Tailieumoi.vn xin giới thiệu bài văn mẫu Đoạn văn phân tích chi tiết có tính chất trào phúng trong Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu Ngữ văn 8 ,Kết nối tri thức gồm 10 bài văn phân tích mẫu hay nhất giúp các em học sinh có thêm tài liệu tham khảo trong quá trình ôn tập, củng cố kiến thức và chuẩn bị cho bài thi sắp tới.
Đoạn văn phân tích chi tiết có tính chất trào phúng trong Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu
Đề bài: Viết đoạn văn (khoảng 7 – 9 câu) phân tích một chi tiết có tính chất trào phúng mà em ấn tượng nhất trong bài thơ Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu.
Đoạn văn phân tích chi tiết có tính chất trào phúng trong Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu - Mẫu 1
Bài thơ Lễ xướng danh khoa thi Đinh Dậu đã miêu tả lễ xướng danh khoa thi tại trường Nam 1897, thể hiện thái độ mỉa mai, phẫn uất của nhà thơ đối với chế độ khoa cử nhốn nháo:
“Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ
Ậm ọe quan trường miệng thét loa”
Chỉ một từ “lôi thôi” được đảo ra phía trước, nhấn mạnh là hình ảnh của sĩ tử bị chìm trong sự nhếch nhác. Sĩ tử mà bút mực đâu không thấy, chỉ nổi bật lủng lẳng một cái lọ (vì đường xa, phải đeo theo lọ nước uống). Hàng ngàn “sĩ tử vai đeo lọ” thì lôi thôi thật, là bức tranh biếm họa để đời về anh học trò đi thi trong thời buổi thực dân nhố nhăng. Còn quan trường thì “ậm ọe” giọng như mửa, sĩ tử thì đông vì dồn cả hai trường thi lại nên quan trường phải “thét loa” lại còn lên giọng đe nẹt sĩ tử nên thành ra “ậm ọe” tởm lợm thật đáng ghét. Thái độ trào lộng của nhà thơ thật rõ ràng. Đối với “sĩ tử”, Tú Xương thấy nhếch nhác đáng thương; đối với “quan trường”, Tú Xương khinh ghét ra mặt. Quan trường của một kì thi quốc gia bát nháo mà còn “ậm ọe” không biết nhục.
Đoạn văn phân tích chi tiết có tính chất trào phúng trong Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu - Mẫu 2
Trong bài thơ “Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu”, Tú Xương đã xây dựng nhiều chi tiết trào phúng. Nhưng tôi cảm thấy ấn tượng nhất với chi tiết khắc họa hình ảnh sĩ tử và quan trường. “Sĩ tử” vốn là những người thuộc tầng lớp trí thức trong xã hội phong kiến, theo nghiệp bút nghiên nên mang phong thái nho nhã. Nhưng hình ảnh “sĩ tử” ở đây lại hiện lên thật lôi thôi, nhếch nhác. Cách sử dụng biện pháp tu từ đảo ngữ, đưa từ láy “lôi thôi” lên đầu câu thơ đã gây ấn tượng mạnh cho người đọc. Không chỉ vậy, khung cảnh trường thi lúc này không còn là chốn tôn nghiêm mà trở nên ồn ào, chẳng khác nào cảnh họp chợ nên quan trường mới “ậm oẹ” và “thét loa” - những người coi thi cũng chẳng còn cái phong thái nghiêm trang, trịnh trọng vốn có. Qua chi tiết này, người đọc cười đấy mà cũng buồn đấy trước tình cảnh đất nước lúc bấy giờ.
Đoạn văn phân tích chi tiết có tính chất trào phúng trong Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu - Mẫu 3
Bài thơ Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu của Tú Xương đã khắc họa khung cảnh trường thi nhốn nháo, để làm bật lên tiếng cười chua chát về cảnh ngộ mất nước trong buổi đầu của xã hội thực dân nửa phong kiến. Trong bài thơ, tôi đặc biệt ấn tượng với chi tiết về sự xuất hiện của ông Tây và mụ đầm: “Lọng cắm rợp trời: quan sứ đến;/Váy lê quét đất, mụ đầm ra.”. Một kì thi mang tính trọng đại của đất nước. Nhưng hình ảnh xuất hiện ở đây - “lọng cắm rợp trời” gợi tả cảnh đón tiếp dành cho “quan sứ” - lũ cướp nước đầy long trọng. Không chỉ vậy, từ xưa, chốn trường thi là nơi tôn nghiêm, lễ giáo phong kiến vốn trọng nam khinh nữ, phụ nữ không được đến. Vậy mà bây giờ lại có hình ảnh “mụ đầm ra” với “váy lê quét đất” càng làm tăng thêm sự nực cười. Qua chi tiết này, chúng ta thấy được sự suy thoái của đất nước lúc bấy giờ. Tiếng cười trước cảnh tượng lố lăng nơi trường thi nhưng cũng là tiếc khóc cho cảnh ngộ mất nước lúc bấy giờ.
Đoạn văn phân tích chi tiết có tính chất trào phúng trong Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu - Mẫu 4
Hai câu đề giới thiệu một nét mới của khoa thi Đinh Dậu:
Nhà nước ba năm mở một khoa,
Trường Nam thi lẫn với trường Hà.
Việc thi cử ngày xưa là của vua, của triều đình nhằm mục đích kén chọn kẻ sĩ tài giỏi, chọn nhân tài ra làm quan giúp vua, giúp nước. Bây giờ nước ta đã bị thực dân Pháp thống trị, việc thi cử vẫn còn thi chữ Hán theo lộ cũ “ba năm mở một khoa” nhưng đã cuối mùa. Và kẻ chủ xướng ra các khoa thi ấy là nhà nước là chính phủ bảo hộ. Câu thơ thứ hai nêu lên tính chất hỗn tạp của kì thi này: “Trường Nam thi lẫn với trường Hà”. Đời Nguyễn, ở Bắc Kì có hai trường thi Hương là trường thi Hà Nội và trường thi Nam Định. Tây thực dân chiếm trường thi Hà Nội, nên mới có chuyện sĩ tử Hà Nội phải thi lẫn với trường Hà như thế. Theo Nguyễn Tuân cho biết khoa thi 1894, trường thi Nam Định có mười một ngàn sĩ tử, đỗ 60 cử nhân và 200 tú tài. Tú Xương đỗ tú tài khoa thi đó. Chắc chắn khoa thi Hương năm Đinh Dậu số người dự thi còn đông hơn nhiều!
Đoạn văn phân tích chi tiết có tính chất trào phúng trong Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu - Mẫu 5
Hai câu luận tô đậm bức tranh “Lễ xướnq danh khoa Đinh Dậu” bằng hai bức biếm hoạ về ông Tây và mụ đầm. Tài liệu cũ cho biết, năm đó toàn quyền Paul Doumer và vợ chồng tên công sứ Nam Định Le Normand đã đến dự. Các ông cử lẫn khoa, các ông tú mền, tu kép... phải cúi rạp mình xuống mà lạy ông Tây, lay mụ đầm “váy lê quét đất”, “ghế trên, ngoi đít vịt”. Cái nhục của hàng vạn sĩ tử Bắc Hà không thể nào kể hết:
Lọng cắm rợp trời, quan sứ đến,
Váy lê quét đất, mụ đầm ra.
Tây thực dân đang đè đầu cưỡi cổ dân ta. Hình ảnh “Lọng cắm rợp trời” gợi tả cảnh đón tiếp dành cho “quan sứ”, lũ ăn cướp đất nước ta, một nghi lễ cực kì long trọng. Đó là nỗi đau mất nước. Từ xưa tới năm ấy (1897) chốn trường thi là nơi tôn nghiêm, lễ giáo phong kiến vốn trọng nam khinh nữ, đàn bà đâu được bén mảng đến nơi kén chọn nhân tài. Thế mà bây giờ, không chỉ “mụ đầm ra” mụ đầm đến với “váy lẽ quét đất” mà còn bày ra giữa thanh thiên bạch nhật một nghịch cảnh vô cùng nhục nhã:
Trên ghế, bà đầm ngoi đít vịt
Dưới sân, ông cử ngỏng đầu rồng.
Nguyễn Tuân đã nói về nỗi nhục đó như sau: “Không đỗ cũng cực, mà đỗ để phải phủ phục xuống mà lạy Tây, lạy cả đầm, thì quả là nhục”.
Đoạn văn phân tích chi tiết có tính chất trào phúng trong Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu - Mẫu 6
Nguồn mạch trữ tình như được chiết xuất ra từ những điều mắt thấy tai nghe, từ những nhố nhăng, lôi thôi, lộn xộn trong ngoài, trên dưới nơi trường Nam năm Đinh Dậu:
Nhân tài đất Bắc nào ai đó,
Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà.
Câu thơ như một lời than; trong lời kêu gọi hàm chứa bao nỗi xót xa, tủi nhục và cay đắng. Nhân tài đất Bắc là những ông nghè, ông cống, những con người có lòng tự tôn dân tộc,... ở vùng Sơn Nam, ở Kinh kì Thăng Long ngàn năm văn hiến, nơi hội tụ nhân tài, tinh hoa của đất nước. Ba tiếng “nào ai đó” phiếm chỉ càng làm cho tiếng than, lời kêu gọi trở nên thấm thía, lay gọi thức tỉnh. Chữ “ngoảnh cổ” gợi lả một thái độ, một tâm thế không thể cam tâm sống nhục mãi trong cảnh đời nô lệ. Phải biết “ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà”. “Cảnh nước nhà” là cái cảnh nhục nhã:
Vua là tượng gỗ, dân là thân trâu...
(...) Kẻ chức bồi người tước cu li
Thông ngôn, kí lục chi chi
Mãn đời, lính tập, trọn vị quan sang
(Á tế Á ca)
Tú Xương là một trong hàng vạn sĩ tử dự khoa thi Hương năm Đinh Dậu. Ông là người tham dự, là người chứng kiến,... Từ nỗi đau của người hỏng thi mà ông ngẫm về cái nhục của sĩ tử, của trí thức, của nhân tài đất Bắc. Nỗi đau nhục về mất nước như ngưng đọng uất kết lại thành tiếng thở dài, lời than, có cả những dòng lệ...
Đoạn văn phân tích chi tiết có tính chất trào phúng trong Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu - Mẫu 7
Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu là một trong những bài thơ trào phúng của Tú Xương. Chi tiết có tính chất trào phúng trong bài khiến tôi đặc biệt ấn tượng là khung cảnh nhập trường và xướng danh hiện lên vô cùng khôi hài:
“Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ,
Ậm ọe quan trường miệng thét loa.”
“Sĩ tử” là tư dùng để chỉ tầng lớp trí thức trong xã hội phong kiến, đi theo nghiệp bút nghiên. Họ thường có phong thái nho nhã, điềm tĩnh. Nhưng hình ảnh “sĩ tử” trong bài thơ lại được miêu hiện lên với vẻ lôi thôi, nhếch nhác. Khung cảnh trường thi vốn là nơi trang nghiêm mà giờ chẳng khác nào cảnh họp chợ, viên quan coi trường thi thì “ậm oẹ” và “thét loa” - nhốn nháo không khác gì nơi chợ búa. Một chi tiết nhỏ nhưng cũng phản ánh được hiện thực đất nước lúc bấy giờ.
Đoạn văn phân tích chi tiết có tính chất trào phúng trong Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu - Mẫu 8
Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu là một tác phẩm thơ trào phúng nổi bật của nhà thơ Trần Tế Xương. Em ấn tượng nhất trong bài thơ là hình ảnh những sĩ tử và quan trường được nhà thơ khắc họa bằng giọng điệu mỉa mai, châm chọc. Vốn lẽ, những sĩ tử đến đây đều là các thanh niên tài giỏi, thấu hiểu lễ nghĩa, là tương lai của đất nước. Nhưng lại xuất hiện với dáng vẻ lôi thôi, xộc xệch như những kẻ lang thang. Còn các quan trường vốn là người giữ chức vụ coi thi, phải là người học rộng, hiểu sâu, hành xử lịch sự, từ tốn với dáng vẻ oai nghiêm. Thì lại được nhà thơ gợi lên với dáng vẻ ậm oẹ thét loa. Từ gợi tả âm thanh ấy đã khắc họa dáng vẻ hèn mọn, kệch cỡm của những kẻ cầm trịch trong hội thi năm đó. Sự kết hợp của người thi kẻ quản đó tạo nên một trường thi thật là nhếch nhác. Mỗi từ được nhà thơ Trần Tế Xương sử dụng đều góp phần tô đậm sự trào phúng, chê cười của những đối tượng xuất hiện trong khoa thi.
Đoạn văn phân tích chi tiết có tính chất trào phúng trong Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu - Mẫu 9
Trước thảm cảnh đất nước bị chính quyền thực dân tàn phá, thơ của Tú Xương trở thành một bức tranh hiện thực, thể hiện sự đau xót của người con Nam bản xứ và đồng thời tố cáo tội ác tàn ác của thực dân. Trong số các tác phẩm của ông, bài thơ Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu là một tác phẩm mang tính trào phúng ấn tượng nhất với câu thơ: "Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ, Ậm ọe quan trường miệng thét loa." Từ "lôi thôi" được đặt ở đầu câu, nhấn mạnh sự bừa bãi, không gọn gàng của những "sĩ tử" bởi thông thường, những người tham gia kỳ thi là những người học sách, lịch sự và chỉn chu. Tuy nhiên bây giờ, thí sinh đi thi trông mệt mỏi, mang theo lọ chai và không còn diện mạo lịch sự của người học sách. Một nhóm nhỏ nhưng đủ để tượng trưng cho sự suy đồi của toàn bộ xã hội. Nếu thí sinh không còn vẻ nho nhã và tri thức, thì giám khảo cũng không còn sự nghiêm túc và đáng kính như trước, chỉ còn hình ảnh họ "thét loa" như trên chợ, nói mà còn "ậm ọe" chẳng thành câu. Một lần nữa, từ miêu tả "ậm ọe" được đặt ở đầu câu, tương tự như "lôi thôi" ở trên, nhấn mạnh sự vô tài của các quan trông trường thi. Họ chỉ là những người tự cao tự đại, không có tài năng và quyền lực thực sự. Trước mắt người đọc hiện lên hình ảnh một kỳ thi hỗn độn, quan trông thi luôn miệng hống hách, quát tháo, còn sĩ tử đi thi thì lôi thôi, bừa bãi, lảng vảng, mang theo lọ chai giấy tùy tiện.
Đoạn văn phân tích chi tiết có tính chất trào phúng trong Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu - Mẫu 10
Hai câu thực miêu tả cảnh nhập trường và xướng danh bằng hai nét vẽ rất đặc sắc. Vì là người trong cuộc nên Tú Xương mới làm nổi bật cái thần của quang cảnh trường thi như vậy. Dáng hình sĩ tử thì “vai đeo lọ” trông thật nhếch nhác, “lôi thôi”. Sĩ tử là người đi thi, là những trí thức trong xã hội phong kiến từng theo nghiệp bút nghiên. Trong đám sĩ tử “lôi thôi” sẽ xuất hiện những ông cử, ông tiến sĩ, ông tú nay mai. Câu thơ “Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ” là một cảnh hài hước, chua chát. Đảo ngữ hai chữ “lôi thôi” lên đầu câu thơ gây ấn tượng nhếch nhác đáng buồn “vai đeo lọ”. Lọ mực hay lọ đựng nước uống trong ngày thi? Đạo học (chữ Hán) đã cuối mùa, “Sĩ khí rụt rè gà phải cáo - Văn chương liều lĩnh đấm ăn xôi” nên trường thi mới có hình ảnh mỉa mai “Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ” ấy.
Nét vẽ thứ hai cũng thật tài tình:
Ậm oẹ quan trường miệng thét loa.
Ậm oẹ nghĩa là ra bộ nạt nộ, hăm doạ. Cấu trúc câu thơ đảo ngữ đưa hai tiếng tượng thanh “ậm oẹ” lên đầu câu thơ để làm nổi bật hình ảnh các quan trường “miệng thét loa”. Trường thi không còn là chốn tôn nghiêm nền nếp nữa, quá lộn xộn, quá ồn ào, khác nào cảnh họp chợ, nên quan trường mới “ậm oẹ” và “thét loa” như thế. Tú Xương đối rất chỉnh làm hiện lên hai hình ảnh trung tâm của trường thi. Sĩ tử thì lôi thôi nhếch nhác, mất đi cái vẻ nho nhã thư sinh. Quan trường, giám thị, giám khảo cũng chẳng còn cái phong thái nghiêm trang, trịnh trọng vốn có. Bức tranh nhị bình biếm hoạ độc đáo này gợi lại cảnh hoàng hôn của chế độ phong kiến ở nước ta:
Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ,
Ậm oẹ quan trường miệng thét loa.