt lại khẳng định vẻ đẹp hoàn hảo của hai chị em: "Mỗi người mỗi vẻ mười phân vẹn mười". Mỗi người sở hữu một nét đẹp riêng biệt, không ai giống ai, đều đạt đến mức độ "mười phân vẹn mười"

Tiếp nối bốn câu thơ giới thiệu chung về hai chị em Thúy Kiều, Nguyễn Du dành bốn câu thơ tiếp theo để miêu tả riêng về vẻ đẹp của Thúy Vân. Bức chân dung Thúy Vân hiện lên trong thơ với những nét đẹp "trang trọng khác vời", đầy đặn, quý phái.

Vẻ đẹp của Thúy Vân được khái quát qua câu thơ đầu tiên: "Vân xem trang trọng khác vời". Hai từ "trang trọng" đã gợi lên vẻ đẹp cao sang, quý phái, đoan trang, khác biệt so với vẻ đẹp của Thúy Kiều. Vẻ đẹp của Vân không chỉ rực rỡ, kiều diễm mà còn toát lên sự thanh tao, nền nã.

Bằng bút pháp ước lệ, Nguyễn Du đã sử dụng hình ảnh "trăng", "hoa", "tuyết", "ngọc", "mây" để miêu tả cụ thể từng bộ phận trên cơ thể Thúy Vân. Khuôn mặt Thúy Vân tròn trịa, phúc hậu như vầng trăng rằm, đôi mày thanh tú, đậm nét như con ngài. Nụ cười của Thúy Vân tươi tắn, rạng rỡ như hoa, giọng nói trong trẻo, thanh tao như tiếng ngọc. Mái tóc đen mượt của Thúy Vân óng ả hơn mây, làn da trắng mịn màng hơn tuyết. Tác giả sử dụng các biện pháp tu từ ẩn dụ, so sánh, nhân hóa một cách tinh tế để làm nổi bật vẻ đẹp của Thúy Vân. So sánh: "Khuôn trăng đầy đặn", "nét ngài nở nang", "hoa cười", "ngọc thốt", "mây thua nước tóc", "tuyết nhường màu da". Nhân hóa: "mây thua", "tuyết nhường". Vẻ đẹp "trang trọng khác vời" của Thúy Vân không chỉ thể hiện ngoại hình mà còn ẩn dụ cho số phận của nhân vật. Hai chữ "thua" và "nhường" trong câu thơ "Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da" cho thấy Thúy Vân sẽ có một cuộc sống bình yên, suôn sẻ, không gặp nhiều sóng gió. Bốn câu thơ miêu tả vẻ đẹp của Thúy Vân là một bức tranh sinh động, đầy ấn tượng.

Nếu như Thúy Vân được miêu tả với bốn câu thơ đầy đặn, trọn vẹn về nhan sắc, thì Thúy Kiều lại được Nguyễn Du dành đến mười hai câu thơ để khắc họa. Bằng nghệ thuật đối lập tài tình, tác giả đã làm nổi bật vẻ đẹp "sắc sảo mặn mà" và tài năng "đủ mùi ca ngâm" của người con gái tài hoa bạc mệnh này.

"Kiều càng sắc sảo mặn mà,

So bề tài sắc lại là phần hơn"

Ngay từ câu thơ đầu tiên, Nguyễn Du đã khẳng định vẻ đẹp vượt trội của Thúy Kiều so với Thúy Vân. "Sắc sảo mặn mà" thể hiện sự sắc sảo, tinh tế trong nhan sắc, cùng với đó là sự đằm thắm, mặn mà trong tâm hồn. Vẻ đẹp ấy khiến cho người ta say mê, ngưỡng mộ, thậm chí là ghen tị.

"Làn thu thuỷ, nét xuân sơn

Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh"

Bằng bút pháp ước lệ, tác giả so sánh đôi mắt Kiều với "làn thu thuỷ", "nét xuân sơn". Đôi mắt ấy long lanh, trong trẻo như nước mùa thu, lại thanh tú, sắc sảo như ngọn núi mùa xuân. Vẻ đẹp ấy khiến cho hoa phải ghen tức, liễu phải hờn kém.

"Sắc đành đòi một, tài đành hoạ hai”

Nguyễn Du khẳng định rằng, tài năng của Thúy Kiều là vô song, không ai có thể sánh bằng. Nàng thông minh bẩm sinh, am hiểu thi ca, hội họa, âm nhạc.

"Thông minh vốn sẵn tính trời,

Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm.

Cung thương làu bậc ngũ âm,

Nghề riêng ăn đứt Hồ cầm một trương"

Nàng có thể sáng tác thơ ca, vẽ tranh, chơi đàn, ca hát. Tiếng đàn của Kiều "ăn đứt Hồ cầm một trương", thể hiện tài năng âm nhạc phi thường. Thậm chí, nàng còn có thể sáng tác nhạc phẩm "Bạc mệnh", thể hiện tâm hồn đa sầu, đa cảm của mình. Vẻ đẹp "sắc sảo mặn mà" và tài năng "đủ mùi ca ngâm" của Thúy Kiều khiến cho thiên nhiên phải ghen tị, đố kỵ. Chính điều này đã báo hiệu cho số phận bi kịch, đầy sóng gió của nàng trong tương lai.

Từ việc khắc họa bức chân dung Thúy Kiều tác giả dự báo về số phận éo le, đau khổ, một tương lai chìm nổi sẽ đến với nàng. Mặc dù tài sắc của Thúy Kiều, Thúy Vân khác nhau dự báo về tương lai cuộc sống khác nhau, nhưng đức hạnh của hai nàng đều đáng trân trọng, điều này thể hiện qua bốn câu thơ cuối:

“Phong lưu rất mực hồng quần,

Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê.

Êm đềm trướng rủ màn che,

Tường đông ong bướm đi về mặc ai”

Mặc dù đã đến tuổi cập kê nhưng “hai ả tố nga’ đã và đang sống cuộc đời nề nếp, gia giáo, cuộc sống của các thiếu nữ phong khuê không hề có tình yêu thiếu đúng đắn.

Bằng tài năng nghệ thuật của mình, tác giả Nguyễn Du đã giúp chị em hình dung về vẻ đẹp của hai chị em Thúy Kiều với mỗi người một vẻ đẹp khác nhau. Thúy Vân thì toát lên vẻ đoan trang phúc hậu trong khi Thúy Kiều lại tài sắc vẹn toàn. Đồng thời qua việc miêu tả vẻ đẹp của hai chị em, nhà thơ cũng dự báo trước số phận mà hai người con gái này sắp phải trải qua đặc biệt là số phận bấp bênh mà Kiều sắp phải trải qua.

Phân tích một đoạn thơ em yêu thích trong Truyện Kiều - Mẫu 3 - Kiều ở lầu Ngưng Bích

Nguyễn Du là một danh nhân văn hóa, một đại thi hào của dân tộc ta. Ông đã để lại cho kho tàng văn học Việt Nam một kiệt tác lớn được bạn bè quốc tế yêu thích đó chính là tác phẩm Truyện Kiều. Bên cạnh giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo truyện Kiều của Nguyễn Du thành công về mặt nghệ thuật với bút pháp tả cảnh ngụ tình và miêu tả nội tâm nhân vật xuất sắc. Nguyễn Du đã đạt đến tình cao trong lịch sử với đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích, miêu tả thành công nỗi cô đơn buồn tủi và tấm lòng thủy chung, hiếu thảo của Kiều.

Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích nằm trong phần Gia biến và lưu lạc. Đoạn thơ dài 22 câu không chỉ biểu lộ tình cảm xót thương của Nguyễn Du đối với số phận người phụ nữ tài hoa nhưng bạc mệnh mà còn thể hiện bút pháp đặc sắc về tự sự việc tả cảnh ngụ tình với những ngôn từ độc thoại nội tâm để biểu đạt nỗi lòng và tâm trạng của Thúy Kiều

Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân

Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung

Bốn bề bát ngát xa trông

Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia

Bẽ bàng mây sớm đèn khuya

Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng

Với nét bút tả cảnh ngụ tình Nguyễn Du đã miêu tả thành công tâm trạng của Thúy Kiều với những các từ khóa xuân đã cho thấy tình cảnh của Kiều lâm vào cảnh chim lồng cá chậu bị giam lỏng và khóa kín tuổi xuân của mình. Từ khóa xuân không phải nói tới những cô gái bị cấm cung mà chính là sự mỉa mai chua xót cho thân phận nàng Kiều. Kiều trơ trọi giữa thời gian mênh mông với không gian hoang vắng trong hoàn cảnh tha hương đôi đất khách quê người, cô đơn bị đày vào chốn lầu xanh.

Lầu Ngưng Bích vốn là một nơi có phong cảnh tuyệt đẹp, khung cảnh hữu tình thơ mộng được thể hiện qua các từ ngữ non xa, trăng gần, cát vàng, cồn nọ, bụi hồng, dặm kia. Tuy nhiên từ xưa đến nay Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ. Trong tình cảnh bị giam cầm và tha hương cô đơn như thế, Kiều nhìn khung cảnh với con mắt buồn thảm vắng lặng, nhìn trăng nàng chỉ thấy vầng trăng đơn côi, nhìn đất thì chỉ thấy cồn cát nhấp nhô phía bên là bụi hồng.

Ta có thể thấy lầu Ngưng Bích chỉ là một chấm nhỏ giữa thiên nhiên giữa mênh mang trời nước. Trong cái không gian quẩn quanh mây sớm Đèn Khuya chính là một vòng tuần hoàn khép kín của thời gian tất cả như kìm hãm Tuổi Thanh Xuân của Kiều sự sống của Kiều đã bị những thế lực tàn ác của xã hội phong kiến bóc chết từ đó khắc sâu thêm nỗi buồn nỗi cô đơn khiến Kiều càng thấy bẽ bàng buồn tủi bởi không ai chia sẻ và nàng chỉ biết làm bạn với mây với đèn với cảnh vật hoang vu. Trong nỗi cô đơn tuyệt vọng ấy kiều cảm thấy xa cách hoang vắng, bị giam cầm cách biệt với nơi đất khách quê người.

Tưởng người dưới nguyệt chén đồng

Tin sương luống những rày trông mai chờ

Chân trời góc bể bơ vơ

Tấm son gột rửa bao giờ cho phai

Khi ở lầu Ngưng Bích Kiều đã nhớ về Kim Trọng. Đây là một nét bút đặc sắc độc đáo và phù hợp với tâm lý thể hiện lòng chung thủy của Thúy Kiều. Các từ ngữ tưởng, trông chờ trong ngôn ngữ độc thoại nội tâm của Kiều đã làm nổi bật lên nỗi nhớ Kim Trọng khôn nguôi của nàng Kiều. Càng nhớ về lời thề đôi lứa lời hẹn ước năm nào lại càng thương cho Kim Trọng. Chén rượu thề còn ở đây mà nay mỗi người một ngả khiến Thúy Kiều ân hận, xót xa giống như mình là một kẻ phụ tình chàng.

Nàng tưởng tượng Kim Trọng đang hướng về mình uổng công vô ích khiến nàng càng thêm xót xa, lo âu cho dù mỗi người một phương nhưng tình cảm của nàng dành cho kim trọng là mãi mãi và không thể phai mờ. Càng nghĩ kều càng thấy lo lắng phải bật lên câu hỏi tu từ. Phải biết đến bao giờ nàng mới có thể rửa sạch được những ô uế của tấm lòng son chung thủy để có thể đáp lại tình yêu của Kim Trọng. Không chỉ nhớ người yêu, ở nơi lầu cao ấy nàng cũng nhớ về cha mẹ của mình:

Xót người tựa cửa hôm mai

Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ

Sân Lai cách mấy nắng mưa

Có khi gốc tử đã vừa người ôm

Ngôn ngữ độc thoại kết hợp với lối viết cổ, tâm trạng buồn của Kiều hiện lên thật rõ nét. Các từ ngữ hôm mai, cách mấy nắng mưa diễn tả nỗi nhớ mong cha mẹ dài theo năm tháng. Kiều thương cho cha mẹ mình ngày đêm lo lắng, ngày trông ngóng, nàng lo cho cha mẹ già yếu ở nhà không ai chăm sóc, phụng dưỡng. Thành ngữ quạt nồng ấp lạnh cùng với điển tích Sơn Lai, gốc tử đã nói lên tâm trạng nhớ thương và thể hiện Kiều là một người con hiếu thảo.

Nàng lo sợ ở nơi quê hương mọi thứ đã đổi thay, cha mẹ nàng lại càng ngày càng già yếu nên nàng vô cùng day dứt, áy náy vì chưa làm tròn bổn phận phụng dưỡng cha mẹ của một người con. Trong cảnh ngộ bị giam lỏng nơi lầu Ngưng Bích. Phải lưu lạc tới nơi đất khách quê người chính bản thân Kiều mới là người đáng thương nhất, thế nhưng với tâm hồn và với những nét tính cách đẹp cao thượng của mình nàng luôn hy sinh bản thân mình, quên đi cảnh ngộ hiện tại của bản thân để lo lắng nghĩ về Kim Trọng, nghĩ về cha mẹ, những người thân của Kiều. Nỗi nhớ đó của Kiều rất chân thực và có chiều sâu để từ đó ta có thể thấy đây là một người con hiếu thảo, một người tình chung thủy và một con người giàu lòng vị tha.

Tâm trạng buồn tủi của Kiều không chỉ còn ở trong lòng nữa mà đã thể hiện rõ nét qua cảnh vật bên ngoài. Mỗi cảnh vật là một nét riêng và diễn tả một khía cạnh trong tâm trạng của Kiều

Buồn trông cửa bể chiều hôm

Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa

Khung cảnh mở ra cho chúng ta thấy được đây là một cảnh hoàng hôn cửa bể chiều hôm gợi cho chúng ta hình ảnh những tia nắng cuối ngày, phản chiếu trên mặt biển xanh khiến mọi thứ nhuốm màu sẫm. Có cái gì đó tha thiết và nỗi nhớ mong, Kiều dường như tiếc nuối những ngày tháng trước kia. Các từ ngữ thấp thoáng, xa xa diễn tả sự lẻ loi, đơn độc giống như tình cảnh của Kiều bây giờ.

Một mình nơi xứ người bơ vơ nơi lầu ngưng Bích, Kiều chỉ biết nhớ về quê hương, nhớ về cha mẹ, mong chờ một con thuyền để có thể cứu nàng. Nhưng chiếc thuyền ấy chỉ thấp thoáng ở phía xa xa, lúc mờ lúc hiện Thuyền ai lênh đênh  mất hút phía chân trời xa giống như cuộc đời Kiều lênh đênh chẳng biết chơi về đâu. Chẳng biết bao giờ mới có thể trở về nhà báo hiếu cho cha mẹ

 Buồn trông ngọn nước mới sa

Hoa trôi man mác biết là về đâu

Cánh hoa mỏng manh dập dìu trong dòng nước bé nhỏ không chống chọi được với sức của mọi nước giống như chính thân phận Kiều trong xã hội cũ. Tuy là một người có đức có tài, có nét đẹp nhưng chính cường quyền áp bức đã vùi dập nàng, vùi dập tài năng của nàng. Thân phận Kiều giờ đây lạc lõng, lẻ loi trôi theo dòng đời vô định, chẳng biết đi về đâu. Nhìn cánh hoa vùi dập nàng Kiều lại nhớ tới Kim Trọng, càng buồn tủi và xót xa cho thân phận của mình:

Buồn trông nội cỏ rầu rầu

Chân mây mặt đất một màu xanh xanh

Trái ngược với cái tên của lầu màu xanh qua con mắt của Kiều trở nên thật sầu thảm với từ láy rầu rầu gợi lên hình ảnh của một bãi cỏ tàn úa xơ xác. Tuổi thanh xuân tươi đẹp của Kiều với một tài sắc vẹn toàn đáng lẽ nàng phải có một cuộc sống đầy đủ, phải có một cuộc đời hạnh phúc thế nhưng Tuổi Thanh Xuân ấy sẽ phai tàn và vô vị như màu xanh héo úa kia. Màu xanh vốn là màu của hy vọng nhưng nay đã tàn úa giống như niềm tin của Thúy Kiều đang dần cạn với nỗi xót xa ngày càng dâng cao trong Thúy Kiều.

Buồn trông gió cuốn mặt dềnh

Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi

Âm thanh của tiếng sóng ầm ầm, trong cảnh gió cuốn mặt dềnh giống như bão tố phong ba đang chờ đợi Kiều ở phía trước. Nàng lo lắng không biết khi nào tai họa sẽ ập đến, giống như tiếng sóng ở ngoài xa, tiếng sóng ầm ầm chính là báo hiệu một tương lai đầy sóng gió khiến Kiều sợ hãi.

Với điệp ngữ Buồn trông đặt ở bốn câu đầu trong bài thơ giống như tiếng thở dài cùng với nhịp thơ trầm trầm và những thanh bằng đã nhấn mạnh một nỗi buồn đang ngày càng dâng lên trong tâm trạng của Thúy Kiều, cùng với cảnh vật đang càng lúc càng mênh mang những từ láy xa xa, thấp thoáng, man mác, rầu rầu, xanh xanh, ầm ầm như những con sóng đang trào dâng trong tâm hồn của Kiều.

Đoạn trích Kiều Ở Lầu Ngưng Bích là đoạn thơ tả cảnh ngụ tình hay nhất trong truyện Kiều cũng như trong văn học trung đại Việt Nam. Qua đoạn thơ chúng ta có thể hiểu biết thêm về tính cách của Kiều. Đó là một người chung thủy, một người con hiếu thảo và là một con người của tấm lòng vị tha. Đồng thời ta cảm nhận được sự khắc nghiệt của xã hội phong kiến, đã đẩy những con người đáng thương như thế kia và hoàn cảnh éo le.

Kiều ở lầu Ngưng Bích chính là một đoạn thơ miêu tả tinh tế nội tâm nhân vật. Với bút pháp tả cảnh ngụ tình điêu luyện đã làm nổi bật cảnh ngộ của Thúy Kiều và chứng tỏ được tài năng kiệt xuất của Nguyễn Du. Chính sự bao dung, đồng cảm sẻ chia của Nguyễn Du đã đi vào tâm tưởng bằng thế hệ.

Phân tích một đoạn thơ em yêu thích trong Truyện Kiều - Mẫu 4

Trong dòng chảy văn học trung đại, mỗi nhà văn, nhà thơ đều góp phần làm nên diện mạo của nền văn học Việt Nam qua nhiều tác phẩm xuất sắc thuộc nhiều thể loại khác nhau. Và khi nhắc đến Đại thi hào dân tộc Nguyễn Du, bạn đọc mọi thế hệ không thể không nhắc tới tác phẩm “Truyện Kiều”. Đọc những trang Kiều, người đọc như thấm thía nỗi đau mà Kiều phải chịu đựng nhưng ẩn sau đó chính là vẻ đẹp tâm hồn, nhân cách của nàng. Có thể nói, đoạn trích trích từ câu “Khi tỉnh rượu lúc tàn canh” đến “Ai tri âm đó mặn mà với ai?” là một minh chứng tiêu biểu cho điều đó.

Trước tình cảnh đầy trớ trêu nơi chốn lầu xanh, trong Thúy Kiều luôn hiện lên bao nỗi niềm đau đớn, xót thương cho thân phận, cuộc đời của mình.

Khi tỉnh rượu lúc tàn canh,

Giật mình mình lại thương mình xót xa.

Câu thơ “Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh” đã mở ra thời gian ban đêm, khi những cuộc vui đã tàn, đó là thời điểm hiếm hoi Kiều được sống là chính mình, đối diện với chính mình cùng bao nỗi niềm, suy tư, trăn trở. Trong chính khoảnh khắc ít ỏi ấy, Kiều “giật mình” bởi sự bàng hoàng, thảng thốt trước thực tại cuộc sống của mình. Để rồi, sau cái giật mình ấy chính là nỗi thương mình, xót xa cho chính bản thân mình và nỗi thương mình, sự xót xa ấy của Kiều xét đến cùng chính là sự tự ý thức về nhân cách của Thúy Kiều. Trong nỗi niềm xót xa, sự cô đơn đến tột cùng ấy, Thúy Kiều đã đi tìm nguyên nhân để lí giải chúng.

Khi sao phong gấm rủ là,

Giờ sao tan tác như hoa giữa đường.

Mặt sao dày gió dạn sương

Thân sao bướm chán ong chường bấy thân.

Nghệ thuật đối đã được tác giả sử dụng thành công thông qua việc sử dụng hàng loạt các hình ảnh đối lập nhau, giữa một bên là “phong gấm rủ là” gợi những tháng ngày quá khứ êm đềm, hạnh phúc với một bên là những hình ảnh “tan tác”, “hoa giữa đường”, “dày gió dạn sương”, “bướm chán ong chường” để gợi lên hiện tại phũ phàng, bị chà đạp, vùi dập. Thể hiện sự đối lập giữa quá khứ với hiện tại, tác giả Nguyễn Du đã tô đậm cuộc sống cùng tâm trạng ê chề, nhục nhã, chán chường của Thúy Kiều trong hoàn cảnh đầy trớ trêu. Thêm vào đó, với việc sử dụng hàng loạt từ để hỏi “khi sao”, “giờ sao”, “mặt sao”, “thân sao” đã tạo nên giọng điệu chất vấn, Thúy Kiều như đang tự hỏi, tự dằn vặt chính bản thân mình. Trong nỗi niềm chua xót, đầy giày vò ấy, Thúy kiều đã nhận thức rõ sự đối lập đau xót và chua chát giữa ta và người.

Mặc người mưa Sở mây Tần

Những mình nào biết có xuân là gì.

Không chỉ đối lập giữa cuộc sống ở quá khứ và hiện tại, mà giờ đây, trong Thúy Kiều còn hiện hữu rõ nét sự đối lập giữa cảnh vật bên ngoài với nỗi niềm tân trạng của chính mình. Bi kịch ấy của Thúy Kiều được thể hiện rõ nét trong những tám câu thơ cuối của đoạn trích.

Đòi phen gió tựa hoa kề

Nửa rèm tuyết ngậm bốn bề trăng thâu.

Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu

Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ?

Đòi phen nét vẽ câu thơ,

Cung cầm trong nguyệt nước cờ dưới hoa

Vui là vui gượng kẻo là

Ai tri âm đó mặn mà với ai?

Cuộc sống nơi chốn lầu xanh ở khung cảnh bên ngoài với đầy đủ những nét thanh cao, tao nhã, phong lưu được tác giả tái hiện lại thông qua các hình ảnh giàu sức gợi “gió tựa hoa kề”, “tuyết ngậm”, “trăng thâu”, “nét vẽ”, “câu thơ”, “cung cầm”, “nước cờ”. Nhưng ẩn sâu bên trong đó là bản chất phũ phàng và đầy xót xa, đầy tủi nhục và nhơ nhớp. Và bởi vậy, cảnh vật ở nơi đây đối với Thúy Kiều chính là một sự giả tạo và nàng không thể tìm thấy bầu bạn, không thể tìm thấy tri âm và nàng thờ ơ với mọi thứ xung quanh mình. Đặc biệt, với nghệ thuật tả cảnh ngụ tình, tác giả Nguyễn Du đã cho thấy tâm trạng của Thúy Kiều khi sống ở nơi đây, đó chính là sự gượng gạo, tự thương, tự xót xa cho số phận của chính mình. Đặc biệt, tâm trạng đau đớn như xé lòng của Kiều được thể hiện qua việc sử dụng hàng loạt các câu hỏi tu từ.

Tóm lại, đoạn trích với việc sử dụng thành công nghệ thuật đối cùng những hình ảnh giàu sức gợi đã thể hiện một cách rõ nét và sâu sắc nỗi niềm tâm trạng, sự xót thương số phận của Thúy Kiều. Đồng thời, ẩn sau đó người đọc cũng cảm nhận được vẻ đẹp nhân cách của nàng.

Phân tích một đoạn thơ em yêu thích trong Truyện Kiều - Mẫu 5

Đang cập nhật ...

Phân tích một đoạn thơ em yêu thích trong Truyện Kiều - Mẫu 6

Đang cập nhật ...

Đánh giá

0

0 đánh giá