Tailieumoi.vn xin giới thiệu bài văn mẫu Phân tích đoạn thơ em yêu thích trong Truyện Lục Vân Tiên Ngữ văn 9 Cánh diều, gồm dàn ý và các bài văn phân tích mẫu hay nhất giúp các em học sinh có thêm tài liệu tham khảo từ đó học cách viết văn hay hơn.
Phân tích đoạn thơ em yêu thích trong Truyện Lục Vân Tiên
Đề bài: Hãy phân tích một đoạn thơ mà em yêu thích trong Truyện Lục Vân Tiên (Nguyễn Đình Chiểu).
Phân tích đoạn thơ em yêu thích trong Truyện Lục Vân Tiên - Mẫu 1
Nguyễn Đình Chiểu là một con người có nhân cách lớn, một tấm gương về sự học, tinh thần vươn lên và tinh thần yêu nước mạnh mẽ. Người đời biết đến ông không chỉ là một bậc danh nho tinh thông y thuật mà ông còn nổi tiếng là một nhà thơ, nhà văn lớn, tiêu biểu của nền văn học trung đại Việt Nam, nửa cuối thế kỉ XIX. Những áng văn chương của cụ đồ Chiểu luôn nhằm hướng tới truyền bá đạo lý làm người, tình yêu nước và ý chí chiến đấu chống giặc ngoại xâm mạnh mẽ. Và một trong các tác phẩm gây được tiếng vang lớn nhất trong sự nghiệp cầm bút ấy của ông là "Truyện Lục Vân Tiên" – một tác phẩm truyện thơ Nôm rất độc đáo, rất điển hình hướng tới đạo lý làm người: hành hiệp trượng nghĩa, cứu khổ phò nguy, hướng tới lẽ công bằng và tình yêu thương giữa con người với con người. Đoạn trích "Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga" là đoạn trích hay, tập trung nổi bật được tư tưởng, đạo lí mà nhà thơ muốn gửi gắm.
Đoạn trích nằm ở phần đầu của truyện. Tác phẩm được viết vào khoảng đầu những năm 50 của thế kỉ XIX, dài hơn hai nghìn câu thơ, theo thể lục bát, kết cấu theo kiểu truyền thống của loại truyện phương Đông, theo lối chương hồi, xoay quanh diễn biến cuộc đời nhân vật chính. Đây là truyện thơ Nôm mang tính chất là truyện để kể hơn là để đọc, để xem. Vì thế, truyện được lưu truyền rộng rãi dưới hình thức sinh hoạt văn hóa dân gian như "kể thơ", "nói thơ, và "hát thơ". Đoạn trích thể hiện khát vọng hành đạo giúp đời của tác giả và khắc họa những phẩm chất đẹp đẽ của hai nhân vật: Chàng thư sinh Lục Vân Tiên – người mang trong mình tràn đầy lý tưởng của tuổi trẻ nhiệt huyết, trọng nghĩa khinh tài, cán cân của công lý, sẵn sàng ra tay trừng trị cái xấu, cái ác, bênh vực cái đẹp, cái yếu đuối, bất hạnh; Còn Kiều Nguyệt Nga lại là một tiểu thư khuê các, dịu dàng, xinh đẹp, hiền hậu, nết na, ân tình.
Trước hết là hình tượng nhân vật Lục Vân Tiên – một nhân vật lý tưởng của cái đẹp: dũng cảm, tài ba, đầy khí phách. Trên đường trở về quê nhà, Vân Tiên thấy bọn cướp Phong Lai đang giở trò cướp bóc, làm hại dân lành, chàng liền ra tay tương trợ đánh tan cái xấu, cái ác. Hình ảnh Lục Vân Tiên hành hiệp trượng nghĩa được tái hiện rất cụ thể trong hành động và lời nói khi chiến đấu với bọn giặc:
Vân Tiên ghé lại bên đàng
Bẻ cây làm gậy nhằm làng xông vô
Kêu rằng: "bớ đảng hung hồ,
Chớ quen làm thói hồ đồ hại dân"
Hành động đánh cướp trước hết bộc lộ tính cách anh hùng, tài năng và tấm lòng vị nghĩa của Lục Vân Tiên. Một mình chàng, tay không tấc sắt dám đương đầu với cả một toán giặc cỏ với đầy đủ các loại vũ khí gươm giáo sáng quắc trong tay. Hành động "bẻ cây làm gậy" của chàng là một hành động dũng cảm, xuất phát từ cái đức của một con người "vị nghĩa vong thân" (vì việc nghĩa mà không tiếc thân mình). Tuy một mình nhưng chàng vẫn hiện lên vẫn rất uy dũng, mạnh mẽ, hào hiệp xông thẳng vào trận đánh, vừa tiến tới lại vừa thét lên những lời nói đầy giận dữ, quả quyết kết tội bọn giặc"bớ đảng hung đồ", "chớ quen làm thói hồ đồ hại dân". Kết quả, bọn cướp sợ hãi thất kinh mà “vỡ tan” như đàn ong vỡ tổ. Tên cướp cầm đầu là Phong Lai thì chẳng kịp trở tay, bị ăn ngay một gậy chí mạng sống không được, chết cũng không xong.
Vân Tiên tả đột hữu xông
Khác nào Triệu Tử phá vòng Đương Dang.
Lâu la bốn phía vỡ tan
Đều quang gươm giáo tìm đàng chạy ngay
Phong Lai trở chẳng kịp tay
Bị Tiên một gậy thác rày thân vong.
Như vậy, với nghệ thuật so sánh tương phản, tác giả đã tái hiện không khí cuộc đấu tranh giữa Lục Vân Tiên với bọn cướp Phong Lai hết sức cam go, quyết liệt. Qua đó chúng ta thấy Lục Vân Tiên hiện lên là một người anh hùng dũng cảm, không sợ hiểm nguy và thấy việc nghĩa thì ra tay giúp đỡ. Phải chăng đó là cái đức, cái tài và cái dũng của bậc anh hùng trong con người Lục Vân Tiên, đã chiến thắng được thế lực bạo bạo, dù chúng rất hung bạo, dữ dằn. Đó cũng chính là giá trị nhân đạo, nhân sinh sâu sắc mà cụ đồ Chiểu muốn gửi gắm nơi người đọc.
Sau khi dẹp tan bọn giặc cỏ, thái độ cư xử của chàng trai họ Lục đối với Kiều Nguyệt Nga đã bộc lộ tư cách của con người: chính trực, hào hiệp, khiêm tốn, trọng nghĩa khinh tài, từ tâm nhân hậu và rất mực văn hóa.Ban đầu chàng bộc lộ sự quan tâm bằng cách hỏi han ân cần, chu đáo: “Hỏi: “ai than khóc ở trong xe này?” ; “Tiểu thư con gái nhà ai/ Đi đâu nên nỗi mang tai bất kì?/ Chẳng hay tên họ là chi? Khuê môn phận gái việc gì tới đây?...”. Thấy hai cô gái còn chưa hết bàng hoàng, hoảng hốt, Vân Tiên "động lòng" an ủi, trấn an tinh thần Kiều Nguyệt Nga qua lời nói: “Đáp rằng: “Ta đã trừ dòng lâu la”. Khi biết Kiều Nguyệt Nga định xuống xe lạy tạ, chàng nhất mực từ chối vì giữ lễ tiết:
“Khoan khoan ngồi đó chớ ra
Nàng là phận gái, ta là phận trai?”
Đặc biệt chàng còn khiêm tốn không chịu nhận vật trả ơn: “Làm ơn há dễ trông người trả ơn”. Cuối cùng, hai người cùng xướng họa với nhau một bài thơ rồi nhẹ nhàng từ biệt ra đi, không vấn vương, nuối tiếc. Đến đây, chúng ta thấy Lục Vân Tiên là con người rất mực tâm lý, có nghĩa khí, giữ đúng phép tắc của nho gia, coi thường tiền tài, vật chất. Phải chăng, đối với chàng làm việc nghĩa như là bổn phận, trách nhiệm và vốn lẽ tự nhiên phải làm. Vì thế, ở cuối đoạn trích, có hai câu thơ đã nêu bật được quan niệm về người anh hùng của tác giả:
“Nhớ câu kiến ngãi bất vi
Làm người thế ấy cũng phi anh hùng”
Người anh hùng là người lấy việc nghĩa khí lên làm đầu. Nếu thấy việc nghĩa mà không làm thì không phải là người anh hùng. Đây cũng chính là quan niệm về người anh hùng của tác giả. Qua đó, tác giả thay mặt nhân dân thể hiện niềm ước mong: trong thời buổi loạn lạc, nhiễu nhương, hỗn loạn, cái xấu cái ác hoành hoành những con người tài đức, dám ra tay cứu nạn giúp đời như Lục Vân Tiên thật đáng quý, đáng trân trọng biết bao.
Tiếp đến là hình tượng nhân vật Kiều Nguyệt Nga, nàng cũng là nhân vật chính và là nhân vật lí tưởng trong tác phẩm. Với tư cách là một người chịu hàm ơn, Kiều Nguyệt Nga đã bộc lộ rất nhiều những phẩm chất tốt đẹp của người con gái: Cách xưng hô của nàng với Lục Vân Tiên, gọi chàng là "quân tử", tự xưng mình là "tiện thiếp". Điều đó, bộc lộ cách ứng xử của một người phụ nữ thùy mị, nết na, khiêm nhường, đầy sự tôn trọng đối với người đang giao tiếp. Tiếp đến, nàng còn hiện lên là người phụ nữ khuôn phép, có học thức của một tiểu thư khuê các, gia giáo:
“Làm con đâu dám cãi cha
Ví dầu ngàn dặm đàng xa cũng đành”
Cuối cùng, với tư cách là người chịu ơn, nàng cư xử đúng mực, biết trước biết sau, biết ơn với người đã cứu giúp mình:
Trước xe quân tử tạm ngồi
Xin cho tiện thiếp lạy rồi sẽ thưa
Với nàng, Lục Vân Tiên không chỉ cứu mạng mà còn cứu cả cuộc đời trinh bạch trong trắng của nàng: “Lâm nguy chẳng gặp giải nguy/ Tiết trăm năm cũng bỏ đi một hồi”. Vì thế nàng tìm mọi cách để thuyết phục Lục Vân Tiên nhận sự tạ ơn của mình: “Lấy chi cho phỉ tấm lòng cùng ngươi”. Cuối cùng, nàng đã cảm mến Lục Vân Tiên mà họa vẽ bức chân dung của mình rồi đưa cho chàng, tự nguyện gắn bó cuộc đời của mình với Lục Vân Tiên, dám liều mình để giữ trọn ân tình, thủy chung với chàng. Đến đây, chúng ta nhận ra một mô típ quen thuộc ở truyện thơ Nôm truyền thống: chàng trai tài giỏi, cứu cô gái khỏi tình huống hiểm nghèo, rồi đi từ ân nghĩa đến tình yêu...
Xét về mặt nghệ thuật, thông qua việc phân tích ở trên, chúng ta thấy được nhân vật trong đoạn trích này chủ yếu được miêu tả qua hành động, cử chỉ, lời nói, ít khắc họa ngoại hình, càng ít đi sâu vào diễn tả nội tâm, rất gần với văn học dân gian; ngôn ngữ thơ mộc mạc, giản dị, gần với lời ăn tiếng nói hằng ngày và mang màu sắc Nam Bộ, phù hợp với ngôn ngữ người kể chuyện; lời thơ với giọng điệu kể chuyện linh hoạt, khéo léo, phù hợp với diễn biến tình tiết và tính cách nhân vật.
Tóm lại, đoạn trích "Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga" là một đoạn trích hay, độc đáo, có thể coi đây là một bản trường ca ca ngợi chính nghĩa và những đạo đức đáng quý, tốt đẹp ở đời. Thể hiện niềm ước mơ của tác giả, của nhân dân về khát vọng hành đạo, giúp đời, hướng tới lẽ công bằng, cái thiện, cái đẹp sẽ luôn chiến thắng cái xấu, cái ác...
Phân tích đoạn thơ em yêu thích trong Truyện Lục Vân Tiên - Mẫu 2
Nguyễn Đình Chiểu là một nhà thơ yêu nước Nam Bộ. Ông sống trong thời kỳ loạn lạc, xã hội rối ren, chế độ phong kiến Việt Nam suy tàn, bọn vua quan nhà Nguyễn thối nát. Xã hội đen tối, đau thương. Ngoài những thơ văn yêu nước, Nguyễn Đình Chiểu nổi tiếng với truyện thư Truyện Lục Vân Tiên dài 2082 câu thơ lục bát.
Truyện thơ đề cao trung, hiếu, tiết, hạnh theo quan niệm đạo lí của nhân dân ta. Đạo làm tôi, đạo làm con, tình bằng hữu, nghĩa vợ chồng... được nhà thơ hết lời ca ngợi:
Trai thời trang hiếu làm đầu,
Gái thời tiết hạnh là câu trau mình.
Lục Vân Tiên và Kiều Nguyệt Nga là hai nhân vật trung tâm của truyện thơ sáng ngời trung hiếu, tiết hạnh.
Đoạn thơ Lục Vân Tiên đánh cướp là một trong những đoạn thơ hay nhất của tác phẩm, tiêu biểu cho bút pháp tự sự của Nguyễn Đình Chiểu. Nhân vật Lục Vân Tiên được khắc họa thành mẫu người anh hùng lí tưởng tuyệt đẹp: giàu lòng thương người, dũng cảm và vị nghĩa cao cả.
Lòng thương người là đức hạnh tốt đẹp nhất của Lục Vân Tiên. Từ giã thầy, chàng xuống núi, hăm hở về kinh đô ứng thí. Lộ trình đầy gian nan. Giữa đường, Lục Vân Tiên bất ngờ gặp nhân dân dắt díu nhau chạy trốn, tiếng kêu khóc vang lên thảm thiết. Chàng đã ân cần hỏi han sự tình đầu đuôi và quyết ra tay đánh cướp để cứu dân lành thoát khỏi cảnh đau thương, nước sôi lửa bỏng:
Tôi xin ra sức anh hào,
Cứu người cho khỏi lao đao buổi này!
Căm giận lũ bất lương, Lục Vân Tiên sôi sục lên án hành động dã man của chúng. Chàng đã đứng về phía nhân dân, quyết bảo vệ dân:
Kêu rằng: "Bớ đảng hung đồ,
Chớ quen làm thói hồ đồ hại dân”.
Đạo lý của nhân dân ta rất đẹp "Thương người như thể thương thân". Lục Vân Tiên đã hành động vì tình thương bao la ấy.
Tình thương người đã nâng cao chí khí và lòng dũng cảm cho người thư sinh họ Lục. Lũ cướp rất đông và đáng sợ, gươm giáo sáng ngời. Tướng cướp Phong Lai "mặt đỏ phừng phừng" đầy sát khí. Hắn dữ tợn và có sức khoẻ muôn người khôn địch! Giữa vòng vây của lũ cướp, không một tấc sắt trong tay, một mình với cành cây làm gậy, Lục Vân Tiên đã dũng cảm đánh cướp. Đột kích bên tả, xung phong bên hữu, chàng tung hoành giữa bọn cướp. Chúng bị đánh tơi bời. Bọn lâu la đã khiếp đảm quăng gươm giáo bỏ chạy tan tác. Tướng cướp Phong Lai bị tiêu diệt Nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu đã so sánh Lục Vân Tiên đánh cướp với chiến công của hổ tướng Triệu Tử Long phá vòng vây Đương Giang thời Tam quốc để ca ngợi tinh thần quả cảm của người anh hùng vị nghĩa:
Vân Tiên tả đột hữu xông,
Khác nào Triệu Tử phá vòng Đương Giang.
Lâu la bốn phía vỡ tung,
Đều quăng gươm giáo tìm đàng chạy ngay.
Phong Lai trở chẳng kịp tay,
Bị Tiên một gậy thác rày thân vong.
Giọng thơ hùng tráng vang lên diễn tả trận đánh cướp đầy kịch tính hấp dẫn. Lục Vân Tiên là tấm gương của một anh hùng vị nghĩa cao đẹp.
Đánh tan lũ cướp sơn đài, Lục Vân Tiên đã giải thoát cho Kiều Nguyệt Nga và Kim Liên. Cuộc kỳ ngộ giữa người đẹp và tráng anh hùng diễn ra cảm động và đầy tình người. Kiều Nguyệt Nga muốn mời chàng hiệp sĩ qua miền Hà Khê để cha nàng "báo đức thù công".
Ngẫm câu báo đức thù công,
Lấy chi cho phỉ tấm lòng cùng ngươi.
Nhưng Vân Tiên "nghe nói liền cười". Một nụ cười rất tươi, biểu lộ một tâm hồn cao cả vô tư, hào hiệp, khảng khái. Chàng xem việc đánh cướp của mình là một hành động nhân nghĩa. Người tráng sĩ phải ra tay cứu nhân độ thế, diệt trừ cái ác, chở che bênh vực người lầm than, bị áp bức. Nếu thấy việc nghĩa mà không làm thì còn đâu đáng mặt anh hùng nữa?
Nhớ câu kiến nghĩa bất vi
Làm người thế ấy cũng phi anh hùng.
Nguyễn Đình Chiểu đã khắc họa nhân vật Lục Vân Tiên mang cốt cách tráng sĩ thời loạn, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng, trọng nghĩa khinh tài, sống và hành động theo phương châm: "Lộ kiến bất bình, bạt đao tương trợ". Vân Tiên cũng như người anh hùng Từ Hải trong Truyện Kiều.
Anh hùng tiếng đã gọi rằng,
Giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha!
Hình ảnh Vân Tiên đánh cướp được khắc họa thần tình, cử chỉ, hành động, ngôn ngữ và cách ứng xử của chàng rất đẹp, mang phong thái người anh hùng, người tráng sĩ ngày xưa. Tuy nhiên hình tượng này rất chân thật vì lòng thương người, chí quả cảm, tinh thần vì nghĩa của Vân Tiên đậm đà màu sắc đạo lí nhân dân ta.
Đã gần hai thế kỷ trôi qua, nhân vật Lục Vân Tiên được nhân dân ta yêu mến, hâm mộ. Tinh thần chiến đấu kiên cường của đồng bào miền Nam trong cuộc đấu tranh chống phong kiến và đế quốc trong hơn thế kỷ qua đã làm cho ta cảm nhận sâu sắc vẻ đẹp lí tưởng của người anh hùng Lục Vân Tiên. Tấm gương sáng chói ấy mãi mãi là một minh chứng hùng hồn về sức mạnh thẩm mĩ của thi ca, của truyện thơ Truyện Lục Vân Tiên mà nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu đã để lại cho đời.
Phân tích đoạn thơ em yêu thích trong Truyện Lục Vân Tiên - Mẫu 3
Truyện Lục Vân Tiên là truyện Nôm nổi tiếng của Nguyễn Đình Chiểu, đề cao trung, hiếu, tiết, nghĩa, phê phán thói phản, trắc, đố kị, bất nhân bất nghĩa. Lục Vân Tiên là nhân vật anh hùng, văn võ toàn tài, thể hiện trọn vẹn ước mơ, lí tưởng của tác giả. Đoạn Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga là đoạn kể về chiến công đầu tiên chàng trai họ Lục và cũng là cuộc gặp gỡ kì lạ đầu tiên giữa hai nhân vật chính trong truyện, một hình thức giới thiệu nhân vật thường thấy trong lối tự sự. Đoạn văn đã thể hiện nổi bật khí phách anh hùng và tinh thần nghĩa khí của Lục Vân Tiên, cũng như lòng biết ơn, lưu luyến của Kiều Nguyệt Nga.
Sau khi từ biệt thầy học, lên đường lập nghiệp, Vân Tiên một mình đã qua mấy ngày đường đang tìm nơi trú chân và kết bạn thì gặp phải đám cướp làm cho dân làng tán loạn. Hỏi được nguyên nhân, Vân Tiên khảng khái xin nhận việc diệt cướp:
“Tôi xin đem sức anh hào
Cứu người cho khỏi lao đao buổi này”
Mặc cho mọi người khuyên can, ngăn cản, Vân Tiên vẫn một lòng xông ra.
Đoạn mở đầu với việc Vân Tiên tìm vũ khí:
“Vân Tiên ghé lại bên đàng
Bẻ cây làm gậy nhằm làng xông vô”
Chiếc gậy bằng cây là một vũ khí quá thô sơ trước một đảng cướp khét tiếng: nhưng với vũ khí đó càng chứng tỏ tinh thần anh dũng của Vân Tiên.Cái cách đánh giặc của chàng cũng công khai, đàng hoàng, quang minh, chính đại như các anh hùng hảo hán: gọi tên, trách mắng. Tên giặc điên cuồng kêu quân vây bủa. Vân Tiên một mình tả đột hữu xung:
“Lâu la bốn phía vỡ tan
Đều quăng gươm giáo tìm đàng chạy ngay
Phong Lai trở chẳng kịp tay
Bị Tiên một gậy thác rày thương vong.”
Trận đánh kết thúc nhanh chóng như trong truyện cổ tích. Người đọc chưa kịp hồi hộp mà quân giặc dường như chỉ chờ Vân Tiên đến là bỏ chạy và chịu chết. Đó không phải trận đánh của vũ lực mà là trận đánh chính nghĩa chống gian tà.Sau trận diệt cướp là cuộc gặp gỡ với người đẹp gặp nạn. Điều thú vị là cuộc gặp gỡ này chỉ có toàn đối thoại, người hỏi, người đáp ngoài ra không có miêu ta. Hình như Vân Tiên chỉ nắm bắt thông tin bằng kênh nghe: Vân Tiên “Hỏi: AI ở trong xe này?”. Rồi lời đáp và than khóc:
“Khoan khoan ngồi đó chớ ra
Nàng là phận gái, ta là phận trai
...
Trước sau chưa hãn dạ này
Hai nàng ai tớ ai thầy nói ra”
Tiếp theo là Nguyệt Nga “Thưa rằng” một thôi rồi:
“Vân Tiên nghe nói liền cười
Làm ơn há dễ trông người trả ơn
Nay đà rõ đặng nguồn cơn
Nào ai tính thiệt so hơn làm gì
Nhớ câu kiến nghĩa bất vi
Làm người thế ấy cũng phi anh hùng”
Tuy chỉ là hỏi đáp nhưng lời hỏi của Vân Tiên chứng tỏ chàng quang minh chính đại. Lời hỏi dõng dạc: muốn phân định ranh giới nam nữ rõ ràng, muốn biết rõ lí lịch cô gái, nguyên nhân mắc nạn phân biệt thứ bậc tớ thầy. Ngay hành động anh hùng chàng cũng không muốn nhập nhằng với việc làm ơn. Đó là một nhân cách sáng ngời. Nụ cười của chàng mới thiệt hiền lành. Chỉ có hỏi đáp mà tính cách Vân Tiên hiện lên thật đẹp đẽ.Câu trả lời của Nguyệt Nga cũng thể hiện phẩm chất hiền thục của nàng. Nàng một lòng vâng theo cha mẹ:
“Làm con đâu dám cãi cha
Ví dầu ngàn dặm đàng xa cũng đành
...
Tưởng câu báo đức thù công
Lấy chi cho phỉ tấm lòng cùng ngươi”
Lúc nào nàng cũng muốn làm theo đức hạnh. Chỉ mấy nét mà tác giả đã cho thấy một người nết na, đức hạnh theo quan niệm truyền thống.Tóm lại đoạn Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga thực chất là đoạn thơ giới thiệu nhân vật. Qua đoạn này, phẩm chất cao đẹp, đức hành của hai nhân vật đã được bộc lộ, làm nền tảng cho tình yêu hai người về sau. Lời văn mộc mạc giản dị mà ý tình sâu nặng càng đọc càng thấy ý nghĩa sâu sắc và chắc nịch. Nhân vật nào cũng sống theo những lời day đạo đức cổ truyền. Lục Vân Tiên thì “Nhớ câu kiến ngãi bất vi, làm người thế ấy cũng phi anh hùng”, theo câu “nam nữ thụ thụ bất thân”: “nàng là phận gái ta là phận trai”, rồi thoe câu “Làm ơn há dễ trông người trả ơn”. Kiều Nguyệt Nga thì theo câu “Làm con đâu dám cãi cha”, lại theo câu “báo đức thù công”. Ta có thể nói trong các truyện Nôm, đây là những nhân vật “cổ điển nhất trong các nhân vật “cổ điển”.
Phân tích đoạn thơ em yêu thích trong Truyện Lục Vân Tiên - Mẫu 4
Mở đầu Truyện Lục Vân Tiên, nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu viết:
“Hỡi ai lẳng lặng mà nghe,
Dữ răn việc trước, lành dè thân san.
Trai thời trung hiếu làm đầu,
Gái thời tiết hạnh làm câu trau mình...”
Lời thơ giản dị, rành rẽ như một tuyên ngôn, định hướng cho bước đi của toàn bộ tác phẩm. Với nhà thơ xứ dừa ấy, sáng tác văn chương không phải vì sự nghiệp văn chương mà trước hết, quan trọng hơn hết là vì mục đích giáo dục, truyền bá đạo lý, nhân cách con người.Truyện thơ Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu được nhân dân ta - nhất là bà con ở Nam Bộ - yêu thích không phải vì có nhiều câu hay, lời đẹp, nghệ thuật tinh tế mà vì những chi tiết, sự việc, những nhân vật tỏa sáng đạo lí, vì những ý tưởng giáo huấn chân thành, thấm thía. Nội dung đạo lý bao trùm toàn thiên truyện là nhân nghĩa, là trung hiếu, tiết hạnh. Song đấy không phải những từ ngữ khô khan trói trong khuôn khổ phong kiến cổ hủ, nặng nề.
Với Nguyễn Đình Chiểu, nhân nghĩa là đạo đức của nhân dân, là căn cốt, gốc rễ để trau dồi, rèn giũa con người. Vì vậy, vào đầu tác phẩm - ở đoạn Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga - nhà thơ đã hào hứng giới thiệu hai con người trẻ tuổi, biết hướng theo lòng nhân, biết hành động theo việc nghĩa.Đó là Lục Vân Tiên - chàng trai tài ba dũng cảm, sẵn sàng làm việc "nghĩa". Vân Tiên vốn con nhà thường dân nhưng học giỏi, văn võ kiêm toàn. Chàng đang háo hức trên con đường lên kinh ứng thi. Vậy mà gặp cướp. Không phải chúng gây sự với chàng, mà chúng đang quấy nhiễu nhân dân.Trước mắt chàng, bày ra một nghịch cảnh: dân thì "than khóc tưng bừng - Đều đem nhau chạy vào rừng lên non" ; bọn cướp thì "xuống thôn hương - Thấy con gái tốt qua đường bắt đi". Thế là, sau một lời hứa ngắn gọn: "Tôi xin ra sức anh hào...", Lục Vân Tiên nhanh nhẹn "Ghé lại bên đàng, bẻ cây làm gậy", xông thẳng vào giữa bọn cướp.Bọn cướp đông đặc. Tên tướng cướp "Mặt đỏ phừng phừng", dữ tợn như một con ác thú.Chúng "Truyền quân bốn phía bủa vây bịt bùng". Lực lượng thật quá chênh lệch. Bèn kia là cả lũ lâu la đông như ong, như kiến. Bên này chỉ độc nhất một mình chàng trai dũng cảm với lời hứa chân thành "Cứu người ra khỏi lao đao buổi này", với vũ khí giản dị "cây gậy bên đàng". Vậy mà, chàng không chút nao núng:
“Vân Tiên tả đột hữu xông,
Khác nào Triệu Tử phá vòng Đương Giang.”
Nhà thơ không tả tỉ mỉ trận giao chiến mà chỉ kể ngắn gọn bằng mấy dòng thơ, một đấu so sánh và dăm ba từ đặc sắc: "tả đột, hữu xông - Khác nào Triệu Tử..." đúng là một dũng tướng tài ba, đánh nhanh, kín võ, sánh ngang với Triệu Tử Long thời Tam quốc trong trận phá vây quân Tào Tháo ở Đường Đan Trường Bản. Ngày xưa Triệu Tử Long chiến đấu vì ngôi vua nhà Hán, vì bảo vệ ấu chúa A Đẩu, dù sao vẫn là nghĩa vụ của một bầy tôi trung thành.Còn ngày nay, Lục Vân Tiên chiến đấu vì người dân gặp nạn, cứu dân, trừ ác, vì việc nghĩa... hành động đó thật giản dị, vô tư trong sáng và cao đẹp biết bao. Cuộc chiến đấu của chàng y như trận đánh của Thạch Sanh„ diệt đại bàng cứu nàng công chúa. Sức mạnh của Lục Vân Tiên là sức mạnh của nhân dân, của điều thiện.
“Lâu la bốn phía vỡ tan,
Đêu quăng gươm giáo tìm đàng chạy ngay.
Phong Lai trở chẳng kịp tay,
Bị Tiên một gậy thác rày thân vong.”
Lời thơ chân chất, có chỗ còn thô mộc, song hồn thơ chan chứa dạt dào. Đọc Lục Vân Tiên, chúng ta thường gặp nhiều câu chữ chân mộc như thế. Thơ chân mộc nhưng cảm hứng tác giả vẫn bay bổng, mộng mơ. Ngỡ như người thi sĩ mù ấy vừa kể chuyện vừa rung đùi thích thú, gửi tới bạn đọc một lẽ phải nhãn tiền: Người có lòng nhân, biết làm việc nghĩa thì sẽ thắng. Kẻ độc ác, bất nhân sẽ thảm bại như thế đấy. Xuất phát từ lòng nhân, Lục Vân Tiên đã làm được một việc "nghĩa", một việc xứng đáng được gọi là anh hùng.Tự nguyện dấn thân vào vòng nguy hiểm, chiến đấu hết mình, thắng lợi rực rỡ,... tất cả đều vì nhân nghĩa, nên sau thắng lợi, Lục Vân Tiên không một chút kiêu ngạo. Trái lại, chàng thật khiêm nhường, chính trực. Nghe cô hầu Kim Liên than thở nhưng vẫn còn hoảng sợ, Vân Tiên động lòng thương, an ủi: "Ta đã trừ dòng lâu la".Rồi ôn tồn, chàng thăm hỏi ngọn ngành từ tên họ, gia cảnh đến quê hương, nguyên cớ gặp nạn của hai cô gái. Trong lời chàng, có ý còn lạc hậu, ảnh hưởng quan niệm phong kiến "Nam nữ thụ thụ bất thân", song tất cả đều chân thành, duns dị, rất đáng mến. Đáng mến, đáng phục hơn nữa là sau khi nghe cô tiểu thư Kiều Nguyệt Nga (nạn nhân được chàng cứu giúp) kể lể, thở than, ca ngợi và tha thiết muốn đền ơn, thì: Vân Tiên nghe nói liền cười."Cái cười đáng yêu, đáng kính sao ! Một là cái cười của anh hùng quân tử, hai là cái cười của anh con trai, ba là cái cười của quần chúng rộng lượng, đều nở trên môi Vân Tiên" (Xuân Diệu - Đọc lại thơ văn Nguyễn Đình Chiểu). Sau nụ cười đáng yêu ấy là lời nói, cũng rất đáng yêu:
“Làm ơn há dễ trông người trả ơn.
Nay đà rõ đặng nguồn cơn,
Nào ai tính thiệt so hơn làm gì.”
Đúng là giọng nói, cách nói của chàng trai Nam Bộ - nôm na, giản dị. Nó cất lên từ một cõi lòng chất phác. Chất phác, là cái bên ngoài là cái vỏ xù xì, thô nháp. Nhưng phía trong, phần ruột thì cao đẹp, thắm đỏ, ngọt ngào thơm thảo một quan niệm nhân sinh rất hào hiệp, vô tư của một lớp người, một thế hệ con người. Chúng ta hiểu lời của Lục Vân Tiên như thế nào?. Trước hết, chàng khẳng định việc mình làm là hoàn toàn tự nguyện.Gọi là ơn cũng được. Hay nên xem đó là việc "nghĩa" ? Làm việc "nghĩa" thì không nên đợi trả ơn, tính hơn thiệt,... vì "ơn nghĩa" là lẽ thông thường của người sống có văn hoá, đang theo đòi kinh sử, người hướng về nghĩa khí, lấy nghĩa lớn, lấy chữ nhân, lòng nhân làm động cơ, làm mục đích cho mọi hành động.Chàng đã hành động vì nghĩa lớn trừ kẻ ác, bảo vệ người lương thiện. Chàng chỉ mong Nguyệt Nga cũng như mọi người "rõ đặng nguồn cơn" - nghĩa là hiểu rõ, cảm thông với hành động của chàng. Sau nữa, chàng nhắc tới sử sách, nhắc lời các bậc hiền nhân xưa. Người xưa nói: "Kiến ngãi bất vi vô cùng dã". Nghĩa là "Thấy việc nghĩa mà không làm, không phải người dũng cảm".Cách nói của chàng giản dị hơn: "Nhớ câu kiến ngãi bất vi - Làm người thế ấy cũng phi anh hùng". "Phi anh hùng" là những kẻ tiểu nhân, hèn nhát. Lời của Vân Tiên chắc nịch, vừa để đối chứng, phê phán những kẻ tầm thường, vừa khẳng định việc làm là đúng đắn, là tất yếu, hiển nhiên, thuộc căn cốt, gốc rễ trong lẽ sống của minh.Đó cũng là lẽ sống của biết bao hiền nhân, quân tử ngày xưa, và bao con người chân chính ngày nay. Lời chàng, nhân cách của chàng, gợi nhớ Từ Hải, nhân cách Từ Hải trong Truyện Kiều: "Anh hùng tiếng đã gọi rằng - Giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha". Thế đấy, Lục Vân Tiên thật dũng cảm, trọng nghĩa, khinh tài, tiêu biểu cho những chàng trai Nam Bộ.
Còn Kiều Nguyệt Nga là một cô gái hiền hậu, nết na biết trọng nghĩa tình. Sau khi được cứu thoát khỏi tay bọn bất nhân, độc ác, nàng vô cùng xúc động. Nàng đã nói những lời đẹp nhất để cảm ơn ân nhân:Lâm nguy chẳng gặp giải nguy,
“Tiết trăm năm cũng bỏ đi một hồi.
Trước xe quân tử tạm ngồi,
Xin cho tiện thiếp lạy rồi sẽ thưa.”
Nói "Tiết trăm năm" là nói việc hộ trọng của cả một đời người. "Lạy rồi sẽ thưa" cũng là một thái độ kính nể, thiêng liêng trong quan hệ của con người. Một cô tiểu thư vốn quen được yêu chiều, quen được bảo vệ, chở che mà xử sự như thế, hạ mình như thế, đâu phải chuyện dễ dàng. Nguyệt Nga là tiểu thư - con quan tri phủ - nàng được giáo dục chu đáo, nàng gắn bó với những người dân, nên tiếp nhận được đạo đức của nhân dân.Đạo đức ấy là chữ "ân", chữ "nghĩa". Do đó, sau những phút giao đãi mở đầu, nàng thẳng thắn bày tỏ ý nguyện đền đáp công lao cứu mạng của Lục Vân Tiên. Thái độ và lời nói của nàng có cái gì lúng túng, ngượng ngập, nhưng chất phác, "nghe thánh thót bên tai giọng nói của cô gái miền Nam" (Xuân Diệu):
“Gặp đây đương lúc giữa đàng,
Của tiền chẳng có, bạc vàng cũng không.
Gẫm câu báo đức thù công,
Lấy chi cho phỉ tấm lòng cùng ngươi.”
Nguyệt Nga nói tới "của tiền", "vàng bạc" để giãi bày sự thiếu hụt về vật chất. Lại nói tới "báo đức thù công" - đền đáp ơn đức, công lao. Rồi than thở "Lấy chi cho phí tấm lòng..." để giãi bày sự lúng túng vé tinh thần, những xúc động có thật của một tâm hồn trong trắng. Sau đó Nguyệt Nga cố mời Vân Tiên về nhà mình để tạ ơn. Nhưng chàng từ chối. Nàng băn khoăn, day dứt khôn nguôi.Chỉ đến khi thấy "Vân Tiên nghe nói liền cười..." và an ủi: "Nhớ câu kiến ngãi bất vi - Làm người thế ấy cũng phi anh hùng", Nguyệt Nga mới khuây khoả hỏi thăm gia cảnh tuổi tên của vị ân nhân. Vậy đấy, ngay phút gặp gỡ ban đầu với Lục Vân Tiên, Kiều Nguyệt Nga đã tỏ rõ một tâm hồn trung hậu, nết na. Tâm hồn ấy bắt nguồn từ đâu, nếu không phải từ đạo lí nhân nghĩa của nhân dân ta, nhất là nhân dân Nam Bộ cùng quê hương với Nguyễn Đình Chiểu. Nhiều nhà nghiên cứu văn học cho rằng: Lục Vân Tiên là Truyện Kiều của nhân dân Nam Bộ.
“Vân Tiên, Vân Tiên, Vân Tiên,
Cho tôi một tiền, tôi kể chuyện thơ...”
Những nghệ sĩ hát rong vùng đồng bằng sông Cửu Long, thường giáo đầu bài hát Lục Vân Tiên bằng câu ca như thế. Ngay sau đó, buổi diễn xướng dân gian được đông đảo bà con hưởng ứng, quây tròn quanh người kể chuyện. Người diễn, người nghe giao hoà, say đắm hàng giờ, hàng buổi. Một trong những đoạn truyện được mọi người yêu thích là đoạn Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Ngư.Yêu thích không phải vì văn chương chải chuốt, nghĩa lý thâm trầm như Truyện Kiều, mà trước hết vì: đoạn trích thể hiện khát vọng hành đạo giúp đời của Nguyễn Đình Chiểu và khắc họa phẩm chất đẹp đẽ của hai người trẻ tuổi - Lục Vân Tiên tài ba dũng cảm, trọng nghĩa khinh tài ; Kiều Nguyệt Nga nết na, nhân hậu, ân tình.Tất cả những vẻ đẹp ấy của đoạn thơ phù hợp với phong cách sống, với ước mơ, khát vọng giản dị mà trong sáng của nhân dân ta, mãi mãi dạy chúng ta bài học đạo đức thiết thực và cao cả biết bao.
Phân tích đoạn thơ em yêu thích trong Truyện Lục Vân Tiên - Mẫu 5
Nguyễn Đình Chiểu là một nhà văn, nhà thơ tiêu biểu của nền văn học Việt Nam, thơ văn của ông không có sự chau chuốt, cầu kỳ về câu từ mà lại rất mộc mạc, dân dã gắn liền với đời sống của con người Nam Bộ. Vì vậy trong nền văn học của Việt Nam, đại thi hào Nguyễn Du nổi tiếng với kiệt tác truyện Kiều, đây là tác phẩm được đông đảo độc giả trong nước, cũng như độc giả nước ngoài đón nhận bởi câu từ mượt mà, văn phong khoa học, giàu giá trị nội dung cũng như tư tưởng thì văn chương của cụ Đồ Chiểu đã thâm nhập vào đời sống, trở thành một phần đời sống của người dân Nam Bộ, người ta đọc Truyện Lục Vân Tiên phẩm của ông quen thuộc như những bài đồng dao dân gian. Truyện Lục Vân Tiên nổi tiếng bởi chính chất mộc mạc, gần gũi ấy, trích đoạn “Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga” cũng đã thể hiện được phần nào đặc trưng thơ văn của tác phẩm này.
“Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga” là một trích đoạn của tác phẩm “Truyện Lục Vân Tiên”, kể về hành động nhân nghĩa, vô tư của Lục Vân Tiên, khi chàng bắt gặp trên đường cảnh bạo tàn, chàng đã không hề né tránh hay e ngại những tai họa sẽ đến mà hết lòng ra tay cứu giúp người bị nạn. Đoạn trích thể hiện được nét đẹp trong phẩm chất cũng như tâm hồn của Lục Vân Tiên, chàng làm việc nghĩa xuất phát từ tấm lòng mà không hề tính toán đến việc thiệt hơn, báo đáp ân nghĩa. Ngoài ra, Kiều Nguyệt Nga cũng là một nhân vật được xây dựng khá đặc sắc, nàng là một tiểu thư khuê các, khi được cứu giúp bởi Lục Vân Tiên nàng đã thể hiện những phẩm chất tốt đẹp như trọng ân nghĩa, hiền thục đoan trang lại là một người con có hiếu.
Mở đầu đoạn trích, nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu đã miêu tả một cách chân thực, sống động những hành động của Lục Vân Tiên, đó chính là khi chàng ra tay diệt trừ cái bạo tàn, không cho phép nó làm tổn hại, gây ra đau khổ cho những người dân lương thiện, đây là một hành động đẹp, là biểu hiện ra bên ngoài của một tấm lòng đáng quý, đáng trân trọng.
“Vân Tiên ghé lại bên đàng
Bẻ cây làm gậy nhằm làng xông vô
Kêu rằng: “Bớ đảng hung đồ”
Chớ quen làm thói hồ đồ hại dân”
Câu thơ miêu tả những hành động của Lục Vân Tiên khi gặp một sự cố ở trên đường, đó là chứng kiến cảnh lũ cướp hoành hành, đang gây họa cho người dân, bản tính cương trực, căm ghét cái ác lại đề cao hành động nhân nghĩa đã thôi thúc Vân Tiên hành động, và hành động của chàng dường như cũng chỉ diễn ra trong một cái chớp mắt, chàng không hề suy nghĩ, tính toán thiệt mất nếu như mình can dự vào mà chàng lập tức ra tay diệt trừ mối nguy hại ấy, bảo vệ người dân. Và sự gấp rút của tình huống nên chàng không kịp chuẩn bị gì mà tiện tay bẻ luôn cành cây bên đường để làm vũ khí diệt trừ cái ác “Bẻ cây làm gậy nhằm đằng xông vô”. Không chỉ nhân nghĩa trong hành động mà lời nói của chàng cũng thể hiện được tính cách cương trực, thẳng thắn của chàng “Kêu rằng bớ đảng hung đồ/ Chớ quen làm thói hồ đồ hại dân”.Lời nói của Lục Vân Tiên là hướng đến chỉ trích, phê phán lũ giặc cướp nhưng cũng là tuyên ngôn sống đầy cao đẹp của chàng, sống là phải hướng đến bảo vệ cuộc sống của những người dân lành, chứ không phải mang đến những đau khổ cho họ. Và những hành động bạo tàn, “hồ đồ” chàng càng không cho phép nó xâm hại đến những con người lương thiện ấy. Vân Tiên không chỉ là một con người có tình thương với con người, mang trong mình tinh thần chính nghĩa cao đẹp mà chàng còn là một chàng trai khỏe mạnh, tài giỏi, điều này được thể hiện ra trong những hành động chàng chống lại những tên cướp:
“Vân Tiên tả đột hữu xông
...
Bị Tiên một gậy thác rày thân vong”
Những động tác của Vân Tiên đều rất dứt khoát, nhanh nhẹn “tả đột hữu xung”, và những hành động anh hùng này được nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu so sánh với hình ảnh người anh hùng Triệu Tử khi phá vòng Đương Dang. Trước sức mạnh của Lục Vân Tiên thì băng cướp bị đánh tan “Lâu la bốn phía vỡ tan”, chúng hoảng loạn bỏ lại gươm giáo mà tìm đường thoát thân. Và cầm đầu của băng đảng này là Phong Lai thì bị Tiên cho một gậy “thác rày thân vong”. Đây là sự trừng phạt thích đáng cho những kẻ lấy việc hại người làm niềm vui, làm mục đích kiếm sống. Đối với những tên cướp ngày Lục Vân Tiên tuyệt đối không khoan nhượng,lời nói và hành động đều hết sức quyết liệt nhưng khi hỏi thăm người bị nạn thì chàng lại trở nên vô cùng dịu dàng, phải phép:
“Dẹp rồi lũ kiến chòm ong
Hỏi: “Ai than khóc ở trong xe này”
Không chỉ ra tay cứu giúp người bị nạn mà chàng còn hết lòng quan tâm đến họ, thể hiện ngay qua lời hỏi thăm ân cần, và động viên, giúp người bị nạn trấn tĩnh lại tinh thần sau cơn hoảng loạn bằng việc thông báo cho họ biết tình hình bên ngoài, rằng những lũ “kiến chòm ong” đã bị tiêu diệt, cũng tức không còn bất cứ sự nguy hiểm nào có thể đe dọa nữa. Và phẩm chất tốt đẹp của Lục Vân Tiên cũng tiếp tục được bộc lộ khi chàng có cuộc đối thoại với người bị hại, cũng tức Kiều Nguyệt Nga. Khi Kiều Nguyệt Nga có ý định bước ra khỏi kiệu để cúi lạy Lục Vân Tiên vì công cứu mạng thì chàng nhất quyết không chịu nhận:
“Khoan khoan ngồi đó chớ ra
Nàng là phận gái ta là phận trai”
Chỉ thông qua vài câu nói thôi nhưng ta có thể nhận thấy Lục Vân Tiên là một con người trọng đạo lí, cũng như những khuôn phép trong xã hội xưa. Chàng không muốn Kiều Nguyệt Nga ra ngoài cúi lạy mình vì không muốn sự gặp mặt này ảnh hưởng đến phẩm tiết của nàng, vì trong quan niệm của xã hội phong kiến xưa, thì “nam nữ thụ thụ bất thân”, tức là giữa con trai và con gái cần phải có những khoảng cách nhất định, không được tùy tiện gặp mặt hay có những hành động thân thiết. Lời nói của Lục Vân Tiên cũng thể hiện chàng là một con người có học thức, còn đặt lời nói ấy trong xã hội ngày nay thì ta lại thấy có cái gì đấy đáng yêu ở chàng trai này. Nhưng mục đích của Lục Vân Tiên không chỉ vì lễ tiết mà chàng cũng không muốn nhận sự báo đáp của Kiều Nguyệt Nga, bởi hành động cứu giúp của chàng là xuất phát từ tấm lòng chứ không phải vì mục đích vụ lợi gì “Làm ơn há dễ trông người trả ơn”, câu nói của chàng với Kiều Nguyệt Nga càng làm cho con người chàng trở nên đáng trân trọng hơn.
“Nhớ câu kiến nghĩa bất vi
Làm người thế ấy cũng phi anh hùng”
Trong quan niệm của Lục Vân Tiên thì những việc nhân nghĩa là tất yếu, và nếu làm ơn mà trông ngóng việc trả ơn thì không phải người anh hùng “Làm người thế ấy cũng phi anh hùng”.Như vậy, đoạn trích “Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga đã khắc họa một cách chân thực, sống động hình ảnh của người anh hùng hiệp nghĩa Lục Vân Tiên, ở chàng hiện lên với biết bao phẩm chất tốt đẹp, không chỉ là con người nhân nghĩa, thấy việc ác là ra tay diệt trừ, bảo vệ sự bình yên cho con người mà chàng còn là một con người có học thức, trọng những lễ nghi, khuôn phép. Và ở chàng trai ấy ta cũng có thể thấy được một quan niệm sống thật đẹp, đó là quan niệm về việc nghĩa và về người anh hùng. Khắc họa nhân vật Lục Vân Tiên cũng là cách nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu hình mẫu anh hùng lí tưởng và khát vọng về lẽ công bằng ở đời.
Phân tích đoạn thơ em yêu thích trong Truyện Lục Vân Tiên - Mẫu 6
Từ biệt tôn sư về đi thi, giữa đường bất chợt gặp cảnh lũ cướp hoành hành, Lục Vân Tiên vụt dũng mãnh như chàng Thạch Sanh trong truyện cổ tích. Nhân vật ấy đọng mãi trong lòng người đọc là hình ảnh xả thân cứu Kiều Nguyệt Nga:
“Vân Tiên ghé lại bên đàng,
Bẻ cây làm gậy nhằm làng xông vô.
Kêu rằng: "Bớ đảng hung đồ,
Chớ quen cái thói hồ đồ hại dân"...
Có cảm giác là sự việc diễn ra quá bất ngờ, nhanh chóng. Bất ngờ cũng phải thôi, vì Vân Tiên "giữa đường gặp cảnh bất bình", hoàn toàn ngẫu nhiên. Không kịp suy nghĩ, không kịp đắn đo, chàng bất chấp hiểm nguy, ra tay cứu giúp. Chàng là ai? Người được che chở không hề biết; chỉ biết chàng đang quyết liệt sống mái với lũ cướp đường. Quả thật, theo mạch truyện, chính Vân Tiên đã bị cuốn vào trận đấu một cách không chủ động. Chàng có thể tránh xa nếu là người hèn nhát, có thể dửng dưng nếu là một kẻ ích kỷ...Vân Tiên đã không bàng quan, không để ngoài tai, ngoài mắt những điều trông thấy. Và sự bất ngờ "vào cuộc" của chàng tạo nên thế tự chủ vững vàng trong cái ngẫu nhiên ấy. Giá như Vân Tiên biết rằng người bị cướp tấn công là nàng Kiều Nguyệt Nga xinh đẹp, hiền thục; giá như chàng kịp dừng lại để suy nghĩ một chút thiệt hơn thì đoạn thơ sẽ mất đi cái hấp dẫn của tư thế chủ động "tả đột hữu xông; khác nào Triệu Tử mở vòng..." mạnh mẽ ấy. Ta gặp một chàng trai Nam Bộ thực sự cương trực và... hơi liều lĩnh nữa; thấy cảnh bọn cướp "làm thói hồ đồ hại dân" là xông vào đánh hết mình, đánh bằng lòng căm hờn của một đấng nam nhi quả cảm, bằng tài võ nghệ điêu luyện. Hình ảnh Vân Tiên ngang tàng xông pha giữa đám đầu trâu mặt ngựa như biểu hiện của chính nghĩa đang trừng trị cái ác, cái xấu. Nhân nghĩa và can trường biết bao!Không hiện lên trước mắt người đọc như một Từ Hải "vai năm tấc rộng, thân mười thước cao", cũng không "vào trong phong nhã ra ngoài hào hoa" như Kim Trọng trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, nhưng qua lời nói, việc làm của Lục Vân Tiên, Nguyễn Đình Chiểu đã tạo được ấn tượng đậm nét về chàng. Làm ơn mà không màng được trả ơn là cách sống của người quân tử xưa nay; nhưng thái độ của Lục Vân Tiên trước tình cảnh và sự hàm ơn của Nguyệt Nga lại có những nét riêng rất đáng yêu. Mạnh mẽ, xông xáo trong cuộc chiến với lũ cướp bao nhiêu, chàng lại nhút nhát và e dè trước người con gái nhờ mình mà thoát nạn bấy nhiêu. Khi Nguyệt Nga định bước ra tạ ơn, Vân Tiên ngượng ngùng:
“Khoan khoan ngồi đó chớ ra,
Nàng là phận gái, ta là phận trai...”
Dẫu chưa nguôi sợ hãi, chắc rằng Nguyệt Nga khó mà giấu được nụ cười kín đáo trước chàng trai nhát gái này. Có lẽ người ta sẽ không buột miệng nói như thế nếu là một kẻ thạo đời, lọc lõi trong tiếp xúc với phụ nữ. Liệu hình ảnh Lục Vân Tiên có đẹp một cách trọn vẹn nếu như chàng tỏ ra vồ vập đối với Nguyệt Nga? Thì ra tâm hồn, bản chất chàng trai họ Lục thật trong sáng, tươi trẻ. Càng đáng quý hơn nữa khi cái chất trong trẻo, hiền lành ấy ẩn chứa sau một tính cách khí khái, dũng cảm. Sự cứng rắn của thép, nét non nớt, thư sinh của chàng trai vừa bước vào đời hài hòa trong con người Vân Tiên. Không chỉ qua hành động, cách giao tiếp mà cách ứng xử cũng bộc lộ rõ phẩm cách của chàng. Dám liều mình cứu người, lời lẽ đanh thép khi giao chiến với giặc cướp, để rồi trước một cô gái dịu dàng, Vân Tiên không tránh khỏi ngại ngùng bẽn lẽn - điều đó tự nhiên đã biểu lộ một lối sống lành mạnh, có giáo dục, nề nếp. Lời nói, thái độ khiêm nhường, nhã nhặn: "Làm ơn há dễ trông người trả ơn", "Nhớ câu kiến ngãi bất vi, Làm người thế ấy cũng phi anh hùng"... vừa cho ta cảm cái tâm nhân ái, vừa khâm phục trước quan niệm sống trọng nghĩa của Vân Tiên.Cái nhìn, cách nghĩ của nhà văn bao giờ cũng lộ rõ trong tác phẩm, trong cách thể hiện hình tượng, chi tiết... Có ý kiến cho rằng, cuộc đời Lục Vân Tiên là hình bóng cuộc đời nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu. Chỉ qua vài chi tiết nhỏ - Vân Tiên "bẻ cây làm gậy" có thể thấy được cảm quan hiện thực của nhà thơ. Không rút gươm, rút kiếm một cách oai phong như các binh tướng hay văn nhân quý tộc cao đạo, hành động của chàng chỉ mang tính dân dã, bộc trực. Bất kỳ một người con trai bình dân nào cũng có thể bẻ cây làm gậy để làm việc nghĩa, không cầu kì, chẳng nề hà. Thực chất ở đây, Vân Tiên vẫn là một chàng trai có học, sống giữa những người lao động, chưa phải là một quan chức của nhà nước phong kiến như ở đoạn sau. Ghi một cử chỉ ấy thôi, người đọc đã thấy rõ sự gắn bó mật thiết giữa tâm hồn, tình cảm của nhà thơ với cuộc sống nhân dân, hồn hậu như hạt lúa, củ khoai. Việc làm và cách nghĩ của Lục Vân Tiên như minh chứng cho quan niệm của Nguyễn Đình Chiểu về lẽ sống ở đời:
“Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm,
Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà”
Vẫn là những vần thơ mang đậm phong cách dân gian quen thuộc nhưng được tác giả gọt giũa và nâng cao, tạo được sự hấp dẫn, thích thú đối với người đọc, nhất là trong những lời đối thoại giữa Lục Vân Tiên và Kiều Nguyệt Nga. Lời thơ trau chuốt, không còn là thứ ngôn ngữ mộc mạc thường ngày:
“Chút tôi liễu yếu đào thơ,
Giữa đường gặp phải bụi dơ đã phần.
Hà Khê qua đó cũng gần,
Xin theo cùng thiếp đền ân cho chàng...”
Đây đúng là lời lẽ của một tiểu thư con nhà khuê các, có giáo dục. Và điều đó cùng chứng tỏ nhà thơ đã rất dụng công khi dùng câu chữ và có dụng ý khi thể hiện nhân vật.Lấp lánh sau những câu thơ giản dị, hồn hậu là nét đẹp của phẩm cách, tấm lòng đáng quý, đáng phục của Vân Tiên, Nguyệt Nga... Đoạn thơ ngời sáng như chính cái tâm nhân ái của cụ Đồ Chiểu.