Văn bản Chùm truyện cười dân gian Việt Nam - Nội dung, tác giả, tác phẩm

10.3 K

Tài liệu tác giả tác phẩm Chùm truyện cười dân gian Việt Nam Ngữ văn lớp 8 Kết nối tri thức gồm đầy đủ những nét chính về văn bản như: tóm tắt, nội dung chính, bố cục, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật, hoàn cảnh sáng tác, ra đời của tác phẩm, dàn ý từ đó giúp học sinh dễ dàng nắm được nội dung bài Chùm truyện cười dân gian Việt Nam lớp 8.

Tác giả tác phẩm: Chùm truyện cười dân gian Việt Nam - Ngữ văn 8

I. Tìm hiểu tác phẩm Chùm truyện cười dân gian Việt Nam

1. Thể loại

Các văn bản Lợn cưới áo mới, Treo biển, Nói dóc gặp nhau thuộc thể loại truyện cười dân gian.

2. Xuất xứ và hoàn cảnh sáng tác

Các truyện cười thuộc Kho tàng truyện tiếu lâm Việt Nam, Nguyễn Cừ - Phan Trọng Thưởng biên soạn, sưu tầm, chọn tuyển)

3. Phương thức biểu đạt

Văn bản Chùm truyện cười dân gian Việt Nam có phương thức biểu đạt là tự sự và biểu cảm,

4. Tóm tắt Chùm truyện cười dân gian Việt Nam

Truyện Lợn cưới, áo mới

Có hai anh chàng có tính hay khoe của gặp nhau. Một anh đang đi hỏi tìm lợn mất cố gắng khoe đó là con “lợn cưới”, anh còn lại cũng hí hửng khoe “áo mới” trong câu trả lời của mình.

Truyện Treo biển

Một nhà hàng bán cá treo biển “Ở đây có bán cá tươi”, trải qua những lời góp ý của những người khách khác nhau, biển được sửa rút gọn dần, cuối cùng, nhà hàng cất luôn cái biển.

Truyện Nói dóc gặp nhau

Có hai anh chàng thi nhau nói dóc. Anh thứ nhất nói về cái ghe dài không lấy gì đo được, anh thứ hai nói về cái cây cao ghê gớm. Anh thứ nhất không tin có cây cao như vậy và hóa thẹn khi nghe nói cái cây cao đó dùng để đóng chiếc he mình nói.

5. Bố cục Chùm truyện cười dân gian Việt Nam

Bố cục văn bản gồm 3 phần:

- Phần 1: Truyện Lợn cưới áo mới: phê phán tính khoe của trong cuộc sống.

- Phần 2: Truyện Treo biển: phê phán những con người sống không có chính kiến, gió chiều nào theo chiều đó.

- Phần 3: Truyện Nói dóc gặp nhau: phê phán những con người khoác loác trong đời sống.

6. Giá trị nội dung

Các truyện cười nhằm phê phán, đả kích những thói hư tật xấu trong xã hội.

7. Giá trị nghệ thuật

- Xây dựng các mâu thuẫn và đẩy các mâu thuẫn đó lên đến đỉnh điểm trong những tình huống kịch tính, giải quyết bất ngờ, hợp lí.

- Ngôn ngữ giản dị.

- Sử dụng nhiều yếu tố gây cười khác nhau: hành động, cử chỉ, câu nói…có tác dụng gây cười.

II. Tìm hiểu chi tiết tác phẩm Chùm truyện cười dân gian Việt Nam

1. Lợn cưới áo mới

* Những của được đem khoe

Một cái áo mới may

+ Một con lợn để cưới

 Những cái rất bình thường

 Đáng cười, lố bịch. Chế giễu tính khoe khoang, nhất là khoe của.

* Cách khoe của

- Anh lợn cưới:

+ Đang tìm lợn xổng

+ Hỏi to, nhấn mạnh từ “cưới”.

 Lẽ ra phải hỏi “anh có thấy con lợn đen (hoặc trắng, lang) của tôi chạy qua đây không?

+ Mục đích: Khoe lợn, khoe của.

- Anh áo mới:

+ Đứng hóng ở của để đợi người ta khen.

+ Kiên trì đứng đợi từ sáng đến chiều.

+ Giơ vạt áo, bảo: Từ lúc tôi...”.

 Điệu bộ lố bịch, tức cười; thừa hẳn một vế.

 Chế giễu, phê phán những người có tính hay khoe của, một tính xấu khá phổ biến trong xã hội.

2. Treo biển

a. Treo biển quảng cáo

- Ở đây có bán cá tươi

- Biển có 4 yếu tố, thông báo 4 nội dung:

+ ở đây: thông báo địa điểm cửa hàng.

+ có bán: thông báo hoạt động.

+ cá: thông báo mặt hàng bán.

+ tươi: thông báo chất lượng hàng.

  Biển ghi hợp lí, các thông tin đầy đủ, chính xác, không cần thêm bớt chữ nào.

b. Những góp ý về cái biển

- Có 4 người góp ý về cái biển

+ Lần 1: người qua đường: thừa chữ tươi.

+ Lần 2: khách góp ý: bỏ “ở đây”.

+ Lần 3: khách góp ý: bỏ “có bán”.

+ Lần 4: người láng giềng: bỏ “cá”.

 Các ý kiến đều mang tính cá nhân, chủ quan và ngụy biện.

 Tình huống cực đoan, vô lí và cách giải quyết một chiều.

  Gây cười ở sự thống nhất giữa các ý

kiến với nhau là cùng chê bai sự dài dòng của tấm biển, gây cười ở chỗ sự chiều khách, lắng nghe và nhất nhất làm theo mọi lời khuyên, không cần suy nghĩ của nhà hàng.

c. Sự tiếp thu của nhà hàng

- Mỗi lần nghe góp ý nhà hàng làm theo ngay không cần suy nghĩ.

- Cái biển được cất đi.

→ Cái ngược đời phi lí, trái tự nhiên làm tiếng cười bật ra.

3. Nói dóc gặp nhau

- Người thứ nhất miêu tả chiếc ghe: dài không lấy gì đo cho xiết. Một người tuổi hai mươi đứng ở đầu mũi bắt đầu đi ra đằng lái; đi đến giữa cột buồm thì đã già, râu tóc bạc phơ, cứ thế đi, đến chết vẫn chưa tới lái.

 Lời nói của anh đầu tiên thể hiện tính cách nói khoác lác, ba hoa.

- Người thứ hai miêu tả cái cây:

+ Cao ghê gớm. Có một con chim đậu trên cành cây ấy, đánh rơi một hột đa. Hột đa rơi xuống lưng chừng gặp mưa, gặp bụi rồi nảy mầm, đâm rễ thành cây đa. Cây đa lớn lên, sinh hoa, kết quả, hột đa ở cây đa đó lại rơi vãi ra, đâm chồi nảy lộc thành nhiều cây đa con. Đa con lớn lên, sinh hoa kết quả, lại nảy ra đàn cây đa cháu, cứ thế mãi cho đến khi rơi tới đất thì đã bảy đời tất cả.

Nếu không có cây cao như thế thì lấy đâu ra ỗ để đóng chiếc ghe của anh? à Chi tiết gây cười.

 Lời nói của anh thứ hai tuy khoác lác nhưng ngụ ý nhằm chê bai, phê phán thói nói dóc của anh thứ nhất.

III. Đọc tác phẩm Chùm truyện cười dân gian Việt Nam

LỢN CƯỚI, ÁO MỚI

Anh nọ tính hay khoe của, một hôm mua được cái áo mới bèn mặc vào, ra cửa đứng để mong có ai đi qua người ta khen. Nhưng đứng từ sáng đến chiều, chẳng thấy ma nào ngó đến. Đang lúc ấy, bỗng thấy một anh cũng có tính hay khoe của, chạy qua cửa hỏi to lên rằng:

- Tôi có con lợn cưới, bác có thấy nó chạy qua đây không?

Anh ta liền phanh hai vạt áo ra mà trả lời:

- Này bác có lợn kia ơi! Từ lúc mặc cái áo mới này, tôi chẳng thấy có con lợn nào chạy qua đây cả.

TREO BIỂN

Một cửa hàng bán cá làm cái biển đề mấy chữ to tướng:

“Ở ĐÂY CÓ BÁN CÁ TƯƠI”. Biển vừa treo lên, có người qua đường xem, cười bảo:

- Nhà này xưa nay quen bán cá ươn hay sao mà bây giờ lại phải đề biển là “cá tươi”?

Nhà hàng nghe nói, bỏ ngay chữ “tươi” đi.

Hôm sau, có người khác đến hỏi cá, cũng nhìn lên biển cười bảo:

- Chẳng lẽ người ta đến hàng hoa mua cá hay sao mà phải đề là “ở đây”?

Nhà hàng nghe nói, bỏ ngay hai chữ “ở đây” đi.

Cách vài hôm lại có người khác đến mua cá, mua xong, cũng nhìn lên biển, cười bảo:

- Ở đây chẳng bán cá thì bày cá ra để khoe hay sao mà phải đề là “có bán”?

Nhà hàng nghe thấy cũng có lí liền bỏ hai chữ “có bán” đi. Thành ra chỉ còn mỗi một chữ “cá”, trong bụng chắc từ giờ chẳng còn ai bắt bẻ gì được nữa.

Vài hôm sau nữa, người láng giềng sang chơi, nhìn cái biển nói:

– Chưa đi đến đầu phố, đã ngửi thấy mùi tanh, đến gần đầy những cá, ai chẳng biết mà còn để biển làm gì nữa.

Thế là nhà hàng cất cái biển đi luôn.

NÓI DÓC GẶP NHAU

Có một anh đi làm ăn xa lâu ngày về làng, bà con xúm đến hỏi chuyện lạ phương xa. Anh nọ được dịp, trổ tài nói dóc:

– Nhiều cái lạ lắm, nhưng lạ nhất là chuyện này: Có một cái ghe dài không lấy gì đo cho xiết. Một người tuổi hai mươi đứng ở đầu mũi bắt đầu đi ra đằng lái; đi đến giữa cột buồm thì đã già, râu tóc bạc phơ, cứ thế đi, đến chết vẫn chưa tới lái.

Trong làng ấy có một anh nói dóc khác, nghe thấy chuyện anh kia, liền kể ngay một câu chuyện khác:

– Thế đã lấy chi làm lạ! Tôi đi rừng thấy một cây cao ghê gớm. Có một con chim đậu trên cành cây ấy, đánh rơi một hột đa. Hột đa rơi xuống lưng chừng gặp mưa, gặp bụi rồi nảy mầm, đâm rễ thành cây đa. Cây đa lớn lên, sinh hoa, kết quả, hột đa ở cây đa đó lại rơi vãi ra, đâm chồi nảy lộc thành nhiều cây đa con. Đa con lớn lên, sinh hoa kết quả, lại nảy ra đàn cây đa cháu, cứ thế mãi cho đến khi rơi tới đất thì đã bảy đời tất cả.

Anh chàng đi xa về nghe thế cãi:

– Làm gì có cây cao vậy? Không thể tin được.

Anh kia lúc đó mới cười:

- Nếu không có cây cao như thế thì lấy đâu ra gỗ để đóng chiếc ghe của anh?

Xem thêm các bài tìm hiểu Tác giả, tác phẩm Ngữ văn lớp 8 Kết nối tri thức hay, chi tiết khác:

Tác giả - tác phẩm: Trưởng giả học làm sang

Tác giả - tác phẩm: Chùm truyện cười dân gian Việt Nam

Tác giả - tác phẩm: Chùm ca dao trào phúng

Tác giả - tác phẩm: Giá không có ruồi

Tác giả - tác phẩm: Mắt sói

Đánh giá

0

0 đánh giá