TOP 20 bài Phân tích bài thơ Thu vịnh 2025 SIÊU HAY

6.5 K

Tailieumoi.vn xin giới thiệu bài văn mẫu Phân tích bài thơ Thu vịnh Ngữ văn 8 ,Kết nối tri thức gồm 10 bài văn phân tích mẫu hay nhất giúp các em học sinh có thêm tài liệu tham khảo trong quá trình ôn tập, củng cố kiến thức và chuẩn bị cho bài thi sắp tới. 

Phân tích bài thơ Thu vịnh

Đề bài: Viết bài văn phân tích bài thơ "Thu vịnh" của Nguyễn Khuyến

Phân tích bài thơ Thu vịnh - mẫu 1

Mùa thu từ xưa tới nay luôn là nguồn cảm hứng dồi dào trong các tác phẩm thi ca nhạc họa, bởi mùa thu mang một cái vẻ đẹp tinh tế, uyển chuyển, có lúc mơ màng, có lúc lại buồn man mác, khơi gợi nên nhiều cảm xúc vi diệu trong tâm tưởng con người. Và Nguyễn Khuyến cũng không ngoại lệ, với chùm thơ về mùa thu rất nổi tiếng ấy là Thu điếu, Thu vịnh và Thu ẩm, nói về ba thú vui nhân mùa thu tới. Trong đó Thu vịnh được xem là bài thơ mang nhiều nét thi vị đậm đà về cảnh sắc mùa thu nơi làng quê, thôn dã đầy giản dị và hồn hậu.

Thu vịnh có nghĩa là ngâm vịnh, ca tụng về mùa thu, tuy có một số quan niệm cho rằng nên hiểu là tác giả đang trầm ngâm ngắm mùa thu mà làm thơ nhưng nếu như thế thì chưa chính xác lắm. Cả bài là những vần thơ bay bổng, mới nghe mới đọc thì tưởng chừng chỉ đơn giản là tả về mùa thu, nhưng nếu đọc mà trầm ngâm thêm chút nữa mới biết nó cũng chứa nhiều nỗi niềm tâm sự của một con người yêu nước, thương dân.

Mở ra cảnh sắc mùa thu là hai câu thơ:

"Trời thu xanh ngắt mấy từng cao.
Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu."

Khung cảnh mùa thu hiện ra thật trong trẻo, khoáng đạt với hình ảnh bầu trời mang một màu mây xanh ngắt, cao vời vợi, tô điểm cho khung cảnh trống trải ấy, thi nhân vẽ vào một cần trúc "lơ phơ", mềm mại, uyển chuyển trong cái gió se se lạnh "hắt hiu". "Trời thu xanh ngắt" như chính thứ tình cảm sâu đậm của nhà thơ dành cho mùa thu nơi quê hương, một mùa thu của xứ Bắc, với nét riêng biệt ấy là "cần trúc lơ phơ" vẫn mang chút mềm mại, nhưng lại chẳng yếu đuối, lả lướt như liễu. Giọng thơ chậm rãi nhẹ nhàng, vương một chút buồn man mác nơi hai chữ "hắt hiu", phải chăng thi nhân có điều chi phiền lòng?

"Nước biếc trông như tảng khói phủ,
Song thưa để mặc bóng trăng vào"

Trên đã có "trời xanh" dưới lại có "nước biếc", cả hai thứ ấy đều mang một màu xanh trong trẻo, dịu dàng, liệu còn có phong cảnh nào xinh đẹp hơn thế nữa? Đôi khi người đọc vì không nắm rõ nghệ thuật "đảo trang" trong thơ ca(nghệ thuật đổi âm vận sao cho câu thơ được vần) mà thường hiểu lầm hoặc hiểu không rõ nghĩa của câu thơ này. Ở đây, ý thơ có nghĩa là làn sương tựa như khói đang là đà phủ trên mặt nước biếc. Chữ "biếc" ở đây không hẳn là nước có màu ấy thật, mà cũng có khi nhà thơ tưởng tượng ra rồi viết vào cho bay bổng lại tiệp vần với nhau. Tương tự, ở câu dưới chữ "thưa" cũng được đưa vào nhằm mục đích này. Ta chợt nhận ra cảnh mùa thu trong bài được tác giả tinh tế lướt qua hai khoảng thời gian sáng và tối, ban ngày thì thấy trời xanh, nước biếc, ban đêm thì lại ngó thấy cảnh ánh trăng vàng, dịu nhẹ len lỏi từng song cửa. Trăng với mùa thu là hai thực thể rất hay song hành cùng nhau trong những bài thơ, bài văn nói về mùa thu và hơn thế nữa trăng còn là người bạn tri kỷ của thi nhân, đêm khuya thanh vắng, thi nhân chẳng có ai bầu bạn, đành làm bạn với trăng sáng, âu ngắm trăng làm thơ cũng là một thú vui tao nhã. Và cũng nhờ có ánh trăng này mùa thu trong thơ của Nguyễn Khuyến có thêm chút gì đó mộng mơ, lãng mạn hơn cũng vừa thanh tao, nhã nhặn.

"Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái
Một tiếng trên không ngỗng nước nào?"

Cụm từ "hoa năm ngoái" có lẽ chúng ta không nên hiểu là hoa đã nở từ năm ngoái mà đây hẳn là tâm trạng của tác giả đang hoài niệm quá khứ, một cái quá khứ nào đó còn kéo dài trong tâm hồn của thi nhân đến ngày hôm nay, mang đến trong điệu thơ những nỗi u hoài, trầm buồn của tác giả. Hẳn rằng ấy là một ký ức ngọt ngào tựa như những đóa hoa trước giậu, khiến tác giả bỗng ngậm ngùi khi nhớ về. Trong cái không gian vốn trầm tĩnh, lắng đọng ấy bỗng nhiên bị xáo động bởi tiếng ngỗng trời, làm bừng tỉnh tâm hồn người thi sĩ, bừng tỉnh cả không gian mùa thu vốn thanh bình yên ắng, đem lại chút âm điệu đơn bạc, giải đi nỗi vắng lặng, tịch liêu.

Ở hai câu thơ cuối tâm trạng cảu nhà thơ được bộc lộ rõ hơn:

"Nhân hứng cũng vừa toan cất bút
Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào"

Giữa khung cảnh trời thu đẹp và lãng mạn đến thế, thử hỏi liệu có thi nhân nào không rung động, vừa nhìn là muốn động bút làm một mạch mấy bài thơ, bài vịnh cho thỏa hứng. Nhưng chợt Nguyễn Khuyến xuất hiện một suy nghĩ rất lạ "thẹn với ông Đào", "Đào" ở đây là Đào Tiềm (tên khác là Đào Uyên Minh), vốn là một nhà thơ nhà thơ rất nổi tiếng thời Lục Triều (Trung Quốc), ông là người tài giỏi, từng đỗ tiến sĩ rồi ra làm quan, nhưng chán ghét chốn quan trường bẩn thỉu, nhũng nhiễu mà lui về ở ẩn. Vậy cớ gì mà Nguyễn Khuyến "thẹn", khi mà tính ra ông cũng chẳng thua kém gì về học thức và tài năng. Câu trả lời ấy là Nguyễn Khuyến thấy hổ thẹn khi thua ở cái khí tiết của một bậc quân tử phải có, Đào Tiềm sẵn sàng từ quan khi chán ghét, cũng chẳng màng đến thế sự, cứ ung dung làm thơ, sống thanh tao ẩn dật. Còn Nguyễn Khuyến ông, lại vẫn không thể từ bỏ công danh mà ra làm quan dưới thời Pháp thuộc, khi từ quan rồi cũng chẳng thôi được cái mối ân hận khi làm quan buổi rối ren, đầy nhục nhã, ấy chính là căn nguyên của chữ "thẹn" nơi cuối bài. Nhưng cũng chính những câu thơ tỏ lòng như thế ta mới thấy được một nhân cách cao cả, một tấm lòng đầy chân thành của người quân tử, không trốn tránh sự thật mà sẵn sàng thừa nhận, nhận để biết mà không thôi tự vấn và tha thứ cho lỗi lầm xưa cũ, người như thế thật đáng trân trọng biết bao.

Thu vịnh là bài thơ hay và đặc sắc, có mùi vị mùa thu miền quê Việt Nam thật rõ ràng và chân thực. Những câu thơ với nhịp điệu chậm rãi, mang chút suy tư, có chỗ hơi lạ lùng và khó hiểu đã mang đến cho người đọc những cảm nhận mới về một mùa thu trong tâm hồn người thi sĩ. Đặc biệt qua những câu thơ bộc bạch ấy ta còn thấu hiểu hơn về nỗi lòng của tác giả, nỗi hổ thẹn cũng là niềm yêu nước, thương dân ẩn sâu trong tâm hồn của nhà thơ.

TOP 10 bài Phân tích bài thơ Thu vịnh 2023 SIÊU HAY (ảnh 1)

Phân tích bài thơ Thu vịnh - mẫu 2

Thiên nhiên mùa thu của quê hương làng cảnh Việt Nam, dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Khuyến đẹp một cách thanh cao, gợi cảm, hồn hậu, khiến chúng ta càng thêm yêu, thêm quý quê hương đất nước của mình.

Nguyễn Khuỵến nổi tiếng với chùm thơ ba bài viết về mùa thu Thu vịnh, Thu điếu, Thu ẩm. Có lẽ Nguyễn Khuyến đã viết theo lối “chùm ba” của Đỗ Phủ - đại thi hào Trung Quốc này nổi tiếng với “Tam biệt”, “Tam lại”...). Theo nhận xét của Xuân Diệu thì trong ba bài thơ mùa thu của Nguyễn Khuyên, bài thơ Thu vịnh mang cái hồn cua cảnh vật mùa thu hơn cả, cái thanh, cái trong, cái nhẹ, cái cao. Thu vịnh mang cái thần của cảnh mùa thu xứ Bắc và cả tâm sự u uấn của thi nhân:

Trời thu xanh ngắt mấy từng cao.

Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu.

Nước biếc trông như tảng khói phủ,

Song thưa để mặc bóng trăng vào

Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái

Một tiếng trên không ngỗng nước nào?

Nhân hứng cũng vừa toan cất bút,

Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào.

Bức tranh vẽ mùa thu được tác giả phác họa với không gian thoáng đãng. Nến trời chấm phá một nét nhẹ, mềm của cảnh trúc:

Trời thu xanh ngắt mấy từng cao,

Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu.

Mùa thu của xứ Bắc có bầu trời cao xanh trong đã hiện lên trong thơ Nguyễn Khuyến là “trời thu xanh ngắt”. Màu sắc ấy là màu của trời thu mà cũng là cái tình tha thiết của thi nhân đối với mùa thu, đối với quê hương lang cảnh. Không gian mở ra thăm thẳm “mấy tầng cao”, một cần trúc (trúc chứ không phải là tre) vươn lên trên nền trời thu “xanh ngắt”. Nét cong mềm của “cần trúc” vươn lên một cách thanh cao, không ủy mị như rặng liễu đìu hiu buông xuống trong thơ mùa thu của Xuân Diệu. Từ láy “lơ phơ” gợi tả vẻ thưa thớt của những lá trúc lay động bởi gió heo may mùa thu. Từ láy "hát hiu” gợi được sự rung động của cành trúc, hay là sự rung động của tâm hồn thi nhân trước cảnh thu, trời thu đượm buồn?

Bức tranh mùa thu trong Thu vịnh cứ được thêm hòa sắc mới, đường nét, hình ảnh mới:

Nước biếc trông như tầng khói phủ

Song thưa để mặc bóng trăng vào

Hình ảnh mùa thu được pha thêm màu “nước biếc", thêm một sắc xanh tha thiết nữa, màu của áo thu trong xanh, với “khói phủ” nhạt nhòa. “Khói” dãy gợi nhứ “khói sóng" trong thơ Thối Hiệu “Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai . Cảnh đêm thu thật là huyền diệu. Lại thêm có trăng. Thi nhân mở ra đón trăng “Song thưa để mặc bóng trăng vào". Trong đêm thu thanh tĩnh, trăng là người bạn tri kỉ của thi nhân. Có ánh trăng thu, bức tranh mùa thu trong thơ thêm sáng. Mọi vật trong đêm thu được pha thêm ánh trăng huyền ảo, mộng mơ.

Cảnh thu thêm huyễn hoặc, từ màu hoa cho đến tiếng chim:

Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái

Một tiếng trên không ngỗng nước nào?

Hoa mùa thu không đổi, không có sắc màu vì khói phủ nhạt nhòa hay nhà thơ mất hết ý niệm về thời gian? “Mấy chùm trước giậu" làm sao biết được đó là hoa gì, màu sắc như thế nào. Chỉ biết đó là “hoa năm ngoái”. Tứ thơ của Nguyễn Khuyến còn trừu tượng hơn, ở đây chẳng có hoa đào, hoa cúc gì cả. Hình ảnh “hoa năm ngoái” thể hiện thời gian ngưng đọng, tâm trạng bất biến của thi nhân. Câu thơ thể hiện một nỗi buồn man mác. Âm thanh mùa thu là một tiếng ngỗng trời xa lạ “ngỗng nước nào”. Tiếng ngỗng trời lạnh cả không gian mùa thu đã làm thổn thức nỗi lòng của thi nhân.

Đêm thu huyền diệu dã gợi cảm hứng cho nhà thơ. Thi hứng cũng chợt đến trong nỗi niềm u uẩn của thi nhân:

Nhân hứng cũng vừa toan cất bút.

Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào.

Trước cảnh thu huyền diệu, nhà thơ đã bộc lộ trực tiếp nỗi lòng của mình. Theo quan điểm của Nguyễn Khuyến mà cũng là quan điểm của các nhà thơ chân chính, thơ gắn liền với nhân cách, nhân cách lớn thì thơ lớn.

Rung động trước mùa thu, cất bút định làm thơ, Nguyễn Khuyến cảm thấy “thẹn với ông Đào”. Ông Đào ở đây tức là Đào Tiềm (Đào Uyên Minh), một nhà thơ nổi tiếng ở Trung Quốc thời Lục Triều. Ông đỗ tiến sĩ, ra làm quan, rồi chán ghét cảnh quan trường thối nát đã treo ấn từ quan, lui về ẩn dật và có bài Qui khứ lai từ rất nổi tiếng. Sao cụ Nguyễn lại “thẹn” với ông Đào? Thái độ này chưa từng thấy đối với các thi nhân cổ kim. về khoa bảng, ông Đào đỗ tiến sĩ, cụ Nguyễn cũng đỗ tiến sĩ, cụ Nguyễn lại còn có Tam Nguyên, người đời gọi cụ là Tam Nguyên Yên Đổ. Về tài học, thơ của Nguyễn Khuyến kém gì thơ Đào Uyên Minh? Nguyễn Khuyến là một trong những nhà thơ cổ điển lớn nhất của nước nhà được Xuân Diệu phong là “Nhà thơ của quê hương làng cảnh Việt Nam" và hết lời ngợi ca. Có lẽ cụ Nguyễn “thẹn với ông Đào'' là về khí tiết. Cụ Nguyễn thiếu cái dũng khí của ông Đào, người đã tư quan một cách dứt khoát, trở thành một nhân vật lừng danh về khí tiết trong giới quan trường Trung Hoa. Còn Nguyễn Khuyến thì lúng túng khi ra làm quan (thời đó ra làm quan tránh sao khỏi là tay sai của giặc Pháp) và lừng khừng khi đồng cảm của người đời. Đã về ẩn dật rồi, cụ Nguyễn vẫn còn chưa nguôi ân hận về những năm tham gia guồng máy chính quyền thối nát tàn bạo thời bấy giờ. Câu thơ của một tấm lòng chân thực là nỗi niềm u uẩn của một nhân cách lớn, của một nhà thơ lớn.

Thu vịnh là một bài thơ hay viết về mùa thu cua Nguyễn Khuyến. Bức tranh mùa thu với màu sắc thanh đạm, đường nét uyển chuyển, không gian cao rộng, cảnh vật huyền ảo dưới ánh nắng trắng trong thể hiện nỗi lòng tha thiết của nhà thơ đối với quê hương đất nước. Nhân vẻ đẹp của đêm thu. Nhà thơ cũng bộc bạch tâm sự sâu kín, chân thật của mình hết sức cảm động.

Thiên nhiên mùa thu của quê hương làng cảnh Việt Nam, dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Khuyến đẹp một cách thanh cao, gợi cảm, hồn hậu, khiến chúng ta càng thêm yêu, thêm quý quê hương đất nước của mình.

Phân tích bài thơ Thu vịnh - mẫu 3

Nguyễn Khuyến- một nhà thơ của làng cảnh Việt Nam, những khung cảnh, đời sống của làng quê được ngòi bút tinh tế của ông khắc lên vừa có hồn lại vừa vẻ nên được những bức ảnh làng quê vô cùng lãng mạn, trữ tình. Bằng ngòi bút tả cảnh ngụ tình đã khiến cho biết bao tác phẩm của ông đi vào lòng người. Đặc biệt là chùm thơ thu, với Thu điếu, Thu vịnh, Thu ẩm đã để lại những dấu ấn khá sâu đậm và đi vào lòng người bằng những hình ảnh, những nét đặc trưng tiêu biểu của mùa thu. Và với bài thơ Thu vịnh, Nguyễn Khuyến cho thấy một tâm sự u hoài, một tấm lòng xót xa trước cảnh, kín đáo, bày tỏ một tình cảm yêu nước chân thành.

Trời thu xanh ngắt mấy từng cao,

Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu.

Ở đây, khác hẳn với những trời thu trong “Thu điếu” và “Thu ẩm”, trời thu của Thu vịnh được mở đầu là một khung cảnh cao vút và thăm thẳm của trời thu, và xen vào đó là cái se se lạnh của mùa thu. Với cái nền là bầu trời bao la “xanh ngắt”, “ mấy tầng cao” nổi bật lên hình ảnh thanh tú của cần trúc đang đong đưa khe khẽ trước gió thu. Và hình ảnh động của gió hắt hiu như chứa chất tâm trạng bên trong. Mở đầu như vậy khiến cho người đọc có thể phần nào thấy được một nỗi lòng đầy lo âu.  Sự lay động rất nhẹ của cần trúc càng làm tăng thêm cái lặng thinh, sâu thẳm của bầu trời. Hai câu đề  chấm phá hai nét phong cảnh đơn sợ, thanh thoát nhưng hoà điệu nhịp nhàng với tâm hồn tác giả. Nhà thơ đã vẽ lên một khung cảnh trời thu vừa có cảnh thực là vừa có hồn thu ở trong cảnh. 

Nước biếc trông như tầng khói phủ

Song thưa để mặc bóng trăng vào.

Nước biếc là màu nước đặc trưng của mùa thu khi khí trời bắt đầu se lạnh. Sáng sớm và chiều tối, trên mặt ao, mặt hồ có một lớp sương mỏng trông như khói phủ làm cho người đọc có cảm giác cảnh mùa thu được chen lẫn với màu khói. Và chính cái cảnh mặt nước khói sương bình thường ấy qua con mắt và tâm hồn thi sĩ đã trở thành một dáng thu ngâm vịnh. Tầng khói phủ khác làn khói phụ vì sương đã trở nên dày hơn, nhiều lớp hơn, có chiều cao, độ sâu, như chất chứa cái gì đó ở bên trong. Chỉ bằng vài nét chấm phá nho nhỏ của mùa thu đã khiến cho mùa thu như có hồn và sự hòa quyện giữa cảnh thu và lòng người đi vào trong lòng người đọc Hình ảnh song thưa gợi ý thanh thoát, cởi mở, két hợp với hình ảnh ánh trăng- hình ảnh quên thuộc đều có ở mỗi làng quê, góp phần vừa tạo nên cảm giác gần gũi, vừa tạo cho người đọc có được có cảm giác thiên nhiên luôn luôn hài hòa và gần gũi với nhau.  Nếu ở câu trên là một trạng thái có chiều cao, có độ sâu thì ở câu này lại là một trạng thái mở ra thành một bề rộng, giới hạn bởi khung cửa sổ song thưa mà vẫn cứ mênh mông ở ý nghĩa bên trong, ở tinh thần và âm điệu, nhưng trạng thái nào thì cũng đều tĩnh mịch và chất chứa suy tư. 

Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái,

Một tiếng trên không, ngỗng nước nào?

Nếu như cảnh vật ở 4 câu thơ trên được miêu tả qua con mắt nhìn có vẻ khách quan, đầy cảm xúc của trái tim. Nghệ thuật đảo ngữ làm nổi bật hình ảnh “mấy chùm” hoa và “một tiếng” ngỗng. Hình ảnh “hoa năm ngoái” có sức gợi tả mạnh; “hoa năm ngoái” có nghĩa là hoa vẫn là hoa y như năm ngoái mà nước hôm nay thì đã trở thành “nước nào”. Và tiếng ngỗng ở đây, về nghệ thuật, là lấy cái động để diễn tả cái tĩnh. Cảm giác khi nghe tiếng ngỗng trên không văng vẳng mà giật mình băn khoăn tự hỏi: ngỗng nước nào? Mặc dù âm thanh ấy đã quá quen thuộc mỗi độ thu về. Và nếu như 4 câu thơ trên sự hòa quyện giữa thiên nhiên và con người có sự kết hợp hài hòa thì đến 2 câu thơ này, là một nỗi u uất của lòng người trước cảnh vật thiên nhiên, là nỗi niềm xót xa, nẫu ruột, chết lòng.

Và rồi đến 2 câu thơ kết của của bài thơ là cảm hứng và nỗi thẹn của nhà thơ

Nhân hứng cũng vừa toan cất bút,

Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào.

“Nhân hứng” ở đây chính là hứng làm thơ trước cảnh mùa thu, “toan cất bút” định không viết nhưng trước cảnh đẹp thì lại tạo được hứng khởi để viết. “Nghĩ ra” tức là ý thức, là lý trí, là tỉnh. Nguyễn Khuyến rất say mà rất tỉnh. Ông say trước cảnh đẹp của mùa thu, nhưng ông vẫn tỉnh trước lương tâm của mình. Cho nên, ông nói được là thẹn. Nhưng thẹn với ai? Có lẽ thẹn vì tài thơ thua kém hay thẹn vì mình chưa có được nhân cách trong sáng và khí phách cứng cỏi như Đào Tiềm? Với hướng văn đi từ cảnh đến tình, từ tình đến người và rồi là cái kết có chút lẳng lơ nhưng mà lại vô cùng kín đáo ẩn chứa rất nhiều suy tư của người đọc

TOP 10 bài Phân tích bài thơ Thu vịnh 2023 SIÊU HAY (ảnh 2)

Phân tích bài thơ Thu vịnh - mẫu 4

Nguyễn Khuyến có nhiều bài thơ viết về mùa thu bằng chữ Hán và chữ Nôm. Thu vịnh là một trong ba bài thơ Nôm nổi tiếng: Thu điếu, Thu ẩm và Thu vịnh. Chùm thơ này đã tôn vinh Nguyễn Khuyến lện vị trí hàng đầu trong các nhà thơ viết về mùa thu của quê hương, làng cảnh Việt Nam.

Đáng lưu ý là các chi tiết trong bài thơ này đều rút ra từ cảnh vật thân quen của quê hương tác giả. Vùng đồng chiêm trũng Bình Lục một năm chỉ cấy được một mùa, còn toàn là ngập nước. Trong làng có vô số ao chuôm với những bờ tre quanh co bao bọc những mái tranh nghèo.
Mở đầu bài thơ là hình ảnh bầu trời bao la, bát ngát:

Trời thu xanh ngắt mấy từng cao,
Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu.

Xanh ngắt là xanh thăm thẳm, mấy từng cao là rất cao, tưởng như có nhiều lớp, nhiều tầng. Trên cái nền là bầu trời bao la nổi bật lên hình ảnh thanh tú của cần trúc (cây trúc non dáng cong cong như chiếc cần câu) đang đong đưa khe khẽ trước gió thu. Giô hắt hiu là gió rất nhẹ và như chứa chất tâm trạng bên trong. Tất cả dường như có một mối cảm thông thầm lặng, sâu kín, tinh tế và khó nắm bắt.,. Sự lay động rất nhẹ của cần trúc càng làm tăng thêm cái lặng thinh, sâu thẳm của bầu trời. Bầu trời lại như dồn hết cái sâu lắng vào bên trong cần trúc, để cho nó vừa như đong đưa mà cũng vừa như đứng yên. Đó là nét động và nét tĩnh của cảnh thu.

Hai câu đề  chấm phá hai nét phong cảnh đơn sợ, thanh thoát nhưng hoà điệu nhịp nhàng với tâm hồn tác giả. Trong đó, mọi chi tiết, sắc màu, đường nét, cử động đều rất hài hoà. Nhà thơ mới nói đến trời thu nhưng ta đã thấy cả hồn thu trong đó.
Hai câu luận:

Nước biếc trông như tầng khói phủ,
Song thưa để mặc bóng trăng vào.

Nước biếc là màu nước đặc trưng của mùa thu khi khí trời bắt đầu se lạnh. Sáng sớm và chiều tối, trên mặt ao, mặt hồ có một lớp sương mỏng trông như khói phủ. Cảnh mặt nước khói sương bình thường ấy qua con mắt và tâm hồn thi sĩ đã trở thành một dáng thu ngâm vịnh. Tầng khói phủ khác làn khói phụ vì sương đã trở nên dày hơn, nhiều lớp hơn, có chiều cao, độ sâu, như chất chứa cái gì đó ở bên trong. Nước biếc cỏ tầng khói phủ thì màu nước không còn biếc nữa mà lãn vào làn khói lam mờ, hoá mông lung, huyền ảo. Đó là dáng thu dưới mặt đất, sau dáng thu trên bầu trời.

Hình ảnh song thưa gợi ý thanh thoát, cởi mở. Bóng trăng vào qua song thưa để ngỏ thì bóng trăng trở nên mênh mông hơn, lặng lẽ hơn. Nếu ở câu trên là một trạng thái có chiều cao, có độ sâu thì ở câu này lại là một trạng thái mở ra thành một bề rộng, mặc dù bj giới hạn bởi khung cửa sổ song thưa mà vẫn cứ mênh mông ở ý nghĩa bên trong, ở tinh thần và âm điệu,., nhưng trạng thái nào thì cũng đều tĩnh mịch và chất chứa suy tư.

Cảnh vật trong bốn câu thơ đầu được miêu tả ở những thời điểm khác nhau. Nhìn thấy màu trời xanh ngắt; cần trúc lơphơìà lúc đang trưa. Mặt nước biếc trông như tầng khói phủ là lúc hoàng hôn và bóng trăng tràn qua song thưa là lúc trời đã vào đêm… Mỗi cảnh một vẻ đẹp khác nhau, nhưng mối dây liên kết giữa chúng lại chính là sự nhất quán trong tâm tư tác giả.

Ngòi bút cũng theo diễn biến tâm tư mà chọn ra mấy nét điển hình kia. Tuy khác nhau nhựng dường như các hình ảnh trên đều cùng gợi lên trạng thái íặng yên, ẩn giấu sự cảm thông, giao hoà giữa tâm hồn tác giả và hồn thu.

Tâm trạng chủ đạo ấy chi phối cách nhìn, cách nghĩ của Nguyễn Khuyến:

Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái,
Một tiếng trên không, ngỗng nước nào?

Sau khi nhìn mặt nước khói phủ, ngắm ánh trăng tràn qua song thưa, nhà thơ trông ra bờ giậu ngoài sân, ở đó, nở mấy chùm hoa. Điều lạ là bỗng dưng, nhà thơ cảm thấy đó là hoa năm ngoái.

Ở trên, cảnh vật được miêu tả qua con mắt nhìn có vẻ khách quan, đến đây cảm xúc của trái tim đã khoác lên cảnh vật màu sắc chủ quan. Hoa nở trước mắt hẳn hoi mà cảm thấy là hoa năm ngoái. Điều gì đã xảy ra trong lòng người? Con người đang ở trong hiện tại mà như lùi về quá khử hay bóng dáng quá khứ hiện về trong thực tại?

Âm điệu câu thơ theo nhịp 4/1/2: Từ Mấy chùm trước giậu đến hoa năm ngoái có một đoạn suy tư, ngẫm nghĩ và sau đó đột nhiên xuất hiện cảm giác lạ lùng là hoa năm ngoái chú không phải hoa năm nay. Cảm giác ấy khiến nhà thơ nghe tiếng ngỗng trên không văng vẳng mà giật mình băn khoăn tự hỏi: ngỗng nước nào ? Mặc dù âm thanh ấy đã quá quen thuộc mỗi độ thu về.

Nếu như tròng bốn câu thơ trên, cảnh vật hài hoà, giao cảm với nhau thì đến đây, con người hoà hợp với cảnh vật trong một nỗi niềm u uất. Cảnh vật thể hiện tâm tư con người và tâm tư con người thể hiện qua cách nhìn cảnh vật. Như vậy, cảnh vật được miêu tả qua đôi mắt và trái tim rung cảm của nhà thơ. Mùa thu tới, nhà thơ nhìn hoa trước sân, nghe tiếng chim kêu trên trời vẳng xuống mà trỗi dậy cả một niềm xót xa, lặng lẽ mà như nẫu ruột, chết lòng. Chiều sâu của tâm hồn thi sĩ lắng đọng vào chiều sâu của câu thơ là vậy.

Trước cảnh thu và hồn thu khiến thi hứng dạt dào, nhà thơ toan cất bút, nhưng nghĩ đi nghĩ lại, bỗng nhiên thấy thẹn với ông Đào nên đành thôi:

Nhân hứng cũng vừa toan cất bút,
Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào.

Nhà thơ thẹn nỗi gì vậy? Thẹn vì tài thơ thua kém hay thẹn vì mình chưa có được nhân cách trong sáng và khí phách cứng cỏi như Đào Tiềm? Lôgic của bài thơ là từ cảnh đến tình, từ tình đến người. Lời thơ trong câu kết có cái gì đó lửng lơ mà kín đáo, do đó càng làm tăng thêm chất suy tư của cả bài thơ.

Nguyễn Khuyến miêu, tả cảnh thu ở quê hương mình, từ mày trời, ngọn trúc, mặt nước, ánh trăng đến chùm hoa trước giậu, tiếng ngỗng trên không… để dẫn đến cặm xúc đầy suy tư ẩn chứa trong cảnh vật. Thông qua đó, òng gửỉ gắm tâm trạng xót xa, tiếc nuối trước tình trạng đất nước rơi vào tay giặc ngoại xâm, quá khứ tốt lành không còn nữa mà mình thì lực bất tòng tâm.

Thu vịnh là một bài thơ hay, góp phần khẳng định tình yêu quê hương đất nước đằm thắm trong thơ Nguyễn Khuyến, thể hiện qua tình yêu thiên nhiên tha thiết. Trình độ nghệ thuật của bài thơ đã đạt đến mức điêu luyện, tinh tế, không dễ mấy ai sánh được.

Phân tích bài thơ Thu vịnh - mẫu 5

Bằng những hành ảnh gần gũi thân thương của làng qua trong cảnh mùa thu từ mây, trời, ngọn trúc, mặt nước, ánh trăng, và những âm thâm quen thuộc của gió, tiếng ngỗng… Cũng chính vì vật mà bài thơ đã mang một nét riêng, một cảnh đẹp nhưng lại ẩn chứa những nỗi lòng khó có thể diễn tả hết được. Cũng chính qua bài thơ, góp phần nào khẳng định được tình yêu quê hương đất nước, tình yêu thiên nhiên tha thiết của nhà thơ, và cái tình yêu đó được thể hiện hết sức tinh tế và uyên thâm không mấy ai có thể diễn tả được.

Như đã nói, Nguyễn Khuyến thường dành tình cảm đặc biệt cho quê hương làng cảnh Việt Nam. Ông có một chùm thơ nổi tiếng viết về mùa thu gồm có 3 bài Thu vịnh, Thu điếu, Thu ẩm đều đặc tả phong cảnh làng quê. Phân tích Thu vịnh cũng như chùm thơ này sẽ thấy, Nguyễn Khuyến đã sáng tác theo lối “chùm ba” của đại thi hào Trung Quốc – Đỗ Phủ.

Đối với bài “Thu vịnh”, Xuân Diệu từng nhận xét rằng đây là bài thơ trong ba bài về mùa thu của Nguyễn Khuyến mang cái hồn, cái chất của mùa thu hơn cả. Qua “Thu vịnh”, mùa thu xử Bắc hiện lên rõ nét, tinh tế và cũng ẩn chưa những tâm sự sâu kín của người viết:

Trời thu xanh ngắt mấy từng cao.

Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu.

Nước biếc trông như tảng khói phủ,

Song thưa để mặc bóng trăng vào

Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái

Một tiếng trên không ngỗng nước nào?

Nhân hứng cũng vừa toan cất bút,

Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào.

Mở đầu bài thơ, tác giả phác họa một bức tranh không gian thoáng đãng. Trên nền trời được chấm phá một nét mỏn, mềm của cành trúc:

Trời thu xanh ngắt mấy từng cao,

Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu.

“Trời thu xanh ngắt” là điểm đặc trưng đầu tiên của mùa thu xứ Bắc. Nhưng màu xanh ấy không chỉ là màu của trời thu mà còn ẩn chứa tình yêu tha thiết của người viết đối với mùa thu cũng như làng cảnh quê hương.

Không gian ngày mùa thu còn mở ra thăm thẳm với “mấy tầng cao”. Giữa màn trời xanh ngắt, một cành trúc vươn lên thật thanh cao mà không đìu hiu như “rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang” như trong thơ của Xuân Diệu. Từ láy “lơ phơ” khi tả cành trúc cũng thật gợi hình, nó gợi tả sự thưa thớt của lá trúc, nên trước gió mùa thu không ngừng lay động. Còn cơn gió “hắt hiu” là gió như thế nào? Đúng hơn, cái sự “hắt hiu” đó là những rung động, là nỗi buồn mơ hồ mà tâm hồn người thi nhân cảm thấy khi đứng trước cảnh thu đượm buồn.

Nhưng rồi bức tranh mùa thu trong “Thu vịnh” được Nguyễn Khuyến cho thêm sắc màu mới, đường nét và hình ảnh mới. Cái không khí mùa thu xứ Bắc vì thế thêm đa đa dạng hơn:

Nước biếc trông như tầng khói phủ

Song thưa để mặc bóng trăng vào

Và mùa thu được pha thêm màu “nước biếc”, mùa thu được khoác lên chiếc áo mới với màu xanh tha thiết. Gợi hình, gợi cảm hơn nữa khi áo thu trong xanh hòa quyện cùng “khói phủ” nhạt nhòa. Như cảnh đêm thu còn huyền diệu hơn thế khi có thêm trăng.

Người thi nhân mở cửa để đón trăng “Song thưa để mặc bóng trăng vào”. Cũng như nhiều nhà thơ khác, trăng là người bạn tri kỉ của Nguyễn Khuyến. Và có lẽ, nếu không có sự hiện diện của trăng, bức tranh mùa thu sẽ thiếu đi nhiều sự thi vị. Cảnh vật trong đêm được bao trùm bởi ánh trăng sẽ trở nên huyền ảo, mộng mơ hơn.

Cảnh đêm thu ấy càng trở nên huyền hoặc hơn khi có sự góp mặt của tiếng chim, của “giậu hoa”;

Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái

Một tiếng trên không ngỗng nước nào?

Hoa mùa thu vẫn thế, không có sắc màu, là bởi khói phủ nhạt nhòa hay người viết đã không còn ý niềm về dòng thời gian trôi. Nên chỉ biết là hoa năm ngoái, mà chẳng rõ “mấy chùm trước giậu” là hoa gì, có màu sắc ra sao. Điều này khiến tứ thơ của Nguyễn Khuyến thêm trừu tượng và dường như đó cũng là tâm trạng bất biến của người viết. “Một tiếng trên không ngỗng nước nào?”, câu thơ mang một nỗi buồn man mác, khi âm thanh của mùa thu là một tiếng ngỗng trời xa lạ, cái xa lạ khiến lòng người thi nhân thổn thức.

Nguyễn Khuyến viết bài thơ với cảm hứng từ một đêm thu huyền diệu, nhưng cũng chính trong đêm thu ấy mà niềm thi hứng lại mang nỗi niềm u uẩn.

Nhân hứng cũng vừa toan cất bút

Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào

Trước cảnh thu đẹp mà buồn man mác, Nguyễn Khuyến đã bộc lộ nỗi lòng mình. Với Nguyễn Khuyến cũng như với các nhà thơ chân chính, thơ sẽ luôn gắn liền với nhân cách. Nhân cách lớn thì thơ lớn.

Khi rung động trước cảnh đêm thu, toan cất bút làm thơ, Nguyễn Khuyến lại cảm thấy “thẹn với ông Đào”. Ông Đào Nguyễn Khuyến nhắc đến là Đào Tiềm – nhà thơ nổi tiếng của Trung Quốc xưa kia. Ông thẹn bởi so với “ông Đào” vì cái khí tiết của ông trong giới quan trường Trung Hoa khi dứt khoát từ quan. Nghĩ về mình, Nguyễn Khuyến làm quan trong thời buổi khó tránh khỏi việc là tay sai của giặc Pháp. Bởi vậy, khi đã về quê sống ẩn dật, ông vẫn luôn ân hận về những năm làm việc trong bộ máy chính quyền thối nát tàn bạo thời ấy. Như vậy, phân tích Thu vịnh ta không chỉ thấy một bức tranh mùa thu đẹp huyền ảo mà còn thấy được tấm lòng chân thực cũng như niềm u uẩn một nhà thơ, một nhân cách lớn Nguyễn Khuyến.

Một lần nữa cần khẳng định rằng “Thu vịnh” là một bài thơ thơ viết về mùa thu. Qua bài thơ, bức tranh mùa thu hiện lên thật thanh đạm, uyển chuyển và cũng thật huyền ảo. Bên cạnh đó, “Thu vịnh” còn là nỗi lòng tha thiết của nhà thơ đối với quê hương đất nước. Bởi vậy, phân tích Thu vịnh ta như thấy, Nguyễn Khuyến miêu tả vẻ đẹp của đêm mùa thu và cũng là bộc bạch những nỗi niềm sâu kín. Qua bài thơ “Thu vịnh” người đọc sẽ cảm nhận được vẻ đẹp thiên nhiên của làng quê Việt Nam, từ đó càng thêm yêu quý quê hương mình.

Phân tích bài thơ Thu vịnh - mẫu 6

Nhắc tới Nguyễn Khuyến người ta nhớ đến những sáng tác của ông về mùa thu. Trong đó có nhiều bài thơ viết về mùa thu bằng chữ Hán và chữ Nôm. Bài thơ “Thu vịnh” là một trong ba bài thơ Nôm nổi tiếng: Thu điếu, Thu ẩm và Thu vịnh. Chính chùm thơ về mùa thu này đã giúp Nguyễn Khuyến bước lện vị trí hàng đầu trong các nhà thơ viết về mùa thu. Những câu thơ nhẹ nhàng dễ đi vào lòng người, sẽ không ai có thể quên, khi nhắc tới thơ về mùa thu Việt Nam, Thu Vịnh như là một trong 3 bài thơ đặc sản của thơ văn viết về mùa thu.

Mọi cảnh vật quen thuộc hiện ra, vùng đồng chiêm trũng Bình Lục, ngập nước với ao hồ, bờ tre bao bọc-một biểu tượng quen thuộc của làng quê Việt Nam. Mở đầu bài thơ Thu vịnh là một hình ảnh đầy quen thuộc như thế:

Trời thu xanh ngắt mấy từng cao,
Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu.

Hình ảnh ấn tượng nhất của mùa thu có lẽ là bầu trời, đó là màu xanh ngắt là xanh thăm thẳm, mấy từng cao là rất cao, tưởng như có nhiều lớp, nhiều tầng. Trên cái nền là bầu trời bao la là hình ảnh thanh tú của cần trúc đang đong đưa khe khẽ trước gió thu. Gió không mạnh không ồ ạt không mang cái nóng như mùa hè, cũng không ảm đạm như gió mùa đông, mà nhẹ nhàng hắt hiu, đúng chất của một ngọn gió mùa thu, chứa đựng nhiều tâm trạng ẩn trong đó. Sự lay động rất nhẹ của cần trúc ngày càng làm tăng thêm cái tĩnh lặng , sâu thẳm của bầu trời. Hình ảnh bầu trời thu và cần trúc tạo nên mối liên hệ chặt chẽ, động làm nổi bật tĩnh,mọi thứ như hòa quyện với nhau.

Không dừng lại ở nét chấm phá ở hai câu đề, với cảnh vật hòa quyện với nhau, hai câu luận lại miêu tả cảnh vật thật như chốn bồng lai, có lấp ló bóng trăng:

Nước biếc trông như tầng khói phủ
Song thưa để mặc bóng trăng vào.

Màu nước biếc là màu nước đặc trưng của dòng nước vào thu khi khí trời bắt đầu se lạnh. Thu chính là thời khắc giao mùa giữa mùa hè và mùa đông cho nên, vừa có gió se,vừa có sương mỏng vờn trên mặt nước. Cảnh mặt nước khói sương bình thường ấy qua con mắt tinh tế và tâm hồn thi sĩ nhạy cảm đã trở nên yểu điệu có hồn. Lớp sương ấy như một dày thêm, không phải phảng phất nữa mà là như tầng khói phủ. Nước biếc có tầng khói phủ cho nên màu nước không còn biếc nữa mà hoá mông lung, huyền ảo. Đó là tiết thu dưới mặt đất, nét đặc trưng nhất.

Hình ảnh “song thưa “ để mặc bóng trăng vào gợi ý thanh thoát, cởi mở. Bóng trăng vào qua song thưa để ngỏ cho nên bóng trăng trở nên mênh mông hơn, lặng lẽ hơn. Không gian không được mở ra theo chiều cao mà còn mở ra vẻ mênh mông bao la theo chiều rộng, nhưng mọi thứ đều tĩnh lặng và u tịch

Vẫn với tâm trạng tĩnh lặng, có chút gợn buồn chi phối cách nhìn, cách nghĩ của Nguyễn Khuyến, cho nên khung cảnh thu được tiếp tục chấm phá với những ngôn từ:

Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái,

Một tiếng trên không, ngỗng nước nào?

Vẫn với những hình ảnh quen thuộc, sau mặt nước khói phủ, ngắm ánh trăng tràn qua song thưa, nhà thơ trông ra bờ giậu ngoài sân, ở đó, nở mấy chùm hoa. Điều lạ là nhà thơ cảm thấy đó là hoa năm ngoái. Nếu như cảnh vật được miêu tả qua con mắt nhìn có vẻ khách quan,thì cảm xúc của trái tim đã khoác lên cảnh vật màu sắc chủ quan. Tại sao tác giả lại thấy giậu hoa lại là hoa năm ngoái. Điều gì đang xảy ra trong lòng người? Con người đang ở trong hiện tại mà tâm trí như lùi về quá khử hay bóng dáng quá khứ đang trùm lấy hiện thực. Câu hỏi tu từ xuất hiện, hay chính là nỗi băn khoăn của tác giả.

Cảnh trời đất vào thu,với khung cảnh trời cao, nước xanh biếc khói phủ rồi những âm thanh quen thuộc,nhưng khung cảnh ấy đang hòa vào một nỗi niềm u uất thể hiện sâu trong tâm tư con người tác giả. Trước khung cảnh thu và hồn thu khiến thi hứng dạt dào, nhà thơ toan cất bút, nhưng nghĩ đi nghĩ lại, bỗng thấy thẹn với ông Đào nên đành thôi:

Nhân hứng cũng vừa toan cất bút,

Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào

Nhắc tới ông Đào, nhà thơ thấy thẹn? Thẹn vì tài thơ thua kém hay thẹn vì mình chưa có được nhân cách trong sáng và khí phách cứng cỏi như Đào Tiềm? Việc sử dụng điển tích điển cố ở đây tạo nên ý tứ sâu xa của tác và càng làm tăng thêm chất suy tư của cả bài thơ. Mọi cảnh vật mùa thu xuất hiện theo chiều cao và cả chiều rộng, những hình ảnh quen thuộc và cả những nét đặc trưng của mùa thu nữa nhưng đều phảng phất tâm trạng xót xa tiếc nuối trước tình trạng đất nước rơi vào tay giặc ngoại xâm, quá khứ tốt lành không còn nữa mà bản thân mình thì lực bất tòng tâm.

Thu vịnh là một trong số bài thơ hay, khẳng định tình yêu quê hương đất nước đằm thắm trong thơ Nguyễn Khuyến, thể hiện qua tình yêu thiên nhiên tha thiết. Hồn thơ phóng khoáng, chỉ với những hình ảnh quen thuộc,vài nét chấm phá, bài thơ chỉ với 8 câu mà như vẽ ra bao viễn cảnh tươi đẹp. Sự tinh tế trong dùng từ để vịnh mùa thu cũng đạt tới mức điêu luyện tinh tế.

Phân tích bài thơ Thu vịnh - mẫu 7

Nguyễn Khuyến - một nhà thơ nổi tiếng của làng cảnh Việt Nam, đã vẽ lên những bức tranh của cuộc sống nông thôn bằng nét bút tinh tế, tạo nên những hình ảnh về quê hương đẹp mắt và trữ tình. Chùm thơ thu của ông, bao gồm Thu điếu, Thu vịnh, Thu ẩm, đã để lại ấn tượng sâu đậm và chạm vào lòng người với những hình ảnh mùa thu đặc trưng. Trong đó, bài thơ Thu vịnh thể hiện sự u hoài, xót xa trước cảnh mùa thu và tình cảm yêu nước chân thành.

“Trời thu xanh ngắt mấy từng cao,

Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu.”

Ở đây, khác hẳn với những trời thu trong “thu điếu” và “thu ẩm”, trời thu của thu vịnh được mở đầu là một khung cảnh cao vút và thăm thẳm của trời thu, và xen  vào đó là cái se se lạnh của mùa thu. Với cái nền là bầu trời bao la “xanh ngắt”, “ mấy tầng cao” nổi bật lên hình ảnh thanh tú của cần trúc đang đong đưa khe khẽ trước gió thu. Và hình ảnh động của gió hắt hiu như chứa chất tâm trạng bên trong. Mở đầu như vậy khiến cho người đọc có thể phần nào thấy được một nỗi lòng đầy lo âu.  Sự lay động rất nhẹ của cần trúc càng làm tăng thêm cái lặng thinh, sâu thẳm của bầu trời. Hai câu đề  chấm phá hai nét phong cảnh đơn sợ, thanh thoát nhưng hoà điệu nhịp nhàng với tâm hồn tác giả. Nhà thơ đã vẽ lên một khung cảnh trời thu vừa có cảnh thực là vừa có hồn thu ở trong cảnh. 

“Nước biếc trông như tầng khói phủ

Song thưa để mặc bóng trăng vào.”

Nước biếc là màu nước đặc trưng của mùa thu khi khí trời bắt đầu se lạnh. Sáng sớm và chiều tối, trên mặt ao, mặt hồ có một lớp sương mỏng trông như khói phủ làm cho người đọc có cảm giác cảnh mùa thu được chen lẫn với màu khói. Và chính cái cảnh mặt nước khói sương bình thường ấy qua con mắt và tâm hồn thi sĩ đã trở thành một dáng thu ngâm vịnh. Tầng khói phủ khác làn khói phụ vì sương đã trở nên dày hơn, nhiều lớp hơn, có chiều cao, độ sâu, như chất chứa cái gì đó ở bên trong. Chỉ bằng vài nét chấm phá nho nhỏ của mùa thu đã khiến cho mùa thu như có hồn và sự hòa quyện giữa cảnh thu và lòng người đi vào trong lòng người đọc. Nếu ở câu trên là một trạng thái có chiều cao, có độ sâu thì ở câu này lại là một trạng thái mở ra thành một bề rộng. 

“Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái,

Một tiếng trên không, ngỗng nước nào?”

Nếu như cảnh vật ở 4 câu thơ trên được miêu tả qua con mắt nhìn có vẻ khách quan, đầy cảm xúc của trái tim. Nghệ thuật đảo ngữ làm nổi bật hình ảnh 'mấy chùm” hoa và “một tiếng” ngỗng. Hình ảnh “hoa năm ngoái” có sức gợi tả mạnh; “hoa năm ngoái” có nghĩa là hoa vẫn là hoa y như năm ngoái mà nước hôm nay thì đã trở thành 'nước nào”. Và tiếng ngỗng ở đây, về nghệ thuật, là lấy cái động để diễn tả cái tĩnh. Cảm giác khi nghe tiếng ngỗng trên không văng vẳng mà giật mình băn khoăn tự hỏi: ngỗng nước nào? Mặc dù âm thanh ấy đã quá quen thuộc mỗi độ thu về. Và nếu như 4 câu thơ trên sự hòa quyện giữa thiên nhiên và con người có sự kết hợp hài hòa thì đến 2 câu thơ này, là một nỗi u uất của lòng người trước cảnh vật thiên nhiên, là nỗi niềm xót xa, nẫu ruột, chết lòng.

Và rồi đến 2 câu thơ kết của của bài thơ là cảm hứng và nỗi thẹn của nhà thơ

“Nhân hứng cũng vừa toan cất bút,

Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào.”

“Nhân hứng” ở đây chính là hứng làm thơ trước cảnh mùa thu, “toan cất bút” định không viết nhưng trước cảnh đẹp thì lại tạo được hứng khởi để viết. “Nghĩ ra' tức là ý thức, là lý trí, là tỉnh. Nguyễn Khuyến rất say mà rất tỉnh. Ông say trước cảnh đẹp của mùa thu, nhưng ông vẫn tỉnh trước lương tâm của mình. Cho nên, ông nói được là thẹn. Nhưng thẹn với ai? Có lẽ thẹn vì tài thơ thua kém hay thẹn vì mình chưa có được nhân cách trong sáng và khí phách cứng cỏi như Đào Tiềm? Với hướng văn đi từ cảnh đến tình, từ tình đến người và rồi là cái kết có chút lẳng lơ nhưng mà lại vô cùng kín đáo ẩn chứa rất nhiều suy tư của người đọc.

Thu vịnh của Nguyễn Khuyến không chỉ khắc họa bức tranh mùa thu thôn dã đẹp bình dị, mộc mạc mà gần gũi, qua đó còn thể hiện cái tâm của người thi sĩ yêu làng quê

Phân tích bài thơ Thu vịnh - mẫu 8

Bài thơ Thu vịnh của Nguyễn Khuyến, còn được biết đến với tên gọi Vịnh mùa thu, đã thu hút sự yêu thích của đông đảo bạn đọc. Đây là một trong ba bài thơ thuộc chùm Thu vịnh, cùng với thu điếu và thu ẩm, tạo nên một bức tranh mùa thu phong phú qua lời văn. Bức tranh này tả mùa thu ở đồng bằng Bắc Bộ với những hình ảnh đặc trưng của nó. Hãy cùng khám phá bài thơ Thu vịnh để hiểu thêm về những điều tuyệt vời và đặc biệt nhất nhé!

“Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao,

Cành trúc uốn éo, gió hắt hiu.

Nước biếc như tầng khói phủ,

Mặt ao mờ nhưng vẫn chìm bóng trăng.

Mấy chùm hoa trước giậu năm ngoái,

Một tiếng trên cao, ngỗng nước bay đi đâu?

Nhân hứng cũng muốn viết bút nghiên,

Nhưng lại ngần ngại trước tác giả Đào Tiềm.”

Bài thơ Thu vịnh được nhận xét là tuyệt nhất trong ba bài thơ về mùa thu của Nguyễn Khuyến. Bởi nó không chỉ mang đậm bản sắc của mùa thu mà còn chứa đựng sự u uất, nỗi buồn của thi sĩ. Mùa thu ở Bắc Bộ được tác giả tả qua bầu trời cao xanh. Đó là mùa thu của trời đất và cũng là mùa thu của tâm trí thi sĩ trước khung cảnh đó. Không gian mở ra rộng lớn với các tầng cao, cùng với hình ảnh uốn éo của cành trúc. Điều này tạo ra một không gian tuyệt đẹp, đồng thời mang lại sự mềm mại, cao quý nhờ vào hình ảnh cành trúc.

'Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao,

Cành trúc uốn éo, gió hắt hiu.

Nước biếc như tầng khói phủ,

Mặt ao mờ nhưng vẫn chìm bóng trăng.'

Bức tranh trở nên sinh động và tinh tế hơn với màu nước biếc, mà còn là màu của mùa thu trong xanh. Việc sử dụng từ 'hắt hiu' đã làm nổi bật sự rung động của cành trúc, đồng thời là tâm hồn và cảm xúc của thi sĩ trước cảnh đẹp này. Trăng, như một người bạn tri kỷ, đã làm cho bức tranh mùa thu sáng sủa hơn. Các cảnh vật trong đó cũng trở nên huyền ảo và mơ mộng hơn.

Ở đây, chúng ta cảm nhận được hình ảnh thơ của Nguyễn Khuyến rất sâu sắc. “Hoa năm ngoái” biểu hiện sự đọng lại và cũng là nỗi buồn không thay đổi của thi sĩ. Nó cũng mang một nỗi buồn nhẹ nhàng. Sự lạ lẫm bỗng nhiên hiện ra trong “ngỗng nước nào”. Bức tranh đó đã động chạm vào tâm hồn của nhà thơ, khiến ông rưng rức. Đêm thu với khung cảnh tuyệt vời ấy đã làm cho nhà thơ trầm ngâm và cũng chính là nỗi u uất của thi sĩ. Trước khung cảnh ấy, nhà thơ đã bộc lộ tâm trạng của mình.

“Mấy chùm hoa trước giậu năm ngoái,

Một tiếng trên cao, ngỗng nước bay đi đâu?

Nhân hứng cũng muốn viết bút nghiên,

Nhưng lại ngần ngại trước tác giả Đào Tiềm.”

Đó chính là tính cách lớn của một nhà thơ vĩ đại. Ở đây có hình ảnh của ông Đào, tức là Đào Tiềm – một nhà thơ nổi tiếng của Trung Quốc. Và nếu nói về lý do tại sao Nguyễn Khuyến lại cảm thấy ngần ngại trước ông Đào, thì khó có thể giải thích. Bởi vì về mặt học vấn, Nguyễn Khuyến chính là học giả uyên bác, không hề thua kém. Tuy nhiên, có lẽ ông ngần ngại trước Đào Tiềm vì tư duy. Tư duy của Đào Tiềm phản ánh sự nổi tiếng của ông với tư cách quan rõ ràng trong xã hội Trung Quốc thời kỳ đó. Trong khi đó, với Nguyễn Khuyến, ông vẫn là kẻ bất bại với những năm tháng đầy mưa gió. Và câu thơ này thực sự thể hiện lòng chân thành và cũng là nỗi u uất của một nhân cách lớn.”

Phân tích bài thơ Thu vịnh - mẫu 9

Nguyễn Khuyến được biết đến với tư cách là 'Nhà thơ của làng cảnh Việt Nam' với một kho tàng văn học phong phú. Trong chuỗi thơ về mùa thu, ba bài: 'Thu điếu', 'Thu ẩm', 'Thu vịnh' đã giúp vinh danh tên tuổi của ông, đặt ông vào vị trí hàng đầu trong số các nhà thơ viết về quê hương Việt Nam. Trong số đó, 'Thu vịnh' là một minh chứng rõ ràng nhất, là biểu tượng của phong cách nghệ thuật của ông.

Bài thơ mở đầu với hình ảnh của bầu trời trong xanh cùng với những cành trúc nhỏ nhắn lay động trong gió:

'Trời thu xanh ngắt mấy từng cao

Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu'

Trời thu được tô điểm bằng một màu xanh thăm thẳm 'xanh ngắt' giống như trong bài 'Thu ẩm' có viết: 'Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt?'. Nó trong trẻo và cao vời vợi, tạo ra cảm giác của sự nhiều lớp, nhiều tầng đang được xếp chồng lên nhau 'mấy từng cao'. Trong cái bầu trời xanh ấy, tác giả đã vẽ lên một vài cành trúc thanh mảnh, mềm mại nhẹ nhàng lay động trong gió (cây trúc non cong vút như chiếc cần câu nên mới gọi là 'cần trúc'). Ở đây, bút pháp sử dụng động tả tĩnh rất phù hợp, từ từ 'lơ phơ' gợi lên sự thưa thớt của lá trúc lay động bởi những làn gió nhẹ nhàng hiu hắt, tôn thêm vẻ cô đơn, lưu luyến, mênh mông, khiến ta nhớ đến câu thơ 'Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo'.

'Nước biếc trông như tầng khói phủ

Song thưa để mặc bóng trăng vào'

Màu xanh biếc là màu của làn nước mùa thu khi không khí bắt đầu se se lạnh và nó cho thấy sự trong veo như một tấm gương khổng lồ phản chiếu bầu trời sâu thẳm. Sáng sớm, trên mặt ao, mặt hồ thường có một lớp sương mỏng nhẹ và lớp sương ấy ngày càng dày thêm, nó không còn phảng phất nữa mà là dày đặc như tầng khói phủ, giống như làn sương trong thơ của Hàn Mặc Tử 'Ở đây sương khói mờ nhân ảnh'. Màu xanh biếc kèm theo lớp sương khói phủ khiến màu nước không còn trong veo nữa mà trở thành mông lung, kì ảo như đang lạc ở chốn bồng lai tiên cảnh. Trong đêm lạnh lẽo, u tịch, bỗng vầng trăng xuất hiện, thi sĩ để 'song thưa' mặc bóng trăng ùa vào tràn ngập phòng thơ, từ đó cho thấy tâm hồn của tác giả đầy rộng mở, phóng khoáng, lãng mạn. Giữa thời điểm canh khuya đầy những nỗi cô đơn thì trăng chính là người bạn tri âm tri kỷ của thi nhân, có ánh trăng, bức họa đồ càng thêm sáng, thêm huyền ảo. Và còn gì tuyệt vời hơn khi còn có cả sự góp mặt của những nhành hoa và tiếng chim:

'Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái

Một tiếng trên không ngỗng nước nào?'

Đang say sưa thưởng nguyệt, ngắm nhìn khung cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp thì đột nhiên nhà thơ nhìn ra bờ giậu ngoài sân, ở đó nở mấy chùm hoa thu, nhưng điều kỳ lạ là ông cảm thấy đây là hoa năm ngoái. Có lẽ là do nỗi u hoài, âu sầu trong lòng đã làm ông có cảm giác năm tháng dường như ngưng đọng lại trên những nhành hoa (nhìn hoa nở năm nay mà cứ ngỡ là hoa năm ngoái) khiến nó nhạt nhòa, màu úa tàn của thời gian. Từ đó, hình ảnh này gợi cho ta liên tưởng đến câu thơ 'Khóm cúc tuôn thêm dòng lệ cũ' trong bài 'Thu hứng' của Đỗ Phủ. Nếu như cảnh vật được miêu tả qua cái nhìn khách quan của thi nhân thì cảm xúc trái tim đã khoác lên nó một màu sắc chủ quan và chính cảm xúc này đã khiến ông nghe tiếng ngỗng lạc đàn từ trên trời cao văng vẳng xuống mà giật mình tự hỏi: 'Ngỗng nước nào?'. Câu hỏi tu từ 'Một tiếng trên không ngỗng nước nào?' cho thấy nỗi đau đáu khôn nguôi, băn khoăn trăn trở của ông trước cảnh mất nước.

Hai câu kết đã nói lên nỗi lòng thầm kín của tác giả:

'Nhân hứng cũng vừa toan cất bút

Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào'

Cảnh thu vừa đẹp, vừa thơ mộng trữ tình đã khơi dậy cái thi hứng tràn đầy, nồng đượm, dạt dào trong tâm hồn ông. Nguyễn Khuyến rất say mê trước cảnh đẹp của mùa thu nhưng vẫn tỉnh trước lương tâm của chính mình. Vậy ông 'thẹn với ông Đào' là vì cái gì? Có lẽ là vì tài văn chương thua kém hay là vì bản thân còn thiếu cái nhân cách trong sáng, khí phách cứng cỏi của ông Đào, người đã từ quan một cách dứt khoát, trở thành một nhân vật nổi tiếng về khí tiết trong giới quan trường Trung Hoa? Đã từ quan về ở ẩn rồi mà nhà thơ vẫn còn vướng phải vòng danh lợi chốn quan trường, dính líu đến bọn quan lại; chưa nguôi nghĩ về vận nước, nỗi lo lắng ưu phiền luôn đầy ắp trong lòng 'thân nhàn nhưng tâm không nhàn'. Có lẽ nên hiểu theo nghĩa thứ hai bởi Nguyễn Khuyến chưa từng thẹn về tài thơ với bất cứ ai nhưng lại luôn ngưỡng mộ Đào Tiềm, con người 'không thể vì năm đấu gạo mà khom lưng uốn gối, khúm núm hầu hạ kẻ tiểu nhân', đã lập tức từ quan trở về vui với ba luống cúc. Nỗi u sầu nhuốm màu sắc thời thế này làm cho bức tranh cảnh trời thu quê hương Việt Nam thêm gợi cảm, làm xao xuyến, say đắm lòng người.

Tóm lại, nhờ việc vận dụng tài tình thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật cùng với chữ Nôm và những nghệ thuật: So sánh, nhân hóa, câu hỏi tu từ, từ láy.. hay bút pháp chấm phá, lấy động tả tĩnh, tác giả đã để lại cho độc giả ấn tượng sâu sắc về cảnh thu làng quê Việt Nam vừa đẹp, vừa trữ tình nhưng ẩn sâu trong đó là nỗi buồn xót xa, ưu tư về vận mệnh dân tộc và tình yêu tha thiết, sâu nặng với thiên nhiên, đất nước.

Phân tích bài thơ Thu vịnh - mẫu 10

Nguyễn Khuyến sáng tạo nhiều bài thơ về mùa thu bằng chữ Hán và chữ Nôm. Trong số đó, Thu vịnh là một trong ba bài thơ Nôm nổi tiếng: Thu điếu, Thu ẩm và Thu vịnh. Tác phẩm này đã đưa Nguyễn Khuyến lên vị trí hàng đầu trong số các nhà thơ sáng tác về mùa thu ở quê hương, làng cảnh Việt Nam.

Bắt đầu bài thơ là hình ảnh bầu trời rộng lớn, mênh mông:

“Trời thu xanh ngắt mấy từng cao,

Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu.”

Xanh ngắt là màu sắc sâu thẳm, mấy từng cao là rất cao, như có nhiều lớp, nhiều tầng. Trên bầu trời mênh mông là hình ảnh thanh tú của cành trúc (cây trúc non dáng cong cong như cây cần câu) đang uốn éo nhẹ nhàng trước gió thu. Gió hắt hiu là gió nhẹ nhàng, nhưng chứa đựng nhiều tâm trạng bên trong. Tất cả tạo nên một mối liên kết tinh tế, sâu sắc và khó nắm bắt... Sự lay động nhẹ nhàng của cành trúc càng làm tăng thêm sự lặng lẽ, sâu thẳm của bầu trời. Bầu trời dường như dồn hết sự sâu lắng vào trong cành trúc, để cho nó vừa uốn éo mà cũng vừa yên bình. Đó là sự động và sự yên bình của cảnh thu.

Hai câu đầu tạo ra hai nét phong cảnh đơn giản nhưng hoà quện nhịp nhàng với tâm hồn của nhà thơ. Mọi chi tiết, màu sắc, đường nét, cử động đều hài hoà. Nguyễn Khuyến chỉ nói về trời thu nhưng đã thấy được hồn thu trong đó.

“Nước biếc trông như tầng khói phủ,

Song thưa để mặc bóng trăng vào.”

Nước biếc là màu của mùa thu khi trời bắt đầu se lạnh. Sáng sớm và chiều tối, trên mặt ao, mặt hồ có một lớp sương mỏng trông như khói phủ. Cảnh mặt nước sương mờ đó qua con mắt và tâm hồn của nhà thơ đã trở thành một hình ảnh thu dịu dàng. Mỗi cảnh một vẻ đẹp khác nhau, nhưng mối liên kết giữa chúng lại chính là sự nhất quán trong tâm trạng của tác giả. Ngòi bút diễn biến theo tâm trạng và chọn ra một số đặc điểm nổi bật. Tâm trạng chủ đạo ấy chi phối cách nhìn và cách suy nghĩ của Nguyễn Khuyến:

“Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái,

Một tiếng trên không, ngỗng nước nào?”

Sau khi nhìn thấy mặt nước phủ sương, ánh trăng qua lá cây, nhà thơ nhìn ra bờ giậu trong sân, nơi một số chùm hoa đã nở. Điều kỳ lạ là bất thình lình, nhà thơ cảm thấy như đó là hoa của năm ngoái. Trong trường hợp này, mọi thứ đã được miêu tả thông qua mắt nhìn có phần chủ quan, đến mức tình cảm của trái tim cũng thể hiện trên cảnh vật. Hoa nở trước mắt dường như mới và tuyệt vời mà lại cảm thấy chúng như hoa của năm ngoái. Con người đang sống trong hiện tại nhưng như lùi về quá khứ hoặc bóng dáng của quá khứ hiện ra trong hiện tại?

Mùa thu đến, nhà thơ nhìn thấy hoa trước sân, nghe tiếng chim hót trên bầu trời vang xuống và tỉnh giấc cảm thấy một nỗi xót xa, lặng lẽ mà như nát lòng. Sâu sắc của tâm hồn thi sĩ lắng đọng vào sâu sắc của câu thơ. Trước cảnh thu và tâm hồn thu, khiến tinh thần thi sĩ tràn đầy cảm xúc, nhà thơ muốn viết thơ nhưng sau cùng lại cảm thấy thẹn với ông Đào:

“Nhân hứng cũng vừa toan cất bút,

Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào.”

Nhà thơ cảm thấy thẹn là vì điều gì? Thẹn vì tài thơ kém cỏi, hay là thẹn vì chưa có được đức tính trong sáng và vẻ ngoài kiên cường như Đào Tiềm? Cấu trúc của bài thơ đi từ cảnh vật đến tâm trạng, từ tâm trạng đến người. Câu kết của bài thơ có phần lỏng lẻo và kín đáo, từ đó làm tăng sự suy tư của toàn bộ bài thơ. Nguyễn Khuyến miêu tả cảnh thu ở quê hương của mình, từ bầu trời, cành trúc, mặt nước, ánh trăng đến chùm hoa trước giậu, tiếng chim trên cao... để dẫn đến cảm xúc sâu sắc ẩn chứa trong cảnh vật. Thông qua đó, ông truyền đạt tình yêu và tiếc nuối về quê hương, đất nước trong thơ Nguyễn Khuyến, thể hiện qua tình yêu sâu sắc với thiên nhiên. Mức độ nghệ thuật của bài thơ đã đạt đến mức điêu luyện, tinh tế, không phải ai cũng có thể sánh kịp.

Phân tích bài thơ Thu vịnh - mẫu 11

Thiên nhiên mùa thu tại làng quê Việt Nam, dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Khuyến, hiện lên với vẻ đẹp thanh cao, gợi cảm và hồn hậu, làm say đắm lòng người và khiến chúng ta càng thêm yêu mến, trân quý quê hương đất nước.

Nguyễn Khuyến nổi tiếng với chùm thơ mùa thu gồm ba bài: "Thu vịnh", "Thu điếu" và "Thu ẩm". Có lẽ ông đã viết theo phong cách "chùm ba" của đại thi hào Đỗ Phủ, người Trung Quốc, nổi tiếng với các tác phẩm "Tam biệt", "Tam lại" và nhiều tác phẩm khác. Theo nhà thơ Xuân Diệu, trong ba bài thơ thu của Nguyễn Khuyến, "Thu vịnh" mang đậm hồn cốt của cảnh vật mùa thu nhất, thể hiện cái thanh, cái trong, cái nhẹ và cái cao của mùa thu. "Thu vịnh" không chỉ tái hiện được thần thái mùa thu xứ Bắc mà còn phản ánh tâm sự u uẩn của tác giả:

"Trời thu xanh ngắt mấy từng cao.

Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu.

Nước biếc trông như tầng khói phủ,

Song thưa để mặc bóng trăng vào.

Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái,

Một tiếng trên không ngỗng nước nào?

Nhân hứng cũng vừa toan cất bút,

Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào."

Bức tranh mùa thu trong "Thu vịnh" mở ra một không gian thoáng đãng, nơi bầu trời mùa thu xanh ngắt hòa quyện với nét mềm mại của cành trúc:

"Trời thu xanh ngắt mấy từng cao,

Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu."

Bầu trời cao xanh của mùa thu xứ Bắc hiện lên rõ nét trong câu thơ của Nguyễn Khuyến, màu xanh ngắt không chỉ là màu sắc của bầu trời mà còn chứa đựng tình cảm tha thiết của thi nhân với mùa thu, với quê hương. Không gian mở ra thăm thẳm "mấy tầng cao", một cành trúc vươn lên giữa bầu trời thu, nét cong mềm của cành trúc tạo nên một vẻ đẹp thanh cao. Từ láy "lơ phơ" gợi tả vẻ thưa thớt của những chiếc lá trúc nhẹ nhàng lay động trong làn gió heo may mùa thu. Từ láy "hắt hiu" gợi lên sự rung động của cành trúc, hay chính là sự rung động của tâm hồn thi nhân trước cảnh thu đượm buồn.

Bức tranh mùa thu trong "Thu vịnh" tiếp tục được tác giả tô điểm với những đường nét và màu sắc mới:

"Nước biếc trông như tầng khói phủ,

Song thưa để mặc bóng trăng vào."

Hình ảnh mùa thu được điểm xuyết thêm màu sắc của "nước biếc", một sắc xanh thêm vào bức tranh mùa thu, màu của nước trong xanh với lớp khói phủ mờ ảo. Hình ảnh "khói" gợi nhớ đến "khói sóng" trong thơ Thôi Hiệu: "Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai". Cảnh đêm thu thật huyền diệu, với ánh trăng là người bạn tri kỉ của thi nhân. Câu thơ "Song thưa để mặc bóng trăng vào" mở ra một không gian tĩnh lặng, nơi ánh trăng thu tạo nên một khung cảnh thêm phần huyền ảo và mộng mơ.

Cảnh thu trở nên thêm phần huyền hoặc với màu hoa và tiếng chim:

"Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái,

Một tiếng trên không ngỗng nước nào?"

Hoa mùa thu không đổi, không sắc màu rõ rệt có lẽ vì lớp khói phủ mờ nhạt, hay chính thi nhân đã mất đi ý niệm về thời gian. "Mấy chùm trước giậu" gợi lên một cảm giác mơ hồ về loài hoa nào đó, chỉ biết đó là "hoa năm ngoái". Hình ảnh này thể hiện sự ngưng đọng của thời gian, tâm trạng bất biến của thi nhân. Câu thơ mang một nỗi buồn man mác. Âm thanh mùa thu là tiếng ngỗng trời xa lạ, tiếng "ngỗng nước nào" lạnh lẽo vang vọng trong không gian mùa thu, khiến lòng thi nhân thêm thổn thức.

Cảnh đêm thu huyền diệu khơi dậy cảm hứng trong tâm hồn nhà thơ. Thi hứng chợt đến nhưng ngay lập tức bị nỗi niềm u uẩn ngăn lại:

"Nhân hứng cũng vừa toan cất bút,

Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào."

Trước cảnh thu huyền diệu, nhà thơ bộc lộ trực tiếp nỗi lòng mình. Theo quan điểm của Nguyễn Khuyến và các nhà thơ chân chính, thơ luôn gắn liền với nhân cách, nhân cách lớn sẽ tạo nên thơ lớn.

Rung động trước mùa thu, định cất bút làm thơ, Nguyễn Khuyến cảm thấy "thẹn với ông Đào". Ông Đào ở đây chính là Đào Tiềm (Đào Uyên Minh), nhà thơ nổi tiếng thời Lục Triều ở Trung Quốc. Ông đỗ tiến sĩ, ra làm quan nhưng sau chán ghét cảnh quan trường thối nát đã treo ấn từ quan, lui về ẩn dật và viết bài "Qui khứ lai từ" nổi tiếng. Tại sao Nguyễn Khuyến lại "thẹn" với ông Đào? Thái độ này hiếm thấy ở các thi nhân cổ kim. Về học vấn, Nguyễn Khuyến không thua kém Đào Uyên Minh, thậm chí còn đỗ Tam Nguyên và được người đời gọi là Tam Nguyên Yên Đổ. Về tài thơ, thơ của Nguyễn Khuyến không kém gì Đào Uyên Minh. Xuân Diệu đã ca ngợi Nguyễn Khuyến là "Nhà thơ của quê hương làng cảnh Việt Nam". Có lẽ Nguyễn Khuyến "thẹn với ông Đào" vì thiếu dũng khí của ông Đào, người đã từ quan một cách dứt khoát, trở thành biểu tượng về khí tiết trong quan trường Trung Hoa. Còn Nguyễn Khuyến, khi ra làm quan, lúng túng và cảm thấy hối tiếc vì đã từng tham gia vào guồng máy chính quyền thối nát thời bấy giờ. Dù đã về ẩn dật, ông vẫn còn day dứt về những năm tháng đã qua. Câu thơ thể hiện nỗi niềm u uẩn của một nhân cách lớn, của một nhà thơ lớn.

"Thu vịnh" là một bài thơ tuyệt vời về mùa thu của Nguyễn Khuyến. Bức tranh mùa thu với màu sắc thanh đạm, đường nét uyển chuyển, không gian cao rộng và cảnh vật huyền ảo dưới ánh trăng trắng trong thể hiện tình cảm tha thiết của nhà thơ với quê hương đất nước. Qua vẻ đẹp của đêm thu, nhà thơ cũng bộc bạch những tâm sự sâu kín, chân thật và cảm động của mình.

Thiên nhiên mùa thu của làng cảnh Việt Nam, dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Khuyến, hiện lên đẹp một cách thanh cao, gợi cảm và hồn hậu, làm tăng thêm tình yêu và sự quý trọng của chúng ta đối với quê hương đất nước.

Phân tích bài thơ Thu vịnh - mẫu 12

Mùa thu từ xưa tới nay luôn là nguồn cảm hứng vô tận trong các tác phẩm thi ca, nhạc họa. Mùa thu mang vẻ đẹp tinh tế, uyển chuyển, lúc mơ màng, lúc lại buồn man mác, khơi gợi nhiều cảm xúc vi diệu trong tâm hồn con người. Nguyễn Khuyến cũng không ngoại lệ, với chùm thơ về mùa thu rất nổi tiếng gồm "Thu điếu," "Thu vịnh," và "Thu ẩm," nói về ba thú vui khi mùa thu tới. Trong đó, "Thu vịnh" được xem là bài thơ mang nhiều nét thi vị đậm đà về cảnh sắc mùa thu nơi làng quê, thôn dã đầy giản dị và hồn hậu.

"Thu vịnh" có nghĩa là ngâm vịnh, ca tụng mùa thu. Tuy có quan niệm cho rằng nên hiểu là tác giả đang trầm ngâm ngắm mùa thu mà làm thơ, nhưng điều này chưa hoàn toàn chính xác. Bài thơ là những vần thơ bay bổng, mới nghe tưởng chừng chỉ đơn giản tả về mùa thu, nhưng đọc kỹ lại thấy nó chứa đựng nhiều nỗi niềm tâm sự của một con người yêu nước, thương dân.

Khung cảnh mùa thu mở ra qua hai câu thơ:

"Trời thu xanh ngắt mấy từng cao.

Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu."

Mùa thu hiện ra trong trẻo, khoáng đạt với hình ảnh bầu trời xanh ngắt, cao vời vợi. Thi nhân vẽ vào đó một cần trúc "lơ phơ," mềm mại, uyển chuyển trong cái gió se lạnh "hắt hiu." "Trời thu xanh ngắt" như chính tình cảm sâu đậm của nhà thơ dành cho mùa thu quê hương, một mùa thu xứ Bắc với nét riêng là "cần trúc lơ phơ," mềm mại nhưng không yếu đuối như liễu. Giọng thơ nhẹ nhàng, vương chút buồn man mác ở hai chữ "hắt hiu," phải chăng thi nhân có điều gì phiền lòng?

"Nước biếc trông như tảng khói phủ,

Song thưa để mặc bóng trăng vào."

Trên đã có "trời xanh," dưới lại có "nước biếc," cả hai đều mang một màu xanh trong trẻo, dịu dàng. Đôi khi người đọc không nắm rõ nghệ thuật "đảo trang" trong thơ ca, dẫn đến hiểu lầm hoặc không rõ nghĩa câu thơ này. Ý thơ là làn sương tựa khói đang là đà phủ trên mặt nước biếc. Chữ "biếc" không hẳn chỉ màu nước thật, mà có thể là tưởng tượng của nhà thơ để tạo âm vần. Tương tự, chữ "thưa" cũng được dùng với mục đích này. Tác giả tinh tế lướt qua hai khoảng thời gian sáng và tối, ban ngày thấy trời xanh, nước biếc; ban đêm thấy cảnh ánh trăng dịu nhẹ len lỏi từng song cửa. Trăng và mùa thu thường song hành trong thơ ca, và trăng còn là bạn tri kỷ của thi nhân, đêm khuya thanh vắng làm bạn với trăng, ngắm trăng làm thơ là một thú vui tao nhã. Nhờ ánh trăng, mùa thu trong thơ Nguyễn Khuyến có thêm chút mộng mơ, lãng mạn, thanh tao, nhã nhặn.

"Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái

Một tiếng trên không ngỗng nước nào?"

Cụm từ "hoa năm ngoái" có lẽ không nên hiểu là hoa nở từ năm ngoái mà thể hiện tâm trạng hoài niệm quá khứ của tác giả. Quá khứ ngọt ngào như những đóa hoa trước giậu, khiến tác giả ngậm ngùi nhớ về. Không gian trầm tĩnh, lắng đọng bị xáo động bởi tiếng ngỗng trời, bừng tỉnh tâm hồn thi sĩ và không gian mùa thu thanh bình, mang lại chút âm điệu đơn bạc, giải tỏa nỗi vắng lặng, tịch liêu.

Hai câu cuối bộc lộ tâm trạng nhà thơ rõ hơn:

"Nhân hứng cũng vừa toan cất bút

Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào."

Giữa khung cảnh trời thu đẹp và lãng mạn, thi nhân nào cũng rung động, muốn cất bút làm thơ. Nhưng Nguyễn Khuyến lại "thẹn với ông Đào" - Đào Tiềm (Đào Uyên Minh), nhà thơ nổi tiếng thời Lục Triều (Trung Quốc). Ông tài giỏi, đỗ tiến sĩ, ra làm quan nhưng chán ghét quan trường bẩn thỉu, nên lui về ẩn dật. Nguyễn Khuyến "thẹn" vì thiếu khí tiết của bậc quân tử như Đào Tiềm. Đào Tiềm từ quan dứt khoát, sống thanh tao, còn Nguyễn Khuyến không thể từ bỏ công danh, phải làm quan dưới thời Pháp thuộc. Khi từ quan, ông vẫn ân hận vì làm quan buổi rối ren, nhục nhã. Chính vì điều này mà chữ "thẹn" cuối bài trở nên sâu sắc. Nhưng cũng nhờ những câu thơ tỏ lòng này, ta mới thấy được nhân cách cao cả, tấm lòng chân thành của Nguyễn Khuyến - người không trốn tránh sự thật, sẵn sàng thừa nhận lỗi lầm để tự vấn và tha thứ cho mình, người đáng trân trọng biết bao.

"Thu vịnh" là bài thơ hay và đặc sắc, mang đậm hương vị mùa thu miền quê Việt Nam. Những câu thơ chậm rãi, suy tư, có chút lạ lùng và khó hiểu, mang đến cảm nhận mới về mùa thu trong tâm hồn thi sĩ. Qua những câu thơ bộc bạch, ta thấu hiểu hơn nỗi lòng của tác giả, nỗi hổ thẹn cũng là niềm yêu nước, thương dân ẩn sâu trong tâm hồn Nguyễn Khuyến.

Phân tích bài thơ Thu vịnh - mẫu 13

Nguyễn Khuyến là một nhà thơ nổi tiếng với những bức tranh sinh động về cảnh làng quê Việt Nam, nơi ông đã vẽ nên những hình ảnh lãng mạn và trữ tình qua ngòi bút của mình.

Ngòi bút của ông thường xuyên kết hợp giữa tả cảnh và bộc lộ tâm trạng, khiến cho nhiều tác phẩm của ông được đón nhận nồng nhiệt. Đặc biệt là bộ ba bài thơ mùa thu, gồm Thu điếu, Thu vịnh, và Thu ẩm, đã để lại ấn tượng sâu sắc với những hình ảnh đặc trưng của mùa thu. Trong bài thơ 'Thu vịnh', Nguyễn Khuyến đã thể hiện nỗi niềm u uất và sự xót xa trước cảnh vật, đồng thời bày tỏ một lòng yêu nước chân thành.

Trời thu xanh thẳm cao vút,

Cần trúc lay động trong gió hiu hắt.

Khung cảnh trời thu trong 'Thu vịnh' được mở ra với một bầu trời cao vời vợi và sắc xanh sâu thẳm, cùng với cái lạnh se sắt của mùa thu. Bầu trời rộng lớn với màu xanh 'xanh thẳm' và 'mấy tầng cao' làm nổi bật hình ảnh cần trúc nhẹ nhàng rung rinh trước gió thu, gợi cảm giác tâm trạng bên trong.

Những câu thơ mở đầu như vậy khiến người đọc cảm nhận được nỗi lòng lo âu. Sự chuyển động nhẹ nhàng của cần trúc càng làm tăng thêm sự tĩnh lặng và sâu thẳm của bầu trời. Hai câu thơ mở đầu tạo nên bức tranh phong cảnh đơn giản mà thanh thoát, hòa hợp với tâm trạng của tác giả. Nhà thơ đã khắc họa một cảnh thu vừa thực, vừa mang hồn thu trong đó.

Nước xanh như phủ lớp sương mỏng

Song thưa để ánh trăng rơi xuống.

Màu nước biếc là đặc trưng của mùa thu khi thời tiết trở nên se lạnh. Vào buổi sáng sớm và chiều tối, mặt ao, hồ phủ một lớp sương mỏng, tạo cảm giác như khói mờ bao phủ. Cảnh sắc ấy qua con mắt thi sĩ trở thành một hình ảnh mùa thu tinh tế.

Lớp sương dày đặc, nhiều lớp và có chiều sâu, như chứa đựng điều gì đó bên trong. Chỉ qua vài nét chấm phá, mùa thu hiện lên với hồn và sự hòa quyện giữa cảnh vật và tâm hồn người đọc. Hình ảnh song thưa và ánh trăng gợi cảm giác gần gũi, làm nổi bật sự hòa hợp giữa thiên nhiên và lòng người.

Hoa năm ngoái trước hàng rào,

Tiếng ngỗng trên trời, có phải ngỗng nước?

Cảnh vật ở bốn câu thơ đầu được miêu tả với cảm xúc chân thực, nghệ thuật đảo ngữ làm nổi bật hình ảnh “mấy chùm” hoa và “một tiếng” ngỗng. “Hoa năm ngoái” mang ý nghĩa hoa vẫn như năm ngoái, trong khi nước lại trở thành “nước nào”.

Tiếng ngỗng trên không dùng để diễn tả cái tĩnh lặng, tạo cảm giác băn khoăn, tự hỏi: ngỗng nước nào? Dù âm thanh ấy quen thuộc mỗi mùa thu, nhưng hai câu thơ này thể hiện nỗi u uất và xót xa trước cảnh vật, một cảm xúc lẫn lộn giữa thiên nhiên và lòng người. Cuối bài thơ, cảm hứng và nỗi thẹn của nhà thơ được thể hiện rõ nét.

Đang hứng viết thơ, bỗng dừng lại,

Suy nghĩ lại thẹn với Đào Tiềm.

“Nhân hứng” ở đây là cảm xúc khi nhìn cảnh thu, “toan cất bút” tức là dự định viết nhưng lại cảm thấy thiếu tự tin trước vẻ đẹp của mùa thu. Nguyễn Khuyến cảm thấy thẹn vì không thể diễn tả hết vẻ đẹp của mùa thu như Đào Tiềm. Bài thơ đi từ cảnh đến tình, từ tình đến con người, kết thúc với một chút lặng lẽ nhưng sâu lắng, chứa đựng nhiều suy tư.

Phân tích bài thơ Thu vịnh - mẫu 14

Khi nhắc đến thơ tình, không thể không nhắc đến Xuân Diệu; khi nói về thơ ca cách mạng, Tố Hữu là cái tên không thể thiếu; còn đối với thơ mùa thu, Nguyễn Khuyến chính là lựa chọn không thể bỏ qua! Ông để lại một tập thơ mùa thu nổi tiếng với ba bài: Thu vịnh, Thu điếu, và Thu ẩm.

Cả ba bài thơ trong bộ sưu tập thu này đều được đặt trong bối cảnh làng quê của tác giả. Đó là vùng đồng chiêm trũng Bình Lục, nơi chỉ có thể cấy một mùa trong năm, phần còn lại là ngập nước. Làng quê Bình Lục giản dị như nhiều làng quê khác, với vô số ao chuôm và những bờ tre quanh co bao bọc các mái tranh nghèo khó.

Trong khi bức tranh mùa thu trong Thu điếu được cảm nhận từ gần đến xa, thì Thu vịnh lại mở ra từ cao xuống thấp. Bài thơ bắt đầu với hình ảnh bầu trời rộng lớn, xanh trong đặc trưng của mùa thu nơi thôn dã:

Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao,

Cần trúc lơ phơ gió thổi hiu hiu

“Xanh ngắt” ám chỉ sắc xanh thăm thẳm, dường như bầu trời thu trong thơ Nguyễn Khuyến luôn mang màu “xanh ngắt” ấy. Ví dụ, trong Thu ẩm, ông viết:

Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt

Hoặc trong Thu điếu:

Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt

Sắc xanh ngắt mở ra một không gian rộng lớn và cao cả. Khi kết hợp với “mấy tầng cao”, không gian trở nên bao la hơn, dường như có nhiều lớp và tầng. Trên nền bầu trời rộng lớn, hình ảnh cần trúc nổi bật lên với sự thanh thoát. Không phải là “khóm trúc” mà là “cần trúc”, cây trúc non cong cong như chiếc cần câu, nhẹ nhàng đung đưa trước gió thu “hắt hiu”. Gió hắt hiu là gió nhẹ nhàng, không vội vã nhưng cũng không lưu luyến, tạo cảm giác hững hờ, thể hiện chút tâm trạng bên trong.

Tất cả dường như hòa quyện trong một cảm xúc thầm lặng, sâu kín và tinh tế. Trong nền “xanh ngắt”, sự lay động nhẹ của cần trúc càng làm tăng thêm sự tĩnh lặng và sâu thẳm của bầu trời. Bầu trời như dồn hết sự lắng đọng vào cần trúc, tạo ra sự đồng điệu giữa động và tĩnh trong cảnh thu, phản ánh tài năng của Nguyễn Khuyến trong việc dùng động để tả tĩnh. Qua hai câu đề, nhà thơ đã phác thảo phong cảnh đơn sơ nhưng hòa hợp với tâm hồn của mình. Mọi chi tiết, sắc màu và chuyển động đều hài hòa. Nhà thơ chỉ mới mô tả bầu trời thu nhưng đã lột tả được hồn thu trong đó!

Nước biếc như lớp khói phủ

Song thưa để ánh trăng chiếu qua

Hai câu luận tiếp tục làm rõ cảnh thu. Nước biếc là màu nước đặc trưng của mùa thu khi không khí bắt đầu se lạnh. “Biếc” ở đây chỉ sắc xanh của nước, vừa xanh vừa trong, gợi sự tĩnh lặng và sáng lấp lánh. Vào sáng sớm và chiều tối, mặt ao hoặc hồ có lớp sương mỏng giống như khói phủ. Cảnh nước mờ sương qua mắt thi sĩ trở thành một bức tranh thu ngâm vịnh. “Tầng khói phủ” gợi hình ảnh rõ ràng và cảm giác hơn là “làn khói phủ”. Tầng khói phủ dày hơn và nhiều lớp, tạo nên sự mông lung và huyền ảo. Cách so sánh này rất độc đáo và thơ mộng!

 

Từ bầu trời nhìn xuống mặt nước và từ mặt nước ngước lên bầu trời, cảnh thu càng thêm thơ mộng khi được phủ lên lớp ánh trăng bạc. Hình ảnh song thưa gợi sự thanh thoát, cởi mở. Ánh trăng qua song thưa trở nên mênh mông và lặng lẽ hơn. Nếu câu trước tạo ra chiều cao và độ sâu, câu này mở ra bề rộng mặc dù bị giới hạn bởi song thưa. Cảnh vật thể hiện tâm tư con người và tâm tư con người thể hiện qua cách nhìn cảnh vật. Cảnh vật qua đôi mắt và trái tim thi sĩ tạo nên một niềm xót xa, sâu lắng và như nẫu ruột. Chiều sâu của tâm hồn thi sĩ lắng đọng vào câu thơ.

Đến hai câu thực, tác giả viết:

Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái

Một tiếng trên không, ngỗng nước nào

Sau khi nhìn mặt nước khói phủ và ánh trăng qua song thưa, nhà thơ nhìn ra bờ giậu thấy mấy chùm hoa nở. Điều lạ là ông cảm thấy đó là hoa của năm ngoái. Nếu trong bốn câu đầu, cảnh vật được miêu tả một cách khách quan, thì ở đây cảm xúc chủ quan đã tác động lên cảnh vật. Dù thấy hoa nở trước mắt, nhà thơ lại cảm thấy đó là hoa của năm ngoái. Có phải con người đang lùi về quá khứ hay quá khứ đang tìm về hiện tại?

Hai câu thơ này có nhịp điệu 4/1/2. Từ “Mấy chùm trước giậu đến hoa năm ngoái” gợi sự suy tư và cảm giác lạ lùng về hoa năm ngoái. Cảm giác ấy khiến nhà thơ nghe tiếng ngỗng trên không và tự hỏi: ngỗng nước nào?

Trong bốn câu đầu, cảnh vật hài hòa và giao cảm với nhau, còn ở đây, con người hòa hợp với cảnh vật trong nỗi u uất. Cảnh vật thể hiện tâm tư con người và ngược lại. Cảnh vật được miêu tả qua đôi mắt và trái tim thi sĩ. Mùa thu đến, nhà thơ nhìn hoa trước sân, nghe tiếng chim và cảm nhận nỗi xót xa, sâu lắng. Chiều sâu của tâm hồn thi sĩ phản ánh trong câu thơ. Đây là sự tương ứng với câu:

Cảnh nào cảnh chẳng đeo tình

Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ

Đứng trước cảnh thu, cảm hứng của thi sĩ dạt dào. Ông muốn viết nhưng lại ngập ngừng:

Nhân hứng cũng vừa toan cất bút,

Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào

Nhà thơ thẹn với ông Đào vì điều gì? Là do tài thơ kém hay vì chưa đạt được phẩm cách trong sáng như Đào Tiềm? Câu hỏi còn bỏ ngỏ. Một chữ “thẹn” làm nhịp thơ chùng xuống và thể hiện sự kính trọng của nhà thơ với thi sĩ Đào Tiềm, người không màng danh lợi. Lời thơ trong câu kết càng làm tăng thêm chất suy tư của bài thơ.

Không thể phủ nhận Thu vịnh là một trong những tác phẩm xuất sắc viết về mùa thu và làng cảnh trong văn học Việt Nam. Bài thơ không chỉ vẽ nên bức tranh mùa thu giản dị, đẹp đẽ mà còn thể hiện tâm hồn trong sáng, mộc mạc của thi sĩ, hòa quyện với cảnh sắc thu quê.

Phân tích bài thơ Thu vịnh - mẫu 15

Khi nhắc đến Nguyễn Khuyến, người ta không thể không nghĩ đến những tác phẩm của ông về mùa thu. Trong số đó, nhiều bài thơ được viết bằng chữ Hán và chữ Nôm. Bài thơ “Thu vịnh” là một trong ba bài thơ Nôm nổi bật: Thu điếu, Thu ẩm và Thu vịnh. Chính chùm thơ này đã giúp Nguyễn Khuyến trở thành một trong những nhà thơ hàng đầu viết về mùa thu. Những câu thơ nhẹ nhàng dễ đi vào lòng người, khiến bài thơ Thu Vịnh trở thành một trong những tác phẩm tiêu biểu về mùa thu Việt Nam.

Những cảnh vật quen thuộc hiện lên, vùng đồng chiêm trũng Bình Lục, ngập nước với ao hồ và bờ tre bao quanh - một biểu tượng quen thuộc của làng quê Việt Nam. Bài thơ mở đầu với hình ảnh này:

Trời thu xanh thẳm mấy tầng cao,

Cần trúc nhẹ nhàng gió thổi hiu hiu.

Bầu trời mùa thu có màu xanh thẳm, trông như có nhiều lớp tầng cao. Trên nền trời bao la, hình ảnh cần trúc đong đưa nhẹ nhàng trước gió thu. Gió mùa thu nhẹ nhàng, không ồn ào như mùa hè, cũng không ảm đạm như mùa đông, mà mang đến cảm giác yên bình. Cần trúc lay động nhẹ nhàng làm nổi bật vẻ tĩnh lặng của bầu trời, tạo nên sự hòa quyện giữa động và tĩnh.

Không chỉ dừng lại ở hai câu đề, bài thơ tiếp tục miêu tả cảnh vật như một chốn bồng lai, với bóng trăng lấp ló:

Nước xanh biếc như lớp khói phủ,

Song thưa để trăng vào tự do.

Màu nước xanh biếc đặc trưng vào mùa thu, khi không khí se lạnh, có sương mỏng vờn trên mặt nước. Sự kết hợp giữa lớp sương và màu nước tạo ra một vẻ huyền ảo. Bóng trăng qua song thưa tạo cảm giác mênh mông, lặng lẽ, mở ra không gian rộng lớn và tĩnh lặng. Tâm trạng của nhà thơ thể hiện qua khung cảnh thu được vẽ bằng ngôn từ tinh tế.

Cảnh thu tiếp tục được miêu tả qua hình ảnh hoa trước giậu và âm thanh ngỗng:

Mấy chùm hoa trước giậu năm ngoái,

Một tiếng ngỗng trên không, lạc loài?

Nhà thơ nhìn ra bờ giậu, thấy hoa năm ngoái. Điều này tạo nên sự mơ hồ và cảm xúc chủ quan trong cách nhìn của nhà thơ. Câu hỏi tu từ thể hiện sự băn khoăn của tác giả về quá khứ và hiện tại, đồng thời phản ánh tâm trạng u uất của tác giả trước hoàn cảnh đất nước.

Cảnh thu với trời cao, nước xanh biếc và âm thanh quen thuộc hòa quyện với nỗi niềm u uất của tác giả. Dù nhà thơ có cảm hứng viết thơ, nhưng sự tự ti trước tài năng của ông Đào đã khiến ông quyết định không viết nữa:

Cảm hứng dâng trào, định cất bút,

Nghĩ lại thấy thẹn với ông Đào.

Nhà thơ cảm thấy thẹn vì sự so sánh với ông Đào, có thể do tài năng thơ của mình chưa đạt yêu cầu. Sử dụng điển tích trong thơ làm tăng thêm chiều sâu của tác phẩm, thể hiện tình yêu quê hương đất nước và sự xót xa trước tình trạng đất nước.

“Thu vịnh” là bài thơ thể hiện tình yêu thiên nhiên và quê hương của Nguyễn Khuyến qua những hình ảnh quen thuộc và tinh tế, dù chỉ với tám câu thơ, nhưng lại vẽ nên một bức tranh mùa thu đầy màu sắc và cảm xúc.

Phân tích bài thơ Thu vịnh - mẫu 16

Thiên nhiên mùa thu tại quê hương Việt Nam, qua nét bút tài hoa của Nguyễn Khuyến, hiện lên với vẻ đẹp thanh tao, gợi cảm và chân thành, làm cho chúng ta thêm yêu quý quê hương đất nước của mình. Nguyễn Khuyến nổi tiếng với bộ ba bài thơ về mùa thu: Thu vịnh, Thu điếu, và Thu ẩm. Ông viết theo kiểu “chùm ba” giống Đỗ Phủ – một thi hào Trung Quốc nổi tiếng với “Tam biệt” và “Tam lại”. Theo Xuân Diệu, trong ba bài thơ mùa thu của Nguyễn Khuyến, bài Thu vịnh thể hiện rõ nhất vẻ đẹp của mùa thu với sự thanh khiết, trong sáng và cao quý. Thu vịnh phản ánh tinh thần của mùa thu miền Bắc và tâm sự u uẩn của thi nhân:

Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao.

Cần trúc lơ phơ gió hiu hiu.

Nước biếc trông như lớp khói phủ,

Song thưa để mặc bóng trăng vào.

Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái,

Một tiếng trên không ngỗng nước nào?

Nhân hứng cũng vừa toan cất bút,

Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào.

Bức tranh mùa thu được tác giả phác họa với không gian rộng lớn. Trời thu tạo nên một nét nhẹ nhàng, mềm mại của cảnh trúc:

Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao,

Cần trúc lơ phơ gió hiu hiu.

Mùa thu miền Bắc với bầu trời cao và trong xanh đã được thể hiện trong thơ Nguyễn Khuyến qua hình ảnh “trời thu xanh ngắt”. Màu sắc này không chỉ miêu tả trời thu mà còn thể hiện tình cảm chân thành của thi nhân với mùa thu và quê hương. Không gian mở ra với “mấy tầng cao”, một cần trúc vươn lên trên nền trời thu “xanh ngắt”.

Đường cong mềm mại của “cần trúc” vươn lên một cách thanh cao, không buồn tẻ như liễu rủ trong thơ mùa thu của Xuân Diệu. Từ láy “lơ phơ” gợi tả sự thưa thớt của những lá trúc lay động bởi gió heo may. Từ láy “hiu hiu” gợi cảm giác rung động của cành trúc, hay sự cảm nhận của thi nhân trước cảnh thu, trời thu đượm buồn? Bức tranh mùa thu trong Thu vịnh thêm phần sắc nét và sinh động:

Nước biếc trông như lớp khói phủ

Song thưa để mặc bóng trăng vào

Hình ảnh mùa thu được làm phong phú thêm với màu “nước biếc”, tạo ra sắc xanh thêm phần tha thiết, màu của áo thu trong xanh, hòa với “khói phủ” mờ ảo. “Khói” gợi nhớ đến “khói sóng” trong thơ Thôi Hiệu “Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai”. Cảnh đêm thu thật huyền bí. Thi nhân đón nhận ánh trăng “Song thưa để mặc bóng trăng vào”. Trong đêm thu thanh tĩnh, ánh trăng là bạn tri kỷ của thi nhân. Ánh trăng thu làm cho bức tranh mùa thu thêm sáng, mọi vật trong đêm thu được ánh trăng huyền ảo, mộng mơ. Cảnh thu trở nên huyền bí hơn, từ màu hoa đến tiếng chim:

Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái

Một tiếng trên không ngỗng nước nào?

Hoa mùa thu không thay đổi, không sắc màu vì khói phủ mờ ảo hay thi nhân không còn nhận diện được thời gian? “Mấy chùm trước giậu” không rõ là hoa gì, màu sắc ra sao, chỉ biết đó là “hoa năm ngoái”. Hình ảnh “hoa năm ngoái” thể hiện thời gian ngừng lại, tâm trạng của thi nhân vẫn không thay đổi. Câu thơ gợi nỗi buồn man mác. Âm thanh mùa thu là tiếng ngỗng trời xa lạ “ngỗng nước nào?” Tiếng ngỗng trời làm lạnh cả không gian mùa thu, khiến thi nhân cảm thấy xúc động. Đêm thu huyền diệu đã gợi cảm hứng cho thi nhân. Thi hứng cũng đến trong nỗi niềm u uẩn của thi nhân:

Nhân hứng cũng vừa toan cất bút.

Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào.

Trước cảnh thu huyền bí, thi nhân bộc lộ trực tiếp nỗi lòng của mình. Theo Nguyễn Khuyến và các nhà thơ chân chính, thơ gắn liền với nhân cách, nhân cách lớn thì thơ lớn. Rung động trước mùa thu, định làm thơ, Nguyễn Khuyến cảm thấy “thẹn với ông Đào”. Ông Đào là Đào Tiềm (Đào Uyên Minh), một nhà thơ nổi tiếng ở Trung Quốc thời Lục Triều. Ông đỗ tiến sĩ, ra làm quan, rồi chán ghét cảnh quan trường thối nát đã từ quan về ẩn dật và có bài Qui khứ lai từ rất nổi tiếng. Sao Nguyễn Khuyến lại “thẹn” với ông Đào?

Thái độ này chưa từng thấy ở các thi nhân cổ kim. Về khoa bảng, ông Đào đỗ tiến sĩ, Nguyễn Khuyến cũng đỗ tiến sĩ và còn có Tam Nguyên, người đời gọi là Tam Nguyên Yên Đổ. Về tài học, thơ của Nguyễn Khuyến không thua kém thơ Đào Uyên Minh. Nguyễn Khuyến là một trong những nhà thơ cổ điển lớn nhất của Việt Nam được Xuân Diệu ca ngợi là “Nhà thơ của quê hương làng cảnh Việt Nam”. Có lẽ Nguyễn Khuyến “thẹn với ông Đào” vì khí tiết. Nguyễn Khuyến thiếu dũng khí của ông Đào, người đã từ quan dứt khoát và trở thành một nhân vật lừng danh về khí tiết trong giới quan trường Trung Hoa. Còn Nguyễn Khuyến thì lúng túng khi ra làm quan (thời đó làm quan không tránh khỏi tay sai của giặc Pháp) và không rõ sự đồng cảm của người đời.

Đã về ẩn dật, Nguyễn Khuyến vẫn chưa nguôi ân hận về những năm tham gia guồng máy chính quyền thối nát tàn bạo thời bấy giờ. Câu thơ thể hiện lòng chân thành và nỗi niềm u uẩn của một nhân cách lớn, của một nhà thơ lớn. Thu vịnh là một bài thơ hay viết về mùa thu của Nguyễn Khuyến. Bức tranh thu với màu sắc thanh đạm, đường nét uyển chuyển, không gian rộng lớn, cảnh vật huyền bí dưới ánh trăng trong sáng thể hiện lòng yêu mến của thi nhân đối với quê hương đất nước.

Thiên nhiên mùa thu ở làng quê Việt Nam, qua ngòi bút tài hoa của Nguyễn Khuyến, hiện lên với vẻ đẹp thanh cao, gợi cảm và chân thành, khiến chúng ta thêm yêu và trân trọng quê hương đất nước của mình.

Phân tích bài thơ Thu vịnh - mẫu 17

Mùa thu từ xưa luôn là nguồn cảm hứng phong phú trong thi ca và nghệ thuật, bởi vẻ đẹp của mùa thu vừa tinh tế vừa mơ mộng, có khi buồn man mác, có khi lại gợi lên những cảm xúc sâu lắng trong lòng người. Nguyễn Khuyến không phải là ngoại lệ với bộ ba bài thơ nổi tiếng về mùa thu: Thu điếu, Thu vịnh và Thu ẩm, thể hiện ba niềm vui của mùa thu. Trong số đó, bài thơ Thu vịnh nổi bật với những nét thi vị đặc trưng về vẻ đẹp mùa thu nơi làng quê đơn sơ và mộc mạc.

Thu vịnh có nghĩa là ngâm vịnh mùa thu, dù có ý kiến cho rằng tác giả chỉ trầm ngâm ngắm mùa thu rồi viết thơ, nhưng đây chưa hẳn là chính xác. Bài thơ gồm những câu thơ bay bổng, thoạt nghe có vẻ chỉ là mô tả mùa thu, nhưng nếu đọc kỹ, ta sẽ nhận thấy nó chứa đựng nhiều tâm sự của một người yêu nước, thương dân. Bài thơ mở ra cảnh sắc mùa thu với hai câu thơ:

“Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao.

Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu.”

Cảnh mùa thu hiện lên trong trẻo, rộng lớn với bầu trời xanh ngắt, cao vời vợi. Thi nhân thêm vào hình ảnh cần trúc mềm mại, uyển chuyển trong gió lạnh “hắt hiu”. “Trời thu xanh ngắt” phản ánh tình cảm sâu đậm của nhà thơ dành cho mùa thu xứ Bắc, với cần trúc vẫn giữ được nét mềm mại mà không yếu đuối như liễu. Giọng thơ nhẹ nhàng, vương chút buồn nơi hai chữ “hắt hiu”, có lẽ thi nhân đang có điều gì trăn trở?

“Nước biếc trông như tảng khói phủ

Song thưa để mặc bóng trăng vào”

Trên trời xanh và dưới nước biếc đều mang màu xanh trong trẻo, tạo nên một phong cảnh đẹp đẽ. Đôi khi người đọc không hiểu rõ nghệ thuật “đảo trang” trong thơ ca, dẫn đến hiểu lầm về câu thơ. Ý thơ là làn sương tựa như khói phủ trên mặt nước biếc. Chữ “biếc” có thể không phải chỉ màu nước, mà là hình ảnh được thi nhân tưởng tượng để tạo sự bay bổng. Tương tự, chữ “thưa” được đưa vào để tạo sự hòa hợp âm vận.

Ta nhận thấy cảnh mùa thu trong bài thơ được chia thành hai khoảng thời gian, ban ngày với trời xanh và nước biếc, ban đêm với ánh trăng dịu dàng len lỏi qua các song cửa. Trăng và mùa thu thường song hành trong thơ ca, và ánh trăng là bạn tri kỷ của thi nhân, làm bạn trong đêm khuya vắng vẻ, tạo thêm sự lãng mạn và thanh tao cho mùa thu trong thơ của Nguyễn Khuyến.

“Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái

Một tiếng trên không ngỗng nước nào?”

Cụm từ “hoa năm ngoái” không chỉ là hoa đã nở từ năm trước mà thể hiện tâm trạng của tác giả đang hoài niệm về quá khứ, mang đến nỗi u hoài trong thơ. Tiếng ngỗng trời làm bừng tỉnh không gian yên ắng, mang đến âm điệu đơn bạc và phá vỡ sự tĩnh lặng của mùa thu. Tâm trạng của nhà thơ bộc lộ rõ hơn qua hai câu thơ cuối:

“Nhân hứng cũng vừa toan cất bút

Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào”

Trong khung cảnh mùa thu đẹp và lãng mạn, thi nhân cảm thấy hứng thú viết thơ nhưng lại chợt nghĩ đến “ông Đào”, tức Đào Tiềm, một nhà thơ nổi tiếng thời Lục Triều. Đào Tiềm từ bỏ quan trường để sống ẩn dật và làm thơ, không màng đến thế sự. Nguyễn Khuyến cảm thấy “thẹn” vì không thể từ bỏ danh lợi như Đào Tiềm, dù về học thức không kém. Câu thơ cuối phản ánh tấm lòng chân thành và nhân cách cao quý của Nguyễn Khuyến, sẵn sàng thừa nhận và tự vấn lỗi lầm của mình.

Thu vịnh là một bài thơ đặc sắc, thể hiện rõ nét mùa thu miền quê Việt Nam qua nhịp điệu chậm rãi, suy tư, mang đến cảm nhận sâu sắc về mùa thu và tâm trạng của tác giả.

Phân tích bài thơ Thu vịnh - mẫu 18

Nguyễn Khuyến, một trong những nhà thơ nổi bật của làng cảnh Việt Nam, đã để lại dấu ấn sâu đậm với những bài thơ về thiên nhiên và làng quê Bắc Bộ. Những tác phẩm của ông không chỉ mô tả vẻ đẹp của đêm trăng, ngôi chùa cổ, con sông uốn lượn, mà còn ghi lại cảm xúc chân thành về mùa thu, một mùa mà ông miêu tả bằng nét bút tinh tế và lòng yêu mến sâu sắc. Xuân Diệu đã nhận xét rằng thơ nôm của Nguyễn Khuyến, đặc biệt là ba bài thơ mùa thu như 'Thu điếu', 'Thu ẩm', và 'Thu vịnh', nổi bật nhất trong văn học Việt Nam.

Ba bài thơ này không chỉ phản ánh hình ảnh mùa thu ở làng quê Việt Nam mà còn bộc lộ tâm tư của một thi nhân yêu quê hương. 'Thu vịnh' miêu tả mùa thu một cách toàn diện, trong khi 'Thu điếu' và 'Thu ẩm' tập trung vào những hoạt động cụ thể như câu cá và uống rượu. Xuân Diệu đánh giá 'Thu vịnh' mang đến cái hồn của cảnh thu với sự thanh thoát và tinh tế nhất.

Nguyễn Khuyến đã khắc họa vẻ đẹp của mùa thu qua bầu trời cao và trong sáng, tạo cảm giác vô cùng thoáng đãng. Cảnh sắc mùa thu được hiện lên qua hình ảnh cần trúc nhẹ nhàng và mặt nước như lớp khói mỏng. Dù có vẻ như nhà thơ miêu tả nhiều thời điểm khác nhau trong một bài thơ, nhưng điều quan trọng là cảm nhận sâu sắc của ông về thiên nhiên và thời gian. Hình ảnh 'Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái' phản ánh sự bất biến của thiên nhiên và sự thay đổi của thời gian. Câu hỏi 'Một tiếng trên không ngỗng nước nào?' gợi lên sự cô đơn và nỗi lo lắng về tình hình đất nước

Nguyễn Khuyến, mặc dù đã về quê sống thanh thản, vẫn không thể quên nỗi đau về tình cảnh đất nước. Trong khi thi ca phản ánh sự đau khổ và trăn trở của ông, Nguyễn Khuyến luôn nhìn lên Đào Tiềm như một hình mẫu về nhân cách và khí tiết. Ông cảm thấy chưa đạt được sự thanh cao của Đào Tiềm và lưu lại nỗi niềm ấy trong tâm trí suốt đời. Trong Di chúc, ông ghi lại sự ân hận về nợ nước và quyết tâm giữ mình trong sạch, không bị ảnh hưởng bởi sự bon chen của triều đình.

Phân tích bài thơ Thu vịnh - mẫu 19

Bài thơ Thu vịnh của Nguyễn Khuyến, còn gọi là Vịnh mùa thu, được đông đảo độc giả yêu thích. Đây là một trong ba bài thơ nổi bật trong bộ sưu tập Thu vịnh, thu điếu, thu ẩm. Mỗi bài thơ là một bức tranh mùa thu thủy mặc được thể hiện qua ngôn từ, phản ánh cảnh sắc mùa thu đồng bằng Bắc Bộ với những hình ảnh đặc trưng. Hãy cùng khám phá bài thơ Thu vịnh để cảm nhận sự tinh tế và đặc sắc của nó!

Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao,

Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu.

Nước biếc như tầng khói phủ,

Song thưa để bóng trăng vào.

Mấy chùm hoa trước giậu năm ngoái,

Nghe tiếng ngỗng trên không, nước nào?

Nhân hứng cũng vừa định cất bút,

Nhưng lại thấy thẹn với ông Đào.

Bài thơ Thu vịnh được Xuân Diệu khen ngợi là tác phẩm hay nhất trong ba bài thơ về mùa thu của Nguyễn Khuyến. Bởi nó thể hiện rõ cái hồn của mùa thu, cái thanh thoát và sự tinh tế của nhà thơ. Tác phẩm khắc họa mùa thu Bắc Bộ với bầu trời cao xanh, không gian mở rộng hơn với các tầng cao và nét cong của cần trúc tạo nên một không gian tuyệt đẹp. Mùa thu được thể hiện qua màu sắc và sự rung động của cảnh vật.

Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao,

Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu.

Nước biếc như tầng khói phủ,

Song thưa để bóng trăng vào.

Bức tranh thêm phần sinh động với màu nước biếc, gợi lên mùa thu trong xanh. Từ láy 'hắt hiu' diễn tả sự rung động của cành trúc, phản ánh tâm trạng của nhà thơ trước cảnh thu. Hình ảnh con người hòa quyện vào bức tranh làm tăng phần huyền bí và mơ mộng của mùa thu, với trăng làm bạn tri kỷ, làm sáng bức tranh và thêm phần lôi cuốn.

Hình ảnh thơ của Nguyễn Khuyến rất đặc trưng với sự ngưng đọng của 'hoa năm ngoái', thể hiện tâm trạng của thi nhân. Nỗi buồn lạc lõng được thể hiện qua câu hỏi 'ngỗng nước nào', chạm đến nỗi lòng của nhà thơ. Đêm thu tuyệt vời tạo cảm hứng và phản ánh nỗi niềm u uẩn của thi nhân. Nhà thơ bộc lộ nỗi lòng trước khung cảnh thu tuyệt đẹp.

Mấy chùm hoa trước giậu năm ngoái,

Nghe tiếng ngỗng trên không, nước nào?

Nhân hứng cũng vừa định cất bút,

Nhưng lại thấy thẹn với ông Đào.

Đây là một minh chứng cho nhân cách cao cả của nhà thơ. Ông Đào (Đào Tiềm), nhà thơ nổi tiếng của Trung Quốc, được nhắc đến như một đối tượng để Nguyễn Khuyến cảm thấy thẹn. Mặc dù Nguyễn Khuyến, với học vấn Tam nguyên Yên Đỗ, không hề kém cạnh, nhưng ông vẫn cảm thấy thẹn với Đào Tiềm vì sự khí tiết và danh tiếng của ông Đào trong xã hội Trung Quốc thời bấy giờ. Nguyễn Khuyến vẫn cảm thấy chưa bằng Đào Tiềm về khí tiết, thể hiện một lòng chân thành và nỗi niềm u uẩn của một nhân cách lớn.

Phân tích bài thơ Thu vịnh - mẫu 20

Nguyễn Khuyến được vinh danh là 'Nhà thơ của làng cảnh Việt Nam' nhờ kho tàng văn học phong phú. Bộ ba bài thơ thu: 'Thu điếu', 'Thu ẩm', 'Thu vịnh' đã đưa ông lên hàng đầu trong số các thi sĩ viết về quê hương. Trong bộ ba đó, 'Thu vịnh' nổi bật nhất với phong cách nghệ thuật đặc trưng của ông.

Bài thơ mở đầu bằng hình ảnh bầu trời thu trong xanh với những cành trúc mảnh mai trong gió:

'Trời thu xanh ngắt mấy từng cao

Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu'

Bầu trời thu được mô tả với màu xanh thăm thẳm 'xanh ngắt', như câu thơ trong 'Thu ẩm': 'Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt?'. Nó trong veo và cao vút, như nhiều lớp tầng chồng lên nhau. Trong nền trời ấy, tác giả thêm vào những cành trúc thanh mảnh, mềm mại, lay động trong gió. Bút pháp 'lơ phơ' gợi sự thưa thớt của lá trúc rung rinh trước gió, tạo cảm giác cô tịch và mênh mang, khiến ta liên tưởng đến câu thơ 'Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo'.

Hai câu thực tiếp theo mô tả làn nước thu và ánh trăng:

'Nước biếc trông như tầng khói phủ

Song thưa để mặc bóng trăng vào'

Nước biếc mùa thu có màu xanh đặc trưng, khi trời se lạnh, trong trẻo như gương phản chiếu bầu trời. Sáng sớm, lớp sương mỏng trên mặt nước dày thêm, tạo cảm giác như tầng khói phủ. Trong đêm lạnh, vầng trăng xuất hiện, chiếu sáng không gian, làm tâm hồn tác giả rộng mở và lãng mạn. Trăng là bạn tri âm trong những đêm cô đơn, làm cho cảnh thêm huyền ảo. Hình ảnh hoa và tiếng chim cũng góp mặt:

'Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái

Một tiếng trên không ngỗng nước nào?'

Nhà thơ nhìn ra bờ giậu, thấy hoa thu nở nhưng cảm giác như hoa của năm trước, có lẽ vì nỗi u hoài làm cho thời gian như ngưng đọng. Điều này gợi nhớ đến câu thơ 'Khóm cúc tuôn thêm dòng lệ cũ'. Cảm xúc của tác giả khiến ông nghe tiếng ngỗng từ trên trời và tự hỏi: 'Ngỗng nước nào?'. Câu hỏi thể hiện nỗi đau đáu và sự băn khoăn của ông về cảnh mất nước.

Hai câu kết thể hiện nỗi lòng thầm kín của tác giả:

'Nhân hứng cũng vừa toan cất bút

Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào'

Cảnh thu đẹp đã khơi dậy thi hứng trong ông, nhưng ông vẫn cảm thấy thẹn với ông Đào vì cảm giác tài văn chương kém hơn hoặc thiếu nhân cách trong sáng của Đào Tiềm, người đã từ quan để về sống thanh thản với ba luống cúc. Nỗi u sầu thời thế làm cho bức tranh thu quê hương Việt Nam thêm gợi cảm và xao xuyến lòng người.

Tóm lại, với thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật, chữ Nôm và các nghệ thuật so sánh, nhân hóa, câu hỏi tu từ, từ láy, tác giả đã tạo nên một bức tranh thu quê hương vừa đẹp vừa trữ tình, nhưng cũng đầy nỗi buồn và tình yêu thiên nhiên, đất nước.

Đánh giá

0

0 đánh giá