Trả lời Câu 2 trang 53 Ngữ văn 9 Tập 1 Cánh diều chi tiết trong bài Soạn bài Hướng dẫn tự học lớp 9 trang 53 giúp học sinh dễ dàng chuẩn bị bài và soạn văn 9. Mời các bạn đón xem:
Soạn bài Soạn bài Hướng dẫn tự học lớp 9 trang 53 Tập 1
Câu 2 (trang 53 sgk Ngữ Văn lớp 9 Tập 1): Tìm đọc thêm một số đoạn trích trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, Truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu và hai bài nghiên cứu về mỗi truyện thơ này.
Trả lời:
Cách 1:
- Đoạn trích Thuý Kiều báo ân báo oán (trích Truyện Kiều – Nguyễn Du):
Cho gươm mời đến Thúc lang,
Mặt như chàm đổ mình dường dẽ run
Nàng rằng: “Nghĩa nặng nghìn non”,
Lâm Tri người cũ chàng còn nhớ không?
Sâm Thương[2] chẳng vẹn chữ tòng,
Tại ai há dám phụ lòng cố nhân?
Gấm trăm cuốn bạc nghìn cân,
Tại lòng dễ xứng báo ân gọi là.
Vợ chàng quỷ quái tinh ma,
Phen này kẻ cắp bà già gặp nhau.
Kiến bò miệng chén chưa lâu,
Mưu sâu cũng trả nghĩa sâu cho vừa”.
[…] Thoắt trông nàng đã chào thưa:
“Tiểu thư cũng có bây giờ đến đây!
Đàn bà dễ có mấy tay,
Đời xưa mấy mặt đời này mấy gan!
Dễ dàng là thói hồng nhan,
Càng cay nghiệt lắm càng oan trái nhiều.”
Hoạn Thư hồn lạc phách xiêu,
Khâu đầu dưới trướng liệu điều kêu ca.
Rằng: “Tôi chút phận đàn bà,
Ghen tuông thì cũng người ta thường tình.
Nghĩ cho khi gác viết kinh
Với khi khỏi cửa dứt tình chẳng theo.
Lòng riêng riêng những kính yêu,
Chông chung chưa dễ ai chiều cho ai.
Trót lòng gây việc chông gai,
Còn nhờ lượng bể thương bài nào chăng”.
Khen cho: “Thật đã nên rằng,
Khôn ngoan đến mực nói năng phai lời.
Tha ra thì cũng may đời,
Làm ra thì cũng ra người nhỏ nhen.
Đã lòng tri quá thì nên”.
Truyền quân lệnh xuống trướng tiền tha ngay.
- Đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều (trích Truyện Kiều – Nguyễn Du):
Gần miền có một mụ nào,
Đưa người viễn khách[1] tìm vào vấn danh.
Hỏi tên, rằng: “Mã Giám Sinh”,
Hỏi quê, rằng: “Huyện Lâm Thanh cũng gần”.
Quá niên trạc ngoại tứ tuần,
Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao.
Trước thầy sau tớ lao xao,
Nhà băng đưa mối rước vào lầu trang.
Ghế trên ngồi tót sỗ sàng,
Buồng trong mối đã giục nàng kíp ra…
Nỗi mình nên tức nỗi nhà,
Thềm hoa một bước lệ hoa mấy hàng!
Ngại ngùng dợn gió e sương,
Ngừng[6] hoa bóng thẹn trông gương mặt dày.
Mối càng vén tóc bắt tay,
Nét buồn như cúc điệu gầy như mai.
Đắn đo cân sức cân tài,
Ép cung cầm nguyệt thử bài quạt thơ.
Mặn nồng một vẻ một ưa,
Bằng lòng khách mới tuỳ cơ dặt dìu.
Rằng: “Mua ngọc đến Lam Kiều,
Sính nghi xin dạy bao nhiêu cho tường?”
Mối rằng: “Giá đáng nghìn vàng,
Dớp nhà nhờ lượng người thương dám nài!”
Cò kè bớt một thêm hai,
Giờ lâu ngã giá vâng ngoài bốn trăm.
- Đoạn trích Vân Tiên lo sợ cho tương lai (Trích Truyện Lục Vân Tiên – Nguyễn Đình Chiểu)
Tôn sư trở lại hậu đàng,
Vân Tiên ngơ ngẩn lòng càng sanh nghi:
"Chẳng hay mình mắc việc chi ?
Tôn sư người dạy khoa kỳ còn xa ?
Hay là bối rối việc nhà ?
Hay là đức bạc hay là tài sơ ?
Bấy lâu lòng những ước mơ,
Hội này chẳng gặp còn chờ hội nao ?
Nên hư chẳng biết làm sao,
Chi bằng hỏi lại lẽ nào cho minh.
Đặng cho rõ nỗi sự tình,
Ngỏ sau ngàn dặm đăng trình mới an".
Tôn sư ngồi hãy thở than,
Ngó ra trước án thấy chàng trở vô.
"Sao chưa cất gánh trở vô việc gì ?
Hay là con hãy hồ nghi,
Thầy bàn một việc khoa kỳ ban trưa?"
Vân Tiên nghe nói liền thưa:
"Tiểu sinh chưa biết nắng mưa buổi nào?
Song đường,tuổi hạc,đã cao",
Xin thầy nói lại âm hao, con tường."
Tôn sư nghe nói thêm thương,
Dắt tay ra chốn tiền đường xem trăng,
Nhân cơ tàng sự, dặn rằng:
"Việc người chẳng khác việc trăng trên trời.
Tuy là soi khắp mọi nơi,
Khi mờ, khi tỏ, khi vơi, khi đầy.
Sao con chẳng rõ lẽ nầy,
Lựa là con phải hỏi thầy làm chi?
Số con hai chữ khoa kỳ,
Khôi tinh đã rạng, Tử vi thêm lòa.
Hiềm vì ngựa chạy đường xa,
Thỏ vừa ló bóng, gà đà gáy tan.
Bao giờ cho tới bắc phang,
Gặp chuột ra đàng, con mới nên danh.
Sau dầu đặng chữ hiển vinh,
Mấy lời thầy nói tiền trình chẳng sai.
Trong cơn bỹ cực thái lai,
Giữ gìn cho vẹn việc ai chớ sờn."
Vân Tiên vội vã tạ ơn,
Trăm năm dốc giữ keo sơn một lời.
Ra đi vừa rạng chân trời,
Ngùi ngùi ngó lại nhớ nơi học đường.
Tiên rằng: "Thiên cát nhứt phương,
Thầy đeo đoạn thảm, tơ vương mối sầu.
Quản bao thân trẻ dãi dầu,
Mang đai Tử Lộ, quảy bầu Nhan Uyên.
Bao giờ cá nước gặp duyên,
Đặng cho con thảo phỉ nguyền tôi ngay.
- Đoạn trích Vân Tiên, Nguyệt Nga trao đổi tín vật (Trích Truyện Lục Vân Tiên – Nguyễn Đình Chiểu):
Nguyệt Nga vốn đấng thuyền quyên,
Tai nghe lời nói tay liền rút trâm.
Thưa rằng: "Nay gặp tri âm,
Xin đưa một vật để cầm làm tin".
Vân Tiên ngơ mặt chẳng nhìn,
Nguyệt Nga liếc thấy càng thìn nết na:
"Vật chi một chút gọi là,
Thiếp thưa chưa dứt chàng đà làm ngơ.
Của này là của vất vơ,
Lòng chê cũng phải, mặt ngơ sao đành!"
Vân Tiên khó nổi làm thinh,
Chữ ơn buộc lại chữ tình lây dây.
Than rằng: "Đó khéo trêu đây,
Ơn kia đã mấy, của nầy rất sang
Đương khi gặp gỡ giữa đàng,
Một lời cũng nhớ, ngàn vàng chẳng phai.
Nhớ câu trọng nghĩa khinh tài,
Nào ai chịu lấy của ai làm gì,"
Thưa rằng: "Chút phận nữ nhi,
Vốn chưa biết lẽ có khi mất lòng.
Ai dè những đấng anh hùng,
Thấy trâm thôi lại thẹn thùng cùng trâm."
Riêng than:" Trâm hỡi là trâm!
Vô duyên chi mấy ai cầm mà mơ?
Đưa trâm chàng đã làm ngơ,
Thiếp xin đưa một bài thơ giã từ."
Vân Tiên ngó lại rằng: "Ừ,
Làm thơ cho kịp bấy chừ chớ lâu."
Nguyệt Nga ứng tiếng xin hầu,
Xuống tay liền tả tám câu năm vần.
"Thơ rồi này thiếp xin dâng,
Ngửa trông lượng rộng văn nhân thể nào?"
Vân Tiên xem thấy ngạt ngào,
Ai dè sức gái tài cao bực nầy.
Đã mau mà lại thêm hay,
Chẳng phen Tạ nữ, cũng tày Từ phi.
Thơ ngâm dũ xuất dũ kỳ,
Cho hay tài gái kém gì tài trai.
Như vầy ai lại thua ai,
Vân Tiên họa lại một bài trao ra.
Xem thơ biết ý gần xa,
Mai hòa vận điểu, điểu hòa vận mai.
Có câu xúc cảnh hứng hoài,
Đường xa vòi vọi, dặm dài vơi vơi.
Ai ai cũng ở trong trời,
Gặp nhau ta đã cạn lời thời thôi.
Cách 2:
- Đoạn trích Trao duyên (trích Truyện Kiều của Nguyễn Du)
Cậy em, em có chịu lời,
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.
Giữa đường đứt gánh tương tư,
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em.
Kể từ khi gặp chàng Kim ,
Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề.
Sự đâu sóng gió bất kỳ,
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai?
Ngày xuân em hãy còn dài,
Xót tình máu mủ, thay lời nước non.
Chị dù thịt nát xương mòn,
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.
Chiếc thoa với bức tờ mây
Duyên này thì giữ, vật này của chung.
Dù em nên vợ nên chồng,
Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên!
Mất người còn chút của tin,
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa.
Mai sau dù có bao giờ,
Đốt lò hương ấy, so tơ phím này.
Trông ra ngọn cỏ gió cây,
Thấy hiu hiu gió, thì hay chị về.
Hồn còn mang nặng lời thề,
Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai.
Dạ đài cách mặt, khuất lời,
Rảy xin chén nước cho người thác oan.
Bây giờ trâm gãy bình tan,
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân!
Trăm nghìn gửi lạy tình quân
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi.
Phân sao phận bạc như vôi?
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng.
Ôi Kim Lang! Hỡi Kim lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!
- Đoạn trích Vân Tiên lo sợ cho tương lai (Trích Truyện Lục Vân Tiên – Nguyễn Đình Chiểu)
Tôn sư trở lại hậu đàng,
Vân Tiên ngơ ngẩn lòng càng sanh nghi:
"Chẳng hay mình mắc việc chi ?
Tôn sư người dạy khoa kỳ còn xa ?
Hay là bối rối việc nhà ?
Hay là đức bạc hay là tài sơ ?
Bấy lâu lòng những ước mơ,
Hội này chẳng gặp còn chờ hội nao ?
Nên hư chẳng biết làm sao,
Chi bằng hỏi lại lẽ nào cho minh.
Đặng cho rõ nỗi sự tình,
Ngỏ sau ngàn dặm đăng trình mới an".
Tôn sư ngồi hãy thở than,
Ngó ra trước án thấy chàng trở vô.
"Sao chưa cất gánh trở vô việc gì ?
Hay là con hãy hồ nghi,
Thầy bàn một việc khoa kỳ ban trưa?"
Vân Tiên nghe nói liền thưa:
"Tiểu sinh chưa biết nắng mưa buổi nào?
Song đường,tuổi hạc,đã cao",
Xin thầy nói lại âm hao, con tường."
Tôn sư nghe nói thêm thương,
Dắt tay ra chốn tiền đường xem trăng,
Nhân cơ tàng sự, dặn rằng:
"Việc người chẳng khác việc trăng trên trời.
Tuy là soi khắp mọi nơi,
Khi mờ, khi tỏ, khi vơi, khi đầy.
Sao con chẳng rõ lẽ nầy,
Lựa là con phải hỏi thầy làm chi?
Số con hai chữ khoa kỳ,
Khôi tinh đã rạng, Tử vi thêm lòa.
Hiềm vì ngựa chạy đường xa,
Thỏ vừa ló bóng, gà đà gáy tan.
Bao giờ cho tới bắc phang,
Gặp chuột ra đàng, con mới nên danh.
Sau dầu đặng chữ hiển vinh,
Mấy lời thầy nói tiền trình chẳng sai.
Trong cơn bỹ cực thái lai,
Giữ gìn cho vẹn việc ai chớ sờn."
Vân Tiên vội vã tạ ơn,
Trăm năm dốc giữ keo sơn một lời.
Ra đi vừa rạng chân trời,
Ngùi ngùi ngó lại nhớ nơi học đường.
Tiên rằng: "Thiên cát nhứt phương,
Thầy đeo đoạn thảm, tơ vương mối sầu.
Quản bao thân trẻ dãi dầu,
Mang đai Tử Lộ, quảy bầu Nhan Uyên.
Bao giờ cá nước gặp duyên,
Đặng cho con thảo phỉ nguyền tôi ngay.
Xem thêm lời giải soạn văn lớp 9 Cánh diều hay, chi tiết khác:
Xem thêm các bài soạn văn lớp 9 Cánh diều hay, chi tiết khác: