TOP 20 bài Viết bài giới thiệu về Vẻ đẹp của truyện thơ Việt Nam 2024 SIÊU HAY

1.4 K

Tailieumoi.vn xin giới thiệu bài văn mẫu Viết bài giới thiệu về Vẻ đẹp của truyện thơ Việt Nam Ngữ văn 9 Chân trời sáng tạo, gồm dàn ý và các bài văn phân tích mẫu hay nhất giúp các em học sinh có thêm tài liệu tham khảo từ đó học cách viết văn hay hơn.

Viết bài giới thiệu về Vẻ đẹp của truyện thơ Việt Nam

Đề bài: Viết bài giới thiệu về Vẻ đẹp của truyện thơ Việt Nam là một trong số những hoạt động mà Câu lạc bộ Văn học trường em tổ chức nhằm khuyến khích học sinh tìm hiểu truyện thơ dân tộc. Để hưởng ứng hoạt động ấy, em hãy chọn một đoạn trích trong một truyện thơ mà mình yêu thích để viết bài phân tích và gửi cho câu lạc bộ.

Dàn ý Viết bài giới thiệu về Vẻ đẹp của truyện thơ Việt Nam

a. Mở bài

- Tiễn dặn người yêu là một trong những truyện thơ hay nhất của kho tàng truyện thơ dân gian các dân tộc ít người ở Việt Nam. Đây cùng là truyện thơ được dân tộc Thái hết sức yêu quý, say mê.

- Mang đậm yếu tố tự sự và trữ tình, thể hiện sinh động tình nghĩa thiết tha, thuỷ chung và khát vọng tự do của nam nữ thanh niên Thái qua hai nhân vật trung tâm là chàng trai và cù gái, là đoạn trích Lời tiễn dặn (Phần (1) và Phần (2).

b. Thân bài

Đoạn trích gồm hai lời tiễn dặn. Phần (1) là lời dặn dò của chàng trai khi anh chạy theo tiễn cô về tận nhà chồng. Phần (2) là lời khuyên đó, dặn dò của chàng trai khi chứng kiến cảnh cô bị nhà chồng đánh đập, hành hạ. Thương cô, anh càng khẳng định tình yêu tha thiết, bền chặt của mình.

A. Nỗi khổ đau của cô gái.

- Cô gái phải về nhà chồng nhưng chưa gặp người yêu để giã biệt. Hoàn cảnh ấy tạo ra tâm trạng bồn chồn, đau khổ, bất an. Hình ảnh cô cất bước theo chồng: vừa đi vừa ngoảnh lại, vừa đi vừa ngoái trông, lòng càng đau, cùng nhớ... đã phản ánh tâm trạng trên.

- Nhóm từ tới rừng ớt, tới rừng cà, tới rừng lá ngón kết hợp với động từ dại, ngóng trông khiến ta hình dung con đường đi xa ngái và trạng thái dùng dằng, bồn chồn của cô. Hình tượng ớt, cà, lá ngón tăng tiến dần, vừa thể hiện sắc thái văn hóa dân tộc, vừa là nỗi cay đắng, vò xé, thể hiện tâm trạng đau khổ, day dứt của cô gái.

- Tất cả cho thấy sự bế tắc, lo lắng, đau khổ của cô gái khi về nhà chồng. Nỗi đau khổ đó bắt nguồn từ cuộc hôn nhân không tự nguyện, không tình yêu, mà nguyên nhân sâu xa là do xã hội phong kiến Thái dã dành cho cha mẹ quyền định đoạt hôn nhân của con cái, đặc biệt là với con gái.

B. Tâm tình và lời Tiễn dặn của chàng trai.

1. Tâm trạng, tình cảm của chàng trai khi tiễn đưa người yêu về nhà chồng.

Tình cảm tha thiết, quyến luyến, tình yêu sâu sắc của chàng trai:

- Qua hành động chăm sóc ân cần, thiết tha.

- Qua suy nghĩ, cảm xúc mãnh liệt: Muốn tiễn người yêu đến tận nhà chồng, tiếc nuối tình yêu quá ngắn ngủi.

- Nhận thức được hoàn cảnh thực tại không thể gắn bó:

- Tiễn người yêu nhưng trong lòng anh vẫn luôn luôn suy nghĩ: anh mới đành lòng quay lại mới chịu quay đi.

- Tâm trạng của chàng trai rối bời, đầy mâu thuẫn khi phải từ biệt người yêu, tiễn cô về nhà chồng.

2. Lời tiễn dặn của chàng trai trong phần (1)

- Lời dặn dò ở phần ( 1) cũng là lời hẹn ước của chàng trai.

- Thời gian chờ đợi được tính bằng mùa vụ: đợi tới tháng năm lau nở, đợi mùa nước đổ cá về, đợi chim tăng ló gọi hè, ...

- Thời gian chờ đợi được tính bằng ca đời người: không lấy nhau mùa hạ, đợi lấy nhau mùa đông, không lấy nhau thời trẻ đợi lấy nhau khi góa bụa về già.

- Chàng trai đã ước hẹn chờ đợi cô gái trong mọi thời gian, mọi tình huống. Bước đi của thời gian được diễn tả bằng những hình ảnh quen thuộc, bình thường, thuần phác của cuộc sống người dân tộc: tháng lau nở, nước đổ cá về, chim tăng ló gọi hè... Tất cả đã phần nào phác họa tình cảm chân thực, bền chặt của chàng trai dân tộc Thái.

- Tuy nhiên, đợi có nghĩa la chấp nhận thực tại không thể gần gũi, gắn bó, nghĩa là chỉ còn hi vọng ở tương lai. Lời dặn đó thể hiện tình nghĩa thủy chung, tình yêu sâu sắc, vĩnh cửu của chàng trai, đồng thời cũng thể hiện thái độ bất lực, đành chấp nhận cuộc hôn nhân do cha mẹ hai bên định đoạt.

3. Lời tiễn dặn của chàng trai trong phần (2).

- Nếu lời tiễn dặn ở phần (1) nổi bật một chữ đợi thì lời dặn dò ở phần (2) nổi bật chữ cùng với mong muốn thoát khỏi tập tục để gắn bó nhau: đôi ta cùng gỡ, ta vuốt lại quay guồng ta trôi nổi ao chùng, chùng một mái, song song, ta thương nhau, ta yêu nhau...

- Sự khác nhau của hai thái độ đó bắt nguồn từ khi chàng trai chứng kiến cảnh người yêu bị hành hạ. Anh cảm thông, săn sóc cô bằng lời lẽ và hành động chia sẻ hết mực yêu thương: dậy di em, đầu bù anh chải, tóc rối anh búi, làm ống thuốc em uống khỏi đau... Trong lời nói đó còn ẩn chứa nỗi xót xa, đau đớn dường như hơn cả nỗi đau mà cô gái phải chịu. Yếu tố tự sự đã kết hợp chặt chẽ với yếu tố trữ tình, lời gọi chứa đầy cảm xúc khiến câu chuyện có sức biểu cảm lớn.

- Cùng với tình cảm xót thương, anh muốn phá tung sợi dây trói buộc của tập tục Thái, là cùng người yêu sống chết bên nhau.

- Từ hai lời tiễn dặn ở hai hoàn cảnh khác nhau nhưng cả hai phần đều thể hiện tình yêu sâu sắt thủy chung và quyết tâm vượt mọi trở ngại để gắn bó.

c. Kết bài

- Những lời tiễn dặn tha thiết chính là những lời phản kháng tập tục hôn nhân dân tộc Thái ngày xưa. Nguyên nhân chia li và những nỗi đau khổ của chàng trai, cô gái trong truyện chính là do tập tục cha mẹ có quyền định đoạt duyên phận con cái. Vì vậy, những lời tiễn dặn đầy đau khổ của họ chính là những lời tố cáo, phản kháng tập tục hôn nhân đã bóp chết tình cảm yêu thương tự nhiên của con người, khiến cho họ phải suốt đời đau khổ.

- Những lời tiễn dặn cũng đồng thời thể hiện khát vọng tự do, khát vọng được giải phóng, được sống trong tình yêu của các chàng trai, cô gái ngày xưa.

TOP 20 bài Viết bài giới thiệu về Vẻ đẹp của truyện thơ Việt Nam 2024 SIÊU HAY (ảnh 1)

Viết bài giới thiệu về Vẻ đẹp của truyện thơ Việt Nam - Mẫu 1

Trong thơ cổ viết về giai nhân thì đoạn thơ Chị em Thúy Kiều trích trong Đoạn trường tân thanh tức Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du là một trong những vần thơ tuyệt bút. Hai mươi tư câu thơ lục bát đã vẽ nên sắc, tài, đức hạnh của hai chị em Thuý Kiều, Thuý Vân.

Với ngòi bút của một kì tài diệu bút Nguyễn Du đã vẽ nên bức chân dung hai nàng giai nhân tuyệt thế:

Đầu lòng hai ả tố nga,

Thúy Kiều là chị em là Thúy Vân.

Vân là em, Kiều là chị. Hai chị em Vân và Kiều (con đầu lòng của gia đình Vương viên ngoại) đều là những ả tố nga - những người con gái đẹp. Vẻ đẹp của hai nàng là vẻ đẹp thanh tao của mai, là sự trắng trong, tinh sạch của tuyết:

Mai cốt cách tuyết tinh thần,

Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười.

Bút pháp ước lệ cùng phép ẩn dụ đã gợi lên vẻ đẹp hài hoà, hoàn hảo cả về hình thức lẫn tâm hồn. Vẻ đẹp của hai nàng đều đến mức tuyệt mĩ mười phân vẹn mười nhưng mỗi người lại mang một vẻ riêng. Nguyễn Du đã lấy những gì đẹp đẽ nhất của thiên nhiên để miêu tả hai chị em. Thuý Kiều và Thuý Vân đều mang vẻ đẹp lí tưởng, theo khuôn mẫu và vượt lên trên khuôn mẫu.

Sau những câu thơ giới thiệu về hai chị em, ngòi bút Nguyễn Du lại có chiều hướng cụ thể hơn trong bức chân dung quý phái của Thuý Vân:

Vân xem trang trọng khác vời,

Hai chữ trang trọng trong câu thơ đã nói lên vẻ đẹp đài các, cao sang của Vân. Vẻ đẹp ấy của thiếu nữ được so sánh với những thứ cao đẹp trên đời:

Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang.

Hoa cười ngọc thốt đoan trang,

Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da.

Chân dung của Vân được miêu tả một cách khá toàn vẹn từ khuôn mặt, nét mày, làn da, mái tóc đến nụ cười, tiếng nói. Vân có khuôn mặt đầy đặn, phúc hậu như vầng trăng, có đôi lông mày sắc nét như con ngài, có miệng cười tươi thắm như hoa, giọng nói trong trẻo thốt ra từ hàm răng ngà ngọc và mái tóc của nàng bồng bềnh hơn mây, làn da của nàng trắng hơn tuyết, sắc đẹp của Vân sánh với những nét kiều diễm, sáng trong của những báu vật tinh khôi của đất trời. Tất cả toát lên vẻ đẹp trung hậu, êm dịu, đoan trang, quý phái. Vân đẹp hơn những gì mĩ lệ của thiên nhiên nhưng tạo sự hoà hợp, êm dịu: mây thua, tuyết nhường. Với vẻ đẹp như thế, Vân sẽ có một cuộc đời bình lặng, suôn sẻ và một tính cách điềm đạm. Qua bức chân dung này, Nguyễn Du đã gửi tới những thông điệp về tương lai, cuộc đời chính bởi vậy mà bức chân dung Thúy Vân là chân dung mang tính cách số phận.

Tả Vân thật kĩ, thật cụ thể song Nguyễn Du chỉ vẽ Kiều bằng những nét phác hoạ thông thoáng bởi ông không muốn là người thợ vẽ vụng về:

Kiều càng sác sảo mặn mà,

So bề tài sắc lại là phần hơn.

Sắc đẹp của Kiều được đặt trong sự so sánh với vẻ đẹp đoan trang, quý phái của Vân để thấy được sự hơn hẳn của Kiều về vẻ sắc sảo của tài năng trí tuệ, bởi cái mặn mà của nhan sắc. Không tả khuôn mặt, giọng nói, tiếng cười, làn da, mái tóc như Thuý Vân mà Nguyễn Du đã thật tài tình khi chọn đôi mắt Kiều để đặc tả bởi đôi mắt là cửa sổ tâm hồn, thể hiện phần tinh anh của tâm hồn và trí tuệ:

Làn thu thủy nét xuân sơn,

Câu thơ tả đôi mắt mà gợi lên bức tranh sơn thuỷ, diễm lệ. Bức tranh ấy có làn thu thủy - làn nước mùa thu, có nét xuân sơn - dáng núi mùa xuân. Cũng như khuôn mặt Kiều có đôi mắt trong sáng, long lanh, có đôi lông mày thanh tú mà khiến:

Hoa ghen đua thắm liễu hờn kém xanh.

Vẻ đẹp của Kiều không chỉ như thiên nhiên mà còn vượt trội hơn cả thiên nhiên khiến hoa cũng phải ghen, liễu cũng phải hờn. Thiên nhiên không còn thua, nhường mà cau mày, bặm môi tức giận, mà đố kị hờn ghen. Nếu vẻ đẹp của Vân là những gì tinh khôi, trong trắng nhất của đất trời thì Kiều lại mang vẻ đẹp của nước non, của không gian mênh mông, của thời gian vô tận. Cái đẹp ấy làm cho nghiêng nước, đổ thành:

Một hai nghiêng nước nghiêng thành,

Nguyễn Du đã sử dụng những điển tích để cực tả Kiều với vẻ đẹp của trang giai nhân tuyệt thế. Và cũng chính vẻ đẹp không ai sánh bằng ấy như tiềm ẩn những phẩm chất bên trong cao quí là tài và tình rất đặc biệt:

Pha nghề thi hoạ đủ mùi ca ngâm.

Cung thương làu bậc ngũ âm,

Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương.

Kiều có cả tài cầm - kì - thi - hoạ của những bậc văn nhân quân tử và tài nào cũng đến mức điêu luyện. Nàng giỏi về âm luật đến mức làu bậc. Cây đàn nàng chơi là cây hồ cẩm, tiếng đàn của nàng ăn đứt bất cứ nghệ sĩ nào và đã trở thành nghề riêng. Để cực tả cái tài của Kiều, Nguyễn Du đã sử dụng hàng loạt các từ ngữ ở mức độ tuyệt đối: vốn sẵn, pha nghề, làu bậc và đủ mùi. Không những giỏi ca hát, chơi đàn mà Kiều còn sáng tác nhạc nữa. Cung đàn nàng sáng tác là một thiên Bạc mệnh. Bản đàn ấy đã ghi lại tiếng lòng của một tâm hồn đa sầu đa cảm. Nguyễn Du cực tả tài năng của Kiều chính là ngợi ca cái tâm đặc biệt của nàng. Tài năng của Kiều vượt lên trên tất cả và là biểu hiện của những phẩm chất cao đẹp, trái tim trung hậu, nồng nhiệt, nghĩa tình, vị tha. Vẻ đẹp của Kiều là sự kết hợp của sắc - tài - tình và đạt đến mức siêu phàm, lí tưởng. Nhưng nhan sắc đến mức hoa ghen, liễu hờn để tạo hóa phải hờn ghen đố kị và tài hoa trí tuệ thiên bẩm làu bậc, đủ mùi cái tâm hồn đa sầu, đa cảm như tự dưng mà có của nàng khó tránh khỏi sự nghiệt ngã của định mệnh. Chính bởi Kiều quá toàn mĩ, hoàn thiện nên trong xã hội phong kiến kia khó có một chỗ đứng cho nàng. Và cung đàn Bạc mệnh nàng tự sáng tác như dự báo một cuộc đời hồng nhan bạc mệnh khó tránh khỏi của Kiều. Cuộc đời nàng rồi sẽ sóng gió, nổi chìm, truân chuyên. Cũng giống như bức chân dung Thúy Vân, bức chân dung Kiều là bức chân dung mang tính cách số phận.

Nguyễn Du hết lời ca ngợi Vân và Kiều mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười nhưng ngòi bút tác giả lại đậm nhạt khác nhau ở mỗi người. Vân chủ yếu đẹp ở ngoại hình còn Kiều là cái đẹp cả về tài năng, nhan sắc lẫn tâm hồn. Điều đó tạo nên vẻ đẹp khác nhau của hai người thiếu nữ và hé mở hai tính cách, dự báo hai cuộc đời khác nhau đang đón chờ hai ả tố nga. Hai bức vẽ chân dung của chị em Thuý Vân và Thuý Kiều đã cho thấy sự tài tình trong ngòi bút tinh tế của Nguyễn Du.

Kết thúc đoạn thợ là bốn câu lục bát miêu tả cuộc sống phong lưu khuôn phép, mẫu mực của hai chị em Kiều:

Phong lưu rất mực hồng quần,

Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê.

Hai người con gái họ Vương không chỉ có sắc - tài - tình mà còn có đức hạnh. Sống phong lưu đến mực hồng quần. Cả hai đều đã tới tuần cập kê - tới tuổi búi tóc, cài trâm nhưng vẫn sống trong cảnh:

Êm đềm trướng rủ màn che,

Tường đông ong bướm đi về mặc ai.

Hai câu thơ như che chở, bao bọc cho hai chị em, hai bông hoa vẫn còn phong nhụy trong cảnh êm đềm chưa một lần hương toả vì ai. Nguyễn Du đã buông mành, gạt tất cả mọi vẩn đục cho cuộc đời khỏi cuộc sống phong lưu của hai chị em để đề cao hơn đức hạnh của hai nàng.

Với cảm hứng nhân đạo và tài nghệ thơ, Nguyễn Du đã vẽ nên bức chân dung Thúy Vân, Thuý Kiều bằng những gì đẹp đẽ, mĩ lệ nhất. Hai bức tranh mĩ nhân bằng thơ đã thể hiện bút pháp ước lệ tượng trưng và các biện pháp tu từ trong ngòi bút tinh tế của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du.

TOP 20 bài Viết bài giới thiệu về Vẻ đẹp của truyện thơ Việt Nam 2024 SIÊU HAY (ảnh 2)

Viết bài giới thiệu về Vẻ đẹp của truyện thơ Việt Nam - Mẫu 2

Phân tích đoạn trích "Kiều gặp lại Thúc Sinh" trong Truyện Kiều

- Giới thiệu:

Đoạn trích "Kiều gặp lại Thúc Sinh" nằm trong phần "Gia biến và lưu lạc" của Truyện Kiều, là một trong những đoạn trích tiêu biểu và giàu cảm xúc của tác phẩm. Qua đoạn trích này, Nguyễn Du đã thể hiện tài năng nghệ thuật xuất sắc của mình trong việc xây dựng nhân vật, miêu tả tâm lý và sử dụng ngôn ngữ.

 Phân tích:

-  Bối cảnh:

Sau khi bị bán vào lầu xanh, Kiều đã trải qua bao cay đắng, tủi nhục.

Thúc Sinh, người mà Kiều từng đính ước, nay đã trở thành quan lớn.

-  Diễn biến:

+ Kiều và Thúc Sinh gặp nhau trong hoàn cảnh trớ trêu: Kiều là một kỹ nữ, Thúc Sinh là quan lớn.

+ Kiều xưng "tiểu thiếp", gọi Thúc Sinh là "đại quan" thể hiện sự kính trọng, nhưng cũng ẩn chứa nỗi tủi nhục.

+ Thúc Sinh tỏ ra bối rối, ngượng ngùng, ân hận vì không thể bảo vệ Kiều.

+ Kiều bày tỏ lòng biết ơn Thúc Sinh đã chuộc mình khỏi lầu xanh, nhưng cũng thể hiện sự chua chát, tủi nhục khi thân phận đã thay đổi.

+ Hai người trao đổi những lời tâm tình, ôn lại kỷ niệm xưa.

→ Cuộc gặp gỡ kết thúc trong bế tắc, đầy nuối tiếc.

- Tâm trạng nhân vật:

+ Kiều: Lộn xộn, bồi hồi, chua chát, tủi nhục, nhưng vẫn còn tình cảm với Thúc Sinh.

Thúc Sinh: Bối rối, ngượng ngùng, ân hận, thương cảm cho Kiều.

- Nghệ thuật:

+ Sử dụng các từ ngữ gợi tả tâm trạng nhân vật: "xót xa", "chạnh lòng", "nỗi niềm", "tủi nhục",..

.+ Sử dụng các biện pháp tu từ: ẩn dụ, so sánh, đối lập,... để làm nổi bật tâm trạng, cảm xúc của nhân vật.

+ Ngôn ngữ trang trọng, thanh tao, thể hiện đẳng cấp của nhân vật.

-  Đánh giá:

+ Đoạn trích thể hiện tài năng nghệ thuật xuất sắc của Nguyễn Du trong việc xây dựng nhân vật, miêu tả tâm lý và sử dụng ngôn ngữ.

→ Qua đoạn trích, tác giả đã thể hiện sự thương cảm cho số phận bi kịch của người phụ nữ trong xã hội phong kiến, đồng thời thể hiện quan điểm về tình yêu và đạo lý trong xã hội. 

=> Đoạn trích "Kiều gặp lại Thúc Sinh" là một đoạn trích hay, ý nghĩa, góp phần làm nổi bật giá trị nhân đạo và nghệ thuật của Truyện Kiều.

Viết bài giới thiệu về Vẻ đẹp của truyện thơ Việt Nam - Mẫu 3

Nguyễn Du là nhà thơ thiên tài của dân tộc. “Truyện Kiều” là kiệt tác của nền thi ca cổ Việt Nam. Đây cũng là một tác phẩm sáng ngời tinh thần nhân đạo. Trong đó, đoạn trích “Cảnh ngày xuân” là một trong những đoạn thơ hay nhất, đẹp nhất của truyện. Nó tiêu biểu cho sự thành công về bút pháp tả cảnh, tả tình rất tài hoa của nhà thơ. Qua đoạn trích, ta thất được một niềm vui xôn xao, náo nức lan tỏa, lắng đọng trọng lòng bạn đọc khi tác giả đưa ta về với khung cảnh lễ hội văn hóa truyền thống của dân tộc trong lễ tết thanh minh.

Bốn câu thơ đầu mở ra một khung cảnh hữu sắc, hữu hương, hữu tình nên thơ giữa bầu trời bao la, mênh mông, xanh thẳm có những cánh én nhỏ đang chao nghiêng, chao đi chao lại trông như những con thoi trên tấm vải khổng lồ. Trong nhiều tác phẩm thì cánh én luôn báo hiệu mùa xuân đến, mùa xuân ấm áp trở về sau thời gian gió lạnh nhưng trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du thì cánh én chao nghiêng như đưa thoi gợi lên hình ảnh thời gian trôi đi rất nhanh:

“Ngày xuân con én đưa thoi

Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi

Dân gian ta có câu: “thời gian thấm thoắt thoi đưa như ngựa chạy, như nước chảy qua cầu”. Câu thành ngữ ấy đã nhập vào hồn thơ của Tố Như để tạo ra một cánh én đưa thoi ở ngay chính câu thơ đầu của đoạn trích. Cùng với thời gian đưa thoi là ánh sáng đẹp của mùa xuân, ánh thiều quang đã ngoài sáu mươi ngày. Bằng lời thơ gợi tả cùng biện pháp nghệ thuật nhân hóa, ẩn dụ, so sánh “con én đưa thoi” đã gợi ra sự nuối tiếc của con người vì cái đẹp ấy sắp qua khiến lòng người bâng khuâng, lưu luyến, muốn níu kéo mong cho đất trời mãi còn xuân. Không chỉ riêng Nguyễn Du,  mà cả Xuân Diệu cũng đã từng viết:

“Xuân đang đến là xuân sắp qua

Xuân còn non nghĩa là xuân sắp già”

Đó chính là quy luật tuần hoàn của thời gian, của vũ trụ. Nhưng trong tiết trời tháng ba ấm áp và trong trẻo ấy có một màu xanh mơn mởn, ngọt ngào của cỏ non, trải dài, trải rộng như một tấm thảm khổng lồ kéo đến tận chân trời. Bức tranh thiên nhiên đẹp đẽ, trong trẻo, tinh khôi tràn đầy sức sống của mùa xuân hiện lên qua bút pháp miêu tả tài tình của nhà thơ:

“Cỏ non xanh tận chân trờ

Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”

Bằng vài nét chấm phá, nghệ thuật miêu tả tài tình, kết hợp với các hình ảnh đặc sắc “cỏ non xanh, lê trắng”, từ ngữ chọn lọc “điểm”…Nguyễn Du đã mở ra trước mắt chúng ta một bức tranh thiên nhiên mùa xuân tươi sáng, đẹp đẽ và sinh động vô cùng. Trong cái nền “cỏ non xanh” có điểm thêm một vài bông hoa lê trắng. Hai chữ “trắng điểm” của Tố Như như là một nét chấm phá đầy sáng tạo và độc đáo, thu hút mắt người đọc, tai người nghe như mở ra trước mắt chúng ta một khung cảnh lễ hội tưng bừng náo nức giữa bầu trời xuân êm đềm, trong trẻo, tràn ngập sắc màu.  Màu sắc được phối hợp một cách hài hòa, tự nhiên đã tạo ra một bức tranh thiên nhiên mùa xuân tươi đẹp với nền xanh điểm trắng nhẹ nhàng, tao nhã, tinh khôi, thanh khiết, trong trẻo tràn đầy sức sống với không gian trải dài trải rộng ngút ngát về phía chân trời chứ không phải là bức tranh của thơ ca cổ Trung Hoa đơn điệu một màu:

“Phương thảo liên thiên bích

Lê chi sổ điểm hoa”

Tám câu thơ tiếp theo tả cảnh trẩy hội màu xuân:

“Thanh mình trong tiết tháng ba

Lễ là tảo mộ, hôi là đạp thanh.”

Nguyễn Du đã đưa chúng ta trở về lễ hội tưng bừng của người dân Việt Nam, lễ hội mang nét đẹp truyền thống của dân tộc. Lễ tảo mộ là lễ của những người còn sống đi quét dọn, thắp hương, sửa sang phần mộ cho những người đã mất để tỏ lòng hiếu kính, biết ơn, nhớ thương của người ở lại với người đã ra đi, của con cháu với tổ tiên. Việc làm đó thể hiện truyền thống “uống nước nhớ nguồn” của dân tộc, đây chính là lễ giáo văn hóa tốt đẹp của nhân dân ta.

Bên cạnh “lễ tảo mộ” là “hội đạp thanh”, là cuộc du xuân, cuộc vui chơi trên đồng cỏ xanh của những trai tài gái sắc, nam thanh nữ tú, “hội đạp thanh” còn là cơ hội gặp gỡ tạo nên sợi tơ hồng để thành duyên đôi lứa mai sau. Vì vậy không khí lễ hội đông vui, nhộn nhịp đến lạ thường:

“Gần xa nô nức yến anh

Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân

Dập dìu tài tử giai nhân

Ngựa xe như nước áo quần như nêm”

Chỉ với bốn câu thơ, tác giả đã gợi ra không khí lễ hội bằng một loạt từ ngữ giàu sắc thái biểu cảm như từ láy “nô nức”, “dập dìu”, “sắm sửa” và từ ghép, từ Hán-Việt” “tài tử”, “giai nhân”, “bộ hành”, “ngựa xe”, “gần xa”, “yến anh” kết hợp với các biện pháp nghệ thuật như ẩn dụ, so sánh đã khắc họa thật sinh động, không khí lễ hội rộn ràng, đông vui, tưng bừng, náo nhiệt đang diễn ra ở khắp mọi miền đất nước. Trong dòng người nô nức đó có ba chị em Kiều cũng sắm sửa, hòa nhập vào cái đẹp, cái tưng bừng, rộn rã của tuổi trẻ. Hình ảnh so sánh thật giản dị “Ngựa xe như nước áo quần như nêm”, gợi tả không khí náo nức của lễ hội, từng đoàn người người đi chơi xuân trong bộ áo quần đẹp đẽ, tươi thắm màu sắc, họ như từng đàn chim én, chim oanh ríu rít bay về dự lễ hội mùa xuân. Cảnh chảy hội thật đông vui, náo nhiệt trên khắp nẻo đường “gần xa”, những dòng người cuồn cuộn đi trẩy hội, có biết bao “yến anh” đang nô nức, giục dã, chân nói nhịp bước trong dòng người tấp nập, đông vui, nhộn nhịp trên khắp các làng quê. Điều đó cho thấy những “tài tử giai nhân” đã chuẩn bị hết sức chu đáo mong ngóng ngày hội vui để được hưởng niềm hạnh phúc của tuổi trẻ trong tiết màu xuân đẹp đẽ. Đi trẩy hội đã thể hiện được nếp sống phong lưu của chị em Kiều.

Thơ vốn là nghệ thuật của ngôn từ, các từ ghép “yến anh; chị em;tài tử, giai nhân; ngựa xe; áo quần” chính là  những danh từ và “gần xa; nô nức; sắm sửa; dập dìu” là động từ, tính từ được thi hào dân tộc sử dụng chọn lọc, tinh tế đã làm sống lại lễ hội mùa xuân. Trong niềm vui của ngày hội xuân đó, đời sống tâm linh cùng với phong tục, dân gian cổ truyền được Nguyễn Du nói đến với nhiều cảm thông sâu sắc:

“Ngổn ngang gò đống kéo lên

Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay”

Với nhịp thơ 2/4 và 4/4, giọng thơ trầm xuống thoáng hiện ra một nét buồn cho thấy cõi âm và cõi dương, người sống và người chết, hiện tại và quá khứ đồng hiện trên những gò đống ngổn ngang trong “lễ tảo mộ”, cái tâm thì thánh thiện, niềm tin thì phác thực, dân gian đầy ắp nghĩa tình. Các tài tử giai nhân, chị em Kiều không chỉ cầu nguyện cho riêng mình cầu nguyện cho những vong linh mà còn gửi gắm biết bao niềm tin, ước vọng về một tương lai hạnh phúc

Sáu câu thơ cuối là đoạn ghi lại cảnh chị em Kiều du xuân trở về:

“Tà tà bóng ngả về Tây

Chị em thơ thẩn dan tay ra về

Bước dần theo ngọn tiểu khê

Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh

Nao nao dòng nước uốn quanh

Nhịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang”

Mặt trời đã “tà tà” xuống núi, ngày hội vui đã qua rất nhanh, chị em Kiều “thơ thẩn dan tay ra về”. Hội đã tan, lòng người buồn lưu luyến. Nhịp thơ chậm rãi, tâm tình đến “thơ thẩn”, cử chỉ thì “dan tay”, nhịp chân thì bước dần, tất cả để lại một nỗi lòng man mác, bâng khuâng, lần xem với mọi cảnh vật như tiếc nuối ngày vui mau qua. Bằng nghệ thuật tả cảnh ngụ tình, cảnh vật hiện lên vẫn đẹp nhưng đã không còn tươi sáng như lúc đầu ngày. Cái tài miêu tả của Nguyễn Du khiến không khí lễ hội lúc tan ảm đạm, buồn bã mà có phần thanh dịu, lặng lẽ, mơ mộng, không gian thu hẹp lại, thời gian trôi chậm hơn, cảnh vật như nhạt dần, lặng lẽ theo bước chân “thơ thẩn” trên dặm đường về, phảng phất nỗi tiếc nuối, lưu luyến của lòng người. Mọi chuyển động nhẹ nhàng đều thể hiện qua tâm trạng giai nhân đa sầu đa cảm qua việc sử dụng một loạt các từ láy vừa gợi tả cảnh, vừa gợi tâm trạng bâng khuâng, xao xuyến từ dư âm ngày vui xuân dường như đã dự báo, linh cảm về điều sắp xảy ra trong tâm hồn nhạy cảm của Thúy Kiều. Bằng việc sử dụng các từ láy gợi tả: “tà tà, thơ thẩn, nao nao, nho nhỏ, thanh thanh”, nghệ thuật tả cảnh ngụ tình, bút pháp ước lệ gợi nên sự nhạt nhòa của cảnh vật nhưng lại rất đẹp, rất thân quen với mỗi chúng ta bởi không ai xa lạ với “ngọn tiểu khê, nhịp cầu nho nhỏ” nơi làng quê yên bình bởi đó chính là màu sắc của quê hương trong lòng người. Cảnh chiều đẹp nhưng buồn còn tâm tình của giai nhân thì cứ man mác, bâng khuâng, nuối tiếc ngày hội vui đã tàn.

“Cảnh ngày xuân” là một trong những đoạn thơ tả cảnh hay nhất trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du. Đọc đoạn trích, người đọc không chỉ trầm trồ về bức tranh thiên nhiên trong sáng vô ngần mà còn cảm nhận được vẻ đẹp trong một lễ hội truyền thống đầy ý nghĩa của cha ông: tiết Thanh minh. Và qua đây, Nguyễn Du cũng thể hiện nét tài hoa trong việc dựng lên một bức tranh tả cảnh ngụ tình tinh tế,...

Viết bài giới thiệu về Vẻ đẹp của truyện thơ Việt Nam - Mẫu 4

Từ lâu đề tài về tình yêu đôi lứa đã trở thành nguồn cảm hứng bất tận cho nhiều tác giả sáng tác được nên nhiều tác phẩm hay. Tiễn dặn người yêu cũng là một trong số đó, tác phẩm nổi bật về phong cách sáng tác truyện thơ kết hợp rất nổi tiếng của dân tộc Thái. Những trắc trở trong tình yêu, trong hôn nhân đôi khi như thử thách nằm trên con đường dài dẫn đến hạnh phúc, mà chính những con người trong cuộc mới cảm nhận hết, đặc biệt tâm trạng từ phía người con trai - vế chủ động trong một cuộc tình mang đầy sâu sắc, da diết, được miêu tả rõ qua đoạn trích lời tiễn dặn.

Truyện thơ của các dân tộc chính là một câu chuyện dài kể qua lời thơ, phản ánh cho ta hiểu được nhiều phong tục tập quán, cũng như lối suy nghĩ, tình cảm của người đồng bào thiểu số. Tiễn dặn người yêu,được dịch cụ thể thành 1846 câu thơ,rất nổi tiếng, kể lại câu chuyện tinh yêu - hôn nhân qua lời của 2 nhân vật chính, trong câu chuyện có nhiều diễn biến tương ứng như mỗi quãng đường thăng trầm trong tình yêu của họ bao gồm cả những khát vọng hạnh phúc, nỗi đớn đau khi tình yêu bị chia lìa và cuộc đấu tranh kiên trì, quyết liệt của hai người để bảo vệ tình yêu,ta phải đặt mình vào trong tác phẩm một cách chân thành mới mong hiểu được biết cảm thông được với những biểu hiện mong ngóng người yêu ,cử chỉ ân cần, âu yếm và lời thề nguyền son sắt giữ trọn tình yêu của chàng trai.

Đoạn trích này đặc biệt hoàn toàn là lời của chàng trai, cùng tâm trạng đau đớn trên đường tiễn cô gái về nhà chồng, phải chứng kiến cảnh cô bị chính người chồng đánh đập, hình ảnh cô gái hiện lên gián tiếp trong lời nói chân thành của anh.

Khi đọc ngay từ đầu hình ảnh quay chậm miêu tả hị qua lời anh rõ nét, luôn trong trạng thái níu kéo cho thời gian dài ra, cố trì hoãn những bước đi về nhà người chồng mà chị không hề muốn sống chung, mỗi chữ, chân bước đi mà đầu “còn ngoảnh lại” mắt còn “ngoái trông anh”, chân bước càng xa thì lòng càng đau đớn, mỗi cảnh rừng nàng qua đều biểu hiện sự tha thiết nhớ người yêu cũ, muốn gặp.

Em tới rừng ớt ngắt lá ớt ngồi chờ,

Tới rừng cà ngắt lá cà ngồi đợi,

Tới rừng lá ngón ngóng trông.

Các từ ngữ được dùng với độ dày đặc, lặp đi lặp lại như biểu hiện tính đau khổ, nỗi lòng nhớ thương của cô gái, mãi mong người yêu nhưng chẳng thấy anh.

Rồi anh cũng tới, sau bao nỗ lực của cô gái, vì họ hiểu nhau, vì họ như hẹn ước với nhau:

Anh tới nơi, em bẻ lá xanh em ngồi;

Được nhủ đôi câu, anh mới đành lòng quay lại,

Được dặn đôi lời, anh yêu em mới chịu quay đi.

Lúc tiễn đưa này, anh - người đàn ông dân tộc Thái ấy, cử chỉ thân mật, tình cảm tuyệt vời, trước người con gái mình yêu, hoàn cảnh éo le hiện tại, anh cũng như chị, cũng muốn níu kéo thời gian giây phút ngắn ngủi được ở bên chị, Anh đòi hỏi với mong muốn tha thiết phải được dặn chị đôi lời mới chịu quay gót, phải dặn dù chẳng được nói chuyện nhiều như lúc xưa kia nhưng vì anh luôn cảm thấy chỉ hiểu mình, tin tưởng nhau tuyệt đối như ngày nào nên dù có dặn đôi câu cũng đã yên lòng quay gót đi.

Ngôn ngữ xưng hô trong dân ca Thái và trong tiễn dặn người yêu sao mà ngọt ngào, mở đầu đoạn trích Anh gọi chị là “người đẹp anh yêu”, đến lúc gặp được chị là một câu tự xưng “anh yêu của em” khẳng định tình yêu trong Anh vẫn nồng nàn, thắm thiết.

Phong tục của người Thái cũng lại vang lên đầy tính tình cảm, được nhắc đến trong hoàn cảnh này như sự suy nghĩ sâu xa cho tương lai hai đứa, đến một ngày mà viễn cảnh ấy u ám - là cái ngày một trong hai người chết đi:

Xin hãy cho anh kề vóc mảnh,

Quấn quanh vai ủ lấy hương người,

Cho mai sau lửa xác đượm hơi,

Một lát bên em thay lời tiễn dặn

Dù nhận thức hoàn cảnh hiện tại không hề chấp nhận, cho phép được hành động thân mật táo bạo của anh với chị, nhưng anh vẫn bất chấp, nhất mực, luôn muốn “kề vóc mảnh” gợi ra được sự mảnh mai, nhưng đầy kiêu sa, đẹp tuyệt của người con gái Thái muốn tìm về cái sự thủy chung đâu có gì là sai, anh suy nghĩ không lấy được nhau, có nghĩa không có ai thân yêu suốt cả cuộc đời nhưng vì có hơi hương da thịt người yêu ngay lúc này, mà khi chết xác sẽ cháy đượm, vong hồn được siêu thoát, không còn là kẻ cô đơn.

Tình cảm của người con trai ấy thật cao cả, đáng quý, không những chỉ yêu mình chị, còn dành cả tình yêu luôn cả đứa con riêng của cô gái. Vì hoàn cảnh éo le, nàng phải chấp nhận tình cảm, cũng như đứa con mà tạo thành bởi một cuộc tình không có cảm xúc, lạnh nhạt với người chồng hiện tại. Anh vẫn bao dung, trân trọng cô, anh nựng đứa con của người yêu như chính đưa con ruột của mình.

Con nhỏ hãy đưa anh ẵm,

Bé xinh hãy đưa anh bồng,

Cho anh bế con dòng, đừng ngượng,

Nựng con rồng, con phượng, đừng buồn.

Tiếng nựng kia dù chân thành nhưng làm sao có thể tránh sự đau lòng, ai oán, khi tình yêu đến mà không được cùng nhau đi đến cuối cuộc đời, không được cùng nhau xây dựng một gia đình hạnh phúc, những đàn con thơ. Vậy nên chàng đã thốt ra lời thề nguyện chan chứa tình cảm, đầy sự quyết tâm về tình yêu sự sắt đá của cả hai người:

“Đôi ta yêu nhau, đợi tới tháng Năm lau nở,

Đợi mùa nước đỏ cá về, Đợi mùa chim tăng ló gọi hè.

Không lấy được nhau mùa hạ, ta sẽ lấy nhau mùa đông,

Không lấy được nhau thời trẻ, ta sẽ lấy nhau khi góa bụa về già’’.

Đây cũng như là ý chính chủ đạo bao bọc của bài thơ, ý thơ hay dào cảm xúc. Có Thời gian cụ thể, bằng cả sự chân thành, tứ thơ bay bổng, lay động mà chân thật, gắn với hai mùa đầu và cuối trong một năm cũng tương tự như là đời người, dù không thể trọn vẹn tình yêu nơi tuổi thanh xuân trẻ trung, nồng nhiệt kia, nhưng tình yêu thì sẽ chẳng bao giờ là muộn để tiếp nối lại, để tạo nên gia đình hạnh phúc của hai người, dù có khi đến tàn phai theo năm tháng họ đều đã về già nhưng sự chờ đợi nhau dù bao nhiêu lâu” tháng năm lau nở”, “nước đỏ cá về”, “chim tăng ló gọi hè”, tình yêu trong sáng ấy không bao giờ bị dập tắt như chính lời thề nguyền ngày nào.

Sự thủy chung son sắt trong tình yêu còn được thể hiện qua đoạn hai những ngày mà chàng trai còn lưu lại ở nhà chồng cô. Là người chứng kiến cảnh người chồng mới đánh đập, hành hạ cô ngã lăn quay bên cối gạo, khi cô trở thành một người khác luôn vì muốn sống trọn với lời thề nguyền cùng chàng, cô đã hóa mình thành một con người sống phản kháng không cam lòng với sự sắp đặt, giả bộ làm những việc để nhà chồng chán ngấy, ghét kinh mình, rồi cô cũng phải lâm vào cái tình cảnh quen thuộc bị đối xử thậm tệ không khác gì người ở cho nhà chồng, chàng trai ấy hiểu hết, đồng cảm, an ủi, chăm sóc cô trong giây phút cô tuyệt vọng nhất.

“Dậy đi em, dậy đi em ơi!

Dậy rũ áo kẻo bọ,

Dậy phủi áo kẻo lấm!

Đầu bù anh chải cho,

Tóc rối đưa anh búi hộ!

Anh chặt tre về đốt gióng đầu,

Chặt tre dày, anh hun gióng giữa,

Lam ống thuốc này em uống khỏi đau.

Anh vực cô dậy không chỉ về thể xác, còn về cả tinh thần, giúp cô có ý chỉ, nghị lực để sống tiếp quãng đường khó khăn này, còn cho nàng hiểu và nhớ rằng dù có chuyện gì xảy ra chàng vẫn luôn bên cạnh ủng hộ, cùng nàng vượt qua mọi chuyện

“Tơ rối đôi ta cùng gỡ

Tơ vò ta vuốt lại quay guồng”

Quay lại guồng gỗ tốt cán thuôn,

Về với người ta thương thuở cũ."

Đoạn thơ này kế tiếp bằng những hình ảnh bi thương- cái chết nhưng một lần nữa khẳng định lại cái quyết tâm kia, lòng dạ, ý chí của anh và cô đầy sự đồng lòng, sự sống mạnh mẽ vực lại tình yêu, không chấp nhận thực tại:

“Chết ba năm hình còn treo đó;

Chết thành sông, vực nước uống mát lòng,

Chết thành đất, mọc dây trầu xanh thắm,

Chết thành bèo, ta trôi nổi ao chung,

Chết thành muôi, ta múc xuống cùng bát,

Chết thành hồn, chung một mái, song song."

Cái sự trân trọng tình yêu chính là cái kết đẹp nhất cho bức tranh này, bằng sự sử dụng phương pháp so sánh dù đơn giản nhưng có sự chọn lọc kĩ càng, biểu hiện đa dạng, nói lên được biết bao nhiêu phong tục, bản sắc văn hóa, thiên nhiên hữu tình của người Thái

Đôi ta yêu nhau, tình Lú - Ủa mặn nồng

Lời đã trao thương không lạc mất;

Như bán trâu ngoài chợ,

Như thu lúa muôn bông.

Lòng ta thương nhau trăm lớp nghìn trùng,

Bền chắc như vàng, như đá.

Toàn bộ đoạn trích có sự sử dụng thành thạo nhiều yếu tố nghệ thuật hấp dẫn, phương pháp diễn tả trùng điệp, lỗi kể chuyện xen lẫn tả thơ cuốn hút. Tạo nên sự cân đối nhịp nhàng, hài hòa về nhạc điệu bộc lộ được sự ân cần, tận tình của người con trai dành cho người yêu xứng đáng, trọn vẹn, hành động xót xa, ân cần, đầy thương cảm, vang mãi trong ta lời thề nguyện tình yêu.

Quả đúng vậy, kết thúc câu chuyện chính là một cái kết rất dân gian, rất có hậu, họ cùng nhau vượt qua số phận khắc nghiệt, đoàn tụ lại, làm lại cuộc đời mới có nhau dù khi cả hai đã không còn trẻ trung, chàng trai đã giữ đúng lời hứa với cô gái ngày nào, bằng chính lòng chân thành, lòng chung thủy, sự cao thượng. Sự trong sáng, chân chính của họ đã làm cho chúng ta một lần nữa tin rằng luôn có sự kì diệu trong cuộc sống này.

Tâm hồn, tập tục hôn nhân của người Thái xưa có thể nói được phản ánh phần nào qua những câu tiễn dặn, cũng vì lí do hoàn cảnh khó, cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy là nguyên nhân đầu tiên dẫn đến bao nhiêu sự chia ly, bi đát, đau thương của vô vàn các cuộc tình đẹp như thơ. Lời tiễn dặn cũng mang ý nghĩa sâu xa là sự tố cáo lên những cổ hủ, tập quán lạc hậu của người dân, đã làm họ dần mất dần đi sự tự do trong tình yêu, mất tính phản kháng. Vậy nên mỗi chàng trai, cô gái có được những cái khát vọng mạnh mẽ giải phóng trong tình yêu, bất chấp ngăn cản như hai nhân vật chính trong Tiễn Dặn Người Yêu thật là đáng để chúng ta phải học tập, ngưỡng mộ, đồng cảm.

Viết bài giới thiệu về Vẻ đẹp của truyện thơ Việt Nam - Mẫu 5

Truyện thơ nôm Tống Trân - Cúc Hoa có cốt truyện vay mượn từ truyện thơ nôm Kinh Tống Trân Cúc Hoa. Truyện thơ Tống Trân - Cúc Hoa có nguồn gốc từ truyện cổ tích Giã sử quan trạng Gầu. Truyện được xây dựng trên những mâu thuẫn phức tạp của cuộc sống đời thường. Đó là những nghịch cảnh, nghịch lí trớ trêu của cuộc đời mang đến nhiều giá trị nhân sinh sâu sắc.

Truyện nôm là một bộ phận văn hóa độc đáo và có những giá trị sâu sắc trong nền văn học phong kiến Việt Nam. Đây là một loại hình tự sự có khả năng phản ánh hiện thực với một phạm vi rộng vì vậy có người gọi truyện thơ nôm là trung thiên tiểu thuyết. Những giá trị mà truyện nôm mang lại cho cuộc sống được khẳng định qua sự tồn tại của nó theo thời gian.

Chuyện kể rằng Tống Trân vốn là con cầu tự, lên ba tuổi thì cha mất gia đình hoàn cảnh vô cùng khó khăn. Mẹ con chàng phải đi ăn xin kiếm sống qua ngày, cuộc sống muôn vàn khó khăn vất vả. Một hôm Tống Trân đưa mẹ tới nhà quý phái, tại đi Tống Trân và Cúc Hoa gặp nhau, thương tình cho cảnh nghèo đói của mẹ con chàng, nàng Cúc Hoa đem gạo ra cho và đem lòng yêu Tống Trân. Dưới sự ngăn cản của gia đình Cúc Hoa đi theo Tống Trân, lấy chàng làm chồng. Kể từ đó Cúc Hoa vừa lo phụng dưỡng cho mẹ chồng vừa lo cho chồng ăn học.

Tống Trân lên kinh thi và đỗ Trạng nguyên được vua khen là “quốc sĩ tướng tài trong nước chỉ có một mình Tống Trân không ai sánh được”. Nhà vua muốn gả con gái cho chàng nhưng bị khước từ. Chính vì điều đó là chàng bị cử đi sứ Tần , chàng lúc nào cũng không quên nhớ nhà, nhớ người thân, nhớ hình ảnh mẹ già và người vợ thảo hiền của mình “thân nàng theo mừa đuổi hiên/ Thân nàng về lầu các mái hiên/ Phít se quan Tạng Nguyên nàng vọng/ Dõi theo bóng Trạng Nguyên xa khuất”. Tống Trân là một người tài giỏi, yêu thương gia đình hai vợ chồng chưa được bên nhau bao lâu thì bàng hoàng khi nhận được chiếu chỉ của vua ban “ngày vui ngắn chẳng tày ngang/ chữ hiếu chưa tròn chữ tình dở dang”. Chàng lên đường theo chiếu chỉ của vua thế nhưng lòng vẫn luôn hướng về gia đình. Tống Trân thương người mẹ già tuổi đã cao, thương người vợ hiền đảm bao công nuôi mẹ rồi nuôi chồng nay mới hưởng được chút vinh danh lại phải xa cách mà chưa biết bao giờ mới có ngày đoàn tụ. Cả đoạn Tống Trân chia tay mẹ già và người vợ hiền để lên đường đi sứ mang đến cho ta cảm giác xa cách, chứa chan nước mắt với những từ ngữ đầy buồn đau như “thảm hại”, “lệ tuôn lai láng”, “nước mắt rơi lã chã”,…Tống Trân đến với Cúc Hoa bằng tình cảm chân thành, họ yêu nhau không vì danh lợi bởi tình cảm họ dành cho nhau đều đến từ trái tim. Cúc Hoa nguyện ở nhà nuôi mẹ cho chồng vững bước trên đường xa. Một người vợ với tấm lòng đôn hậu, nghĩa tình thủy chung nặng tình nặng nghĩa như Cúc Hoa quyết định ở lại chăm lo cho mẹ già chờ ngày chồng trở về. Ở nơi xứ lạ quê người, Tống Trân không ngừng nhớ về quê hương, nhớ về mẹ về vợ của mình “thoảng nhớ nàng nhớ đến Cúc Hoa/ Nhớ vợ châu lệ xa không cạn/ Nhớ đến mẹ lão mẫu thân sinh” không gian xuất hiện cũng chỉ nhằm để đi sâu vào tâm trạng của nhân vật trữ tình. Dòng tâm trạng của Tống Trân cuộn chảy theo thiên nhiên, khiến cho lời thơ trở nên mới mẻ sinh động và phong phú.

Cúc Hoa là một người con dâu hiếu thảo, lễ phép ở nhà làm một dạ nuôi con nuôi mẹ chờ chồng. Mặc dù xuất thân trong một gia đình quý phái với đầy đủ về vật chất thế nhưng nàng có một người cha tàn nhẫn và ác độc. Tác phẩm là câu chuyện đẹp để về tình cảm son sắt sự thủy chung giữa Cúc Hoa và Tống Trân. Vì lòng thương chàng trai nghèo khổ nàng quyết định mổ từ bỏ gia đình để về làm vợ chàng. Mặc dù sống cuộc sống nghèo khổ, phải xa chồng nuôi mẹ thế nhưng nàng chưa một lần than thở hay cảm thấy khó chịu mà còn luôn yêu thương chăm sóc cho mẹ khi chồng vắng nhà. Cùng mẹ san sẻ lo lắng cho cuộc sống, lo cho mẹ hơn chính bản thân của mình. Người vợ thủy chung luôn hy sinh và lo lắng cho chồng. Cúc Hoa chấp nhận chịu thiệt, hi sinh bản thân để chăm lo cho chồng, tạo cho chồng có cơ hội được học tập thi đỗ thành tài. “Kể chi phận thiếp đàn bà/ Khó nghèo chớ quản lỗi nhà thảm thương”. Nàng tự ý thức được thân phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến, phải luôn chịu áp lực, thiệt thòi, chịu những định kiến cổ hủ của xã hội. Cúc Hoa và người mẹ già là đại diện tiêu biểu cho số phận những người phụ nữ trong xã hội cũ. Dù vậy Cúc Hoa vẫn một lòng tin tưởng chồng không ngại khó khăn nuôi mẹ lại nuôi cả chồng. Có thể thấy Cúc Hoa là một người vợ thủy chung thấu tình đạt lý. Nàng chấp nhận thân phận nữ nhi với nhiều thiệt thòi, bất công để lo cho chồng sự nghiệp phát triển. Không giống như bậc nam nhi trong xã hội đương thời, thật may mắn khi Tống Trân là một người  luôn lo lắng cho mẹ, thương yêu vợ của mình. Kết thúc truyện họ đã được trở về bên nhau sống cuộc sống hạnh phúc và viên mãn.

Tác phẩm đã mang đến cho ta những giá trị nhân văn sâu sắc. Nếu như ta thường thấy những mâu thuẫn trong cuộc sống mẹ chồng nàng dâu thì ở đây Cúc Hoa cùng mẹ chồng lại chăm sóc yêu thương nhau, họ cảm thông cho nhau vì cùng là số phận của những người phụ nữ. Nàng dâu hiếu thảo lễ phép hết mực thương yêu gia đình chồng. Tác phẩm đã lên án gay gắt xã hội phong kiến tàn bạo chà đạp lên tình yêu của con người. Số phận những người phụ nữ trong xã hội xưa luôn phải chịu bất công áp bức

Truyện thơ nôm Tống Trân - Cúc Hoa đã mang đến cho ta những giá trị văn hóa, triết lý nhân sinh sâu sắc. Chính tình yêu của quốc hoa của họ đã mang đến thông điệp về sự dũng cảm, nhẫn nại vượt qua mọi khó khăn thách thức trong cuộc sống để đến được hạnh phúc viên mãn. 

Viết bài giới thiệu về Vẻ đẹp của truyện thơ Việt Nam - Mẫu 6

“Lục Vân Tiên gặp nạn" là một trong những đoạn trích hay và đặc sắc nhất trong tác phẩm "Truyện Lục Vân Tiên" của nhà thơ tài năng nhưng có cuộc đời đầy bất hạnh Nguyễn Đình Chiểu. Qua sự đối lập giữa thiện và ác, Nguyễn Đình Chiểu qua đoạn trích đã ngợi ca vẻ đẹp, lòng nhân hậu, tình thương của con người, đồng thời  tố cáo tội ác tàn nhẫn của những kẻ sống giả tạo, hai lòng, sẵn sàng hãm hại người khác vì sự ích kỷ của bản thân.

Tám câu thơ đầu của đoạn trích miêu tả hành động tội ác của Trịnh Hâm:

“Đêm khuya lặng lẽ như tờ,

Nghinh ngang sao mọc mịt mờ sương bay.

Trịnh Hâm khi ấy ra tay,

Vân Tiên bị gã xô ngay xuống vời.

Trịnh Hâm giả tiếng kêu trời,

Cho người thức dậy lấy lời phui pha.

Trong thuyền ai nấy kêu la,

Đều thương họ Lục xót xa tấm lòng.”

Trong hoàn cảnh "đêm khuya lặng lẽ như tờ" - đêm hôm khuya khoắt, yên lặng không một tiếng động, người người còn đang say giấc nồng, Trịnh Hâm đã ra tay để hại Vân Tiên. Dường như đó là thời điểm thuận lợi để những kẻ xấu xa thực hiện tội ác của mình bởi chúng dễ dàng che giấu mọi hành vi tội lỗi. Vì tính độ kị, ghen ghét tài năng của Vân Tiên và lo lắng cho con đường tiến thân của mình, Trịnh Hâm đã ra tay phân tán thầy trò và bất ngờ khiến "Vân Tiên bị gã xô ngay xuống vời". Không chỉ vậy, hắn còn vu khống "giả tiếng kêu trời" để mọi người thức dậy nghĩ rằng Vân Tiên tự mình bị ngã. Có thể nói, đó là hành động vừa bất nhân, bất nghĩa, vừa độc ác và gian xảo. Đó là hành động bất nhân bởi hắn đang tâm ác lòng hại người khác trong khi người ấy đang rơi vào hoàn cảnh hoạn nạn, không nơi nương tựa, bị mù hai mắt, bị lang băm lừa lấy hết tiền. Đó là hành động bất nghĩa bởi Vân Tiên từng là người bạn từng đàm đạo thơ văn, hứa hẹn đưa Vân Tiên về nhà. Đó còn là hành động độc ác, gian xảo bởi cái ác đã ăn vào máu thịt, đẩy con người ta vào đau đớn còn sẵn sàng phủi tay khiến người khác hiểu lầm. Chỉ với tám dòng thơ, bộ mặt của một kẻ độc ác, bất nhân, bất nghĩa đã được tái hiện một cách chân thực và toàn diện nhất.

Đối lập với kẻ độc ác, ghen ghét đố kị người khác như Trịnh Hâm là những người thiện lành, có tấm lòng nhân hậu, hào hiệp như Ngư Ông và gia đình của ông. Trời vừa hửng sáng, thấy người gặp nạn, Ngư Ông đã nhanh nhẹn cứu ngay lên bờ và hối thúc gia đình mình tập trung cứu giúp:

"Hối con vầy lửa một giờ,

Ông hơ bụng dạ, mụ hơ mặt mày".

Mỗi người nhanh nhẹn, không ai bảo ai mà tìm mọi cách để cứu người. Họ cứu giúp không tính toán, không nề hà, trượng nghĩa và hào hiệp. Sau khi hỏi han biết tình cảnh của Vân Tiên, Ngư Ông còn sẵn lòng cưu mang chàng dù hoàn cảnh hết sức nghèo đói:

"Ngư rằng: Người ở cùng ta

Hôm nay hẩm hót với già cho vui."

Thậm chí, ông còn không hề tính toán đến ơn cứu mạng:

"Ngư rằng: Lòng lão chẳng mơ

Dốc lòng nhơn nghĩa há chờ trả ơn".

Qua đó, người đọc lại càng thêm cảm phục tấm lòng nhân ái, bao dung của Ngư Ông. Tấm lòng ấy hoàn toàn đối lập với mưu toan hãm hại người khác của những kẻ độc ác như Trịnh Hâm. Ngư Ông còn có một cuộc sống tự do, hòa hợp với thiên nhiên, tránh xa mọi vòng quay danh lợi:

"Nước trong rửa ruột sạch trơn,

Một câu danh lợi chi sờn lòng đây.

Rày doi mai vịnh vui vầy,

Ngày kia hứng gió đêm nầy chơi trăng..."

Lời tâm sự của Ngư Ông về cuộc sống tự do không kiềm tỏa, tránh xa mọi danh lợi thị phi, tìm đến với thiên nhiên nay đây mai đó cũng chính là quan niệm, ước mơ của Nguyễn Đình Chiểu về một cuộc sống trong sạch thanh cao, giản dị mà vẫn không kém phần phóng khoáng. Những dòng thơ cuối lại càng nhấn mạnh cuộc sống thoải mái, phóng khoáng tự do cùng với thiên nhiên của Ngư Ông:

"Kinh luân đã sẵn trong tay

Thung dung dưới thế vui say trong trời

Thuyền non một chiếc ở đời, .

Tắm mưa chải gió trong vời Hàn Giang".

“Lục Vân Tiên gặp nạn” đã góp phần không nhỏ làm nên thành công của cả tác phẩm và ghi dấu phong cách hồn thơ Nguyễn Đình Chiểu trong văn học Việt Nam. Không chỉ chứa đựng giá trị văn chương sâu sắc, nó còn nâng niu một đạo lý truyền thống tốt đẹp của cả dân tộc – Ở hiền gặp lành.

Đánh giá

0

0 đánh giá