TOP 15 Giới thiệu và đánh giá về một tác phẩm văn học theo danh mục được gợi ý trong các phần Củng cố, mở rộng sau mỗi bài học

Tailieumoi.vn xin giới thiệu bài văn mẫu Viết đoạn văn Giới thiệu và đánh giá về một tác phẩm văn học theo danh mục được gợi ý trong các phần Củng cố, mở rộng sau mỗi bài học, giúp các em có thêm tài liệu tham khảo trong quá trình ôn tập, củng cố kiến thức cho bài thi sắp tới. Mời các bạn đón xem:

Giới thiệu và đánh giá về một tác phẩm văn học theo danh mục được gợi ý trong các phần Củng cố, mở rộng sau mỗi bài học

Giới thiệu và đánh giá về một tác phẩm văn học theo danh mục được gợi ý trong các phần Củng cố, mở rộng sau mỗi bài học – mẫu 1

Thạch Lam cây bút văn xuôi lãng mạn tiêu biểu của văn học 1930 – 1945, các sáng tác của ông tập trung đi sâu khai thác vào cuộc sống đời thường, bình dị. Với những tác phẩm thường “truyện không có truyện” nhưng lại để lại những dư âm sâu sắc trong lòng người đọc về vẻ đẹp cuộc sống, tâm hồn con người. Một trong những tác phẩm được đánh giá “truyện không có truyện” của Thạch Lam, không thể không kể đến truyện ngắn “Dưới bóng hoàng lan”.

Câu chuyện kể về Thanh – một chàng trai mồ côi cha mẹ, sống cùng bà. Chàng lên tỉnh đi làm rồi hằng năm có dịp nghỉ phép sẽ về thăm quê. Lần trở về lần này đã cách kỉ nghỉ trước 2 năm, vì vậy Thanh mang trong mình nỗi nhớ nhà, nhớ quê da diết.

QUẢNG CÁO

Quê hương đối với mỗi con người là mái ấm không bao giờ có thể quên. Và Thanh cũng vậy! Dù xa nhà 2 năm nhưng khi trở về, chàng cảm thấy bình yên và quen thuộc đến lạ. Căn nhà với thửa vườn như một nơi mát mẻ và hiền lành luôn sẵn sàng dang tay đón chờ Thanh. Có thể nói, dù lên tỉnh làm việc nhưng cuộc sống chốn phồn hoa đô thị không khiến chàng trai ấy thay tính đổi nết. Vẫn là một con người hiền lành, trân quý những điều giản dị và yêu thương mái ấm gia đình mình dù còn nghèo khó. Đó chính là phẩm chất cao đẹp của Thanh. Quê hương không chỉ là nơi con người “đi để trở về” mà còn là như một làn suối thanh mát làm thanh sạch tâm hồn.

Hơn hết, vì mồ côi cha mẹ từ bé, Thanh rất yêu và hiếu thảo với bà của mình. Với bà, Thanh vẫn như một chàng trai bé bỏng, để bà săn sóc, vỗ về. Nghe tiếng bà đi vào. Thanh nằm yên giả vờ ngủ. Thanh nằm yên cảm nhận bà ở bên mình quạt nhẹ trên mái tóc, cảm giác như được trở về những ngày thơ ấu. Chàng không dám động đậy, có lẽ để tận hưởng thêm những giây phút hạnh phúc ấy. Được bà yêu thương vỗ về, Thanh cảm động gần ứa nước mắt. Với Thanh, bà là tất cả. Chàng cố gắng học tập, làm việc cũng chỉ mong được báo đáp những tình cảm bag dành cho mình.

Ở quê hương, dưới bóng hoàng lan, không chỉ có bà, Thanh còn có một mối tình trong sáng, đơn sơ, giản dị. Đó là những tình cảm trong sáng đầu đời dành cho Nga – cô gái hàng xóm. Thấy Nga, Thanh vui vẻ gọi. Chàng nhìn cô thiếu nữ xinh xắn trong tà áo trắng, mái tóc đen lánh buông trên cổ nhỏ. Đối với chàng, Nga như một người thân mật. Thanh rủ Nga đi nhặt hoàng lan rơi, hai người có không gian riêng tư để hoài niệm những kí ức tươi đẹp. Thanh thấy quả tim đập nhẹ nhàng. Trước sự bày tỏ của Nga, Thanh chẳng biết nói gì, chàng vít một cành lan hái cho Nga như thay cho lời muốn nói. Đoá hoa ấy phải chăng như một lời ước hẹn thầm kín giữa hai người? Thế nhưng, cuộc đoàn tự không được bao lâu, Thanh sớm phải quay lại thành phố. Khi rời đi, chàng còn đứng lại nhìn cây hoàng lan và các cây khác trong vườn đầy lưu luyến. Chàng không trực tiếp chào Nga, có lẽ vì sợ sự lưu luyến khiến chàng không làm chủ được lòng mình. Chàng bước đi nửa buồn mà nửa vui. Buồn vì phải xa bà, xa quê và xa người con gái ấy. Nhưng cũng vui vì một chút tình cảm đã được nhen nhóm trong lòng. Thanh nghĩ đến căn nhà như một nơi mát mẻ và sung sướng để chàng thường về nghỉ sau việc làm. Nơi ấy có bà, có Nga và có cây hoàng lan của hai người. Và Thanh biết rằng Nga sẽ vẫn đợi chàng, vẫn nhớ mong chàng như ngày trước. Đó là tình yêu và niềm tin mà Thanh dành cho Nga.

Bên cạnh nhân vật chính là Thanh, hình ảnh người bà trong truyện ngắn hiện lên mang theo bóng hình người phụ nữ Việt Nam. Một con người tần tảo, hi sinh, vị tha, hết lòng vì gia đình. Bà không chỉ là bà mà còn là cha, là mẹ, là trụ cột gia đình đối với Thanh. Trong mắt bà, Thanh vẫn luôn bé bỏng như ngày nào. Một mái tóc bạc phơ, chống gậy trúc nhưng đã nuôi Thanh khôn lớn trưởng thành. Bà săn sóc Thanh từng chút một, thấy chàng ngủ, bà nhẹ buông màn, nhìn cháu và xua đuổi muỗi. Thanh có lẽ chính là động lực sống của bà.

Còn Thanh – một cô bé hàng xóm hồn nhiên, ngây thơ, trong sáng là người đã thay Thanh ở bên bà những lúc Thanh vắng nhà. Nga dành cho Thanh một tình yêu chân thành mà kín đáo. Trong bữa cơm cùng bà và Thanh, cô gái ấy chỉ ăn nhỏ nhẹ, cầm chừng và buông đũa luôn để sới cơm cho Thanh. Người con gái ấy hồi hộp, căng thẳng như lần đầu về nhà chồng. Thỉnh thoàng, nàng nhìn Thanh mang theo bao yêu thương, trìu mến. Khi cùng Thanh đi nhặt hoa lan, Nga thẹn thùng nhưng cũng mạnh mẽ mà bày tỏ tình cảm của mình: “Những ngày em đến đây hái hoa, em nhớ anh quá”. Mỗi lời bày tỏ nỗi nhớ nhưng cũng như một lời tỏ tình đối với Thanh. Nga nâng niu đoá hoa mà Thanh hái cho mình, khoe bà: “Anh con hái đấy ạ” đầy vui sướng, hạnh phúc. Đoá hoa ấy như chan chứa sự kết trái cho mối tình của Nga và Thanh. Để rồi, mỗi mùa hoa hoàng lan, cô lại giắt hoa trong mái tóc để tưởng nhớ mùi hương. Cũng là để nhớ về người mình yêu thương.

Về thành công nghệ thuật của Thạch Lam, có lẽ không thể không nhắc đến cách xây dựng “truyện không có cốt truyện”. Truyện ngắn của ông được nhận xét là đậm chất trữ tình. Ông không đi sâu vào khai thác những mâu thuẫn của hiện thực, không tạo dựng những tình huống kịch tính mà tập trung khám phá tâm hồn con người. “Dưới bóng hoàng lan” là một truyện ngắn như vậy. Câu chuyện diễn ra yên bình, nhẹ nhàng như chính bức tranh thiên nhiên trong sáng được diễn tả trong tác phẩm. Không có sự kiện nổi bật, không có biến cố, các nhân vật xuất hiện một cách tự nhiên, một cuộc sống sinh hoạt đời thường hiện ra không có gì độc đáo. Thế nhưng, nó lại có sức hút đến lạ. Sức hút đến từ dòng cảm xúc của các nhân vật. Thanh – một chàng trai trở về quê sau 2 năm xa với niềm mong nhớ khôn nguôi. Quê hương như dòng nước thanh khiết gột rửa tâm hồn chàng tránh xa khỏi chốn phồn hoa đô thị. Và bà của Thanh mang bóng hình người phụ nữ Việt Nam – một con người tần tảo, hi sinh, chịu thương chịu khó. Nga – một cô bé hàng xóm xinh xắn, hồn nhiên, dễ thương mang trong mình mối tình sâu kín đầu đời với Thanh. Mạch truyện diễn ra chậm rãi, nhẹ nhàng cùng những cảm xúc của nhân vật khiến bạn đọc như được hoà mình trong khung cảnh thanh bình, yên ả ấy.

Như vậy, chúng ta thấy rằng cách xây dựng nhân vật của Thạch Lam không quá nổi bật, nhưng lại mang những ý nghĩa nhân sinh sâu sắc. Đó là câu chuyện về tình yêu gia đình, tình yêu đôi lứa và tình yêu quê hương đất nước. Bóng hoàng lan là không gian quen thuộc nơi con người bộc lộ tình cảm chân thành cho nhau, là không gian mát mẻ, tĩnh lặng, đối lập với cuộc sống phồn thị ngoài kia và cũng là nơi ươm mầm mối tình trong sáng, đẹp đẽ.

Giới thiệu và đánh giá về một tác phẩm văn học theo danh mục được gợi ý trong các phần Củng cố, mở rộng sau mỗi bài học – mẫu 2

1. Vài nét về tác giả Nguyễn Tuân

    Nguyễn Tuân là một nghệ sĩ, một nhà văn lớn của nền văn học hiện đại Việt Nam. Với phong cách nghệ thuật tài hoa, uyên bác ông đã tạo nên những tác phẩm rất có giá trị về mặt nội dung cũng như nghệ thuật và Chữ người tử tù là một tác phẩm như thế.

2. Giới thiệu về tác phẩm Chữ người tử tù

a) Xuất xứ:

      Truyện ngắn Chữ người tử tù lúc đầu có tên là Dòng chữ cuối cùng đăng trên tạp chí Tao đàn số 29 vào năm 1938, sau đó đã được in trong tập Vang bóng một thời và được đổi tên thành Chữ người tử tù.

b) Nội dung: trong truyện ngắn này, Nguyễn Tuân tập trung ca ngợi cái đẹp, cái tài, cái thiên lương.

- Nhân vật trung tâm mà tác giả tập trung khắc họa đó là Huấn Cao – một tử tù của triều đình nhưng đặc biệt nổi tiếng khắp vùng với biệt tài viết chữ. Đó là một con người trọng nghĩa khí, là hiện thân của cái tài, cái đẹp, cái thiên lương.

- Không chỉ có nhân vật Huấn Cao mà tấm lòng trong sáng, biết thưởng thức và giữ gìn cái đẹp còn được thể ở nhân vật thầy thơ lại và viên quản ngục. Đặc biệt, tấm lòng của viên quản ngục được Nguyễn Tuân coi là “một thanh âm trong trẻo chen vào một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ.”

c) Nghệ thuật: Chữ người tử tù còn đặc biệt xuất sắc bởi những giá trị nghệ thuật mà tác giả xây dựng.

- Đầu tiên phải kể đến nghệ thuật tạo tình huống truyện thật độc đáo đó là cuộc gặp gỡ chốn lao tù giữa Huấn Cao và viên quản ngục. Trên bình diện xã hội họ là kẻ thù. Còn trên bình diện nghệ thuật, họ là những tri kỉ. Tình huống truyện độc đáo đã góp phần khắc họa rõ nét tính cách nhân vật và tô đậm chủ đề của tác phẩm.

- Nghệ thuật xây dựng nhân vật cũng hết sức đặc sắc. Nhân vật được xây dựng từ cái nhìn tài hoa của người nghệ sĩ với bút pháp lãng mạn, đặt nhân vật trong mối liên hệ tương phản và cách miêu tả gián tiếp.

- Nghệ thuật tạo dựng cảnh cho chữ. Tác giả đã sử dụng triệt để thủ pháp đối lập để miêu tả cảnh cho chữ  “xưa nay chưa từng có”, qua đó góp phần khắc họa rõ nét tính cách nhân vật. Nguyễn Tuân còn đặc biệt cho thấy mình là bậc thầy trong sử dụng ngôn ngữ với việc sử dụng một loạt các từ Hán Việt rất đắt giá tạo nên màu sắc lịch sử, cổ kính và bi tráng.

3. Tổng kết 

      Truyện ngắn Chữ người tử tù là một tác phẩm xuất sắc cho thấy tài năng nghệ thuật tài hoa, uyên bác của Nguyễn Tuân.

Giới thiệu và đánh giá về một tác phẩm văn học theo danh mục được gợi ý trong các phần Củng cố, mở rộng sau mỗi bài học – mẫu 3

Nguyễn Trãi là một nhà thơ kiệt xuất của dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới. Ông để lại cho đời sau nhiều tác phẩm có giá trị lớn. Nếu như "Bình Ngô đại cáo" của ông mang đầy nhiệt huyết, lòng tự tôn dân tộc thì bài thơ "Cảnh ngày hè" là một bức tranh về vẻ đẹp tâm hồn của Nguyễn Trãi.

Mở đầu bài thơ "Cảnh ngày hè" là sáu câu thơ miêu tả cảnh ngày hè:

"Rồi hóng mát thuở ngày trường
Hòe lục đùn đùn tán rợp giương
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương
Lao xao chợ cá làng Ngư phủ
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương"

Tác giả đã đón nhận cảnh ngày hè trong tư thế ung dung thoải mái nhất khi ở ẩn, lúc nhà vua không còn trọng dụng tới nữa. Bức tranh cảnh ngày hè được vẽ lên thật rực rỡ và tươi đẹp với nhiều màu sắc. Đó là màu xanh của cây hòe, màu đỏ của hoa lựu, màu hồng của hoa sen, màu vàng lung linh của ánh nắng chiều. Tất cả hòa quyện lại với nhau. Tạo nên cảnh vật đặc trưng của mùa hè. Không chỉ cảm nhận bằng thị giác, Nguyễn Trãi còn cảm nhận cảnh vật bằng thính giác khướu giác và tâm hồn của một người nghệ sĩ. Ông thấy mùi hương của ao sen, thấy âm thanh "lao xao" của làng chài, "dắng dỏi" của tiếng ve. Bức tranh cảnh ngày hè đã trở nên sinh động hơn, đặc sắc hơn với âm thanh và mùi vị. Mặc dù khung cảnh mà tác giả miêu tả là cuối ngày, khi mặt trời lặn nhưng mọi vật vẫn tràn đầy sức sống với những từ ngữ "đùn đùn", "giương", "phun", "tiễn", "lao xao", "dắng dỏi". Những từ ngữ đó cũng góp phần thể hiện những điều trong lòng tác giả - ước mong được cống hiến cho nhân dân, cho đất nước. Nhiệt huyết đó như muốn phun ra, trào ra và lan tỏa đi khắp nơi. Trong sáu câu thơ này, tác giả đã không đi theo tính quy phạm của văn học phong kiến nữa. Ông miêu tả cảnh ngày hè với những sự vật vô cùng thân thuộc gần gũi với cuộc sống hằng ngày.

Hai câu cuối của bài thơ đã được Nguyễn Trãi gửi gắm trọn vẹn tâm tư và suy nghĩ:

"Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng
Dân giàu đủ khắp đòi phương"

Tuy tác giả đón nhận cảnh ngày hè với tư thế ung dung trong một ngày nhàn rỗi nhưng ông vẫn luôn suy nghĩ, lo lắng cho nhân dân, cho đất nước. Cảm nhận cảnh ngày hè nhưng tác giả vẫn quan tâm tới cuộc sống của nhân dân. Thế nên ông nghe thấy âm thanh tấp nập, lao xao của làng chài. Ông quan tâm tới nhân dân, lo cho dân cho nước. Chính vì vậy, ông ước mong mình có cây đàn của vua Ngu Thuấn. Với cây đàn đó, Nguyễn Trãi có thể mang tới cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân và đất nước.

Bài thơ "Cảnh ngày hè" được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật có chen hai câu thơ lục ngôn. Tuy vậy, nhà thơ lại không tuân theo bố cục: Đề - Thực - Luận - Kết của thể thơ Đường luật. Chính vì thế, bài thơ mang nét đặc sắc riêng của một nhà thơ kiết xuất của dân tộc Việt Nam. Không chỉ thế, bài thơ còn có hình ảnh hoa lựu khiến ta liên tưởng tới hai câu thơ của Nguyễn Du:

"Đầu tường hoa lựu lập lòe đơm bông"

Câu thơ của Nguyễn Du mang đậm chất tạo hình nhưng câu thơ của Nguyễn Trãi lại thể hiện được cá tính về nhiệt huyết của mình. Điều đó cho thấy rõ hơn tài năng của Nguyễn Trãi về thơ văn.

Bài thơ "Cảnh ngày hè" đặc sắc về cả nội dung và nghệ thuật. Qua đó, ta thấy được vẻ đẹp tâm hồn của Nguyễn Trãi. Ông là người yêu thiên nhiên, yêu quê hương đất nước. Nhưng trên hết, ông là một người vừa có tài, vừa có tâm bởi ông luôn lo lắng cho nhân dân, cho đất nước. Ông muốn cống hiến nhiệt huyết của mình để nhân dân hạnh phúc, ấm no, đất nước giàu mạnh. Tư tưởng của Nguyễn Trãi như một bài học gửi gắm cho thế hệ trẻ về lòng yêu nước, ước mong cống hiến cho đất nước.

Giới thiệu và đánh giá về một tác phẩm văn học theo danh mục được gợi ý trong các phần Củng cố, mở rộng sau mỗi bài học – mẫu 4

Bình Ngô đại cáo là áng “thiên cổ hùng văn” thể hiện thiên tài của Nguyễn Trãi, đỉnh cao về tư tưởng, và nghệ thuật của nền văn hiến Đại Việt trong thế kỉ XV. Cùng với Lam Sơn thực lục, Quân trung từ mệnh tập, Ức Trai thi tập, Quốc âm thi tập... Bình Ngô đại cáo đã làm cho ngôi sao Khuê trở nên chói sáng và lấp lánh ngàn thu.

Mùa xuân năm 1428, cuộc kháng chiến 10 năm chống quân Minh xâm lược hoàn toàn thắng lợi. Nguyễn Trãi đã thay lời Lê Lợi viết Bình Ngô đại cáo tổng kết cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc “nên công oanh liệt ngàn năm”, tuyên bố nước Đại Việt bước vào một kỉ nguyên mới độc lập bền vững, “muôn thuở nền thái bình vững chắc".

Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.

Dấy quân khởi nghĩa vì thương dân, trừng phạt kẻ có tội (điếu phạt), tiêu diệt bọn giặc tàn bạo, đem lại cuộc sống yên vui cho nhân dân (yên dân), đó là việc nhân nghĩa. Nhân nghĩa vẫn là học thuyết của Nho giáo đề cao đạo đức, tình nhân ái giữa con người với nhau. Nguyễn Trãi đã tiếp thu tư tưởng nhân nghĩa của Nho giáo theo hướng lấy lợi ích của nhân dân và của dân tộc làm gốc. Với Nguyễn Trãi, nhân nghĩa là yêu nước, thương dân, phải đánh giặc để cứu nước, cứu dân; “triết lí nhân nghĩa của Nguyễn Trãi chẳng qua là lòng yêu nước thương dân: Cái nhân nghĩa lớn nhất là phấn đấu đến cùng, chống ngoại xâm, diệt tàn bạo, vì độc lập của đất nước, hạnh phúc của nhân dân” (Phạm Văn Đồng). Trong nhiều bức thư gửi tướng tá giặc Minh, Nguyễn Trãi đã đứng trên lập trường nhân dân và dân tộc, nêu cao nhân nghĩa, vạch trần tội ác và bộ mặt giả nhân giả nghĩa của bè lũ chúng: “Nước mắt nhân dịp họ Hồ lỗi đạo, mượn tiếng là “điếu dân phạt tội’’, kỳ thực làm việc bạo tàn, ăn cướp nước ta, bóc lột nhân dân tư, thuế nặng hình phiền, vơ vét của quý, dân mọn các làng không được sống yên. Nhân nghĩa mù lại thế ư?” (Lại thư trả lời Phương Chính).

Trên lập trường nhân nghĩa, Nguyễn Trãi đã khẳng định nền văn hoá Việt Nam, nền văn hiến Đại Việt và con người Việt Nam, một dân tộc văn minh, anh hùng. Lần đầu tiên trong lịch sử tư tưởng, Nguyễn Trãi đại diện cho đất nước chiến thắng đã nêu cao giá trị lớn lao của truyền thống dựng nước và giữ nước của dân tộc ta:

Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu,
Núi sông bờ cõi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần, bao đời gây nền độc lập,
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên,
Mỗi bên xưng để một phương.
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau

Song hào kiệt đời nào cũng có Nền văn hiến Đại Việt, nền “văn hoá Thăng Long” được hình thành, xây dựng và phát triển qua một quá trình lịch sử “đã lâu”, đã có “từ trước” đằng đẵng mấy nghìn năm. Đại Việt không chỉ có lãnh thổ chủ quyền “núi sông bờ cõi”, mà còn thuần phong mỹ tục mang bản sắc riêng, có lịch sử riêng, chế độ riêng “bao giờ gây nền độc lập”, đã từng “xưng đế một phương”, có nhiều nhân tài, hào kiệt. Phải có mấy trăm năm độc lập dưới các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần..., phải có những trang sử vàng chói lọi (Lưu Cung thất bại, Triệu Tiết tiêu vong, Toa Đỏ, Ô Mã Nhi bị giết tươi, bị bắt sống...) phải có những con người “trí mưu tài thức” đã làm nên “thi thư” của Đại Việt, của nền văn minh sông Hồng, thì Nguyễn Trãi mới có thể viết nên những lời tuyên ngôn đĩnh đạc hào hùng như vậy. Nếu như bốn trăm năm về trước, trong Nam quốc sơn hà, Lý Thường Kiệt chí mới xác định được hai nhân tố về lãnh thổ và chủ quyền trên ý thức quốc gia và lập trường dân tộc, thì trong Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi đã bổ sung thêm bốn nhân tố nữa, đó là: văn hiến, phong tục, lịch sử và nhân tài. Điều đó cho thấy ý thức dân tộc của nhân dân ta đã phát triển trên một tầm cao mới trong thế kỉ XV, và đó cũng là tinh anh, tinh hoa của tư tưởng Nguyễn Trãi.

Năm 1407, nhà Minh sai Trương Phụ, Mộc Thạnh mang mấy chục vạn quân kéo sang xâm lược nước ta. Lúc đầu thì lấy cớ “phù Trần diệt Hồ”, nhưng sau đó, chúng đã chia đất nước ta thành quận huyện, thi hành một chính sách cai trị vô cùng độc ác:

Quân cuồng Minh đã thừa cơ gây hoạ,

Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh. Nguyễn Trãi đã căm giận lên án tội ác vô cùng dã man của “quân cuồng Minh”. Chúng đã tàn sát nhân dân ta một cách man rợ:

Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn,

Vùi con đỏ dưới hầm tai vạ. Sử sách còn ghi lại bao tội ác chồng chất của giặc Minh trong suốt một thời gian dài hơn hai mươi năm “dối trời lừa dân, đủ muôn nghìn kế”: rán mỡ người lấy dầu, rút ruột người treo lên cây, thui người trên giàn lửa, phanh thây đàn bà có thai... Chúng bắt nhân dân ta phải xuống biển mò ngọc trai, lên rừng sâu đãi cát, tìm vàng, cống nạp ngà voi, hươu đen, trả biếc,... Sưu thuê chồng chất, phu phen lao dịch nặng nề. Chúng đã tàn phá môi sinh, môi trường, dồn nhân dân ta vào bước đường cùng, vào hố diệt vong:

Bại nhân nghĩa nát cả đất trời,
Nặng thuế khoá sạch không đầm núi
(...) Vét sản vật, bắt dò chim trá, chốn chốn lưới chăng,
Nhiễu nhân dân, bắt bầy hươu đen, nơi nơi cạm đặt
Tổn hại cả giống côn trùng cây cỏ,

Nheo nhóc thay kẻ goá bụa khốn cùng... Đằng sau những hành động dã man, mưu mô xảo quyệt, là bộ mặt ghê tởm lũ ác ôn, bầy quỷ sứ phương Bắc đang hoành hành trên xương máu, nước mắt, trên tính mạng và tài sản nhân dân ta: “Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán Tội ác của giặc Minh đối với nhân dân ta, không thể ghi hết tội, không thể rửa hết mùi dơ bẩn, trời đất không thể dung tha, người người đều căm giận”.Câu văn cảm thán của Nguyễn Trãi cất lên như một lời nguyền, chất chứa căm hờn, oán giận, xúc động lay tỉnh hồn người:

Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,

Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa hết mùi! Lấy trúc Nam Sơn, nước Đông Hải, cái vô hạn để nói về tội ác và sự nhơ bẩn của quân “cuồng Minh”, cái cùng cực, cái vô cùng, Nguyễn Trãi đã ghi sâu vào lòng người, vào bia miệng đến nghìn năm vẫn chưa phai. Nguyễn Trãi đã từng “tiễn cha lên ải Bắc...”, từng nếm mật nằm gai, là chứng nhân của lịch sử gọi vua nhà Minh hiếu chiến là “giảo đồng” (trẻ ranh, nhãi ranh), lũ tướng tá giặc Minh là đồ “nhút nhát”. Đó cũng là tiếng nói căm thù, khinh bỉ, là ý chí sắt đá chống quân xâm lược, chống lũ bành trướng phương Bắc tham tàn, hiếu chiến:

Thằng nhãi ranh Tuyên Đức động binh không ngừng,
Đồ nhút nhát Thạnh, Thăng đem dầu chữa cháy!

Lãnh tụ cuộc khởi nghĩa Lam Sơn là Lê Lợi. Trong bia Vĩnh Lăng, các bài thơ Hạ tiệp, Đề kiếm... đều có nói đến Lê Lợi, nhưng chỉ trong Bình Ngô đại cáo, Lê Lợi mới được thể hiện một cách tuyệt đẹp, tiêu biểu cho tinh hoa và khí phách của Đại Việt. Là một anh hùng của nhân dân giàu lòng yêu nước, nuôi chí lớn phục thù, phục quốc, đã từng nhiều năm mai danh ẩn tích đón đợi thời cơ:

Ta đây
Núi Lam Sơn dấy nghĩa.

Chốn hoang dã nương mình. Con người ấy đã gắn bó với nhân dân, đã đau trong nỗi đau lầm than của dân tộc, đã “nếm mật nằm gai”, đã “đau lòng nhức óc suốt mấy chục năm trời”, quyết không đội trời chung với giặc:

Ngẫm thù lớn há đội trời chung,

Căm giặc nước thề không cùng sống. Con người ấy tiêu biểu cho trí tuệ Việt Nam, có một nhãn quan lịch sử nhìn suốt thời gian và nắm chắc vận mệnh dân tộc:

Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh,
Ngẫm trước đến nay: lẽ hưng phế đắn do càng kỹ.
Những trằn trọc trong cơn mộng mị,

Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi. Ngày đầu khởi nghĩa, quân không quá 2.000 người, có lúc “cơm ăn thì sớm tối không được hai bữa, áo mặc thì đông hè chỉ có một manh... khí giới thì thật tay không” (Quân trung từ mệnh tập). Thế và lực, giữa ta và giặc vô cùng chênh lệch: “Vừa lúc cờ khởi nghĩa dấy lên - Chính lúc quân thù đang mạnh”. Khó khăn, thử thách chồng chất nặng nề. Ngặt nghèo nhất là thiếu nhân tài hào kiệt:

Tuấn kiệt như sao buổi sớm,
Nhân tài như lá mùa thu.
Việc bôn tẩu thiếu kẻ đỡ đần,

Nơi duy ác thiếu người bàn bạc. Người anh hùng áo vải Lam Sơn, một mặt “Cỗ xe cầu hiển, thường chăm chắm còn dành phía tả”, mặt khác nêu cao quyết tâm “gắng chí phục thù gian nan”, đồng cam cộng khổ với tướng sĩ, đoàn kết toàn dân để đánh giặc:

Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới,

Tướng sĩ một lòng phụ tử, hoà nước sông chén rượu ngọt ngào. Sức mạnh của nghĩa quân bắt nguồn từ sức mạnh vô tận của nhân dân, của lực lượng đông đảo “manh lệ chi đồ tứ tập”, của đoàn nghĩa sĩ “phụ tử chi binh nhất tâm”. Điều đó cho thấy cuộc khởi nghĩa Lam Sơn là một cuộc chiến tranh nhân dân do người anh hùng áo vải lãnh đạo. Sức mạnh của nhân dân, tài năng xuất chúng của lãnh tụ là nguồn gốc của chiến thắng. Người anh hùng ấy là một thiên tài quân sự “sách lược thao suy xét đã tinh... lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ”. Người anh hùng ấy đã phát huy tinh hoa nền quân sự Việt Nam, để chỉ đạo chiến tranh, phát huy mọi tiềm năng của dân tộc, của tướng sĩ để chiến đấu và chiến thắng:

Thế trận xuất kỳ, lấy yếu chống mạnh,

Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều. Có thể nói, cảm xúc trữ tình trong Bình Ngô đại cáo được thể hiện qua hình ảnh Lê Lợi, người anh hùng nghĩa quân Lam Sơn. Lê Lợi vừa bình dị, vừa vĩ đại, vị cứu tinh của đất nước xuất hiện và nếm trải bao cay đắng lầm than cùng nhân dân, từ máu đổ xương tan mà “nên công oanh liệt ngàn năm”. Nguyễn Trãi đã có sự nhập thân, hóa thân kì diệu khi thể hiện tài trí, khí phách và tầm vóc vĩ đại của Lê lợi, một mặt nêu cao lòng tự hào dân tộc, tự hào về nền văn hiến Việt Nam, mặt khác cũng thể hiện nhân cách, chí hướng, tài trí và tâm huyết của mình. Với cảm hứng anh hùng và cảm xúc trữ tình, Nguyễn Trãi đã dành những câu văn, đoạn văn đẹp nhất khi khắc họa hình ảnh vị lãnh tụ nghĩa quân Lam Sơn.

Nguyễn Trãi đã dành phần lớn bài đại cáo nói về diễn biến cuộc đấu tranh vũ trang và quá trình phản công của nghĩa quân Lam Sơn. Phần thứ tư này như những trang ký sự chiến trường mang giọng điệu hào hùng, mạnh mẽ. Sức mạnh nhân nghĩa, ấy là đại nghĩa, là chí nhân đã đè bẹp và nghiền nát giặc Minh hung tàn, cường bạo. Lời văn sang sảng cất lên:

Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,

Lấy chí nhân để thay cường bạo. Có vượt qua những thử thách nặng nề “Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần - Khi Khôi Huyện quân không một đội”, nghĩa quân mới trưởng thành trong máu lửa. Quân ta càng đánh càng mạnh, càng đánh càng thắng lớn. Chiến công nối tiếp chiến công, thế đánh như “trúc chẻ cho bay”, như “sấm vang chớp giật” giáng xuống đầu quân xâm lược. Cảnh tượng chiến trường vô cùng rùng rợn, máu giặc chảy thành sông, xác giặc chất cao như núi:

Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh trôi vạn dặm,

Tụy Đông thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm. Trên đà chiến thắng “Sĩ khí đã hăng - Quân thanh càng mạnh’’, nghĩa quân tiến công trên quy mô rộng lớn, giải phóng những vùng chiến lược quan trọng: “Tây Kinh quân ta chiếm lại... Đông Đô đất cũ thu về”. Giặc đã thảm bại “trí cùng lực kiệt”, lũ tướng Thiên triều, đứa thì “nghe hơi mà mất vía”, thằng thì “nín thở cầu thoát thân”, Trần Hiệp “phải bêu đầu”, Lý Lượng “đành bỏ mạng”.

Chiến cục Chi Lăng - Xương Giang - Bình Than vào mùa thu năm 1427 diễn ra vô cùng ác liệt. Quân ta làm chủ chiến trường đã “điều binh thủ hiểm, chặt mũi tiên phong”, đã “sai tướng chen đường, tuyệt nguồn lương thực”, đã dồn 15 vạn viện binh giặc vào tử địa. Liễu Thăng cụt đầu, Lương Minh đại bại tử vong, thượng thư Lý Khánh cùng kế tự vẫn. Hành chục vạn giặc bị tiêu diệt hoặc bị bắt sống:

Lạng Giang, Lạng Sơn thây chất đầy đường,

Xương Giang, Bình Than, máu trôi đỏ nước. Đạo quân Vân Nam bị quân ta chặn đánh ở Lê Hoa “nghi ngờ khiếp vía mà vỡ mật”, quân Mộc Thạnh đại bại ở Cần Trạm “xéo lên nhau chạy để thoát thân”. Sông suối bao la một vùng biên giới tây bắc ngập đầy máu giặc:

Suối Lãnh Cáu, máu chảy trôi chày, nước sông nghẹn ngào tiếng khóc

Thành Đan Xá, thây chất thành núi, cỏ nội đầm đìa máu đen. Đây là tướng sĩ của nghĩa quân Lam Sơn: “Sĩ tốt kén tay tì hổ - Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh.“ Và đây là hình ảnh bọn tướng tá Thiên triều trong tình hình “quân cô, lực kiệt, viện tuyệt, thế cùng”:

Đô đốc Thôi Tụ lê gối dâng tờ tạ tội,

Thượng thư Hoàng Phúc trói tay để tự xin hàng. Bình Ngô đại cáo là một bản tổng kết chiến tranh 10 năm. Tác giả đã tái hiện lại toàn bộ diễn biến cuộc khởi nghĩa Lam Sơn từ những ngày đầu cờ nghĩa mới phất lên, trải qua những chặng đường máu lửa, trưởng thành trong thử thách hy sinh, giành thế chủ động chiến lược, tiến lên đánh bại hoàn toàn quân xâm lược. Nghệ thuật miêu tả các trận đánh dùng lối đặc tả, rất biến hoá, lúc ghi lại hình ảnh thảm bại, thảm hoạ của lũ tướng tá Thiên triều, lúc thì miêu tả cảnh chiến trường rùng rợn. Kết cấu tương phản đối lập được tác giả vận dụng sáng tạo để làm nổi bật giữa ta và địch, chính nghĩa và phi nghĩa, đại thắng và đại bại... Cách dùng từ, sáng tạo hình ảnh, các biện pháp đối xứng và thậm xưng cho thấy một bút pháp nghệ thuật kỳ tài, tạo nên âm điệu anh hùng ca. Bình ngô đại cáo là khúc ca thắng trận vô cùng oanh liệt, cho ta bao xúc động tự hào:

Gươm mài đá, đá núi cũng mòn,
Voi uống nước, nước sông phải cạn.
Đánh một trận, sạch không kinh ngạc,

Đánh hai trận, tan tác chim muông... Qua Bình Ngô đại cáo, ta thấy Lê Lợi là một nhà chiến lược vĩ đại đã biết phát động chiến tranh khi thời cơ đã chín mùi, khi mà tội ác quân cuồng Minh “Lẽ nào trời đất dung tha - Ai bảo thần dân chịu được? Trải qua bao năm tháng! Lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ”, “Sách lược thao suy xét đã tinh”, Lê Lợi mới phất cờ khởi nghĩa. Lãnh tụ nghĩa quân Lam Sơn đã có tài chỉ đạo chiến tranh đánh cho lũ giặc Minh đại bại:

Cứu binh hai đạo tan tành, quay gót chẳng kịp,

Quân giặc các thành khốn đốn, cởi giáp ra hàng. Chính trong điều kiện chiến trường đó, Lê Lợi đã kết thúc chiến tranh, đã “mở đường hiếu sinh” trao trả cho nhà Minh hàng chục vạn tù binh:

Họ đã tham sống sợ chết mà hoà hiếu thực lòng

Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức. Khởi nghĩa để “trừ bạo” và “yên dân”, kết thúc chiến tranh để chấm dứt đổ máu, để bảo vệ “toàn quân”, “để nhân dân nghỉ sức”. Nguyễn Trãi với niềm tự hào chiến thắng đã ca ngợi “đại nghĩa” và “chí nhân” của dân tộc ta. Đại Việt là một nước văn hiến lâu đời, rất nhân đạo và yêu chuộng hoà bình.

Kết thúc bài đại cáo là một khúc ca khải hoàn vang lên hướng về ngày mai tươi sáng của Đại Việt - một nước văn hiến:

Xã tắc từ đây vững bền,
Giang sơn từ đây đổi mới
Càn khôn bĩ mà lại thái
Nhật nguyệt hối mà lại minh

Muôn thuở nền thái bình vững chắc. Như một quy luật tất yếu: “bí mà lại thái”, “hối mà lại minh”, đất nước ta sau 20 năm trời bị quân cuồng Minh “dối trời, lừa dân..., gây binh kết oán” nay đã sạch bóng quân xâm lược, “ngàn năm vết nhục nhã sạch làu”. Tổ quốc Đại Việt bước vào một kỉ nguyên mới độc lập, hoà bình, thịnh vượng trong “vững bền”, hướng về “đổi mới”, và “vững chắc” đến muôn đời. Giọng văn đĩnh đạc hào hùng, đầy tự hào tin tưởng, thể hiện khát vọng hòa bình, độc lập và hạnh phúc của nhân dân ta. Sự nghiệp ‘‘Bình Ngô” mà đại thắng là nhờ sức mạnh chính nghĩa, nhân nghĩa và truyền thống yêu nước, anh hùng của dân tộc ta. Đó là nguồn gốc, là nguyên nhân sâu xa làm nên chiến thắng. Sự nghiệp “bình Ngô“là trang sử vàng chói lọi, là “Một cỗ nhung y chiến thắng, nên công oanh liệt ngàn năm...”

Trong chiến tranh, Nguyễn Trãi là một mưu sĩ “tâm công” cánh tay phải đắc lực của Lê Lợi, là người “viết thư thảo hịch tài giỏi hơn hết một thời” (Lê Quý Đôn). Thư từ gửi tướng tá giặc Minh của ông “có sức mạnh như mười vạn quân” (Phan Huy Chú). Nguyễn Trãi đã cùng Lê Lợi làm nên sự nghiệp “bình Ngô” là người đã thảo ra Bình Ngô đại cáo, bản tuyên ngôn độc lập, hòa bình của Đại Việt trong thế kỉ XV.

Bình Ngô đại cáo cho ta thấy một bút lực và tài học vô song của ức Trai. Cáo là một thể văn cổ điển rất trang nghiêm, để thông báo cho toàn dân một sự kiện quan trọng. Sự nghiệp “bình Ngô” kéo dài trong 10 năm trời. Quân và dân ta trải qua muôn vàn gian lao thử thách, lập bao chiến công lẫy lừng... từ những tháng năm lầm than đến ngày toàn thắng “bốn phương biển cả thanh bình”, thế mà Nguyễn Trãi đã viết một cách hàm súc: bài đại cáo chí dài 1343 chữ. Cảm hứng nhân nghĩa, cảm hứng anh hùng và khát vọng độc lập, hoà bình đã tạo nên tầm vóc văn chương, màu sắc sử thi của bài đại cáo bình Ngô, bản anh hùng ca Đại Việt. Ngòi bút nghệ thuật của Nguyễn Trãi rất biến hóa trong miêu tả và tự sự, trong trữ tình và bình luận, vừa sắc sảo và thấm thía, vừa đa thanh; lúc thì đĩnh đạc, hào hùng, trang nghiêm, lúc thì thắm thiết căm giận, lúc thì mạnh mẽ, hùng tráng... Đất nước và con người Đại Việt được nói đến trong bài đại cáo là một đất nước, một nhân dân văn hiến, anh hùng.

Giới thiệu và đánh giá về một tác phẩm văn học theo danh mục được gợi ý trong các phần Củng cố, mở rộng sau mỗi bài học – mẫu 5

Trong kho tàng văn học Việt Nam, có rất nhiều tên tuổi nổi tiếng. Một trong những tác giả đã trở thành niềm tự hào của cả thời kỳ văn học là Nguyễn Dữ. Tên tuổi của ông gắn liền với danh tiếng của "thiên cổ kỳ bút" “Truyền kỳ mạn lục". Trong đó “Chuyện chức phán sự đền Tản Viên” là tác phẩm đặc sắc, ca ngợi tính cách dũng cảm, kiên cường, chính trực, dám chống lại cái ác đến cùng, trừ hại cho dân của Ngô Tử Văn - một trí thức nước Việt.

“Chuyện chức phán sự đền Tản Viên” là tác phẩm thuộc thể văn xuôi truyền kỳ, viết bằng chữ Hán. Văn xuôi truyền kỳ là thể loại văn học dùng những yếu tố kì ảo hoang đường để phản ánh hiện thực cuộc sống. Nhân vật trong bộ truyền kỳ rất đa dạng, gồm cả người, ma quỷ, thần thánh,... có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, có thể xâm nhập thế giới của nhau.

Bộ truyện “Truyền kì mạn lục” ra đời vào khoảng thế kỉ XVI, thời điểm xã hội phong kiến Việt Nam đang trong tình trạng suy thoái, khủng hoảng, nhân dân bất bình với tầng lớp thống trị, nhiều nho sĩ rơi vào tâm trạng hụt hẫng, nuối tiếc cho thời thịnh trị dưới sự cai trị của vua Lê Thánh Tông. Trong khoảng thời gian cái quan về ở ẩn, Nguyễn Dữ đã sáng tác bộ truyện này vừa để phản ánh tình trạng xã hội, vừa để bộc lộ quan điểm sống và tấm lòng của mình với cuộc đời.

Nội dung truyện kể về nhân vật chính Ngô Tử Văn. Ngô Tử Văn vốn là một kẻ sĩ khảng khái, chính trực. Trong làng nơi chàng ở có một ngôi đền vốn rất thiêng. Nhưng từ khi có một tên tướng giặc nhà Minh tử trận ở gần đền, hồn của hắn bắt đầu làm yêu làm quái trong dân gian, làm hại nhân dân. Tức giận, mặc cho lời ngăn cản của dân làng,Tử Văn châm lửa đốt đền để trừ hại cho dân.

Sau khi đốt đền, Tử Văn bắt đầu lên cơn sốt. Trong khi sốt mê man, chàng thấy tên hung thần đến đòi làm trả lại ngôi đền và đe dọa sẽ bắt Tử Văn xuống âm phủ để cho Diêm Vương trị tội.

Nhưng đến chiều tối, Thổ thần đến bày tỏ thái độ cảm phục trước hành động dũng cảm của Tử Văn. Chàng được Thổ thần mách bảo về tung tích và tội ác của tên hung thần, đồng thời chỉ dẫn cách đối phó.

Đến đêm, khi bệnh nặng thêm, Tử Văn thấy hai tên quỷ sứ đến bắt chàng xuống âm phủ. Trước mặt Diêm Vương, Tử Văn đã tố cáo tội ác của tên hung thần với đầy đủ chứng cứ. Cuối cùng, công lý được khôi phục, Diêm Vương trừng trị tên hung thần (đem nhốt vào ngục Cửu U), cho Thổ thần được phục chức, sai lính đưa Tử Văn về trần gian (nghĩa là Tử Văn được sống lại). Một tháng sau, Tử Văn thấy Thổ thần đến cảm ơn. Để đền ơn nghĩa, Thổ thần đã tiến cử Tử Văn giữ chức phán sự đền Tản Viên.

Qua cuộc đấu tranh không khoan nhượng khi chống lại cái ác trong Chuyện chức phán sự đền Tản Viên, Nguyễn Dữ đã vạch bộ mặt gian tà của những kẻ quen "chước dối lừa, thích làm trò thảm ngược”. Ông lên án bộ phận quan lại đương thời, tố cao mạnh mẽ hiện thực “rễ ác mọ lan, khó lòng lay động” mà bênh vực cho kẻ gian tà và hiện thực của xã hội phong kiến lúc bấy giờ có quá nhiều kẻ hữu danh vô thực, lợi dụng địa vị, quyền thế làm điều bất chính. Truyện kết thúc có hậu, thể hiện truyền thống nhân đạo của nhân dân ta, tà không thể thắng chính, cái thiện chắc chắn sẽ chiến thắng cái ác.

Về nghệ thuật, Nguyễn Dữ đã kết hợp khéo léo yếu tố ảo và thực trong truyện để truyền tải nội dung. Thế giới âm cung với những hồn ma, bóng quỷ, người chết đi sống lại từ dương gian xuống địa phủ, từ cõi âm lại về cõi dương làm nên yếu tố kỳ ảo cho câu chuyện. Nhưng đồng thời, tác giả dẫn họ tên, quê quán và thời gian, địa điểm diễn ra sự việc một cách cụ thể, đưa yếu tố thực đan xen yếu tố kỳ ảo. Kỳ ảo và hiện thực cùng kết hợp với nhau khiến câu chuyện vừa ly kỳ, hấp dẫn, vừa mang ý nghĩa xã hội sâu sắc.

Bên cạnh đó, với cốt truyện giàu kịch tính, cách xây dựng nhân vật sắc nét, ngôn ngữ kể chuyện trau chuốt, súc tích, truyện đã ca ngợi nhân vật Ngô Tử Văn, một trí thức nước Việt khảng khái, nhân cách cứng cỏi, cao đẹp, qua đó bộc lộ niềm tin vào công lý, vào việc chính thắng tà.

Với những giá trị đó, Chuyện chức phán sự đền Tản Viên đá trở thành một tác phẩm nổi bật trong thời kỳ văn học trung đại Việt Nam, góp phần làm nên tên tuổi Nguyễn Dữ. Để rồi rất nhiều năm sau, tác phẩm ấy vẫn còn nguyên giá trị.

Giới thiệu và đánh giá về một tác phẩm văn học theo danh mục được gợi ý trong các phần Củng cố, mở rộng sau mỗi bài học – mẫu 6

Cùng với các thể loại truyện cổ tích, truyền thuyết, thì truyền kỳ cũng là một trong những thể loại phổ biến và được yêu thích trong văn học dân gian Việt Nam . Nội dung các thể loại này chủ yếu xoay quanh cuộc đấu tranh giữa thiện và ác, ca ngợi vẻ đẹp nhân phẩm, trí tuệ của con người đồng thời khẳng định, cũng như phản ánh niềm tin của nhân dân ta về chân lý vững bền cái thiện luôn chiến thắng cái ác. Chuyện chức phán sự đền Tản Viên của tác giả Nguyễn Dữ cũng là một trong số những truyền kỳ phổ biến mang nội dung như vậy.

Tác giả Nguyễn Dữ, có người gọi là Nguyễn Dư hoặc Nguyễn Tự, chưa rõ năm sinh năm mất, sống vào khoảng đầu thế kỷ XVI, quê ở tỉnh Hải Dương. Ông xuất thân trong một gia đình có truyền thống khoa bảng, từng đi thi và ra làm quan một thời gian ngắn rồi lui về ở ẩn, lấy cớ là phụng dưỡng mẹ già. Ông được xem là người đã đưa khái niệm "truyền kỳ" tiến vào văn học của nước ta, mở ra một hướng đi cho thể loại này trong nền văn học trung đại Việt Nam. Về sự nghiệp sáng tác, thì đến nay người ta chỉ biết ông để lại duy nhất tác phẩm Truyền kỳ mạn lục gồm 20 truyền kỳ khác nhau.

Khái niệm truyền kỳ là để chỉ các tác phẩm văn xuôi trung đại có các yếu tố hoang đường kì ảo. Ở đó có sự tương giao giữa thế giới con người với cõi âm, cõi tiên với sự xuất hiện của thánh thần, ma quỷ làm tăng sức hấp dẫn của tác phẩm, đồng thời góp phần phản ánh các nội dung cốt lõi trong quan niệm của tác giả.

Tác phẩm Truyền kỳ mạn lục là một tập truyện gồm có 20 truyện khác nhau được viết bằng chữ Hán chứa nhiều yếu tố hoang đường kì ảo, ra đời vào khoảng nửa đầu thế kỷ XVI, được tiến sĩ Vũ Khâm Lân đánh giá là "áng thiên cổ kỳ bút" trong văn học dân tộc bởi những giá trị nhân đạo, hiện thực sâu sắc. Tác phẩm được Hà Thiện Hán viết lời tựa, Nguyễn Bỉnh Khiêm phủ chính, và được Nguyễn Thế Nghi dịch ra bản chữ Nôm. Nội dung chính của các truyện trong Truyền Kỳ Mạn Lục là vạch trần hiện thực xã hội phong kiến đương thời thối nát, cảm thông cho số phận bi thảm của những con người nhỏ bé trong xã hội, đặc biệt là người phụ nữ. Đồng thời đề cao vẻ đẹp phẩm cách, đạo đức, trí tuệ của con người, thể hiện sự ủng hộ quan niệm "lánh đục về trong" của cách danh sĩ đường thời, cũng phản ánh ước mơ, niềm tin của nhân dân về chân lý cái thiện luôn chiến thắng cái ác. Có nhận xét rất hay rằng "Qua sách Truyền kỳ mạn lục, có thể biết phần nào về tác giả. Bởi trong 20 truyện, truyện nào cũng thể hiện một quan điểm chính trị, một thái độ nhân sinh, một ý tưởng đạo đức của Nguyễn Dữ. Đó là những mong muốn của ông về một xã hội mọi người được sống yên bình trong nền đức trị, trong sự công bằng, trong tình cảm yêu thương nhân ái giữa con người với con người."

Chuyện chức phán sự đền Tản Viên là một trong số 20 truyện của tập Truyền kỳ mạn lục. Chuyện kể về việc tên tướng giặc bại trận họ Thôi trên đất Việt ta sau khi chết đi trở thành yêu quái, chiếm đền của Thổ thần, tác oai tác quái khiến nhân dân khổ cực, lầm than. Ngô Tử Văn, nhân vật chính của câu chuyện đã ra tay đốt ngôi đền kia, dẫn đến kết quả là chàng bị hồn ma tên tướng giặc hại chết, và bị dẫn xuống âm phủ hỏi tội. Diêm Vương nghe những lời tố cáo dối trá của tên tướng giặc định xử tội Ngô Tử Văn, nhưng may mắn nhờ có sự giúp đỡ của Thổ thần, và dựa vào bản lĩnh kiên định, bình tĩnh mạnh mẽ đấu tranh, cuối cùng chàng đã chiến thắng, vạch trần tội ác của tên tướng giặc họ Thôi. Ngô Tử Văn sống lại, trở về dương gian ít lâu thì nghe theo lời của Thổ thần, rời bỏ cõi dương đến nhậm chức phán sự đền Tản Viên, hưởng cuộc sống tiên nhân.

Chuyện chức phán sự đền Tản Viên có hai nội dung chính yếu. Thứ nhất là sự kiên định chính nghĩa của nhân vật Ngô Tử Văn, thể hiện trong thái độ và cách hành động của chàng khi đốt đền của yêu quái, trong việc chàng đối mặt với lời đe dọa của tên ác thần. Thái độ bình tĩnh của chàng khi bị bắt về cõi âm ti, với sự xuất hiện của các loài quỷ nanh ác, không gian rùng rợn ghê sợ. Sự chính trực, ngay thẳng, dũng cảm của chàng còn thể hiện trong việc chàng đấu tranh, minh oan cho bản thân trước mặt Diêm Vương. Cuối cùng nhờ sự cương trực, dũng cảm, hết mình đấu tranh cho chính nghĩa chàng đã giành được chiến thắng. Mang lại sự yên ổn cho nhân dân, giải oan cho bản thân, lấy lại ngôi đền cho Thổ thần và được tiến cử chức phán sự đền Tản Viên, trở thành tiên. Kết quả đó đã khẳng định niềm tin chính nhất định sẽ thắng tà. Mặt khác nhân vật Ngô Tử Văn còn đại diện cho anh tài đất Việt giành chiến thắng trước kẻ thù xâm lược (tên tướng giặc họ Thôi vốn là tướng sĩ của quân Minh bại trận). Từ đó nêu cao tinh thần dân tộc, sự anh dũng, mạnh mẽ của nhân dân ta trong quá trình chống giặc ngoại xâm, chống lại cái ác cái xấu.

Nội dung thứ hai mà tác phẩm muốn thể hiện đó là ngụ ý phê phán sâu sắc cái ác, hồn ma tên tướng giặc lúc sống làm quân xâm lược lúc chết đi lại làm yêu quái quấy nhiễu dân lành. Từ đầu tới cuối lên mang trong mình dã tâm xâm lược, đáng phải nhận sự trừng trị, tiêu diệt. Tiếp nữa, truyện còn phản ánh sự bất công đầy rẫy trong xã hội phong kiến thối nát, thông qua chuyện tên tướng giặc hối lộ thánh thần, còn lực lượng thực thi công lý như Diêm Vương lại bị che mắt.

Về nghệ thuật, Chuyện chức Phán sự đền Tản Viên có nghệ thuật kể chuyện hấp dẫn, mở đầu bằng tình tiết khác lạ, xây dựng cao trào truyện đầy kịch tính lô-gíc, với các nút thắt, và cách giải quyết hợp lý, làm thỏa mãn người đọc. Bên cạnh đó các yếu tố kì ảo hoang đường được đưa vào một cách khéo léo làm nổi bật chủ đề, nội dung câu chuyện, đồng thời khắc họa rõ ràng tính cách của nhân vật. Truyện còn đem đến cảm giác khách quan với sự chia sẻ quan điểm, tình cảm của người viết thông qua thái độ và hành động của nhân vật.

Soạn văn 7 trang 126 Kết nối tri thức - Tập 1

Giới thiệu và đánh giá về một tác phẩm văn học theo danh mục được gợi ý trong các phần Củng cố, mở rộng sau mỗi bài học – mẫu 7

Chuyện chức phán sự đền Tản Viên là một tác phẩm thành công trong công việc xây dựng nên hình tượng người trí thức đất Việt khẳng khái, cương trực chống lại cái ác và gian tà. Cùng với những tác phẩm khác, truyện đã góp phần làm nên sức sống của Truyền kì mạn lục – một áng “thiên cổ kì bút”.

Tác giả Nguyễn Dữ là người Gia Phúc, Hồng Châu, nay thuộc huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương, là học trò giỏi của Nguyễn Bỉnh Khiêm, sống vào khoảng cuối thế kỉ XV đầu thế kỉ XVI. Cha ông là tiến sĩ Nguyễn Tường Phiêu. Nguyễn Dữ thi đỗ Hương tiến (tương đương với Hương công, cử nhân), làm quan ở Thanh Tuyền. Chưa đầy một năm, ông từ quan với lý do về phụng dưỡng mẹ già, từ đấy không hề bước chân tới thành thị. Tương truyền Truyền kì mạn lục được viết trong thời gian ông ở chốn lâm tuyền này.

Truyện được viết theo thể loại truyền kì. Đây là loại truyện có nguồn gốc từ Trung Quốc, được truyền vào Việt Nam, cuối thế kỉ XV, đầu thế kỉ XVI. Truyện truyền kì Việt Nam mang đậm chất dân gian, yếu tố’ hiện thực và tính nhân văn sâu sắc.

Chuyện chức phán sự đền Tản Viên được rút từ tập Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ. Truyền kì mạn lục viết bằng chữ Hán, gồm 20 truyện, ra đời ở nửa đầu thế kỉ XVI. Tên tác phẩm có nghĩa là: Tập sách ghi chép tản mạn những truyện kỳ lạ được lưu truyền nhưng tác phẩm thực sự là một sáng tác văn học với sự gia công, hư cấu, sáng tạo, trau chuốt của Nguyễn Dữ. Các truyện hầu hết đều lấy bối cảnh hiện thực ở thời Lý, Trần, Hồ, Lê. Bóc đi cái vỏ hoang đường là hiện thực xã hội phong kiến mà tác giả muốn vạch trần phê phán. Qua tập truyện, người đọc thấy được số phận bất hạnh của người phụ nữ, đồng thời đề cao tinh thần dân tộc, phẩm chất của người trí thức. Truyền kì mạn lục là một tác phẩm đứng đầu trong thể loại truyền kì ở Việt Nam.

Nhân vật chính của truyện là Ngô Tử Văn – một người khẳng khái, chính trực, thấy sự gian tà thì không chịu được. Căm giận tên quái vốn là tướng giặc họ Thôi đã chiếm đền của Thổ Công để nhiễu hại dân lành, Tử Văn châm lửa đốt ngôi đền đó. Tử Văn về nhà và lên cơn ốm sốt. Trong cơn mê, chàng đã mơ thấy bách hộ họ Thôi đến đòi xây trả ngôi đền, nếu không hắn sẽ kiện tới Diêm Vương. Sau đó, Thổ Công cũng hiện tới nói rõ sự thật và bày cho chàng cách đối phó với yêu quái. Tử Văn bệnh nặng rồi mất. Quỷ sứ đã đưa linh hồn chàng xuống gặp Diêm Vương. Đứng ở công đường chốn minh ti, Tử Văn khảng khái đến cùng để vạch trần bộ mặt giả dối của. tên tướng giặc bại trận. Tên yêu quái hoảng sợ giảng hòa nhưng Diêm Vương đã sai người điều tra và trừng phạt hắn, bia mộ hắn bị nổ tung. Tử Văn trở về nhà chưa được một tháng thì Thổ Công đến đề nghị chàng nhận chức phán sự ở đền Tản Viên. Tử Văn sau đó không bệnh mà chết. Có một người quen cũ tình cờ đã nhìn thấy chàng “chắp tay thi lễ” trong xe ngựa của quan Phán sự rồi thoắt cái lại biến mất trong sương.

Chuyện chức phán sự đền Tản Viên có nội dung ngợi ca Ngô Tử Văn – hình ảnh một người trí thức nước Việt yêu nước, dũng cảm, khẳng khái chống lại gian tà, bảo vệ cho thổ thần đất Việt. Hành động đốt đền của chàng không phải vì danh, vì lợi, vì sự liều lĩnh nhất thời mà thể hiện sự cương trực muốn vì dân mà trừ hại. Hơn thế nữa, hành động đó còn mang một tinh thần dân tộc cao cả nhằm bảo vệ cho đền thờ của một vị tướng đã có công với nước. Tính cách ngay thẳng của Ngô Soạn đã được thể hiện nhất quán trong nhiều tình huống thử thách. Đến vương phủ, dù bị đe dọa, vu cáo (“tội ác sâu nặng không dự vào hàng khoan giảm”), dù bị sỉ nhục (“tên này bướng bỉnh, ngoan cố), rồi bị Diêm Vương mắng và uy hiếp, Tử Văn vẫn kiên cường đến cùng để bảo vệ cho lẽ phải. Thái độ đồng tình, ủng hộ, ngợi ca sự cứng cỏi, ngay thẳng của tác giả với Ngô Tử Văn còn được bộc lộ trực tiếp ở lời bàn cuối tác phẩm: kẻ sĩ chỉ lo không cứng cỏi được, còn gãy hay không là việc của trời. Lời bàn là sự tranh luận quan, điểm của tác giả với quan điểm của người xưa. Qua đó, khẳng định một cách mạnh mẽ quan điểm của tác giả: kẻ sĩ phải dũng cảm đấu tranh chống lại cái xấu, cái ác để bảo vệ công lý.

Tác phẩm còn gửi gắm ước mơ công lí, thể hiện niềm tin ở sự chiến thắng của cái thiện với cái ác, cái chính với cái tà. Cuộc đấu tranh quyết liệt không khoan nhượng giữa Tử Văn và hồn ma tên tướng bại trận có một kết thúc có hậu giống như trong chuyện cổ tích: người thiện (Tử Văn) cuối cùng chiến thắng, được giữ chức phán sự ở đền Tản Viên. Còn kẻ gian tà (hồn ma tên tướng giặc) bị nhốt vào ngục Cửu u, hài cốt tan thành như cám. Nhận chức phán sự, Tử Văn trở thành người bảo vệ công lý, đó chính là mơ ước cao nhất của nhân dân muốn có một người quang minh chính đại, đại biểu của nhân dân và bảo vệ công lý cho nhân dân.

Đặt vào bối cảnh lịch sử của thời đại Nguyễn Dữ (khoảng cuối thế kỉ XV – đầu thế kỉ XVI), khi chế độ phong kiến bắt đầu suy tàn, nội chiến Lê – Mạc xảy ra, truyện còn mang một giá trị hiện thực sâu sắc. Thế lực ma quỷ, thần linh trong truyện phần nào phản ánh thế lực cường quyền phong kiến bè phái với nhau hãm hại dân lành. Đồng thời, truyện còn lên án lũ giặc ngoại xâm đã chết vẫn còn quấy nhiễu nhân dân.

Giới thiệu và đánh giá về một tác phẩm văn học theo danh mục được gợi ý trong các phần Củng cố, mở rộng sau mỗi bài học – mẫu 8

Trong dòng văn học ca ngợi truyền thống yêu nước xuyên suốt lịch sử văn học Việt Nam, "Bình Ngô đại cáo" của Nguyễn Trãi được đánh giá là áng "thiên cổ hùng văn", là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc, được các thế hệ người Việt luôn yêu thích, tự hào.

"Bình Ngô đại cáo" được Nguyễn Trãi thừa lệnh Lê Lợi viết vào khoảng đầu năm 1428, khi cuộc kháng chiến chống Minh xâm lược của nghĩa quân Lam Sơn đã thắng lợi, quân Minh buộc phải ký hòa ước, rút quân về nước, nước ta bảo toàn được nền độc lập tự chủ, hòa bình. Nguyễn Trãi -62 là một anh hùng dân tộc, là người toàn tài hiếm có trong lịch sử các triều đại phong kiến Việt Nam. Ông có công lớn trong cuộc kháng chiến chống quân Minh đồng thời cũng là nhà thơ trữ tình sâu sắc, nhà văn chính luận kiệt xuất, là cây đại thụ đầu tiên của văn học trung đại Việt Nam.

Tác phẩm "Bình Ngô đại cáo" được Nguyễn Trãi viết theo thể cáo, một thể văn có nguồn gốc từ Trung Hoa, viết bằng chữ Hán, thuộc thể văn hùng biện chính luận, có nội dung thông báo một chính sách, một sự kiện trọng đại liên quan đến quốc gia dân tộc, công báo trước toàn dân. Nhan đề tác phẩm có ‎ ý nghĩa là bài cáo trọng đại tuyên bố về việc dẹp yên giặc Ngô-một tên gọi hàm ý khinh bỉ căm thù giặc Minh xâm lược. Bài cáo có bố cục chặt chẽ mạch lạc, viết theo lối biền ngẫu, vận dụng thể tứ lục, sử dụng hệ thống hình tượng sinh động, gợi cảm.

Bài cáo gồm bốn đoạn. Đoạn đầu nêu cao luận đề chính nghĩa của cuộc kháng chiến, đó là tư tưởng nhân nghĩa kết hợp với độc lập dân tộc: "Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân-Quân điếu phạt trước lo trừ bạo" và "Như nước Đại Việt ta từ trước-Vốn xưng nền văn hiến đã lâu".

Đoạn thứ hai của bài cáo đã vạch trần, tố cáo tội ác dã man của giặc Minh xâm lược. Đoạn văn là bản cáo trạng đanh thép, tố cáo giặc Minh ở các điểm: âm mưu cướp nước, chủ trương cai trị phản nhân đạo, hành động tàn sát tàn bạo. Đồng thời, đoạn văn cũng nêu bật nỗi thống khổ, khốn cùng của nhân dân, dân tộc ta dưới ách thống trị của kẻ thù: "Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn-Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ"; "Dối trời, lừa dân, đủ muôn nghìn kế-Gây binh kết oán, trải hai mươi năm". Đoạn văn ngùn ngụt Ý chí căm thù giặc và thống thiết nỗi thương dân lầm than. Đoạn văn thứ ba là đoạn dài nhất của bài cáo, có Ý nghĩa như bản anh hùng ca về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Đoạn văn đã tổng kết lại quá trình khởi nghĩa. Ban đầu cuộc khởi nghĩa gặp nhiều khó khăn, lương thảo, quân sĩ, người tài đều thiếu, nghĩa quân ở vào thế yếu "Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần-Khi Khôi Huyện quân không một đội", "Tuấn kiệt như sao buổi sớm-Nhân tài như lá mùa thu", "lấy yếu thắng mạnh, lấy ít địch nhiều"…Nhưng nghĩa quân có người lãnh tụ Lê Lợi sáng suốt, bền chí, yêu nước "Ngẫm thù lớn há đội trời chung-Căm giặc nước thề không cùng sống", biết đoàn kết lòng dân "Sĩ tốt một lòng phụ tử-Hòa nước sông chén rượu ngọt ngào", dùng chiến thuật phù hợp nên nghĩa quân Lam Sơn ngày một trưởng thành "Sĩ khí đã hăng, quân thanh càng mạnh"và ngày càng chiến thắng giòn giã, vang dội "Đánh một trận sạch không kình ngạc-Đánh hai trận tan tác chim muông", giặc Minh thì liên tiếp thất bại, thất bại sau lại càng thảm hại hơn thất bại trước, mỗi tên tướng giặc bại trận lại có vết nhục nhã riêng: kẻ treo cổ tự vẫn, kẻ quỳ gối dâng tờ tạ tội, kẻ bị bêu đầu…Đoạn văn thứ ba của bài cáo cũng ca ngợi lòng nhân đạo, chuộng hòa bình của nhân dân, dân tộc ta, tha sống cho quân giặc đã đầu hàng, lại cấp cho chúng phương tiện, lương thảo về nước. Đoạn cuối của bài cáo đã tuyên bố trịnh trọng về việc kết thúc chiến tranh, khẳng định nền độc lập, hòa bình vững bền của đất nước, thể hiện niềm tin vào tương lai tươi sáng của dân tộc.

Bài cáo có sự kết hợp hài hòa, hiệu quả giữa yếu tố chính luận sắc bén với yếu tố văn chương truyền cảm, kết hợp giữa lí luận chặt chẽ và hình tượng nghệ thuật sinh động. Cảm hứng nổi bật xuyên suốt tác phẩm là cảm hứng anh hùng ca hào hùng sôi nổi, mãnh liệt. Giọng điệu của bài cáo rất đa dạng, khi tự hào về truyền thống văn hóa, anh hùng lâu đời của dân tộc, khi thì căm phẫn sục sôi trước tội ác của kẻ thù, khi thống thiết xót thương trước nỗi đau lầm than của nhân dân, khi lo lắng trước những khó khăn của cuộc kháng chiến, khi hào hùng ngợi ca chiến thắng, khi trịnh trọng tuyên bố độc lập của dân tộc, đất nước.

"Đại cáo bình Ngô" của Nguyễn Trãi là bản anh hùng ca ca ngợi chiến thắng vĩ đại của dân tộc ta thế kỉ XV. Tác phẩm vừa có giá trị lịch sử, vừa có giá trị văn học, không chỉ lưu giữ những sự kiện lịch sử mà còn lưu truyền lòng yêu nước tự hào dân tộc đến các thế hệ người Việt Nam. Mỗi người dân Việt Nam ngày nay đều hào sảng trước những câu văn hùng hồn:

"Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác.
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập,
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương.
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,
Song hào kiệt đời nào cũng có…"

Giới thiệu và đánh giá về một tác phẩm văn học theo danh mục được gợi ý trong các phần Củng cố, mở rộng sau mỗi bài học – mẫu 9

“Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc
Nguyễn Du viết Kiều, đất nước hóa thành văn...”

Những câu thơ được trích trong bài thơ Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng? của Tố Hữu. Những câu thơ ấy là lời khẳng định về giá trị trường tồn của Truyện Kiều trong nền văn học nước nhà. Bởi lẽ, truyện Kiều còn, tiếng ta còn, tiếng ta còn, nước ta còn...(Phạm Quỳnh)

Truyện Kiều có tên là Đoạn trường tân thanh (Đoạn: đứt, trường: ruột, tân: mới, thanh: âm thanh, tiếng kêu). Ta có thể hiểu nhan đề ấy có nghĩa là “tiếng kêu mới về nỗi đau đứt ruột”. Nhan đề Đoạn trường tân thanh được Nguyễn Du lấy gốc từ hai điểm cố ở Trung Quốc. Một là từ câu chuyện của người đàn ông họ Trương ở Phúc Kiến, vào rừng bắt vượn con đánh để chúng kêu khóc vì muốn bắt vượn mẹ. Vượn mẹ không làm gì được, đứng trên cao nhìn, rú lên một tiếng rồi chết. Ông lão mang về nhà mổ bụng vượn mẹ thì thấy ruột đứt ra từng khúc. Câu chuyện ấy ca ngợi tình mẫu tử thiêng liêng và nỗi đau đứt ruột khi chứng kiến con mình bị hành hạ, đánh đập. Và một là câu chuyện về nàng cung nữ Mạnh Tài Nhân của vua Đường Vũ Tông, trước khi vua băng hà, nàng đã múa một điệu cuối cùng rồi chết đứng. Khám tử thi thì thấy ruột nàng đứt ra từng đoạn. Câu chuyện đã nhắc tới nỗi đau đứt ruột của đôi lứa khi vợ chồng phải xa lìa nhau. Đó là tiếng kêu về nỗi đau đứt ruột từ xa xưa, được người đời truyền tụng. Nguyễn Du đã dựa vào 2 câu chuyện trên để đặt tên cho tác phẩm của mình là Đoạn trường tân thanh. Ngày nay chúng ta gọi là Truyện Kiều- cách gọi tên truyện theo nhân vật chính là Thúy Kiều

Truyện Kiều được viết bằng chữ Nôm, gồm 3.254 câu thơ viết theo thể lục bát - thể thơ đặc trưng của dân tộc, rất giàu âm điệu và nhạc tính. Truyện được viết dựa theo tác phẩm Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, Trung Quốc. Nguyễn Du đã “hoán cốt đoạt thai” tác phẩm của Thanh Tâm Tài Nhân để thổi một luồng gió mới vào trong tác phẩm, khiến nàng Kiều của Nguyễn Du mang vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam và mang vào truyện Kiều những sáng tạo mới mẻ về cả nội dung và nghệ thuật. Về thời điểm sáng tác, Từ điển văn học (bộ mới) ghi: "Có thuyết cho rằng Nguyễn Du viết ra sau khi ông đi sứ Trung Quốc (1814-1820), có thuyết cho nói ông viết trước khi đi sứ, có thể vào khoảng thời gian làm Cai bạ ở Quảng Bình (1804-1809). Thuyết sau được nhiều người chấp nhận hơn”.

Nội dung chính của truyện xoay quanh quãng đời lưu lạc sau khi bán mình chuộc cha của Thúy Kiều, một cô gái có tài sắc. Thúy Vân, Thúy Kiều và Vương Quan là con của Vương quan ngoại. Cả Vân và Kiều đều là người có nhan sắc nhưng Kiều không chỉ mang vẻ đẹp sắc sảo mà còn có đủ tài cầm, kỳ, thi, họa, đặc biệt là tài đánh đàn. Nhân một lần ba chị em đi du xuân trong tiết thanh minh, trên đường về Kiều đã gặp nấm mồ không hương khói của Đạm Tiên, nàng đã thắp một nén hương rồi gặp Kim Trọng. Đêm về, Kiều nằm mơ thấy Đạm Tiên báo cuộc đời nàng cũng phải trả kiếp nợ hồng nhan giống mình. Kim Trọng vì yêu mến Kiều đã chuyển về cạnh nhà nàng sinh sống. Nhân cha mẹ đi vắng, Kiều đã sang nhà bên cùng Kim trọng uống rượu thề nguyền dưới trăng. Cha và em Kiều bị thằng bán tơ vu oan, bị bắt giải lên nha môn, Kim Trọng phải về quê chịu tang chú nên không hay biết Kiều phải bán mình chuộc cha và em. Trước khi đi, Kiều đã trao duyên cho Vân, nhờ Vân trả nghĩa chàng Kim. Kiều bị lừa bán vào tay Mã Giám Sinh - Tú Bà, những tay buôn người chuyên nghiệp. Bị ép tiếp khách nhưng Kiều không đồng ý mà dùng cái chết để giữ gìn trinh tiết của mình. Tú Bà sợ mất món tiền lớn đã vờ ngon ngọt, hứa gả Kiều cho người tử tế sau khi nàng lành bệnh nhưng lại âm thầm cấu kết với Sở Khanh ép Kiều ra tiếp khách. Kiều được Thúc Sinh cứu và cưới làm vợ lẽ nhưng lại bị Hoạn Thư đánh ghen, nàng đã trầm mình trên sông Tiền Đường nhưng được sư bà Giác Duyên cứu. Thế nhưng sư bà Giác Duyên đã gửi gắm Kiều vào tay Bạc Bà, Bạc Hạnh - những kẻ buôn người, Kiều rơi vào lầu xanh lần thứ hai. Tại đây nàng đã gặp Từ Hải - người anh hùng đầu đội trời, chân đạp đất, đã cứu Kiều khỏi lầu xanh, giúp nàng báo ân báo oán và có cuộc sống hạnh phúc ngắn ngủi. Từ Hải vì nghe lời Kiều mà ra đầu hàng Hồ Tôn Hiến để rồi bị chết đứng. Kiều phải ra hầu đàn, hầu rượu cho kẻ thù giết chồng bị ép gả cho một viên quan quèn. Quá uất ức, nàng đã trẫm mình trên sông nhưng lại được sư bà Giác Duyên cứu. Kim Trọng sau khi chịu tang chú trở lại biết chuyện, nên duyên với Vân nhưng vẫn đi tìm Kiều. Cuối cùng tìm được Kiều nhưng Kiều tủi nhục, xấu hổ vì không xứng đáng với Kim. Hai người đã chấp nhận “Đem tình cầm sắt đổi sang cầm kỳ”

Truyện Kiều của Nguyễn Du sở dĩ trở thành kiệt tác bởi những giá trị tư tưởng và nghệ thuật mà nó mang đến cho nền văn học Trung Đại Việt Nam. Trước hết, Nguyễn Du đã dựng nên một bức tranh sinh động về một xã hội phong kiến thối nát - nơi mà sức mạnh của đồng tiền có thể mua được tất cả: công lý, đạo đức, số phận của một con người. Xuyên suốt cả tác phẩm, ta như thấy được một thế lực đen tối của các ác trong xã hội đương thời không ngừng vùi dập, dìm sâu những khao khát rất đỗi nhân văn của con người xuống tận đáy sâu của sự tuyệt vọng. Truyện Kiều chính là bản cáo trạng đanh thép tội ác của kẻ thống trị và sức mạnh của đồng tiền.

Cũng ở đó, ta bắt gặp số phận của một người con gái tài sắc nhưng lại truân chuyên, lênh đênh, chìm nổi. Khao khát được sống, được yêu, được hạnh phúc và tấm lòng sắc son của Thúy Kiều luôn được Nguyễn Du nhắc tới với một sự trân trọng, nâng niu. Trong suốt 15 năm lưu lạc, chưa bao giờ Kiều thôi nhớ về Kim Trọng và khao khát được trở về nhà. Nhưng ngặt một nỗi món nợ hồng nhan cứ cuốn chặt lấy nàng, càng giãy dụa, Kiểu càng bị thít chặt hơn. Và chỉ khi trả hết món nợ ấy, Kiều mới được trở về. Bởi vậy, Nguyễn Du mới đau đáu về thân phận của con người, đặc biệt là những người phụ nữ tài sắc trong xã hội xưa:

“Có tài mà cậy chi tài
Chữ tài liền với chữ tai một vần”

Đọc hết truyện Kiều, người đọc càng thương cảm cho số phận Kiều bao nhiêu thì khát vọng về tình yêu tự do và ước mơ công lý được Nguyễn Du gửi gắm càng hiện rõ bấy nhiêu. Khao khát tình yêu tự do ấy được Nguyễn Du gửi gắm trong bước chân “xăm xăm băng lối vườn khuya một mình” của Kiều trong đêm thề nguyền dưới trăng với Kim Trọng. Có người đã nhận xét, khi Kiều xăm xăm băng lối vườn khuya một mình để gặp Kim Trọng cũng là lúc nàng đạp đổ những định kiến của xã hội phong kiến, phá bỏ những rào cản, xiềng xích trói buộc người phụ nữ đến với hạnh phúc cuộc đời mình. Ước mơ về công lý ấy được Nguyễn Du gửi gắm trong phiên tòa báo ân báo án của Thúy Kiều với Thúc Sinh, Hoạn Thư, Tú Bà....Như một câu chuyện cổ tích, Kiều được gặp gỡ Từ Hải và được chàng yêu thương. Có lẽ, quãng thời gian ngắn ngủi bên từ Hải là quãng thời gian hạnh phúc nhất trong suốt 15 năm lênh đênh chìm nổi của Kiều. Và chắc hẳn, Nguyễn Du cũng nhận ra chính Từ Hải và chỉ có Từ Hải mới mang đến cho Kiều hạnh phúc trọn vẹn như nàng mong muốn mà thôi.

Truyện Kiều cũng là bức chân dung tinh thần tự họa của Nguyễn Du, với “con mắt trông thấu cả sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời”. Con người chan chứa tình yêu thương con người ấy đau cùng nỗi đau của nhân vật, khóc cũng nỗi tủi hờn, nhục nhã của nhân vật và cũng vui sướng khi đứa con tinh thần của mình được yêu thương, trân trọng.

 Giới thiệu và đánh giá về một tác phẩm văn học theo danh mục được gợi ý trong các phần Củng cố, mở rộng sau mỗi bài học – mẫu 10

Nguyễn Trãi là một tác gia lớn của nền văn học trung đại Việt Nam. Ông đã để lại cho hậu thế một khối lượng tác phẩm khá đồ sộ. Nhưng dường văn chương của ông dường như cũng chịu chung số phận như con người – phải trải qua bao phen thăng trầm chìm nổi. Trong đó, “Bình Ngô đại cáo” - viết sau đại thắng năm 1427, là bản tổng kết xuất sắc quá trình kháng chiến mười năm, không chỉ thể hiện tinh thần yêu nước bảo vệ độc lập, truyền thống bất khuất chống ngoại xâm, còn đặc biệt nêu cao “chí nhân, đại nghĩa” như một giá trị văn hóa ngời sáng của dân tộc Đại Việt. Với bút lực hào hùng và lời văn truyền cảm mạnh mẽ, tác phẩm đã trở thành một áng “thiên cổ hùng văn”.

Bình Ngô đại cáo là thông báo bằng văn bản và được viết theo bằng văn biền ngẫu, theo thể cáo – thường dùng để thông báo sự kiện quan trọng của quốc gia, dân tộc. Nguyên tác được viết bằng chữ Hán, và được các học giả như Ngô Tất Tố, Bùi Kỷ, Trần Trọng Kim dịch sang tiếng Việt ngày nay. Tác phẩm có giữ một vị trí quan trọng về phương diện lịch sử lẫn phương diện văn học. Ức Trai đã thừa lệnh Lê Lợi viết tác phẩm vào khoảng đầu năm 1428, khi cuộc kháng chiến chống Minh xâm lược của nghĩa quân Lam Sơn đã thắng lợi, quân Minh buộc phải ký hòa ước, rút quân về nước, nước ta bảo toàn được nền độc lập, hòa bình.

Nhan đề cho thấy đây là bài cáo trọng đại tuyên bố về việc dẹp yên giặc Ngô -một tên gọi hàm ý khinh bỉ căm thù giặc Minh xâm lược. Bài cáo có bố cục chặt chẽ mạch lạc, khắc họa, lên án, tố cáo tội ác của giặc và khẳng định chủ quyền dân tộc. Chính vì vậy, bài cáo xoay quanh các cảm hứng chính sau đây: cảm hứng về chính nghĩa (nhận thức sâu sắc về nguyên lí chính nghĩa và thái độ khẳng định sức mạnh của nguyên lý đó); cảm hứng căm thù giặc xâm lược; cảm hứng về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, về tinh thần quyết chiến quyết thắng của nhân dân Đại Việt; cảm hứng độc lập dân tộc và tương lai đất nước. Với bốn cảm hứng đó, bài cáo thường được chia thành bốn phần tương đương. Phần 1 là nêu luận đề chính nghĩa (Từ đầu đến “chứng cớ còn ghi”). Phần 2 là lên tiếng tố cáo tội ác, vạch trần âm mưu xâm lược Đại Việt với cớ phù Trần diệt Hồ của giặc (tiếp theo phần 1 cho đến “Ai bảo thần dân chịu được”). Phần 3 là quá trình kháng chiến và sự thắng lợi của khởi nghĩa Lam Sơn (tiếp theo phần 2 đến “cũng là chưa thấy xưa nay”). Phần còn lại - phần 4 là phần nêu ra bài học lịch sử và sự khẳng định chính nghĩa sẽ thắng thế lực phi nghĩa, bất nhân.

Mở đầu Bình Ngô đại cáo, tác giả Nguyễn Trãi đã nêu nguyên lí chính nghĩa làm chỗ dựa, làm nền tảng xác đáng để triển khai toàn bộ nội dung bài cáo. Tiếp thu từ tinh thần Nho giáo cùng với sự phát triển nội dung nhân nghĩa, Nguyễn Trãi đã nêu ra một luận đề có tính dân tộc:

“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”

Với Nguyễn Trãi, việc trước hết là “trừ bạo” để nhân dân có được một cuộc sống yên ổn, ấm no, hạnh phúc. Ông cho rằng nếu muốn trị vì thiên hạ thì việc phải nghĩ đến đầu tiên chính là “nhân nghĩa”. Dân tộc ta chiến đấu chống xâm lược là nhân nghĩa, là phù hợp với nguyên lí chính nghĩa. Sau đó, tác giả nêu lên chân lý khách quan về sự tồn tại độc lập của nước Đại Việt, sự tồn tại đó như có cơ sở chắc chắn từ tháng ngày lịch sử:

“Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác”

Ở phần 2 – cảm hứng căm thù giặc xâm lược, Nguyễn Trãi đã thể hiện lòng uất hận sục sôi, viết nên một bản cáo trạng đanh thép với một trình tự tư duy logic: vạch trần âm mưu xâm lược, lên án chủ trương cai trị thâm độc, tố cáo mạnh mẽ những hành động tội ác. Qua việc phân tích luận điệu bịp bợm “phù Trần diệt Hồ”, tác giả đi sâu những việc làm phi nhân, diệt chủng:

“Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ”

Tội ác của chúng được ghi lại bằng cái vô cùng, vô hạn:

“Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa hết mùi”

Ở phần 3, với nguồn cảm hứng dồi dào, phong phú, Nguyễn Trãi đã khắc họa lại quá trình gian nan, vất vả của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Chính những gian khổ ngày đầu đã dẫn đến thắng lợi vẻ vang về sau. Cảm hứng anh hùng ca bao trùm toàn bộ đoạn trích. Những chiến công thần tích được miêu tả một cách dồn dập. Nhạc điệu trong câu sảng khoái, hào hùng như sóng triều dâng:

“Gươm mài đá, đá núi cũng mòn
Voi uống nước, nước sông cũng phải cạn.
Đánh một trận, sạch không kình ngạc
Đánh hai trận, tan tác chim muông”

Và ở phần 4 – phần kết thúc, Nguyễn Trãi đã không giấu được niềm vui chung của dân tộc, thay lời Lê Lợi trịnh trọng tuyên bố nền độc lập lâu dài:

“Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới
Kiền khôn bĩ rồi lại thái
Nhật nguyệt hối rồi lại minh”

Từ đó, ta thấy được viễn cảnh huy hoàng, tươi sáng của non sông xã tắc. Hiện thực hôm nay chính là nhờ những ngày tháng đau thương của quá khứ “Muôn thuở thái bình vững chắc”. Lời kết thúc “Xa gần bá cáo/ Ai nấy đều hay” đã sẻ chia sự vui mừng, niềm tự hào và niềm tin về ngày mai, về tương lai đất nước.

Bài cáo đã thể hiện thành công những đặc sắc về thể loại. Bên cạnh đó, giọng điệu thay đổi linh hoạt trong mỗi phần, khi cao tràn uất hận, khi hào hùng dữ dội, khi cuồn cuộn như sóng triều dâng trên đề tài lịch sử - văn học đã để lại những ấn tượng sâu sắc cho người đọc. Sự am hiểu hơn người của Nguyễn Trãi về lịch sử, về điển cố, điển tích đã mang lại tính thuyết phục, hấp dẫn hơn cho tác phẩm.

“Bình Ngô đại cáo” từ khi ra đời đã được xem làm một bản tuyên ngôn độc lập của dân tộc, vừa tố cáo tội ác của giặc Minh vừa khẳng định được độc lập chủ quyền dân tộc. Đã qua bao thăng trầm biến đổi nhưng giá trị của “Bình Ngô đại cáo” vẫn tồn tại cho đến ngày hôm nay và Nguyễn Trãi – nhà quân sự tài ba, nhà chính trị lỗi thời, nhà thơ, nhà văn xuất sắc sẽ mãi mãi được khắc ghi trong lòng mỗi người con nước Việt.

Giới thiệu và đánh giá về một tác phẩm văn học theo danh mục được gợi ý trong các phần Củng cố, mở rộng sau mỗi bài học – mẫu 11

Nguyễn Trãi là một trong số những tác gia lớn, tiêu biểu của nền văn học Việt Nam với nhiều tác phẩm đặc sắc được viết bằng cả chữ Nôm và chữ Hán. Đọc những tác phẩm của Nguyễn Trãi, người đọc sẽ dễ dàng nhận ra tấm lòng thương dân ái quốc, tình yêu thiên nhiên tha thiết và đặc biệt là tư tưởng thân dân. Và có thể nói “Bình Ngô đại cáo” là tác phẩm thể hiện một cách sâu sắc và trọn vẹn tư tưởng ấy của Nguyễn Trãi.

Tác phẩm “Bình Ngô đại cáo’’ ra đời trong một hoàn cảnh rất đặc biệt. Sau khi đánh tan giặc Minh xâm lược, Vương Thông phải chấp nhận giảng hòa và buộc quân Minh phải rút quân về nước, đất nước ta độc lập, sạch bóng quân thù. Trong hoàn cảnh lịch sử ấy, Nguyễn Trãi đã thừa lệnh Lê Lợi viết tác phẩm “Bình Ngô đại cáo” hay còn gọi là “Đại cáo Bình Ngô” và chính thức công bố trước toàn thể nhân dân vào tháng Chạp, năm Đinh Mùi, tức là vào đầu năm 1428. Tác phẩm ra đời như một bản tuyên ngôn độc lập của dân tộc ta.

“Bình Ngô đại cáo” được tác giả Nguyễn Trãi viết bằng thể cáo – một thể loại văn học lớn có nguồn gốc từ Trung Hoa. Đi sâu tìm hiểu, khám phá về thể loại văn học này, chúng ta có thể dễ dàng thấy rằng cáo là thể văn được viết bằng chữ Hán, có thể được viết bằng văn xuôi hoặc văn vần nhưng có lẽ phổ biến hơn cả là văn biền ngẫu. Cáo là thể văn thường được vua, chúa hoặc thủ lĩnh dùng để thông báo rộng rãi tới toàn thể mọi người một sự việc hay một vấn đề trọng đại nào đó. Cũng như nhiều thể loại văn học thời cổ khác, cáo cũng đòi hỏi kết cấu chặt chẽ, mạch lạc, lập luận sắc bén và lí lẽ thuyết phục. Và có thể nói, với những đặc điểm của thể cáo nếu trên thì “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi là tác phẩm hội tụ khá đầy đủ và rõ nét những đặc điểm của thể loại văn học này.

Thêm vào đó, bài cáo được chia làm bốn phần, với bố cục mạch lạc, rõ ràng. Đoạn mở đầu của bài cáo đã nêu lên luận đề chính nghĩa để làm cơ sở, nền tảng vững chắc cho bài cáo. Luận đề chính nghĩa ấy chính là sự kết hợp giữa tư tưởng thân dân với độc lập dân tộc:

Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.

Sau khi nêu lên luận đề chính nghĩa làm cơ sở, trong đoạn hai của bài cáo, tác giả Nguyễn Trãi đã vạch rõ những tội ác man rợ, dã man của kẻ thù. Đó là những hành động sát hại, giết những người dân một cách tàn nhẫn và độc ác “Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn/ Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ”. Đó còn là những chính sách thuế khóa vô lý, phá hoại môi trường, sự sống, bóc lột tài nguyên thiên nhiên và sức lao động của những người dân vô tội. Tất cả, tất cả những tội ác man rợ ấy của bọn giặc đã được tác giả tái hiện lại một cách chân thực, rõ nét bằng hàng loạt các dẫn chứng sắc sảo, lí lẽ thuyết phục. Đồng thời, trong đoạn thứ hai, tác giả còn làm bật nổi ý chí và lòng căm thù giặc sâu sắc của nhân dân ta. Tiếp đó, trong đoạn thứ ba của tác phẩm, tác giả đã tái hiện lại một cách chân thực, sâu sắc và rõ nét quá trình chiến đấu, chinh phạt với thật nhiều những khó khăn, vất vả và sự tất thắng của quân và dân ta. Ban đầu, cuộc chiến đấu của nghĩa quân Lam Sơn gặp phải thật nhiều những khó khăn, thiếu thốn trăm bề – thiếu lương thực, thực phẩm, thiếu nhân lực và có những nghĩa quân của ta ở vào thế yếu “Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần-Khi Khôi Huyện quân không một đội”, “Tuấn kiệt như sao buổi sớm-Nhân tài như lá mùa thu”, “lấy yếu thắng mạnh, lấy ít địch nhiều”… Nhưng rồi, với sự lãnh đạo tài tình của vị lãnh tụ Lê Lợi và ý chí quyết tâm, sự cố gắng của mình, nghĩa quân và toàn thể nhân dân đã chiến đấu hết sức mình và giành được thắng lợi vẻ vang “Đánh một trận sạch không kình ngạc-Đánh hai trận tan tác chim muông” và buộc quân Minh từng bước, từng bước một đầu hàng, chấp nhận thua cuộc và rút quân về nước. Trên cơ sở nêu lên luận đề chính nghĩa, vạch rõ tội ác của kẻ thù cũng quá trình chiến đấu của quân và dân ta, đoạn văn khép lại bài cáo chính là lời tuyên bố độc lập, khẳng định sự nghiệp chính nghĩa. Có thể nói, đoạn cuối cùng của bài cáo đã cất lên lời tuyên bố trịnh trọng về việc kết thúc chiến tranh, khẳng định hòa bình của dân tộc và niềm tin vào tương lai tươi sáng, tốt đẹp cho nhân dân, cho đất nước.

Không dừng lại ở đó, bài cáo còn để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc, người nghe bởi những thành công, hấp dẫn về nghệ thuật. Trước hết, thành công của bài cáo chính là ở việc kết hợp nhuần nhuyễn, hài hòa và hợp lý giữa yếu tố chính luận với yếu tố văn chương với nhiều hình ảnh độc đáo, hấp dẫn, chính điều đó đã làm cho bài cáo để lại nhiều ấn tượng hơn với người nghe. Thêm vào đó, bài cáo còn có giọng điệu hết sức linh hoạt, đa dạng, phù hợp với từng nội dung mà báo cáo thể hiện – tự hào về truyền thống văn hóa, lịch sử ngàn đời của dân tộc, căm phẫn khi vạch rõ tội ác của kẻ thù, trịnh trọng, nghiêm trang khi tuyên bố độc lập.

Tóm lại, “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi là một trong số những tác phẩm xuất sắc của nền văn học Việt Nam. Tác phẩm xứng đáng là áng “thiên cổ hùng văn”, là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc Việt Nam anh hùng, bất khuất.

Giới thiệu và đánh giá về một tác phẩm văn học theo danh mục được gợi ý trong các phần Củng cố, mở rộng sau mỗi bài học – mẫu 12

Trong “Nước Đại Việt ta”(trích “Bình Ngô đại cáo”) Nguyễn Trãi có viết: “Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau Song hào kiệt đời nào cũng có”.

Từ buổi sơ khai cho đến tận bây giờ có hai thứ thuộc trong ngũ hành luôn là khắc tinh của nhau, đó chính là nước và lửa. Nước tuôn trào mãnh liệt, lửa bùng cháy dữ dội, giữa chúng luôn có sự đối lập gay gắt nên mới có thành ngữ “khác nhau như nước với lửa”.

Dẫu biết rằng nước có thể dập lửa, nhưng khi lửa mạnh cháy lớn, nước lại có hạn thì biết cái nào át cái nào? Tất cả họ là những anh hùng hào kiệt về chiến đấu bảo vệ Tổ Quốc, là những nhà lãnh đạo những nhà quân sự tài ba. Xét về giáo dục, lịch sử VN ta phải ghi nhận sự vượt trội về trí tuệ của thầy giáo Chu văn An. Về y học phải nhắc đến Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác hay danh y Tuệ Tĩnh đời Trần. Hào kiệt là những người kiệt xuất, có tài cao chí lớn hơn người. Họ thường giỏi giang hoặc có khả năng đặc biệt trong một lĩnh vực nào đó. Còn khái niệm “mạnh - yếu” ở đây chỉ sự hùng mạnh, hưng thịnh của một đất nước. Chẳng hạn, dưới triều đại nhà Lý nước ta là một cường quốc cỡ Đông Nam á, được các lân bang nể trọng. Hay dưới thời nhà Trần đất nước ta cũng được xem là nước mạnh vì đã ba lần đánh bại được quân Mông Nguyên nổi tiếng lớn mạnh và tàn bạo. Khoa học có nhà toán học Lương Thế Vinh với “Đại Thành Toán Pháp” hay Lê Quý Đôn, nhà bác học trẻ tuổi. còn về mặt khoa cử, văn hóa có Nguyễn Hiền là người đỗ trạng nguyên nhỏ tuổi nhất Việt Nam. Thế mới biết mạnh yếu là vô chừng, mạnh yếu còn phụ thuộc vào hoàn cảnh phụ thuộc vào thời gian. Đất nước ta cũng vậy, có lúc mạnh nhưng cũng có lúc yếu. Nhưng dù mạnh hay yếu, thời nào dân tộc ta cũng không thiếu những anh hùng hào kiệt. Và anh hùng hào kiệt chính là những người đã làm nên đất nước. Với quan niệm nhân văn đúng đắn và tiến bộ ấy, trong “Nước Đại Việt ta”(trích “Bình Ngô đại cáo”), Nguyễn Trãi đã khẳng định đất nước ta:

“Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có”

Vậy “hào kiệt” là gì? Hào kiệt là những người kiệt xuất, có tài cao chí lớn hơn người. Họ thường giỏi giang hoặc có khả năng đặc biệt trong một lĩnh vực nào đó. Còn khái niệm “mạnh - yếu” ở đây chỉ sự hùng mạnh, hưng thịnh của một đất nước. Chẳng hạn, dưới triều đại nhà Lý nước ta là một cường quốc cỡ Đông Nam á, được các lân bang nể trọng. Hay dưới thời nhà Trần đất nước ta cũng được xem là nước mạnh vì đã ba lần đánh bại được quân Mông Nguyên nổi tiếng lớn mạnh và tàn bạo. Nhưng cũng không ít khi do vua quan hưởng lạc nên nước ta suy yếu để kẻ thù phương Bắc lăm le dòm ngó. Song đúng như Nguyễn Trãi đã viết trong áng hùng văn của mình là nước ta không đời nào không có anh những anh hùng hào kiệt. Ta có thể nhận thấy điều đó qua thực tế dựng nước giữ nước bốn ngàn năm của dân tộc.

Từ buổi sơ khai lịch sử trước công nguyên, chúng ta đã được nghe nhắc đến những vị nữ nhi nhưng không phế “thường tình”chút nào đó là Bà Trưng, Bà Triệu – những vị anh hùng đã có công đánh đuổi quân thù giành lại độc lập cho đất nước. Hay Ngô Quyền trí dũng song toàn đã từng đại phá quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng lịch sử vào năm 938. Rồi những Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, những Lê Lợi, Nguyễn Trãi mãi mãi được nhắc tên với công lao đánh đuổi quân thù bảo vệ độc lập tự do cho non sông đất nước, tô đậm những nét son hồng trong trang sử vàng của dân tộc. Tất cả họ là những anh hùng hào kiệt về chiến đấu bảo vệ Tổ Quốc, là những nhà lãnh đạo những nhà quân sự tài ba. Xét về giáo dục, lịch sử VN ta phải ghi nhận sự vượt trội về trí tuệ của thầy giáo Chu văn An. Về y học phải nhắc đến Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác hay danh y Tuệ Tĩnh đời Trần. Khoa học có nhà toán học Lương Thế Vinh với “Đại Thành Toán Pháp” hay Lê Quý Đôn, nhà bác học trẻ tuổi. còn về mặt khoa cử, văn hóa có Nguyễn Hiền là người đỗ trạng nguyên nhỏ tuổi nhất Việt Nam....

Đó là chuyện xưa, còn ngày nay thì sao? Người xứng đáng để dân tộc ta ngưỡng mộ đầu tiên phải kể đến Hồ Chủ Tịch vĩ đại, người đã chèo lái con thuyền Việt Nam cập bến vinh quang. Không chỉ giỏi về quân sự, Người còn là nhà ngoại giao, nhà báo, nhà văn, nhà thơ được nhiều người nể phục. Trợ thủ đắc lực bên cạnh Bác phải kể đến đại tướng Võ Nguyên Giáp, nhà quân sự đại tài đã chỉ huy thành công hai cuộc kháng chiến chống Pháp chống Mỹ khiến nhân nhân dân thế giới phải khâm phục nể vì. Trong lĩnh vực y học ta không thể không nhắc tới bác sĩ Tôn Thất Tùng đã thành công trong cấy ghép gan khô và trở thành bác sĩ mổ gan giỏi nhất thế giới. Về lĩnh vực âm nhạc, gần đây ta có nhạc sĩ Trịnh Công Sơn với hơn 600 ca khúc các loại, được mệnh danh là Mô-da của Việt Nam. Rồi những Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, những Lê Lợi, Nguyễn Trãi mãi mãi được nhắc tên với công lao đánh đuổi quân thù bảo vệ độc lập tự do cho non sông đất nước, tô đậm những nét son hồng trong trang sử vàng của dân tộc. Tất cả họ là những anh hùng hào kiệt về chiến đấu bảo vệ Tổ Quốc, là những nhà lãnh đạo những nhà quân sự tài ba. Xét về giáo dục, lịch sử VN ta phải ghi nhận sự vượt trội về trí tuệ của thầy giáo Chu văn An. Về y học phải nhắc đến Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác hay danh y Tuệ Tĩnh đời Trần.

Thế còn trong thập niên đầu của thế kỷ XXI này thì sao? Chúng ta có quyền tự hào về giáo sư Ngô Bảo Châu, người châu Á thứ hai được nhận giải thưởng danh giá về công trình nghiên cứu toán học.

Những con người có tài cao chí lớn sẽ góp phần làm vẻ vang dân tộc vẻ vang cho đất nước. Điển hình như Trần Hưng Đạo lãnh đạo quân ta đánh bại quân Mông Nguyên lúc bấy giờ đã chiếm gần hết châu Á và đang bành trướng đến Châu Âu, khắp nơi đều in dấu chân của chúng. Nhờ sự kiện đó mà Đại Việt ta được biết đến một cách vẻ vang. Hoặc như Chủ Tịch HCM đã lãnh đạo dân ta đánh bại Thực Dân Pháp, phát xít Nhật, làm rạng danh đất nước. Nhờ công lao thành quả họ đạt được mà hôm nay chúng ta có quyền tự hào. Giáo sư Ngô Bảo Châu trong một lần phát biểu trên truyền hình, ông đã nói rằng ông đi nước ngoài rất nhiều và ông cảm thấy hãnh diện khi cầm trên tay tấm hộ chiếu Việt Nam.

Tuổi trẻ chúng ta muốn giúp ích cho nước nhà thì phải trở thành những con người tài cao chí lớn. Muốn vậy thì ngay từ bây giờ phải ra sức học tập, tìm hiểu những cái mới cho kịp với thời đại. Có như vậy sau này chúng ta mới có thể đóng góp công sức để phát triển nước nhà đưa nước nhà tiến lên “đài vinh quang” sánh vai cùng các cường quốc. Rồi những Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, những Lê Lợi, Nguyễn Trãi mãi mãi được nhắc tên với công lao đánh đuổi quân thù bảo vệ độc lập tự do cho non sông đất nước, tô đậm những nét son hồng trong trang sử vàng của dân tộc. Tất cả họ là những anh hùng hào kiệt về chiến đấu bảo vệ Tổ Quốc, là những nhà lãnh đạo những nhà quân sự tài ba. Xét về giáo dục, lịch sử Việt Nam ta phải ghi nhận sự vượt trội về trí tuệ của thầy giáo Chu văn An. Về y học phải nhắc đến Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác hay danh y Tuệ Tĩnh đời Trần.

Cũng đã 600 năm từ ngày vụ án Lệ Chi Viên diễn ra, Nguyễn Trãi đã ra đi trong án oan giết vua, song các tác phẩm của ông sẽ còn sống mãi và điển hình như “Bình Ngô Đại Cáo”. Câu nói “Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau, song hào kiệt đời nào cũng có” là hoàn toàn đúng đắn, và cho đến tận ngày nay câu nói đó vẫn giữ nguyên giá trị đúng đắn ban đầu.

Tài liệu có 33 trang. Để xem toàn bộ tài liệu, vui lòng tải xuống
Đánh giá

0

0 đánh giá

Tải xuống