Tailieumoi.vn xin giới thiệu đến các quý thầy cô, các em học sinh lớp 4 bài văn mẫu Kể lại một câu chuyện đã học hoặc đã nghe hay nhất, giúp các em học sinh làm tập làm văn hay hơn.
Viết bài văn kể lại một câu chuyện đã học hoặc đã nghe
Đề bài: Viết bài văn kể lại một câu chuyện đã đọc hoặc đã nghe.
Dàn ý Viết bài văn kể về một câu chuyện đã đọc đã nghe lớp 4
1. Mở bài:
- Giới thiệu câu chuyện theo cách mở bài trực tiếp hoặc gián tiếp.
2. Thân bài:
- Kể câu chuyện theo trình tự các sự việc, chú ý kể đủ các nhân vật, tình huống chính,… của câu chuyện.
3. Kết bài:
- Nêu suy nghĩ, cảm xúc,… và những liên tưởng, suy luận của em về câu chuyện (theo cách kết bài mở rộng) hoặc chỉ nêu suy nghĩ, cảm xúc của em về câu chuyện (theo cách kết bài không mở rộng).
Kể lại một câu chuyện đã học hoặc đã nghe - mẫu 1
Từ bé em đã được mẹ kể cho em nhiều câu chuyện cổ tích. Nhưng đến bây giờ em vẫn thích truyện “Bông hoa cúc trắng” dù em đã đọc qua nhiều lần. Em rất thích nhân vật người con.
Bạn nhỏ có một thân hình thon gọn và dáng cao. Khuôn mặt của bạn nhỏ biểu lộ sự hiền lành. Bạn nhỏ có mái tóc dài và rất suôn mượt, hàm răng của bạn nhỏ trắng như sứ. Bạn nhỏ có một đôi mắt trắng tinh. Bạn sống cùng mẹ trong một túp lều tranh dột nát và đó là một bé gái vô cùng hiếu thảo. Thật không may, mẹ của cô bé lại bị bệnh rất nặng nhưng vì nhà nghèo nên không có tiền mua thuốc chữa khiến cô bé buồn lắm. Một lần cô bé đang ngồi khóc bên đường thì bỗng có một ông lão đi qua thấy lạ bèn dừng lại hỏi. Khi đã rõ sự tình ông nói với cô bé:
Cháu hãy vào rừng và đến bên gốc cây cổ thụ to nhất, hái lấy một bông hoa duy nhất trên đó. Bông hoa ấy có bao nhiêu cánh thì tức là mẹ cháu sống được bằng đấy ngày.
Cô bé liền vào rừng và rất lâu sau mới tìm thấy bông hoa trắng đó, phải khó khăn lắm cô bé mới trèo lên được để lấy bông hoa nhưng khi đếm chỉ có một cánh, hai cánh, ba cánh bốn cánh. “Chỉ có bốn cánh hoa là sao chứ? Chẳng nhẽ mẹ cô chỉ sống được bằng đấy ngày thôi sao?”, cô bé tự hỏi.
Không đành lòng cô bé liền dùng tay xé nhẹ dần từng cánh hoa lớn thành những cánh hoa nhỏ và bông hoa cũng theo đó mà nhiều cánh dần lên đến mức không còn đếm được nữa.
Từ đó người đời gọi bông hoa ấy là bông hoa cúc trắng để nói về lòng hiếu thảo của cô bé đó dành cho mẹ mình. Qua câu chuyện, các bạn đã thấy được tình thương của người con đối với mẹ là bao la và rộng lớn thế nào ? Chúng ta sẽ noi gương cao đẹp của bạn nhỏ.
Kể lại một câu chuyện đã học hoặc đã nghe - mẫu 2
Thánh Gióng
Em rất thích truyền thuyết Thánh Gióng. Câu chuyện có nội dung kể về Thánh Gióng - một vị "tứ bất tử" trong tâm linh người Việt Nam. Thánh Gióng là hóa thân cho vẻ đẹp kì vĩ, là người anh hùng có sức mạnh phi thường, xuất hiện và đánh tan giặc ngoại xâm, bảo vệ bình yên cho nhân dân, quê hương, bờ cõi. Câu chuyện ly kì về Thánh Gióng như sau:
Dưới thời Hùng Vương thứ sáu, ở làng Gióng có hai vợ chồng ông lão hiền lành mà chưa có con. Một hôm, bà lão ra đồng ướm thử bàn chân mình lên những vết chân lạ, về nhà mang thai đến mười hai tháng mới sinh hạ một đứa con trai khôi ngô. Nuôi đến ba tuổi, đứa bé vẫn nằm một chỗ, chưa biết đi đứng, cười nói.
Gặp lúc giặc Ân quấy nhiễu, vua sai sứ giả đi rao khắp nơi tìm bậc hiền tài ra đánh giặc cứu dân. Nghe tin, cậu bé làng Gióng bỗng bật lên tiếng nói nhờ mẹ mời sứ giả vào. Cậu yêu cầu sứ giả xin vua đúc cho ngựa sắt, roi sắt áo giáp sắt để mình dẹp tan giặc dữ. Từ đó, cậu lớn nhanh, ăn mạnh đến nỗi dân làng phải rủ nhau góp cơm gạo đến giúp.Nhận được đủ lễ vua ban, cậu bé vươn vai trở thành một tráng sĩ oai nghi lẫm liệt. Nai nịt xong, chàng lên ngựa, vung roi vun vút. Ngựa phun lửa xông thẳng vào đội hình giặc khiến chúng ngã chết như rạ.
Roi gãy, tráng sĩ nhổ những bụi tre bên đường. Quân giặc thua to, tan vỡ cả, đám sống sót tìm đường lẩn trốn. Tráng sĩ đuổi theo đến chân núi Sóc, cởi áo giáp bỏ lại, cả người lẫn ngựa bay vút lên trời.
Vua Hùng nhớ ơn phong làm Phù Đổng Thiên Vương và cho lập đền thờ tại quê nhà. Từ đó hàng năm vào tháng tư, ở đây hội Gióng được mở ra tưng bừng, nô nức, thu hút người khắp nơi về tham dự.
Kể lại một câu chuyện đã học hoặc đã nghe - mẫu 3
Hôm nay, em xin kể cho cô và các bạn một câu em đã đã đọc trên báo Người lao động nói về một tấm gương đã góp sức mình chống lại đói nghèo lạc hậu. Đó là cô Nguyễn Thị Hoa - một cô giáo vùng cao công tác tại Sơn La đã hơn 20 năm.
Cô giáo Nguyễn Thị Hoa sinh ra và lớn lên ở tỉnh Hải Dương. Năm 2002, cô về công tác tại trường THCS Mường Trai, huyện Mường La. Đến tháng 9.2006, cô Hoa chính thức trở thành giáo viên trường TH&THCS Chiềng San (khi đó là trường THCS Chiềng San). Kể từ đó, không chỉ hoàn thành nhiệm vụ "cõng" chữ lên non, cô Hoa này còn "cõng" cả tình yêu thương đến những bản nghèo.
Xã Chiềng San, huyện Mường La vẫn còn nhiều bản làng của đồng bào người Thái có điều kiện kinh tế chưa phát triển, cuộc sống thiếu thốn. Trải qua quá trình công tác, tận mắt chứng kiến cảnh học trò thiếu ăn, thiếu mặc, tình thương trong cô trỗi dậy. Từ đó, cô bắt đầu tìm tòi vận động các nguồn lực để giúp đỡ các em được ăn thêm một bữa ăn no, mặc thêm một chiếc áo đủ ấm.
Trong quá trình dạy học, giúp đỡ và hỗ trợ các em, có một kỉ niệm cô Hoa nhớ mãi, đó là tiết học thể dục của năm học 2018-2019, em học sinh tên Máy bị ngất xỉu và được đưa vào phòng chờ giáo viên nằm nghỉ ngơi. Sau tìm hiểu cô được biết, Máy bị bệnh tim bẩm sinh, hở 4 van, gia đình vô cùng khó khăn, hai mẹ con sống trong căn chòi dột nát thiếu trước hụt sau.
Trước tình thế cấp bách, tính mạng của Máy "ngàn cân treo sợi tóc", cô Hoa đã viết bài kêu gọi các mạnh thường quân giúp đỡ, quyên góp hỗ trợ đưa cô học trò nhỏ đi viện. May mắn thay, ca mổ thành công. Nay cô bé gầy gò ốm yếu ngày ấy đã trở thành một thiếu nữ 18 tuổi, khỏe mạnh, xinh xắn và có công ăn việc làm ổn định.
Hơn 20 năm gắn bó với nghề, ngoài nhiệm vụ giảng dạy, cô luôn quan tâm đến hoàn cảnh của các em học sinh trong và ngoài nhà trường để có những giúp đỡ kịp thời về mọi mặt. Với những nỗ lực của mình, cô Hoa đã được các cấp chính quyền địa phương khen thưởng, tặng nhiều bằng khen, giấy khen như Tổng phụ trách Đội giỏi cấp tỉnh, Giáo viên dạy giỏi cấp tỉnh, cấp huyện và được học sinh, đồng nghiệp quý mến.
Hình ảnh của cô giáo vùng cao Nguyễn Thị Hoa đã để lại trong em ấn tượng sâu sắc về một nhà giáo nhân dân hết lòng vì học sinh thân yêu.
Kể lại một câu chuyện đã học hoặc đã nghe - mẫu 4
Trong các tác phẩm văn học nước ngoài, em yêu thích và ấn tương nhất với câu chuyện Cô bé bán diêm. Khép lại trang sách, hình ảnh cô bé nhỏ mồ côi, tội nghiệp trong đêm đông lạnh giá luôn xuất hiện trong tâm trí em.
Cô bé bán diêm có một hoàn cảnh thật bất hạnh. Mẹ mất sớm, em sống với người cha hay chửi bới, mắng nhiếc và đe dọa đánh đập. Trong đêm giao thừa, khi nhà nhà đều quây quần bên lò sưởi ấm cúng, cây thông Nô-en được trang hoàng rực rỡ những ngôi sao và bàn cỗ đầy đặn thức ăn, cùng nhau đón chào một năm mới với bao điều tốt đẹp.
Dù đêm đông buốt giá nhưng em chỉ khoác trên mình bộ quần áo mỏng manh, ngắn cũn cỡ do đã được bà mua quá lâu. Khi bà mất, chẳng ai mua quần áo cho em. Đôi bàn tay và đôi bàn chân của em tím tái vì đã đi quá lâu trong tiết trời lạnh giá mà không có lấy một cốc nước ấm, một chút thức ăn vào bụng. Trên đôi bàn chân trần, cô bé tội nghiệp ấy vẫn lang thang ngoài đường trong giá buốt, không ai để ý đến em, mua cho em những que diêm nhỏ bé. Em nép vào góc tường tăm tối và quẹt những que diêm như muốn xua đi không khí lạnh buốt. Khi ánh sáng nhỏ nhoi sáng lên, em như sống trong những mộng tưởng tươi sáng về lò sưởi ấm áp, bàn cỗ đầy đủ thức ăn, rồi em mơ về bà và cùng bà bay lên cao mãi.
Cuối cùng, em đã chết trong đêm giao thừa lạnh lẽo ấy, sự ra đi của em như sự giải thoát khỏi những tăm tối của cuộc đời. Em được đến bên người thân ở một thế giới khác. Nhà văn đã nâng đỡ linh hồn của em bé đáng thương, dường như không phải em chết mà em đang đi vào cõi bất tử, nơi có tình thương bao la của bà em mà em từng khao khát với nụ cười mãn nguyện. Câu chuyện với kết thúc buồn đã để lại bao xúc động trong lòng em.
Kể lại một câu chuyện đã học hoặc đã nghe - mẫu 5
Tấm Cám
Em rất thích đọc truyện cổ tích. Và trong tất cả những câu chuyện cổ tích em từng đọc thì em ấn tượng nhất với nhân vật cô Tấm. Một nhân vật trong câu chuyện cổ tích Tấm Cám.
Cô Tấm có hoàn cảnh vô cùng đáng thương. Mẹ mất sớm cha cô đi lấy vợ hai. Nhưng chẳng bao lâu cha cô cũng qua đời. Cô ở với dì ghẻ và con riêng của dì ghẻ là Cám. Hai mẹ con Cám không yêu thương gì Tấm mà luôn tìm cách hãm hại cô. Dù chịu nhiều tủi hờn nhưng Tấm vẫn hết sức xinh đẹp lại nết na thùy mị.
Tấm có thân hình mảnh mai. Khuôn mặt trái xoan với làn da trắng nõn căng mọng. Đôi mắt bồ câu đen láy, trong vắt như hòn bi ve. Cặp lông mày lá liễu càng làm nổi bật hơn vẻ đẹp của đôi mắt ấy. Tấm có chiếc mũi dọc dừa, rất cân đối với khuôn mặt. Bên dưới chiếc mũi nhỏ nhắn đó là một đôi môi đỏ chúm chím. Tấm có một mái tóc dài mượt và đen láy, luôn được cô vấn lên gọn gàng cột lại bằng một chiếc khăn mỏ quạ truyền thống. Nhìn tổng thể Tấm chẳng khác gì một tiên nữ với một vẻ đẹp trong sáng và thành thiện.
Sống với mẹ con Cám Tấm phải làm việc quần quật cả ngày. Từ sáng sớm tinh mơ cho đến khi tối muộn. Có những hôm cô phải đi chăn trâu ở tận bên làng xa. Rồi phải đi mò cua bắt ốc. Tấm còn phải làm cả những phần việc của Cám do Cám lười mà đùn đẩy cho cô. Thế mà Tấm vẫn rất chi là siêng năng chăm chỉ, chẳng khi nào than phiền tới nửa lời. Vận chiếc áo tứ thân màu nâu cũ đã sờn bạc, cô lặng lẽ quét nhà, quét sân, chăm sóc vườn tược, tới cây bắt sâu, nấu cơm giặt giữ, lau chùi sắp xếp nhà cửa gọn gàng, ngăn nắp từ trong ra ngoài không có lấy một điểm gì chê được.
Tấm còn là một người có sức sống mạnh mẽ, sự sống của Tấm chính là sự sống của cái thiện trong xã hội, mặc dù bị mẹ con Cám hại chết hết lần này đến lần khác những Tấm vẫn hồi sinh, hóa thân thành cây con chim vàng anh, cây xoan đào, khung cửi và cuối cùng là quả thị. Và đến cuối cùng Tấm cũng có được hạnh phúc của chính mình khi được về sống với nhà vua. Và mẹ con Cám phải trả giá cho những hành động độc ác của chính mình.
Cô Tấm xinh đẹp, dịu hiền lại chịu thương chịu khó. Cô Tấm đẹp người đẹp nết ấy là biểu tượng của nhân dân Việt Nam. Qua truyện cổ tích Tấm Cám em càng hiểu hơn câu nói của dân gian “Ở hiền thì lại gặp hiền - Người ngay thì được Phật, Tiên độ trì”.
Kể lại một câu chuyện đã học hoặc đã nghe - mẫu 6
Trong truyện Nàng tiên Ốc, ngoài nàng tiên xinh đẹp, duyên dáng và chăm chỉ giỏi giang thì em rất ấn tượng với hình ảnh bà lão nông dân nghèo. Trong một lần dạo chơi nơi khu vườn cổ tích của các nhân vật, em được gặp lại bà trong đó.
Bà lão đã 75 tuổi rồi nhưng trong vẫn còn rất nhanh nhẹn, khoẻ mạnh. Bà có dáng người nhỏ bé, những bước chân của bà đầy vội vã. Khuôn mặt bà đã in hằn những nếp nhăn, trên vầng trán lộ rõ những vết đồi mồi của tuổi già. Mái tóc bà bạc trắng như cước, miệng móm mém nhai trầu tươi khiến hàm răng đen bóng. Đôi mắt bà trầm tư nhưng đầy ấm áp, bà cười rất hiền từ và phúc hậu. Bà lão thường mang chiếc quần bà ba đen xắn gối, chiếc áo bạc màu vì dãi nắng dầm sương nổi lên những mảnh vá. Nhìn bà em thấy thương vô cùng, chiếc áo mỏng manh ấy làm sao có thể giữ ấm cho bà những ngày trời trở đông rét mướt. Giá mà lúc đó em có một chiếc áo bông em sẽ gửi tặng bà.
Bà làm công việc bắt ốc, mò cua để kiếm sống. Ngày ngày bà đều ra đồng, tối tối lại trở về nhà, cứ thế bà sống gắn bó với ruộng đồng, với làng quê. Tuy nghèo khó những bà lão rất tốt bụng, có lần đi bắt ốc, bà bắt được một con ốc rất xinh đẹp, vỏ xanh biếc và sáng bóng, thấy nó bà không đành bán mà đem nó về thả vào trong chiếc chum nơi góc nhà. Thế là từ độ ấy, ngày nào đi làm về bà cũng đều ngạc nhiên đến sửng sốt khi thấy nhà cửa không dọn cũng sạch sẽ, lợn chưa ăn đã nằm no ngủ, chẳng kêu la inh ỏi như ngày thường, cơm chưa nấu đã được soạn sẵn, vườn chưa làm đã sạch cỏ.
Rồi một ngày, bà lão quyết định sẽ tìm bằng được người tốt bụng đã giúp đỡ mình. Sáng hôm ấy, như thường lệ, bà trở dậy thật sớm, mang theo giỏ, đội chiếc nón ra sông bắt tép, mò ốc. Giữa trưa, bà trở về nhà bất ngờ và lặng lẽ. Núp sau bụi chuối ngoài vườn, bà cẩn thận dò xét, thấy một cô gái trẻ đẹp bước ra từ chum nước rồi nhanh chóng dọn nhà, nấu bếp. Bà lão vừa ngạc nhiên, vừa chạy vội đến bên chụp nước đập vỡ chiếc vỏ ốc kìa. Cô gái bất ngờ định quay lại những không kịp nữa rồi. Bà lão nắm tay cô gái ấy rồi ân cần bảo:
- Con gái tốt bụng ngày ngày giúp lão đây ư?
Nàng tiên lúng túng trả lời:
- Dạ....dạ thưa bà....con giúp bà để đền ơn bà đã cứu sống con ạ....
Bà cười phúc hậu, nhìn nàng âu yếm rồi bảo:
- Vậy từ nay, con ở lại cùng bà nhé. Hai bà cháu mình sớm tối cùng nhau, có rau ăn rau, có cháo ăn cháo, con có bằng lòng không?
Nàng tiên Ốc gật đầu đồng ý, đôi môi nở nụ cười vui mừng đón nhận. Từ đấy hai người sống bình yên và an vui bên nhau.
Kể lại một câu chuyện đã học hoặc đã nghe - mẫu 7
Có lẽ ai đã đọc truyện "Thạch Sanh" đều nhớ đến cây đàn và niêu cơm đất thần kì. Nó đã trở thành biểu tượng gắn với hình ảnh Thạch Sanh. Mỗi lần đọc xong truyện, gấp sách lại, em có cảm giác như nhân vật đang bước ra từ câu chuyện, gần gũi và chân thật.
Thạch Sanh cao lớn, vạm vỡ với những bắp tay cuồn cuộn. Thân hình cân đối, cường tráng càng làm tăng thêm vẻ đẹp. Thạch Sanh đóng một cái khố, trên đầu quấn một chiếc khăn nâu, vai đeo cung tên đi từ trong rừng ra với những bó củi to trông như lực sĩ của rừng xanh.
Thạch Sanh mồ côi cha mẹ từ thuở nhỏ. Anh ấy không phải là con người bình thường mà là thái tử, con Ngọc Hoàng xuống đầu thai làm con của một đôi vợ chồng già ở Cao Bình. Nguồn gốc cao quý và khác thường ấy như điềm báo cho ta biết cuộc đời Thạch Sanh sẽ không phẳng lặng mà gặp nhiều thử thách, chông gai.
Thạch Sanh là một chàng trai tốt bụng, chăm chỉ và tài giỏi. Vì thật thà lắm nên bao lần anh bị Lí Thông lừa mà không hề hay biết. Ở cạnh Lí Thông gian xảo, anh đã sống chân thật hết mình, giúp hắn biết bao việc. Không chỉ có vậy, lúc nào chàng trai ấy cũng sẵn lòng giúp đỡ người khác khi hoạn nạn, chẳng từ gian nguy.
Thạch Sanh đã giết được chằn tinh không chỉ cứu được mẹ con Lí Thông mà còn giúp được dân làng thoát khỏi nanh vuốt độc ác của đại bàng khổng lồ. Và hơn cả, Thạch Sanh đã đánh thắng được quân mười tám nước chư hầu bằng trí thông minh của mình mà không tốn một hòn tên mũi đạn. Những chiến công oai hùng đó của Thạch Sanh thật đáng ngưỡng mộ.
Trải qua nhiều khó khăn, Thạch Sanh càng thể hiện được bản lĩnh, tài năng của mình. Chấp nhận đi canh miếu thờ, rồi gặp chằn tinh, anh đều sẵn sàng chiến đấu mà không hề run sợ. Thấy đại bàng bắt công chúa, Thạch Sanh dũng cảm lần theo dấu vết rồi xin xuống hang đánh đại bàng giải cứu.
Khi bị vu oan tội ăn cắp của cải nhà vua và bị bắt vào ngục tối, Thạch Sanh mang cây đàn ra đánh, tiếng đàn đã đến được với công chúa, anh tự giải cứu được chính mình. Thử thách mười tám nước chư hầu đã thể hiện rõ nhất tài năng cũng như tấm lòng nhân ái của chàng dũng sĩ. Niêu cơm thần kì đã giúp Thạch Sanh làm cho các binh lính tâm phục khẩu phục mà rút về.
Trong niềm vui hân hoan chiến thắng ta càng thấy Thạch Sanh đẹp hơn bao giờ hết, vẻ đẹp hài hòa giữa ngoại hình với tâm hồn và tài năng. Thạch Sanh mãi là người dũng sĩ của các bạn nhỏ các thế hệ từ xưa cho đến mãi về sau. Dù đọc bao nhiêu câu chuyện cổ tích khác nhưng hình ảnh Thạch Sanh vẫn mãi đọng lại trong tâm trí em.
Kể lại một câu chuyện đã học hoặc đã nghe - mẫu 8
Trong kho tàng các câu chuyện dân gian Việt Nam, có rất nhiều nhân vật quen thuộc, mỗi nhân vật đều đều mang lại cho ta một bài học cuộc sống thật sâu sắc. Và nhân vật mà em yêu thích nhất đó chính là nhân vật ông bụt trong truyện "Cây Tre trăm đốt".
Ngày xưa có một anh trai cày khỏe mạnh, chăm chỉ. Vì nhà nghèo nên phải đi làm thuê cho lão bá hộ. Vốn tính keo kiệt, bủn xỉn, và nham hiểm, một hôm hắn gọi anh trai lại và nói: Con hãy ráng làm việc đi, ta sẽ gả con gái cho. Tưởng thật, anh trai cày lao vào làm việc quần quật.
Hai năm sau, nhờ công của anh mà lão bá hộ tậu được rất nhiều nhà cửa, ruộng vườn. Hắn lại gọi anh lại và bảo: "Hai năm qua con đã làm việc thật vất vả, nay ta se gả con gái cho con. Nhưng con hãy vào rừng kiếm cho bằng được cây tre trăm đốt". Anh trai cày liền chạy vội vào rừng, chặt mãi chặt mãi mà không thấy.
Biết bá hộ lừa mình, anh òa khóc. Trong lúc đó, lão bá hộ cho người chuẩn bị hôn lễ cho con mình và cậu con trai nhà giàu làng bên. Bỗng lúc đó, một làn khói trắng tỏa ra che lấp cả mặt trời chói chang. Đằng xa, một ông bụt đầu tóc bạc phơ bắt đầu hiện ra. Ông có khuôn mặt hình chữ điền cùng chiếc cằm chẻ trông rất hiền lành và cái tráng cao chứa đầy những nếp nhăn hằn sâu đến lạ.
Phía sau khóe mắt hình chân chim là đôi mắt to tròn, luôn ánh lên một cái nhìn nhân hậu. Nằm cân đối giữa hai gò má đồi mồi đã nhăn nhúm đi nhiều là một chiếc mũi khoằm trông rất ngộ nghĩnh. Hàm răng ông tuy không được trắng bóng nhưng lại đều như hạt bắp, nằm ẩn sau đôi môi đầy đặn, hồng hào.
Nhưng điều khiến ông trông thật gần gũi là hàm râu dài đến ngực và cũng trắng tinh một màu.Tất cả tạo cho ông một cái nhìn tuy đơn sơ như những cụ già Việt Nam nhưng lại mang đậm tính thương người, sẵn sàng giúp đỡ họ khi gặp khó khăn, nguy hiểm. Ông khoác trên mình một chiếc áo trắng tinh luôn óng ánh dưới những tia nắng mặt trời và được tô điểm bằng những hình vẽ long, phụng.
Tay ông dài dài, lúc nào cũng phe phẩy cây phất trần trắng xóa như mái tóc của mình. Chân ông cao cao nhưng bước đi vẫn còn nhanh nhẹn. Thấy anh trai cày ngồi khóc ông bước đến cất một tiếng cười lớn. Tiếng cười lan rộng và xa đến mọi ngóc ngách của khu rừng. Rồi với một giọng nói trầm, ấm, ông hỏi: "Tại sao con khóc?"
Anh trai cày mếu máo kể lại hết mọi việc cho ông tiên nghe. Sau một hồi trầm ngâm ông bảo anh trai cày đêm một trăm đốt tre về và xếp thành một hàng dài. Thế rồi ông bắt đầu làm phép. Ông phất pha phất phới cây phất trần của mình, một làn gió mạnh bắt đầu thổi, cuốn phăng tất cả những lá cây rơi rụng trên đường. Một vầng hào quang bắt đầu xuất hiện sau lưng ông.
Ông hô: "Khắc nhập - khắc nhập". Tiếng hô thật dõng dạc mà nghe đầy quyền năng. Những đốt tre bắt đầu bị hút vào với nhau tạo thành một cây tre trăm đốt. Một lần nữa, ông lại cất tiếng cười vang vọng cả núi rừng. Anh trai cày chưa kịp cảm ơn thì ông tiên đã hóa phép biến ra một làn khói trắng rồi bay về trời từ lúc nào không biết.
Ông cũng không quên căn dặn anh phải nhớ kĩ hai câu thần chú. Anh trai liền chạy về để cản buổi lễ thành hôn. Xấu hổ quá, hai vợ chồng lão phú hộ đành gả con cho anh trai cày. Và thế là hai người đã sống với nhau đến trọn đời.
Qua hình ảnh ông tiên trong câu chuyện này và nhiều câu chuyện khác nữa. Người xưa muốn khuyên dạy chúng ta: Ở hiền thì gặp lành, ở ác thì gặp ác. Ông tiên luôn là người xuất hiện để giúp đỡ những người nghèo khó trước sự tàn bạo của bọn phú hộ. Sau này, lớn lên, em sẽ kể cho con nghe các câu truyện dân gian này để chúng sẽ là người lưu giữ và bảo tồn văn hóa dân tộc.
Kể lại một câu chuyện đã học hoặc đã nghe - mẫu 9
Mỗi câu chuyện cổ tích đều mang đến cho ta những thông điệp sâu sắc về cuộc sống. Với tôi, hình ảnh bà Tiên trong truyện “Cô bé Lọ Lem” là hình ảnh gợi cho tôi khát vọng được sống đẹp, được sống trong một xã hội công bằng mà cái thiện chiến thắng cái ác.
Nhìn từ xa, bà chỉ nhỏ như một đốm sáng lân tinh có thể di chuyển trong không gian. Nhưng khi lại gần trông bà thật hồng hào, phúc hậu. Bà đội một chiếc vương miện nhỏ gắn những viên kim cương óng ánh. Khuôn mặt bà trắng hồng và dường như tỏa ra vòng hào quang của sự nhân hậu.
Đôi mắt bà sáng long lanh với những ánh nhìn như hàng nghìn vì sao trên trời. Nhưng đó là đôi mắt khi bà gặp người hiền lành và che chở cho những kẻ yếu đuối. Còn khi gặp kẻ xấu, đôi mắt bà rực lên ngọn lửa của sự căm thù như muốn thiêu cháy cái ác, cái xấu.
Bà thường khoác trên mình chiếc áo choàng trắng có đính những hạt cườm lóng lánh. Cũng như các vị tiên khác, bà có một đôi cánh nhỏ xíu lấp lánh sắc màu ở phía sau lưng. Bà có thể di chuyển trên không trung một cách dễ dàng. Sức mạnh huyền diệu của bà chính là cây đũa thần. Mỗi khi bà vung lên thì những bông tuyết sáng ngời bung tỏa ra.
Nhờ cây đũa thần kì đó mà nàng Lọ Lem xinh đẹp có mọi thứ để được đi dạ hội. Bà Tiên có tấm lòng tốt bụng, nhân hậu. Bà thường giúp đỡ những người nghèo khó. Nghe tiếng khóc của cô bé Lọ Lem, bà đã cưỡi đám mây hồng đến và hỏi vì sao cô bé khóc. Rồi bà nhẹ nhàng vung đũa thần và hô “úm ba la”. Hai anh chuột đang ăn vụng gần đó bỗng nhiên biến thành hai con bạch mã.
Còn thật kì lạ, quả bí đỏ thì biến thành cỗ xe lộng lẫy và anh mèo đang ngẩn ngơ khi thấy những chú chuột bỗng nhiên biến mất lại hiện ra thành những người lái xe ngựa. Lọ Lem đã có đủ thứ mình cần. Nhưng khi nhìn thấy bộ quần áo rách rưới của cô, bà lại giơ đũa thần lên và xoay người nhẹ nhàng biến thành một làn bụi hào quang. Tức thì, bộ quần áo rách rưới của Lọ Lem biến mất. Thay vào đó là một nàng công chúa xinh đẹp, lộng lẫy trong chiếc váy màu hồng có đính những hạt cườm lóng lánh.
Còn đôi giầy, chao ôi, đôi giày như đang làm bằng thủy tinh, trong suốt, xinh xắn quá. Bằng giọng nói ngân nga trong như tiếng ngọc, bà khẽ dặn dò Lọ Lem: “Con nhớ phải về trước 12 giờ đêm nhé!”. Với người hiền lành, bất hạnh, bà yêu thương, che chở, nhưng với kẻ ác thì hành động của bà rất mạnh mẽ, quyết liệt.
Để trừng trị mẹ con dì ghẻ độc ác, cây đũa thần của bà quay tít, bà Tiên nổi giận, giọng bà rền vang cả đất trời. Rồi bà lấy đũa thần, biến mẹ con dì ghẻ thành hai con cóc và đày họ đến miền hẻo lánh. Sau đó, bà vui mừng tham gia đám cưới của Lọ Lem với hoàng tử.
Bà Tiên thật tốt bụng, đã giúp đỡ mọi người. Em rất yêu quý bà và mong một ngày không xa em cũng sẽ được bà giúp đỡ. Bà đã truyền cho em bài học sâu sắc về cuộc sống: ở hiền gặp lành, ác giả ác báo.
Kể lại một câu chuyện đã học hoặc đã nghe - mẫu 10
Nàng tiên cá trong các câu chuyện cổ tích là một nhân vật được xây dựng lên bằng trí tưởng tượng của con người khiến ai cũng yêu mến.
Họ là những nữ nhân ngư vô cùng xinh đẹp và quyến rũ. Nửa thân trên mang hình dáng con người, nửa dưới là một chiếc đuôi lớn của loài cá. Chiếc đuôi của nàng dát đầy vảy xanh vàng óng ánh tỏa hào quang trong ánh mặt trời. Các mĩ nhân ngư sở hữu những mái tóc dài thướt tha trông rất dịu dàng và cuốn hút.
Khuôn mặt của nàng tiên cá đẹp như những thiên thần. Vẻ đẹp ấy khiến ai cũng mê mẩn. Làn da trắng hồng đã tôn lên vẻ đẹp ấy. Cặp mắt của các nàng xanh thẳm và sâu hun hút như đáy biển còn đôi môi luôn đỏ mọng quyến rũ, vẻ đẹp của các nàng đủ sức làm nghiêng ngả cả một thành trì, một vẻ đẹp nghiêng nước nghiêng thành.
Theo truyền thuyết, nàng tiên cá là con gái vua Thủy Tề ngự trị dưới đáy biển sâu. Các nàng sống trong cung điện bằng ngọc trai và san hô lộng lẫy chỉ thỉnh thoảng vào những buổi sáng tinh sương hay chiều hoàng hôn muộn, các nàng lại rủ nhau ngoi lên mặt nước tìm các đảo nhỏ chơi đùa, hát ca.
Mỗi khi tiếng hát của các nàng vang lên mặt trời cùng nghiêng mình lắng nghe, mây ngừng trôi, gió ngừng thổi, chim ngừng hót, ngất ngây trước sự réo rắt, ngân nga của tiếng hát. Tiếng đàn lia của vị thần nghệ thuật A-pô-lông cũng không thể sánh bằng. Chính bởi sự kì diệu của giọng ca mà biết bao chàng thủy thủ đã sẵn sàng trầm mình xuống biển để tìm đến với các nàng.
Tưởng tượng ra hình ảnh nàng tiên cá, con người chắp cánh cho trí tưởng tượng bay xa và qua đó muốn giải thích cho sự biến mất của các con thuyền trên biển một cách bay bổng, lãng mạn, mang đậm tư duy thần thánh cổ xưa.
Kể lại một câu chuyện đã học hoặc đã nghe - mẫu 11
Trong những câu chuyện đã học, em thích nhất là câu chuyện Cây khế.
Cây khế là một câu chuyện cổ tích của nước ta mang trong mình bài học ý nghĩa. Chuyện kể về hai anh em ruột nhưng có tính cách trái ngược nhau. Người anh tham lam, lười biếng bao nhiêu thì người em hiền lành, chăm chỉ bấy nhiêu.
Sau khi cha mất, người anh chia cho em mình một cây khế già và một túp lều tranh rồi lấy hết gia sản. Người em ở lều tranh chăm chỉ làm lụng mỗi ngày và chăm sóc cây khế. Năm đó khế ra trái rất sai và ngọt nên có chim lạ đến ăn. Thấy người em than thở vất vả, chim hứa ăn khế sẽ trả vàng. Và chở người em ra đảo lấy vàng về. Nhờ đó, người em trở nên giàu sang. Biết chuyện, người anh xin đổi gia tài lấy cây khế của em, rồi bắt chước em than thở với chim. Tuy nhiên do tham lam, hắn may cái túi lớn gấp bốn lần chim dặn và lấy quá nhiều vàng khiến chim không chở nổi. Trên đường về lại gặp bão lớn, thế là hắn cùng số vàng đó rơi xuống biển sâu.
Câu chuyện đã dạy cho em bài học về lòng trung thực và sự chăm chỉ trong cuộc sống. Nếu có tính tham lam, gian dối thì sẽ có kết thúc bi kịch như người anh mà thôi.
Mỗi câu chuyện đều mang đến cho ta một bài học quý giá. Đó có thể là bài học tri thức bổ ích, cũng có thể là bài học đạo lí làm người. Chắc hẳn ai trong chúng ta cũng từng được nghe câu chuyện “Điều ước của vua Mi - đát”. Câu chuyện đã cho em một bài học về sự tham lam của con người.
Câu chuyện kể rằng: thuở xa xưa, tại đất nước Hi Lạp xinh đẹp có một vị vua nọ nổi tiếng tham lam tên là Mi - đát. Thần Đi - ô - ni - dốt biết được lòng tham không đáy của vua Mi - đát nên đã cố ý xuất hiện và cho nhà vua một bài học. Một ngày kia, khi vua Mi - đát đang dạo chơi trong vườn thượng uyển thì thần Đi - ô - ni - dốt chợt hiện ra, phán:
- Ta ban cho ngươi một điều ước, điều ước sẽ hiệu nghiệm ngay.
Nghe vậy nhà vua vô cùng mừng rỡ. Vốn tính tham lam, vua Mi - đát không ngần ngại mà ước ngay:
- Xin thần cho mọi vật tôi chạm vào đều biến thành vàng!
Thần giữ lời hứa và ban cho Mi - đát điều ước tham lam ấy rồi biến mất. Ngay sau đó, vua Mi - đát nôn nóng muốn thử sự hiệu nghiệm của điều ước nên bẻ một cành sồi trên cây gần đó. Vua vừa chạm tay vào, cành cây lập tức biến thành vàng. Ông ta lượm một quả táo, tức thì quả táo cũng biến thành vàng nốt. Mi - đát sung sướng nghĩ rằng mình là người hạnh phúc nhất, giàu có nhất trên thế gian. Không ai có thể giàu hơn mình nữa.
Đến bữa ăn, nhà vua vẫn giữ tâm trạng vui vẻ ngồi vào bàn tiệc, chờ người hầu dọn thức ăn lên. Thế nhưng bao nhiêu là cao lương mĩ vị, bát đũa, cốc chén... trên bàn ăn đều ngay lập tức biến thành vàng khi ông ta chạm tay tới. Không một thứ nào có thể ăn được nữa. Bụng đói cồn cào, bấy giờ vua Mi - đát mới hiểu được mình vừa ước một điều ước khủng khiếp như thế nào. Trong cơn đói hành hạ và nỗi sợ hãi,vua vội vàng run run quỳ xuống khấn xin thần Đi - ô - ni - dốt:
- Xin thần thu lại điều ước để cho tôi được sống.
Một lát sau, thần Đi - ô - ni - dốt mới hiện ra, nhìn vua Mi - đát và nghiêm nghị phán:
- Nhà ngươi hãy tới sông Pác - tôn, nhúng mình vào dòng nước, phép màu sẽ biến mất. Lòng tham của ngươi cũng sẽ được rửa sạch.
Vua Mi - đát nhanh chóng làm theo lời thần. Quả nhiên, sau khi ngâm mình xuống dòng sông thì phép màu biến mất. Nhà vua không còn bản tính tham lam như trước nữa.
“Điều ước của vua Mi - đát” vừa là một câu chuyện hài hước, vừa là một câu chuyện đầy ý nghĩa. Qua câu chuyện, em hiểu ra được nhiều điều. Không nên tham lam, tham lam sẽ không đem lại cho chúng ta hạnh phúc. Ngược lại tham lam còn đem đến những hậu quả khó lường.
Thuở xưa, ở vùng đất Lạc Việt có vị thần tên là Lạc Long Quân, con trai của thần Long Nữ sống ở dưới biển Đông. Thần mình rồng, sức khỏe phi thường và có nhiều phép lạ. Thỉnh thoảng thần lên sống trên cạn, giúp dân diệt trừ các loài yêu quái như Ngư Tinh, Hồ tinh, Mộc Tinh. thần còn dạy dân cách trồng trọt và sinh sống. Âu Cơ là một tiên nữ dòng dõi Thần Nông ở vùng núi cao phương Bắc. Nàng thích ngao du đây đó, những nơi có phong cảnh đẹp. Bên trai tài, bên gái sắc, họ yêu nhau rồi kết thành vợ chồng.
Ít lâu sau, Âu Cơ sinh ra cái bọc trăm trứng, nở ra một trăm người con khôi ngô tuấn tú lạ thường. Chẳng còn bú mớm mà đàn con lớn nhanh như thổi, khỏe mạnh như thần.
Một hôm, nhớ biển cả và cảm thấy mình không thể sống lâu trên cạn được, Lạc Long Quân đành từ biệt Âu Cơ để trở về chốn thủy cung. Âu Cơ một mình nuôi con. Ngày lại ngày qua, nàng sốt ruột trông ngóng chồng với tâm trạng buồn tủi. Cuối cùng, nàng gọi chồng lên mà than thở:
- Sao chàng nỡ bỏ thiếp mà đi, không cùng thiếp nuôi các con?!
Lạc Long Quân ân cần giải thích:
- Ta vốn nòi rồng ở miền nước thẳm, nàng là dòng tiên ở chốn non cao. Kẻ trên cạn người dưới nước, tính tình tập quán khác nhau, khó lòng mà ăn ở cùng nhau một nơi lâu dài được. Nay ta đưa năm mươi con xuống biển, nàng đưa năm mươi con lên núi, chia nhau cai quản các phương. Kẻ miền núi, người miền biển, khi có việc gì khó khăn thì giúp đỡ nhau, đừng quên lời hẹn.
Âu Cơ nghe theo đưa năm mươi người con lên đất Phong Châu. Người con trưởng được tôn làm vua, lấy hiệu là Hùng Vương, lập ra nước Văn Lang, đóng đô ở Phong Châu (vùng Bạch Hạc, Lâm Thao, Phú Thọ ngày nay). Triều đình có quan văn, quan võ (Lạc tướng, Lạc hầu). Con trai của vua gọi là lang, con gái vua gọi là mị nương. Vua cha chết, con trai trưởng nối ngôi. Mười tám đời vua kế tiếp nhau đều lấy hiệu Hùng Vương.
Từ sự tích này mà dân tộc Việt Nam thường nhắc đến nguồn gốc cao quý của mình là con Rồng cháu Tiên. Tất cả các dân tộc sống trên đất nước Việt Nam đều là anh em cùng chung một bọc sinh ra (đồng bào).
Người Việt Nam ta từ xưa đã nổi tiếng thông minh, sáng tạo. Vì vậy, trong dân gian lưu truyền rất nhiều những câu chuyện hay về trí tuệ của con người. Trong đó, em đặc biệt ấn tượng với câu chuyện Em bé thông minh.
Câu chuyện kể về một cậu bé tuy còn nhỏ, lại chưa đến trường hay học qua lớp học nào, nhưng lại có trí tuệ và sự hiểu biết vượt qua người thường. Trí thông minh của cậu bé được thể hiện qua những thử thách mà cậu gặp được và cách giải quyết nó. Thử thách đầu tiên của cậu là câu đố của viên quan tình cờ đi ngang qua làng. Ông ta theo lệnh nhà vua, cưỡi ngựa đi khắp cả nước để tìm người tài. Khi đi qua làng của cậu bé, thấy một đứa trẻ trông có vẻ nhanh nhẹn, nên đã dừng lại để thử tài. Viên quan đưa ra một câu đố rất hóc búa, rằng tính xem một ngày ngựa của ông ta đi được bao nhiêu bước. Nhưng thật bất ngờ, câu bé lập tức hỏi ngược lại viên quan: Nếu ông ấy tính được một ngày trâu của cha cậu cày bao nhiêu đường, thì cậu sẽ nói cho ông ấy biết số bước đi của chú ngựa. Nghe vậy, viên quan liền nhận ra cậu bé này rất thông minh, nên vội vàng trở về kinh thành báo cáo với nhà vua.
Nghe chuyện, nhà vua vẫn chưa tin về tài năng của cậu bé, nên đã nghĩ ra thêm một thử thách cho cậu. Ông ban cho làng cậu ba thúng gạo nếp và ba con trâu đực, yêu cầu làng sau một năm phải làm cho trâu sinh ra trâu con rồi nộp cho nhà vua, nếu không sẽ bị trị tội. Điều này làm cho cả làng sợ hãi và bất lực vô cùng. Nhưng cậu bé thì lại rất bình tĩnh. Cậu nói với dân làng hãy giết thịt hai con trâu, đồ xôi bằng hai thúng gạo nếp để mở tiệc. Phần còn lại thì bán lấy tiền làm lộ phí cho cha con cậu lên kinh gặp nhà vua. Khi đến nơi, cậu đứng trước cửa cung vua, gào khóc ầm ĩ, khiến nhà vua rất khó hiệu, bèn gọi cậu vào diện kiến. Trước mặt nhà vua, cậu bé khóc lóc đòi nhà vua bắt cha phải sinh em bé để chơi cùng với mình. Tuy nhiên, mẹ cậu đã mất từ lâu, mà cha cậu lại là đàn ông, làm sao mà sinh được? Khi nhà vua giải thích cho cậu bé hiểu điều đó, thì cậu liền nhân cơ hội mà hỏi ngược lại ông rằng: Tại sao lại yêu cầu làng cậu nuôi cho ba con trâu đực sinh ra nghé con chứ? Vì điều đó cũng vô lý như ép cha cậu sinh em bé mà thôi. Điều này khiến nhà vua hiểu ra, đứa trẻ trước mặt chính là người tài mà mình đang thử thách. Thế là, ông liền ra lệnh đưa cha con cậu bé vào cung vua để tiện hỏi chuyện. Để chắc chắn hơn, ông đã thử tài cậu bé thêm lần nữa. Bằng cách yêu cầu cậu làm thịt con chim sẻ nhỏ thành một mâm cỗ thịnh soạn. Người hầu vừa truyền chỉ, cậu bé đã lấy ngay từ trong túi một cái kim khâu, đưa cho anh ta, và nói rằng hãy nhờ nhà vua mài cây kim đó thành chiếc dao sắc để làm thịt chim sẻ. Lần này thì nhà vua thật sự thán phục tài trí của cậu bé rồi.
Mấy hôm sau, nước ta tiếp đón đoàn sứ thần nước bên sang thăm. Họ đem sang một câu đố rất khó, để kiểm tra xem nước ta có người tài hay không. Vì vậy, cả triều đình vô cùng căng thẳng. Từ các quan lớn đến học sinh trong trường đều không ai tìm ra cách nào xâu sợi chỉ qua thịt ốc mà vẫn còn nguyên mình ốc cả. Đúng lúc đang bối rối, nhà vua nhớ ra cậu bé thông minh nọ đang ở trong cung, nên đã sai lính đến hỏi cậu bé. Câu đố khó đến vậy, mà vừa nghe, cậu bé đã giải được ngay, thậm chí còn hát thành một bài ca dao nữa chứ. Sau sự kiện đó, cả triều đình đều khâm phục tài trí của cậu bé. Nhà vua thì phong cậu làm trạng nguyên, và xây dinh thự cạnh cung vua để tiện hỏi thăm việc nước.
Câu chuyện Em bé thông minh được sáng tác để ngợi ca và khẳng định sức mạnh của trí tuệ dân gian trước trí tuệ cung đình. Từ đó, giúp chúng ta hiểu được rằng, kiến thức có thể có ở mọi nơi, không chỉ có ở trong sách vở. Vì vậy, cùng với học ở lớp, chúng ta cần học ở cuộc sống xung quanh mình.
Câu chuyện về trí thông minh, khả năng tìm tòi, và sáng tạo của con người luôn là nguồn cảm hứng tuyệt vời, tiếp thêm cho ta động lực học để phấn đấu học tập. Trong đó em thích nhất là câu chuyện Nhà phát minh 6 tuổi.
Ma-ri-a sinh ra trong một gia đình sáu đời có người là giáo sư đại học. Cô bé rất thích quan sát. Hồi cô 6 tuổi, có lần, gia đình tổ chức bữa tiệc. Cô bé nhận thấy một điều lạ: Mỗi lần gia nhân bưng trà lên, tách đựng trà thoạt đầu trượt trong đĩa. Nhưng khi nước trà rót ra đĩa thì những tách trà kia bỗng nhiên dừng chuyển động, cứ như bị cái gì đó ngăn lại. Ma-ri-a nghĩ mãi mà vẫn không hiểu vì sao. Thế là cô lặng lẽ rời khỏi phòng khách.
Cô bé vào bếp, lấy một bộ đồ trà ra và tự mình làm đi làm lại thí nghiệm. Cuối cùng cô cũng hiểu ra: Khi giữa tách trà và đĩa có một chút nước thì tách trà sẽ đứng yên. Lúc ấy, Ma-ri-a chợt thấy cha đang vào bếp. Cô liền nói với cha phát hiện của mình. Cha cô hết sức vui mừng. Ông nâng bổng cô con gái nhỏ lên vai, đi thẳng ra phòng khách, hân hoan nói: “Đây sẽ là giáo sư đời thứ bảy của gia tộc tôi!”.
Về sau, Ma-ri-a trở thành giáo sư nhiều trường đại học danh tiếng của Mỹ. Năm 1963, bà vinh dự được tặng Giải thưởng Nô-ben Vật lí.
Sáng tạo là khả năng đặc biệt của con người. Câu chuyện tri Nhà phát minh 6 tuổi khiến em nhận ra rằng khả năng tìm tòi, sáng tạo của con người có thể tạo nên nhiều điều thật tuyệt diệu.
Marie Curie là nhà vật lý học, nhà hóa học Pháp gốc Ba Lan, nổi tiếng toàn thế giới về việc nghiên cứu chất phóng xạ. Câu chuyện về cuộc đời, trí thông minh, cùng nỗ lực tìm tòi, sáng tạo trong khoa học của bà luôn truyền cảm hững mạnh mẽ cho em.
Marie Curie là là người phụ nữ đầu tiên và cũng là duy nhất trên thế giới hai lần được nhận giải thưởng Nobel trong hai lĩnh vực khác nhau, được suy tôn là nữ bác học xuất sắc nhất trên toàn thế giới. Cuộc đời của Marie Curie là một câu chuyện thần kỳ, với rất nhiều sự tích vĩ đại.
Ngay từ nhỏ, Marie đã bộc lộ tư chất thông minh hơn người, luôn tìm tòi, vượt qua mọi khó khăn, thử thách trong thế giới khoa học nhiều bí ẩn, lý thú. Ở Ba Lan thời đó, các trường đại học không nhận phụ nữ, Marie đành theo học "trường đại học lưu động" do các trí thức yêu nước bí mật thành lập. Nữ sinh Marie phải làm gia sư cho nhà điền chủ giàu có trong vùng để có tiền trang trải việc học. Sau 5 năm kiên trì làm gia sư, nhờ sự giúp đỡ của chị gái cả, khi 24 tuổi Marie mới được sang học Đại học danh tiếng Sorbone ở Paris.
Hai năm sau khi kết hôn, Marie sinh con gái đầu lòng và chuẩn bị bảo vệ luận án tiến sĩ. Bà chọn đề tài nghiên cứu là hiện tượng phóng xạ của nguyên tố Urani.
Hai vợ chồng Marie và Pierre phải chạy vạy mãi mới mượn được một gian hầm ẩm thấp làm phòng thí nghiệm và bắt đầu nghiên cứu với hàng ngàn phép tính toán và đo đạc.
Phải đến gần 10 năm sau, vợ chồng Curie phát hiện một nguyên tố phóng xạ có cường độ phóng xạ mạnh gấp 400 lần so với Urani nguyên chất. Nguyên tố đó được đặt tên là Poloni theo tên của quê hương Ba Lan của bà. Ít lâu sau, họ tiếp tục phát hiện ra nguyên tố có cường độ phóng xạ cực mạnh là Radi. Quá trình tinh luyện Radi từ quặng Pêchbơlăng rất vất vả, tốn kém nên vợ chồng nhà bác học đã quyết tâm tìm cách sáng chế.
Sau 4 năm trời đằng đẵng với hàng ngàn thí nghiệm, họ không có tiền, cũng không có người nào giúp đỡ. Tuy nhiên, đó là "thời kỳ anh dũng và cũng hạnh phúc nhất trong cuộc sống của hai vợ chồng tôi", Marie bồi hồi nhớ lại.
Cuối cùng, họ cũng đã luyện thành công chất Radi. Với thành tựu này, ông bà Curie đã được Viện Khoa học Hoàng gia London trao tặng Huy chương Devy và Viện Hàn lâm khoa học Thụy Điển trao tặng giải Nobel Vật lý.
Nữ bác học lừng danh mọi thời đại này chứng minh một người thành công không cần đến phòng thí nghiệm hiện đại, phòng thu lớn hay những trang thiết bị tối tân. Tất cả những gì họ cần là sự tò mò trước những điều mới lạ, một mục đích rõ ràng, sự cống hiến không ngừng nghỉ và tốt hơn hết, có một người đồng hành cùng hướng đến những điều tốt đẹp nhất trong công việc.
Ngày xưa, có một người con trai thần Long Nữ, tên là Lạc Long Quân thuộc giống rồng. Thần có sức khỏe vô địch, lại nhiều phép lạ. Thần giúp dân trừ yêu quái, dạy dân cách trồng trọt, chăn nuôi và ăn ở. Ở vùng núi cao phương Bắc, có nàng Âu Cơ thuộc dòng họ Thần Nông, xinh đẹp tuyệt trần. Nàng đến thăm vùng đất Lạc Việt có nhiều hoa thơm cỏ lạ. Hai người gặp nhau, yêu nhau và trở thành vợ chồng.
Ít lâu sau Âu Cơ mang thai và sinh ra một cái bọc trăm trứng, nở ra trăm người con, người nào cũng đều hoàn hảo, đẹp lạ thường. Lạc Long Quân vốn quen sống ở dưới nước, nên thường xuyên trở về dưới thuỷ cung.
Âu Cơ ở lại nuôi đàn con, tháng ngày chờ đợi Lạc Long Quân trở lại, nhưng nỗi nhớ chồng khiến nàng buồn tủi. Cuối cùng nàng gọi chồng lên than thở:
- Sao chàng đành bỏ thiếp mà đi, không cùng thiếp nuôi đàn con nhỏ?
Lạc Long Quân nói:
- Ta vốn ở miền nước thẳm, nàng thì ở chốn núi cao. Nhiều điều khác nhau, khó mà ở cùng nhau một nơi được lâu dài được. Nay ta đưa năm mươi con xuống biển, nàng đưa năm mươi con lên núi, chia nhau cai quản các phương. Khi có việc gì cần giúp đỡ lẫn nhau, đừng quên lời hẹn, đây là giao ước của vợ chồng, con cái.
Âu Cơ ưng thuận. Trước khi đưa năm mươi con lên núi, nàng nói với chồng:
- Thiếp xin nghe lời chàng. Vợ chồng ta đã sống với nhau thắm thiết, nay phải chia hai, lòng thiếp thật là đau xót.
Lạc Long Quân cũng cố nén nỗi buồn trong buổi chia li, chàng khuyên giải vợ:
- Tuy xa nhau nhưng tình cảm đôi ta không hề phai nhạt, khi nào cần chúng ta lại gặp nhau.
Âu Cơ vẫn quyến luyến, rồi buồn bã nói:
- Thiếp rất nhớ chàng và thương các con, biết đến khi nào chúng ta mới gặp nhau.
Lạc Long Quân nắm chặt tay vợ, an ủi:
- Xa nàng và các con lòng ta cũng đau lắm! Âu cũng là mệnh trời, mong nàng hiểu và cảm thông cùng ta.
Âu Cơ và các con nghe theo lời cùng nhau chia tay lên đường.
Lạc Long Quân và các con về nơi biển cả, Âu Cơ đưa các con về đất Phong Châu. Người con trưởng được tôn lên làm vua, lấy hiệu là Hùng Vương, đặt tên nước là Văn Lang. Cũng bởi sự tích này mà người Việt Nam ta đều luôn tự hào mình là dòng dõi con Rồng cháu Tiên.
Chuyện kể về một cậu bé ham chơi. Một lần, bị mẹ mắng, cậu vùng vằng bỏ đi. Cậu la cà khắp nơi, chẳng nghĩ đến mẹ ở nhà mỏi mắt chờ mong. Không biết cậu đã đi bao lâu. Một hôm, vừa đói vừa rét, lại bị trẻ lớn hơn đánh, cậu mới nhớ đến mẹ, liền tìm đường về nhà. Ở nhà, cảnh vật vẫn như xưa, nhưng không thấy mẹ đâu. Cậu khản tiếng gọi mẹ, rồi ôm một cây xanh trong vườn mà khóc. Kì lạ thay, cây xanh bỗng run rẩy. Từ các cành lá, những đài hoa bé tí trổ ra, nở trắng như mây. Hoa tàn, quả xuất hiện, lớn nhanh, da căng mịn, xanh óng ánh, rồi chín. Một quả rơi vào lòng cậu. Môi cậu vừa chạm vào, một dòng sữa trắng trào ra, ngọt thơm như sữa mẹ. Cậu nhìn lên tán lá. Lá một mặt xanh bóng, mặt kia đỏ hoe như mắt mẹ khóc chờ con. Cậu bé oà khóc. Cây xoà cành ôm cậu, như tay mẹ âu yếm vỗ về. Trái cây thơm ngon ở vườn nhà cậu, ai cũng thích. Họ đem về gieo trồng khắp nơi và gọi đó là cây vú sữa.
Câu chuyện trên đã để lại cho chúng ta một bài học sâu sắc về sự biết ơn công lao sinh thành của cha mẹ. Là một người con, chúng ta nên thấu hiểu sự yêu thương, hy sinh của cha mẹ. Vì thế hãy cố gắng trở thành một người con ngoan các bạn nhé!
Trong rất nhiều truyện cổ tích đã đọc, em thích nhất là "Sự tích chú Cuội". Câu chuyện không chỉ nhắc đến nguồn gốc của chú Cuội mà còn đem đến cho em nhiều bài học ý nghĩa.
Truyện kể về chàng tiều phu tên Cuội. Một lần vào rừng, anh ta thấy cảnh đám hổ con đã chết được hổ mẹ mớm cho loại lá kì lạ. Từ đó, phát hiện ra loài cây có khả năng "cải tử hoàn sinh". Vì tò mò, Cuội đã mang cây về trồng và giúp đỡ được rất nhiều người. Có hôm, Cuội đi trên đường và phát hiện ra một con chó đáng thương nằm chết bên đường. Thương hại, anh ta lấy lá cây cứu sống nó rồi mang về nhà nuôi. Chú chó cũng biết ơn ân nhân, luôn quấn quýt chủ không rời nửa bước. Một lần, Cuội cứu sống con gái phú ông. Cô gái tỉnh dậy thì vô cùng biết ơn, nguyện theo Cuội về nhà. Phú ông cũng rất vừa lòng, quyết định gả luôn con gái cho anh. Thế là Cuội có vợ. Hai vợ chồng sống với nhau vô cùng hòa thuận, hạnh phúc.
Lúc bấy giờ, trong làng có một bọn cướp chuyên. Chúng biết Cuội có thể hồi sinh người chết, đem lòng ghen ghét, nhân lúc anh ta đi vắng đã giết vợ Cuội và quẳng bộ lòng đi. Chàng Cuội trở về thấy vợ chết thì đau khổ vô cùng, cố hết sức lấy lá cây chữa trị. Thế nhưng do không còn bộ lòng, Cuộc không thể nào hồi sinh vợ được. Chú chó trung thành thương chủ, nguyện dâng hiến bộ lòng của mình. Nhờ vậy mà vợ Cuội sống lại. Sau đó, Cuội đắp một bộ lòng bằng đất cho chú chó và thành công hồi sinh nó. Cả gia đình lại vui vẻ, thuận hòa chung sống.
Tuy nhiên, vợ Cuội sau khi sống lại lại trở nên hay quên. Cuội lúc nào cũng nhắc vợ phải tưới cây bằng nước giếng trong. Thế nhưng dặn rồi nàng ta lại quên luôn. Trong một lần Cuội đi vắng, người vợ đã tưới nước bẩn cho cây thần. Cái cây cứ vậy bật gốc, dần bay lên trời. Đúng lúc đó thì Cuội trở về. Do tiếc cây, anh ta đã túm lấy rễ, cố kéo cái cây về lại nhưng vô ích. Thế là cả người cả cây bay lên cung trăng.
Qua "Sự tích chú Cuội", em đã nhận ra rằng sự sống của con người là có hạn. Thế nên chúng ta cần biết trân trọng hiện tại, đối đãi tử tế với tất cả mọi người. Có như vậy, cuộc sống mới trở nên có ý nghĩa.
Ngày xửa ngày xưa, có hai anh em nhà kia cha mẹ mất sớm. Người anh tham lam, khi chia gia tài liền chiếm hết nhà cửa, ruộng vườn cha mẹ để lại, chỉ cho người em một túp lều nhỏ và mảnh vườn, trong đó có cây khế ngọt. Người em không chút phàn nàn, ngày ngày chăm bón cho mảnh vườn và cây khế.
Năm ấy, cây khế trong vườn nhà người em ra quả rất sai. Từng chùm quả chín vàng như nặng lúc lỉu trên cành. Người em nhìn cây khế mà vui mừng, tính đem bán để lấy tiền mua gạo.
Một hôm, có con chim lạ từ đâu bay đến ăn khế. Thấy cây khế bị chim ăn xơ xác người em ôm mặt khóc. Chim bỗng cất lời: “Ăn một quả trả một cục vàng. May túi ba gang, mang đi mà đựng”
Người em nghe chim nói tiếng người lấy làm kinh ngạc, bèn về kể cho vợ nghe. Hai vợ chồng may một chiếc túi vừa đúng ba gang, chờ chim đến. Hôm sau, chim bay đến, bảo người em ngồi lên lòng mình. Chim bay rất xa, đến một hòn đảo đầy vàng bạc giữa biển khơi bao la. Người em lấy vàng bỏ đầy túi ba gang rồi lại theo chim trở về nhà. Từ đó, người em trở nên giàu có.
Người anh nghe thấy em giàu liền sang chơi và lân la hỏi chuyện. Em không giấu giếm kể lại cho anh tường tận mọi điều. Người anh nằng nặc đòi đổi nhà cửa ruộng vườn của mình lấy mảnh vườn và cây khế, người em dù không muốn nhưng thấy anh cương quyết quá cũng đành đổi cho anh.
Mùa năm sau, cây khế lại sai trĩu những quả vàng chín mọng, người anh khấp khởi mừng thầm, ngày ngày ngóng chờ con chim lạ tới. Thế rồi một hôm, chim tới ăn khế, người anh giả vờ khóc lóc, chim cũng nói: “Ăn một quả trả một cục vàng. May túi ba gang, mang đi mà đựng”
Người anh nghe vậy, mừng như mở cờ trong bụng, vội vã cùng vợ may một chiếc túi to thật là to. Hôm sau chim tới đưa người anh đi lấy vàng ở hòn đảo xa lạ nọ. Nhìn thấy vàng bạc châu báu trên đảo, người anh vội vàng nhét đầy túi to, lại còn giắt khắp người. Khi người anh leo lên lưng chim, chim phải vỗ cánh mấy lần mới bay lên được. Vì quá nặng nên chim bay chậm, mãi vẫn ở trên biển. Chim bảo người anh vứt bớt vàng bạc đi nhưng anh ta không chịu. Chim nặng quá, nghiêng cánh, thế là người anh tham lam cùng túi vàng rơi xuống biển sâu, không bao giờ trở về được nữa.
Trong các câu chuyện đã đọc, em ấn tượng nhất với tác phẩm "Con vẹt xanh". Truyện đã để lại nhiều bài học quý giá về thái độ, cách đối xử giữa người với người.
Truyện kể về một bạn nhỏ tên Tú. Một hôm, Tú thấy một con vẹt lông xanh đang bị thương. Khi ấy, cậu quyết định đem chú vẹt về nhà chăm sóc. Thấy anh bảo vẹt có thể bắt chước tiếng người, Tú vô cùng hào hứng. Cậu chăm chỉ, miệt mài dạy chú vẹt tập nói.
Có hôm đang ngồi chơi với vẹt, Tú nghe anh gọi ra giúp. Do cảm thấy bị làm phiền, cậu đã cáu gắt và nói trống không với anh: "Cái gì?", "Kêu chi kêu hoài". Điều này diễn ra không chỉ một mà là rất nhiều lần.
Thời gian qua đi, vẹt xanh đã biết huýt sáo. Tuy nhiên, nó vẫn chưa chịu nói tiếng nào. Một lần Tú gọi, vẹt đã cất giọng the thé gắt lại: "Cái gì?". Nghe vậy, Tú vui mừng khôn xiết, nghĩ rằng mình đã thành công rồi. Thế là cậu đi khoe khắp nơi về việc vẹt nhỏ nhà mình biết nói.
Hôm sau, bạn bè đến nhà Tú chơi để "chiêm ngưỡng" chú vẹt. Tú hãnh diện gọi "Vẹt ơi" nhưng vẹt nhỏ lại the thé đáp "Cái gì?". Điều này khiến Tú xấu hổ, nghiêm giọng gọi lại thêm lần nữa. Khi này, vẹt nhỏ than phiền bằng giọng bất mãn: "Kêu chi kêu hoài". Thế là các bạn được dịp cười bò thích thú. Nhưng Tú lại ngồi lặng thinh, nhớ lại bao lần mình nói trống không, cằn nhằn bởi anh gọi. Nghĩ vậy, cậu hối hận vô cùng. Chú vẹt nhỏ dường như cũng biết lỗi, xù lông cổ, rụt đầu và gù một cái nghe tựa tiếng "Dạ!".
Qua câu chuyện, em cảm thấy bản thân cần biết lễ phép với người lớn hơn. Các em nhỏ đều có thể bắt chước những việc mình làm. Vậy nên ta cần cư xử mẫu mực, trở thành tấm gương sáng cho thế hệ sau.
Thuở ấy có một bà già sống độc thân nhà lại rất nghèo, suốt ngày bà phải ra đồng mò cua bắt ốc kiếm sống qua ngày. Một hôm tình cờ bà nhặt được một con ốc. Vỏ nó phủ một màu xanh biển trông rất lạ, rất xinh. Bà không nỡ bán mà đem thả vào một cái chum nước.
Lạ thay từ ngày đó trở đi, mỗi lần bà đi làm về đều thấy nhà cửa sạch sẽ, tươm tất, gọn gàng, vườn tược cây cối được vun xới, lợn gà ăn uống no say. Và một mâm cơm được sắp sẵn trên bàn. Bà quyết định tìm ra cho bằng được người đã ngấm lén giúp bà. Rồi một hôm, bà vẫn đi làm bình thường nhưng đến nửa ngày bà thấy một người con gái tuổi mới mười tám đôi mươi đẹp như tiên sa giáng trần từ trong chum nước bước ra, nhẹ nhàng đi vào nhà. Cô gái cầm chổi quét nhà, dọn dẹp nhà cửa, cho lợn gà ăn,… Lúc đó bà lặng lẽ đến bên chum nước, cầm vỏ ốc rồi lén đập vỡ ra thành từng mảnh. Nghe tiếng động, cô gái vội vàng đến bên chum nước để ẩn mình vỏ ốc, nhưng đá quá muộn. Bà lão nhìn người con gái xinh đẹp cất tiếng nói:
- Con gái ơi! Hãy ở lại với ta!
Từ đó nàng tiên Ốc trở thành người con yêu quý của bà lão. Hai mẹ con bà sống thật đầm ấm hạnh phúc.
Từ rất lâu rồi, ở ngôi làng nọ có một bà lão hiền lành, phúc hậu nhưng không có con cháu, lúc nào cũng lủi thủi một mình. Ngày ngày, bà ra ruộng mò cua bắt ốc kiếm sống qua ngày.
Một hôm, lúc đang mò ốc, bà mò được một con ốc xanh rất to và đẹp. Nhìn ngắm một hồi bà quyết định đem ốc về nuôi. Sau khi bà lão bắt đầu nuôi chú ốc xanh, ngày nào bà cũng dành thời gian nói chuyện, tâm sự với ốc, xem ốc như người thân trong nhà. Nhưng cũng từ lúc đó, ngôi nhà của bà xuất hiện nhiều điều kì lạ. Mỗi khi bà đi làm về thì sân vườn đều đã sạch tinh tươm, đàn lợn đã được ăn no, tắm mát, và trong nhà luôn có sẵn một mâm cơm ngon lành đang chờ đợi. Lúc đầu bà nghĩ là có trộm vào nhà. Nhưng suy nghĩ lại thì bà thấy không phải, mà là một người hảo tâm nào đó. Thế nhưng vì sao người tốt bụng ấy lại phải trốn như vậy. Với những trăn trở ấy, bà quyết định ngày mai sẽ rình xem mọi việc là như thế nào. Nghĩ là làm, hôm sau, bà ra khỏi nhà từ sáng sớm, sau đó, bà quay lại nhà và núp sau cây cau trước nhà để quan sát. Thì bà nhìn thấy một cô gái trẻ vô cùng xinh đẹp, mặc bộ váy màu xanh lấp lánh bước ra từ chum nước nuôi ốc. Vậy là bà hiểu ra rồi. Cô ốc đang trả ơn bà đây mà. Nhìn bóng dáng cô tất bật dọn dẹp nhà cửa. Bà sinh lòng yêu thương trìu mến. Thế là bà chạy vào đập vỡ vỏ ốc, rồi nói với nàng ốc rằng: hãy ở lại làm con gái của bà, làm người thân của bà. Cảm động trước tình cảm của bà lão, nàng tiên ốc đồng ý. Từ hôm đó, hai mẹ con sống hạnh phúc bên nhau.
Qua câu chuyện trên, em hiểu được rằng, chỉ khi mọi người đối xử với nhau bằng những tình cảm chân thành, tốt đẹp thì khi ấy chúng ta mới có thể sống hạnh phúc và vui vẻ.
Ngày xưa, tại một làng nhỏ kia có một bà lão nhà nghèo, lại không có con cháu để nương tựa. Mỗi ngày, bà phải lặn lội, bắt ốc mò cua để làm kế sinh nhai.
Bữa nọ, bà bắt được một con ốc nhò rất xinh xắn. Vỏ ốc xanh tím với những đường vân đẹp chưa từng thấy. Ngắm ốc trên tay mãi, bà lão thương ốc quá, không muốn bán. Bà liền thả vào chum nước để nuôi.
Từ ngày có ốc trong nhà, bà bỗng nhận thấy có nhiều điều khác lạ. Ngoài đồng về, bà thấy nhà cửa của mình đã có ai quét dọn sạch sẽ. Trong chuồng, đàn lợn đã được ăn no nằm yên không kêu la như mọi bữa. Trong bếp, cơm nước cũng đã được nấu sẵn tinh tươm. Ngoài sau nhà, vườn rau cũng đã dọn sạch cỏ. Mấy hôm liền đều như thế. Bà lão rất kinh ngạc, quyết tâm sẽ rình xem ai tốt bụng đã giúp đỡ mình.
Hôm sau, bà vẫn ra đồng như mọi bữa. Nhưng giữa đường, bà quay lại, rón rén núp sau cánh cửa rình xem. Bỗng thấy một nàng tiên xinh đẹp từ trong chum nước bước ra. Liền đó, bà lão bí mật đập vỡ vỏ ốc rồi ôm lấy nàng tiên và dịu dàng bảo nàng:
- Con hãy ở lại đây với mẹ.
Thế là từ đó bà lão và nàng tiên sống hạnh phúc bên nhau. Hai người thương yêu nhau như hai mẹ con.