Bài thơ Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu - Trần Tế Xương - Nội dung, tác giả, tác phẩm

26.6 K

Tài liệu tác giả tác phẩm Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu Ngữ văn lớp 8 Kết nối tri thức gồm đầy đủ những nét chính về văn bản như: tóm tắt, nội dung chính, bố cục, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật, hoàn cảnh sáng tác, ra đời của tác phẩm, dàn ý từ đó giúp học sinh dễ dàng nắm được nội dung bài Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu lớp 8.

Tác giả tác phẩm: Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu - Ngữ văn 8

I. Tác giả Trần Tế Xương

Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu - Tác giả tác phẩm (mới 2023) | Ngữ văn lớp 8 Kết nối tri thức

- Trần Tế Xương (1870 - 1907) thường gọi là Tú Xương

- Quê quán: làng Vị Xuyên - huyện Mĩ Lộc - tỉnh Nam Định (nay thuộc phường Vị Hoàng, thành phố Nam Định).

- Cuộc đời ngắn ngủi, nhiều gian truân:

+ Cuộc đời ông chỉ gắn liền với thi cử, tính ra có tất cả tám lần. Đó là các khoa: Bính Tuất (1886); Mậu Tý (1888); Tân Mão (1891); Giáp Ngọ (1894); Đinh Dậu (1897); Canh Tý (1900); Quý Mão (1903) và Bính Ngọ (1906).

+ Sau 3 lần hỏng thi mãi đến lần thứ tư khoa Giáp Ngọ (1894) ông mới đậu tú tài, nhưng cũng chỉ là tú tài thiên thủ (lấy thêm).

+ Sau đó không sao lên nổi cử nhân, mặc dù đã khá kiên trì theo đuổi. Khoa Quý Mão (1903) Trần Tế Xương đổi tên thành Trần Cao Xương tưởng rằng bớt đen đủi, nhưng rồi hỏng vẫn hoàn hỏng.

- Thơ của Tế Xương có sự kết hợp hài hòa giữa các yếu tố hiện thực, trào phúng và trữ tình trong đó trữ tình là gốc.

- Bức tranh hiện thực trong thơ Tế Xương là một bức tranh xám xịt, dường như chỉ có rác rưởi, đau buồn, vì hiện thực thối nát của xã hội thực dân - nửa phong kiến.

- Với giọng văn châm biếm sâu cay, thơ văn của ông đã đả kích bọn thực dân phong kiến, bọn quan lại làm tay sai cho giặc, bọn bán rẻ lương tâm chạy theo tiền bạc, bọn rởm đời lố lăng trong buổi giao thời.

- Với khoảng trên 100 bài, chủ yếu là thơ Nôm, gồm nhiều thể thơ (thất ngôn bát cú, thất ngôn tứ tuyệt, lục bát) và một số bài văn tế, phú, câu đối,...

- Một số tác phẩm như: Vịnh khoa thi Hương, Giễu người thi đỗ, Ông cò, Phường nhơ, Thương vợ, Văn tế sống vợ,...

II. Tìm hiểu tác phẩm Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu

1. Thể loại

Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu thuộc thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật.

2. Xuất xứ và hoàn cảnh sáng tác

- Sau khi Pháp tiến hành cuộc xâm lược, văn hóa phương Tây tràn nhanh qua Việt Nam, Hán học đến thời kì suy tàn, các nho sĩ thi nhau đem vứt bút lông chuyển sang dùng bút sắt. Chính vì vậy, các kì thi truyền thống không còn giữ được sự nghiêm túc, khắt khe như trước, thay vào đó là sự bát nháo, hỗn độn.

- Vào khoa thi năm 1897 (năm Đinh Dậu), kì thi Hương ba năm diễn ra một lần vốn từ xưa đều được tổ chức ở Hà Nội, nay bị Pháp bãi bỏ và tổ chức chung cho thí sinh ở trường Nam Định thi cùng với thí sinh trường Hà Nội. Chứng kiến hiện thực đầy bát nháo, đau xót đó, Tú Xương đã sáng tác bài thơ này.

Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu - Tác giả tác phẩm (mới 2023) | Ngữ văn lớp 8 Kết nối tri thức

3. Phương thức biểu đạt

Bài thơ Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu có phương thức biểu đạt là biểu cảm.

4. Bố cục bài thơ Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu

Bố cục gồm 3 phần:

- Phần 1: Hai câu thơ đầu. Giới thiệu về khoa thi năm Đinh Dậu.

- Phần 2. Bốn câu thơ tiếp theo. Cảnh trường thi trong thực tế.

- Phần 3. Hai câu thơ còn lại. Thái độ, tâm trạng của nhà thơ.

5. Tóm tắt Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu

Bài thơ ghi lại cảnh “nhập trường” vừa ghi lại cảnh lễ xướng danh qua đó nói lên tâm trạng đau đớn, chua xót của nhà thơ trước hiện thực mất nước, giao thời nhốn nháo, nhố nhăng.

6. Giá trị nội dung

- Vịnh khoa thi hương là bài thơ thuộc đề tài thi cử – một đề tài khá đậm nét trong sáng tác của Tú Xương. Qua việc tái hiện hình ảnh thảm hại của kì thi năm Đinh Dậu (1897) tại trường Hà Nam, nhà thơ bày tỏ sự xót xa, đau đớn của con người trước tình cảnh thảm hại của các nhà Nho vào thời kì mạt vận của Nho học. 

- Một phần hiện thực nhốn nháo, ô hợp của xã hội thực dân nửa phong kiến buổi đầu đã được tái hiện lại đồng thời nói lên tâm sự của mình trước tình cảnh đất nước

7. Giá trị nghệ thuật

- Nghệ thuật đối, đảo ngữ.

- Ngôn ngữ có tính chất khẩu ngữ, trong sáng, giản dị nhưng giàu sức biểu cảm.

III. Tìm hiểu chi tiết tác phẩm Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu

1. Hai câu đề

- Hai câu đề giới thiệu một nét mới của khoa thi Đinh Dậu:

Nhà nước ba năm mở một khoa

Trường Nam thi lẫn với trường Hà

- Thời gian mở khoa thi: Ba năm mở một khoa.

- Hình thức thi: Trường Nam thi lẫn với trường Hà.

à Sự lộn xộn, láo nháo, lôi thôi, thiếu nề nếp, quy củ của cuộc thi.

=> Sự lộn, nhốn nháo, thấy được tình cảnh của đất nước, sự áp đảo của ngoại bang.

2. Hai câu thực

Hai câu thực miêu tả cảnh nhập trường và xướng danh bằng hai nét vẽ rất đặc sắc:

Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ

Ậm ọe quan trường miệng thét loa

- Sĩ tử:

+ Vai đeo lọ à dáng dấp luộm thuộm

+ Lôi thôi sĩ tử: đảo ngữ à nhấn mạnh vẻ nhếch nhác, không gọn gàng của những sĩ tử.

=> Câu thơ vẽ nên viễn cảnh hài hước, chua chát. Họ không có tư thế của những sĩ tử đi thi, của người làm chủ kiến thức trong kì thi.

- Quan trường: dáng vẻ ra oai, nạt nộ

+ Ậm ọe quan trường: đảo ngữ à làm nổi bật đối tượng người coi thi nói năng ậm ọe, ấp úng, ra oai, gượng gạo.

+ Miệng thét loa: sự nhốn nháo, quá lộn xộn của cảnh trường thi.

=> Trường thi không còn là chốn tôn nghiêm, nề nếp nữa, quá lộn xộn, quá ồn ào, khác nào cảnh họp chợ, nên quan trường mới ậm ọe và thét loa như thế.

=> Tú Xương đối rất chỉnh làm hiện lên hai hình ảnh trung tâm của trường thi. Sĩ tử thì lôi thôi nhếch nhác, mất di cái vẻ nho nhã thư sinh. Quan trường, giám thị cũng chẳng còn cáu phong thái nghiêm trang, trịnh trọng vốn có.

3. Hai câu luận

Hai câu luận tô đậm bức tranh Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu bằng hai bức biếm họa về ông Tây và mụ đầm:

Cờ kéo rợp trời, quan sứ đến

Váy lê quét đất, mụ đầm ra

- Quan sứ, mụ đầm à làm tăng sự lố bịch của cuộc thi.

- Cờ kéo rợp trời: đón tiếp trang nghiêm, linh đình.

- Váy lê quét đất: cách ăn mặc lòe loẹt, lố lăng.

=> Sự phô trường về hình thức, nhố nhăng, lôi thôi.

- Phép đối:

Quan sứ >< bà đầm

Cờ kéo >< váy lê

=> Bức tranh biếm họa về trường thi đầy rẫy những đối lập, ngược đời, trớ trêu.

=> Nghệ thuật trào phúng độc đáo trong phép đối của Tú Xương thể hiện nỗi đau, nỗi nhục mất nước được cực tả một cách cay đắng, lạnh lùng qua cặp câu luận này.

4. Hai câu kết

- Hai câu kết như một lời than. Nguồn mạch trữ tình như được chiết xuất ra từ những điều mắt thấy, tai nghe, từ những nhố nhăng, lôi thôi, lộn xộn trong ngoài, trên dưới nơi trường Nam năm Đinh Dậu:

Nhân tài đất Bắc nào ai đó

Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà

- Câu hỏi: Nhân tài đất Bắc nào ai đó à lời kêu gọi những người có lòng tự tôn dân tộc hãy thức tỉnh để trông cảnh nước nhà.

- Ngoảnh cổ: thái độ, tâm thế không cam tâm sống mãi trong cảnh đời nô lệ.

- Cảnh nước nhà: hiện trạng đất nước và nỗi nhục mất nước.

=> Tú Xương là một trong hàng vạn sĩ tử dự khoa thi Hương năm Đinh Dậu. Ông là người tham dự, là người chứng kiến,… Từ nỗi đau của người hỏng thi mà ông ngẫm về cái nhục của sĩ tử, của trí thức, của nhân tài đất Bắc. Thể hiện tấm lòng yêu nước, căm ghét bọn thực dân xâm lược, thức tỉnh lòng tự tôn dân tộc.

IV. Đọc tác phẩm Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu

“Nhà nước ba năm mở một khoa
Trường Nam thi lẫn với trường
Hà Lôi thôi sĩ tử vai đeo
lọ Ậm ọe quan trường miệng thét loa.
Cờ cắm rợp trời quan sứ đến
Váy lê phết đất mụ đầm ra.
Nhân tài đất Bắc nào ai đó
Ngoảnh cổ mà trông lại nước nhà”.

Xem thêm các bài tìm hiểu Tác giả, tác phẩm Ngữ văn lớp 8 Kết nối tri thức hay, chi tiết khác:

Tác giả - tác phẩm: Chiếu dời đô

Tác giả - tác phẩm: Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu

Tác giả - tác phẩm: Lai Tân

Tác giả - tác phẩm: Một số giọng điệu của tiếng cười trong thơ trào phúng

Tác giả - tác phẩm: Vịnh cây vông

Đánh giá

5

2 đánh giá

2
Gialong Gialong

Gialong Gialong

2023-11-19 07:57:40
Hay dễ hiểu