Văn bản Cái kính - A-dít Nê-xin - Nội dung, tác giả, tác phẩm

12.3 K

Tài liệu tác giả tác phẩm Cái kính Ngữ văn lớp 8 Cánh diều gồm đầy đủ những nét chính về văn bản như: tóm tắt, nội dung chính, bố cục, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật, hoàn cảnh sáng tác, ra đời của tác phẩm, dàn ý từ đó giúp học sinh dễ dàng nắm được nội dung bài Cái kính lớp 8.

Tác giả tác phẩm: Cái kính - Ngữ văn 8

I. Tác giả A-dít Nê-xin

Cái kính - Tác giả tác phẩm (mới 2023) | Ngữ văn lớp 8 Cánh diều

- Ông sinh ngày 20 tháng 12 năm 1915 và mất ngày 6 tháng 7 năm 1995. Ông sinh ra tại Heybeliada, Istanbul – là thành phố lớn nhất của Thổ Nhĩ Kì.

- Người ta biết đến ông không chỉ là một nhà hoạt động chính trị với những phát ngôn “chấn động” về tín ngưỡng, tôn giáo, mà hơn hết chính là khối lượng lớn các sáng tác của ông.

- Ông đạt được rất nhiều thành tựu ở các quốc nha như Thổ Nhĩ Kì, Liên Bang Xố Viết, Ý, Bulgaria. Những tác phẩm của ông còn được lan truyền rộng rãi và dịch ra hơn 30 thứ tiếng khác nhau. Nửa đời sau, ông là một trong số ít các nhà văn Thổ Nhĩ Kỳ sống hoàn toàn bằng thu nhập từ các sáng tác của mình.

- Sự nghiệp văn chương: sáng tác đa dạng các thể loại, tiêu biểu là tiểu thuyết và truyện cười.

II. Tìm hiểu tác phẩm Cái kính

1. Thể loại

- Văn bản thuộc thể loại: truyện cười.

2. Xuất xứ và hoàn cảnh

- Văn bản trích từ vở kịch Những người thích đùa, THÁI HÀ dịch, NXB Văn học, Hà Nội, 2014.

3. Phương thức biểu đạt

- Phương thức biểu đạt: tự sự.

4. Bố cục văn bản Cái kính

- Phần 1 (Một hôm đến…Hai đi-ốp): Lí do nhân vật tôi muốn đeo kính và đi khám 2 đốc tờ kết luận bị cận và bị viễn

- Phần 2 (Tôi lại…loạn thị): Lần 3 đi khám đốc tờ kết luận bị loạn thị.

- Phần 3 (Theo đơn của giáo sư…tôi nói): Hậu quả khi đeo chiếc kính thứ 3

- Phần 4 (Tôi lại…làm sao hết): Hạn chế của chiếc kính thứ 4

- Phần 5 (phần còn lại): Kết thúc bất ngờ của câu chuyện

5. Giá trị nội dung

- Vở kịch xoay quanh câu chuyện về nhân vật “tôi” chỉ vì tính sĩ, muốn bản thân mình trông tri thức mà đã đi cắt kính hết lần này đến lần khác. Qua đó, truyện phê phán, châm biến những người ưa sĩ diện trong xã hội.

6. Giá trị nghệ thuật

- Sử dụng từ ngữ chân thực, sinh động, hấp dẫn,..

III. Tìm hiểu chi tiết tác phẩm Cái kính

1. Đặc điểm của truyện cười được thể hiện qua văn bản Cái kính

- Truyện kể về những lần đi khám và cắt mắt kính của nhân vật “tôi”, và khi mắt anh có thể nhìn thấy rõ ràng cũng là lúc mắt kính bị vỡ.

- Truyện xây dựng hình tượng nhân vật đại diện cho những con người sĩ diện, bất chấp mọi thứ chỉ để đạt được điều mình mong muốn, đồng thời, hình tượng các bác sĩ khám mắt cho nhân vật “tôi” ai cũng khám sai nhưng đều chê người khám trước là lang băm, ngu dốt.

- Truyện đưa ra các chi tiết gây cười theo trình tự logic, tạo nên những tình huống bất ngờ kết hợp sử dụng biện pháp trào phúng khiến câu chuyện về nhân vật “tôi” trở nên hấp dẫn, hài hước.

2. Các nhân vật trong truyện

a. Nhân vật “tôi” và những lần thay kính mắt

- Lần thứ nhất: bác sĩ nói bị cận thị, 1,75 đi-ốp, nhân vật “tôi” đã sắm một cái kính mới => bị buồn nôn và chóng mặt.

- Lần thứ hai: bác sĩ chẩn đoán bị viễn thị, 2 đi-ốp, nhân vật “tôi” lại mua kính mới => nước mắt chảy, đỏ hoe.

- Lần thứ ba: đến khám ở bệnh viện nhà nước, bác sĩ bảo anh ta bị loạn thị. Theo đơn, nhân vật “tôi” mua kính khác => nhìn thấy vật gì cũng xa dần, không thể sinh hoạt bình thường được.

- Lần thứ tư: nhân vật “tôi” được khám bởi một bác sĩ tốt nghiệp ở Mỹ về, anh ta lại cắt kính mới => nhìn mọi thứ từ một hóa thành hai.

- Lần thứ năm: đến khám bởi một bác sĩ học ở Đức về, chấn đoán một mắt bị viễn, mắt kia thì cận, nhân vật “tôi” lại mua chiếc kính khác => không phân biệt được sáng tối.

- Lần thứ sáu: chẩn đoán anh ta bị quáng gà, lại uống thuốc, tiêm, cắt kính mới => nhìn xa thấy gần.

- Những lần tiếp theo: nhìn cái gì cũng ra màu xanh, mọi thứ lẫn lộn hết.

*Kết thúc truyện: sau những lần đi khám mắt để cắt kính, hết bị buồn nôn, đau mắt, không thể sinh hoạt bình thường,…cho đến khi anh bị ngã, kính rơi ra thì lúc đó anh mới nhìn mọi thứ rõ ràng. Và khi về kể với vợ của mình, anh mới biết chiếc kính của mình rơi ra từ lúc đó.

=> Nhân vật “tôi” là người thích sĩ diện, chỉ vì muốn bản thân mình trông thật tri thức mà đã kiên quyết đi cắt kính để rồi vừa tốn tiền của lẫn thời gian, vừa ảnh hưởng đến sức khỏe của mắt mặc dù mặt anh ta vẫn bình thường.

b. Các bác sĩ khám mắt

- Các bác sĩ khám mắt trong truyện tuy là có người đi du học về, đều là người có học thức, trình độ chuyên môn nhưng khi khám cho bệnh nhân thì đều khám không có tâm, khám qua loa, dối trá để khiến bệnh nhân vừa tốn tiền, tốn thời gian và vẫn không giúp gì được cho bệnh nhân.

3. Ý nghĩa, nội dung truyện Cái kính

- Truyện nêu lên và châm biếm, phê phán những thành phần ưa sĩ diện trong xã hội. Trong truyện, nhân vật tôi vì muốn sĩ diện cho giống tri thức nên đi khám để cắt kính đeo. Các bác sĩ thì sĩ diện tỏ ra mình giỏi nên đều chê người trước nhưng rồi kết cục ai cũng khám sai cho nhân vật tôi.

IV. Đọc tác phẩm Cái kính

Một hôm, cách đây chừng 7, 8 tháng, có người bạn hỏi tôi:

- Tại sao anh không đeo kính?

- Làm sao tôi phải đeo?

- Tuổi anh bây giờ là phải đeo rồi chứ còn sao nữa. Không đeo, đến lúc mắt hỏng nặng, không nhìn thấy gì đâu!

Từ lúc người bạn đó ra về, mắt tôi tự dưng mờ hẳn. Nhìn gần nhìn xa đều không rõ nữa.

Lâu nay, tôi vẫn thầm mong cho tóc chóng rụng, cho trán hói đi. Rồi đeo thêm chiếc kính vào cho ra dáng trí thức. Vì tôi cho như thế là dấu hiệu của một anh trí thức. Ngay như anh bán thịt bây giờ mà để trán hói và mang kính vào, tôi cho trông cũng không khác gì giáo sư đại học! Nhưng cái mơ ước ấy của tôi không thực hiện được, vì tóc tôi mỗi ngày một dày thêm. Thế thì ít ra tôi cũng nên sắm cái kinh mà đeo vậy. Ai nhìn thấy tôi, người ta phải bảo: bác học đấy!

Vậy là tôi đi khám đốc tờ. Khám xong, ông này bảo tôi:

– Anh bị cận thị! 1,75 đi-ốp!

Theo đơn ông ta dặn, tôi sắm một cái kính. Nhưng cứ động đeo vào là tôi thấy mặt mày sa sầm, buồn nôn không chịu được. Thậm chí có lần, nói vô phép các bạn, tôi nôn thật! Nôn thốc nôn tháo, nôn ra cả mật xanh mật vàng. Không đeo thì không nhìn thấy gì, mà đeo thì tuy nhìn thấy được, nhưng lại bị cảm giác buồn nôn. Thật đúng là khổ!

Một ông bạn khác thương hại bảo tôi:

– Tôi có thể giới thiệu với anh một ông bác sĩ giỏi. Anh hãy đến ông ta khám xem!

Ông bác sĩ này xem mắt tôi, rồi xem chiếc kinh.

- Thằng cha lang băm nào cho anh đơn mua cái kinh này thế? Có phải anh bị cận thị đâu!

- Thế tôi bị làm sao ạ?

- Viễn thị! 2 đi-ốp!

Tôi lại mua kính mới. Đeo chiếc kính này, tôi không còn thấy chóng mặt, buồn nôn nữa, nhưng lúc nào cũng bị chảy nước mắt. Đâm ra mắt tôi lúc nào cũng đỏ hoe, như khóc ai vậy. Tôi bị cái cảm giác thương xót rất lạ. Cặp kính này chỉ có đeo để đi đưa đám là hợp.

Một ông bạn thân tỏ vẻ ái ngại cho tôi:

– Thế này thì cậu đến mù mất! Cậu phải đi khám bệnh viện nhà nước xem sao! Ở đấy họ khám cẩn thận. Lại có giáo sư nhãn khoa nữa, chử không như mấy ông bác sĩ tư!

Bệnh viện nhà nước quả là có khác thật: máy móc nhiều, mà dụng cụ cái gì cũng sáng loáng.

Tôi được một giáo sư khám. Tôi kể cho giáo sư nghe cái bất hạnh của tôi:

– Người thì bảo tôi là cận thị, người thì bảo là viễn thịt

Giáo sư giận lắm:

- Quân ngu! Anh không phải cận thị, cũng không phải viễn thị, mà là loạn thị!

Theo đơn của giáo sư, tôi mua đôi kính khác. Cặp kính này tôi đeo vừa lắm, trông cái gì cũng rõ. Phải mỗi tội bây giờ cái gì cũng như lùi hẳn ra xa. Mấy bức tường trong căn buồng tôi sống hàng chục năm nay dường như bị lùi xa đến hàng ba chục thước. Tôi giơ tay chực bắt tay người quen, nhưng không sao với tới được. Định viết, giấy đã chạy xa khỏi tay đến hai thước. Nhìn vật gì cũng thấy bé tí xíu. Người thì chỉ bằng hạt đậu ván… Nhưng hại nhất là tôi không ăn uống gì được. Vì vừa ngồi vào bàn là đĩa thức ăn đã chạy đi xa hai chục thước rồi. Mùi xúp nóng bốc ngay dưới mũi, nhưng cứ cầm thìa chực múc, thì bát xúp đã ở cách xa hàng hai mét! Tôi không ăn uống, cử động gì được nữa. Một anh bạn phải dắt tay tôi đến một bác sĩ khác tốt nghiệp ở Mỹ về. Khám xét cẩn thận xong, ông ta bảo tôi:

- Đứa nào cho anh đơn mua cái kính này đây? Đúng là đồ lang vườn dốt nát! Anh cứ kiện lên phong công tố cho nó bỏ mẹ!

- Thôi! Cứ để thánh A-la (Allah) trừng phạt hắn! – Tôi nói.

Tôi lại thay kính mới. Bây giờ mắt tôi nhìn cái gì cũng hoá hai. Nhà tôi đang bảy người, bỗng nhiên thành mười bốn. Mỗi người lại có một người giống hệt mình. Thật tôi chưa bao giờ thấy chuyện lạ như vậy. Chả lẽ lại có những người giống nhau đến mức độ như thế hay sao? Vô lí quá! Nhìn xuống chân thì thấy bốn chiếc ủng, nhìn một bàn tay thì thấy có mười ngón!

Tôi đến một ông bác sĩ khác. Ông này học ở Đức về.

– Ai bảo anh đeo kính này?

− Làm sao ạ?

- Sai chứ còn sao nữa!

Hoá ra một mắt tôi bị viễn, còn mắt kia thì cận. Vị danh y mới lại ghi cho tôi chiếc kính khác. Bây giờ tôi không phân biệt được sáng, tối nữa. Xung quanh tôi tối như hũ nút.

– Đứa dốt nào ghi cho anh chiếc kính này vậy hả? Mắt anh hoàn toàn bình thường, có làm sao đâu?

– Nhưng tôi không thấy gì cả! Tối cứ như bưng ấy!

– Thế là anh bị quáng gà thôi, chứ chẳng có làm sao hết!

Lại uống thuốc, lại tiêm, lại kính mới,... Bây giờ các vật ở xa trông lại hoá gần. Chân dáng lẽ leo lên tàu thuỷ thì lại bước ngay xuống biển... Vì tàu chưa cập bến, nhưng trông cứ như đã ngay sát bờ. Không còn viên bác sĩ nào trong tỉnh là tôi chưa mò đến! Ông này bảo mắt phải tôi cận, mắt trái viễn thì ông khác nói ngược lại. Ông trước kêu bị loạn thị thì ông sau phán là bị đục nhân mắt". Đeo kính của cái ông bảo tôi bị đục nhân mắt thì cái gì cũng ra màu xanh cả. Có ông còn đoán tôi bị chứng mù màu. Nhìn phía trước, nhìn sang bên, nhìn xa, nhìn gần, cái gì cũng biến thành hai, màu sắc lẫn hết. Đi trên đường thẳng mà tôi có cảm giác như bước xuống cầu thang, mỗi bậc cách nhau hàng bốn, năm chục phân. Tôi cứ phải bước từng bước dài như lạc đà vậy.

Một lần, đang đi trên cầu, thế quái nào tôi bước hụt một cái, ngã lăn quay xuống dưới. Vi cứ tưởng những bậc cầu thấp hơn đến một mét. Cái kính bị văng đi làm tôi không nhìn thấy gì nữa. Cái gì cũng mờ mờ ảo ảo. Người ta đỡ tôi dậy.

– Cái kính của tôi đâu rồi? – Tôi hỏi.

Họ tìm thấy kính, đưa cho tôi. Tôi đeo kính vào thì... Thánh A-la ơi!... Mọi vật bỗng trở nên sáng sủa, rõ ràng quá! Vật nào đúng vật nấy, rõ mồn một! Rõ như chưa bao giờ tôi có thể nhìn rõ vậy. Hay kính của người khác chăng? Không! Đích thị kính của tôi đây mà! Đúng gọng sừng to màu đen đây! Tôi sướng không sao tả được! Bây giờ thì đừng hòng tôi bước chân đến một anh bác sĩ mắt nào nhé! Tôi đã đọc được cả mấy dòng chữ nhỏ nhất trên báo và nhìn rõ cả tên chiếc tàu thuỷ đậu tít ngoài xa. Tôi đi về nhà, lòng vô cùng sung sướng.

– Kính của anh sao thế kia? – Vợ tôi hỏi.

- Làm sao?

Tôi bỏ kính ra xem. Ngón tay thỏ qua được cả lỗ gọng! Té ra mắt kính đã bị vỡ rơi mất rồi mà tôi không biết.

Soạn bài Cái kính | Hay nhất Soạn văn 8 Cánh diều

Xem thêm các bài tóm tắt Tác giải, tác phẩm Ngữ văn 8 Cánh diều hay, chi tiết khác:

Tác giả - tác phẩm: Đổi tên cho xã

Tác giả - tác phẩm: Cái kính

Tác giả - tác phẩm: Ông Giuốc – đanh mặc lễ phục

Tác giả - tác phẩm: Thi nói khoác

Tác giả - tác phẩm: Hịch tướng sĩ

Tác giả - tác phẩm: Nước Đại Việt ta

Đánh giá

0

0 đánh giá