Tailieumoi.vn xin giới thiệu đến các quý thầy cô, các em học sinh đang trong quá trình ôn tập tài liệu Soạn văn lớp 8: Ông đồ mới nhất, tài liệu bao gồm 2 trang, trả lời đầy đủ các câu hỏi lý thuyết chuẩn bị bài trong sách giáo khoa Ngữ văn 8, giúp các em học sinh có thêm tài liệu tham khảo trong quá trình ôn tập, củng cố kiến thức và chuẩn bị cho kì thi môn Văn sắp tới. Chúc các em học sinh ôn tập thật hiệu quả và đạt được kết quả như mong đợi.
Mời các quý thầy cô và các em học sinh cùng tham khảo và tải về chi tiết tài liệu dưới đây:
Soạn Văn: Ông đồ (Vũ Đình Liên)
Bài giảng: Ông đồ
Bố cục chia làm 3 phần:
- Phần 1 (khổ 1, 2): Hình ảnh ông đồ xưa.
- Phần 2 (khổ 3, 4): Hình ảnh ông đồ nay.
- Phần 3 (khổ 5): Nỗi hoài niệm của tác giả đối với ông đồ.
Câu 1:
- Trong 2 khổ thơ đầu: Hình ảnh ông Đồ viết chữ nho ngày Tết là một hình ảnh đẹp. Đấy là
cái thời đắc ý của ông. Ông xuất hiện cùng với "hoa đào", "mực tàu", "giấy đỏ". Ông đem
lại niềm vui cho nhiều người khi viết câu đối tết. Bao nhiêu người nhờ ông, tấm tắc khen
ngợi ông.
- Khổ 3+4: Vẫn diễn tả không gian ấy, thời gian ấy, nhưng không khí khác: Vắng vẻ theo
từng năm, đến giờ thì hầu như không còn "người thuê viết". Giấy cũng buồn, mực cũng sầu.
Ông đồ vẫn có mặt, nhưng người ta không ai nhận ra ông, không chú ý vào ông nữa. Ông
gần như bị lãng quên.
=> Sự khác nhau gợi cho người đọc cảm xúc thương cảm ông đồ, ông đang bị gạt ra rìa
cuộc sống, ông đang bị lãng quên cùng với thú chơi câu đối một thời. Hai câu thơ: "Lá
vàng rơi trên giấy - ngoài giời mưa bụi bay" không chỉ là hai câu thơ tả cảnh mà còn là hai
câu thơ tả tâm trạng, tả cảnh ngộ của ông đồ. Lá vàng rơi - biểu hiện của sự tàn úa, lại kèm
mưa bụi bay. Lạnh lẽo và buồn thảm.
Câu 2: Nỗi lòng của tác giả đối với ông đồ:
Năm nay đào lại nở,
Không thấy ông đồ xưa
=> Kết cấu đầu cuối tương ứng => Cảnh thiên nhiên tươi đẹp còn ông đồ vắng bóng bị dòng
đời, thời gian quên lãng.
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ
=> Câu hỏi tu từ => Nỗi niềm thương tiếc của tác giả đối với ông đồ, với giá trị văn hoá tốt
đẹp của dân tộc.
Câu 3: Không chỉ hay ở nội dung hoài niệm, bài thơ còn hay ở nghệ thuật:
- Cách dựng cảnh tương phản: Một bên tấp nập đông vui, một bên buồn bã hiu hắt. Một bên
nét chữ như phượng múa rồng bay, bên kia giấy buồn không thắm, mực đọng nghiên sầu.
- Kết cấu đầu cuối tương ứng. Cũng là thời gian ngày giáp tết, cũng là không gian mùa
xuân, cũng vẫn là hoa đào nở. Nhưng hình ảnh ông đồ cứ nhạt nhòa dần. Cuối cùng thì
không thấy hình ảnh ông đồ nữa.
- Bài thơ làm theo thể năm chữ. Lời lẽ dung dị, không có gì tân kì. Những hình ảnh thơ gợi
cảm, sinh động và nhuốm đầy tâm trạng.
Câu 4:
Những câu thơ "giấy đỏ buồn không thắm - mực đọng trong nghiên sầu - lá vàng rơi trên
giấy - ngoài giời mưa bụi bay" là những câu thơ tả cảnh ngụ tình. Tác giả dùng biện pháp
nhân hóa làm cho giấy - mực, những vật vô tri vô giác cũng biết sầu buồn. Nỗi cô đơn hắt
hiu của con người khi bị bỏ quên. Cảnh vật tàn tạ, thiên nhiên cũng buồn theo nỗi buồn của
con người.