Số phận con người – Sô-lô-khốp - Ngữ văn lớp 12 - Nội dung, tác giả, tác phẩm

Tải xuống 2 4.7 K 3

Tài liệu nội dung chính bài Số phận con người Ngữ văn lớp 12 gồm 2 trang đầy đủ bố cục, tóm tắt, phương thức biểu đạt, thể loại, ngôi kể, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật giúp học sinh nắm được những nét chính của văn bản.

Số phận con người

Bài giảng: Số phận con người

Số phận con người – Ngữ văn lớp 12 (ảnh 1)

Tìm hiểu chung về văn bản:

1. Đoạn trích Số phận con người

(Lược phần đầu: Mùa xuân năm 1946, trên đường đi công tác, tác giả gặp anh lái xe An-đrây Xô-cô-lốp 46 tuổi và bé Va-ni-a chừng 5 - 6 tuổi trên bến đò. Nhân dịp này, An-đrây Xô-cô-lốp đã kể cho tác giả nghe về cuộc đời đau khổ của mình. Khi chiến tranh bùng nổ, anh ra trận, để lại vợ và ba con ở hậu phương. Chiến đấu chừng một năm, anh bị thương hai lần, vào tay và chân. Tiếp đó là hai năm bị đoạ đày trong các trại tập trung của phát xít Đức. Năm 1944, bọn phát xít bị thua to trên mặt trận Xô – Đức, buộc phải dùng cả tù binh làm lái xe. Nhân cơ hội đó, An-đrây Xô-cô-lốp đã cướp xe, bắt sống tên thiếu tá phát xít, chạy thoát về phía quân ta. Mãi lúc ấy An-đrây Xô-cô-lốp mới biết vợ và hai con gái anh đã bị bom phát xít giết hại từ giữa năm 1942. A-na-tô-li, con trai anh, một học sinh giỏi toán, giờ là đại uý pháo binh. Hai cha con cùng tiến đánh Béc-lin, sào huyệt của bọn phát xít. Đúng ngày 9 tháng 5 năm 1945, ngày chiến thắng, một tên thiện xạ Đức đã bắn chết A-na-tô-li, đứa con trai yêu quý, niềm hy vọng cuối cùng của An-đrây Xô-cô-lốp...)

Tôi đã chôn trên đất người, đất Đức, niềm vui sướng và niềm hi vọng cuối cùng của tôi; đại đội pháo đã nổ súng vĩnh biệt tiễn người chỉ huy của họ tới nơi an nghỉ cuối cùng; trong người tôi như có cái gì đó vỡ tung ra... Tôi trở về đơn vị mình như người mất hồn. Nhưng chả mấy chốc tôi được giải ngũ. Về đâu bây giờ? Chả nhẽ lại về Vô-rô-ne-giơ? Không được! Tôi chợt nhớ ở U-riu-pin-xcơ có một người bạn, giải ngũ hồi mùa đông vì bị thương, - có lần anh ấy mời tôi về nhà, tôi nhớ ra và tìm đến U-riu-pin-xcơ.

Hai vợ chồng người bạn tôi không có con, sống trong một ngôi nhà riêng nho nhỏ ở rìa thành phố. Mặc dù được hưởng phụ cấp thương binh, nhưng anh bạn tôi vẫn làm lái xe cho một đội vận tải, tôi cũng đến xin làm ở đó. Tôi ở nhà bạn, họ thu xếp cho tôi chỗ nương thân. Chúng tôi chở các thứ hàng hoá về các huyện, và mùa thu thì chuyển sang chở lúa mì. Chính vào hồi ấy tôi gặp chú con trai mới của tôi, đấy chú bé đang nghịch cát đấy.

Thường cứ chạy xe xong trở về thành phố, việc đầu tiên cũng dễ hiểu thôi, là tôi vào hiệu giải khát, nhấm nháp chút gì đó và tất nhiên có uống một ly rượu lử người. Phải nói rằng tôi đã quá say mê cái món nguy hại ấy... Thế rồi một hôm, tôi thấy chú bé ấy ở gần cửa hàng giải khát, hôm sau vẫn lại thấy - thằng bé rách bươm xơ mướp. Mặt mũi thì bê bết nước dưa hấu, lem luốc, bụi bặm, bẩn như ma lem, đầu tóc rối bù, nhưng cặp mắt - cứ như những ngôi sao sáng ngời sau trận mưa đêm! Tôi thích nó, và lạ thật, thích đến nỗi bắt đầu thấy nhớ nó, cố chạy xe cho nhanh để được về gặp nó. Nó ăn ngay ở hiệu giải khát, ai cho gì thì ăn nấy.

Sang ngày thứ tư, tôi chở lúa mì từ nông trường, ghé lại hiệu giải khát. Chú bé của tôi ngồi ở bậc thềm, hai bàn chân nhỏ xíu đung đưa, và nom có vẻ như đang đói. Tôi thò đầu ra ngoài cửa buồng lái và hét gọi: “Ê, Va-ni-a! Lên ô tô đi, nhanh lên, chú đưa đến kho thóc rồi trở về đây ăn trưa”. Nghe tiếng hét gọi của tôi, nó giật mình nhảy khỏi thềm, leo lên bậc xe hỏi nhỏ: “Sao chú lại biết tên cháu là Va-ni-a?”. Và đôi mắt nhỏ của nó mở to ra chờ tôi trả lời. Còn tôi thì bảo nó rằng tôi là người từng trải, cái gì cũng biết.

Nó bước sang bên phải xe, tôi mở cửa đặt nó ngồi bên cạnh mình và cho xe chạy. Thằng bé hoạt bát đến thế mà bỗng nhiên không biết vì sao lại lặng thinh, tư lự, chốc chốc lại liếc nhìn tôi dưới đôi hàng mi dài cong vút, và lại thở dài. Một con chim con non nớt như thế mà đã học thở dài ư? Đấy đâu phải việc của nó? Tôi hỏi: bố cháu đâu, hả Va-ni-a?”. Nó rỉ tai: “Chết ở mặt trận.” - “Thế mẹ cháu?” - “Mẹ bị bom chết trên tàu hoả khi mẹ con cháu đang đi tàu.” - “Thế cháu từ đâu đến?” - “Cháu không biết, không nhớ...” - “Thế ở đây cháu không có ai là bà con thân thuộc à?”. - “Không có ai cả” - “Thế đêm cháu ngủ ở đâu?” - “Bạ đâu ngủ đó”.

Những giọt nước mắt nóng hổi sôi lên ở mặt tôi, và lập tức tôi quyết định: “Không thể để cho mình với nó chìm nghỉm riêng rẽ được! Mình sẽ nhận nó làm con.”. Ngay lúc ấy, tâm hồn tôi bỗng nhẹ nhõm và bừng sáng lên. Tôi cúi xuống bên nó khẽ hỏi: “Va-niu-ska, có biết ta là ai không nào?”. Nó hỏi lại nghẹn ngào: “Thế chú là ai?”. Tôi nói lại cũng khẽ như thế: “Ta là bố của con!”

Trời ơi, thật không thể tưởng tượng được. Nó nhảy chồm lên cổ tôi hôn vào má, vào môi, vào trán và như con chim chích, nó ríu rít líu lo vang rộn cả buồng lái: “Bố yêu của con ơi! Con biết mà! Con biết thế nào bố cũng tìm thấy con mà! Thế nào cũng tìm thấy mà! Con chờ mãi mong được gặp bố!”. Nó áp sát vào người tôi, toàn thân cứ run lên như ngọn cỏ trước gió. Còn mắt tôi thì cứ mờ đi, cả người cũng run lên, hai bàn tay lẩy bẩy... Thế mà tôi vẫn không bị mất tay lái thì cũng kì lạ thật. Nhưng rồi xe cũng lảo đảo đâm xuống rãnh, tôi tắt máy. Giữa lúc mắt còn mờ đi như vậy, tôi không dám chạy tiếp, sợ đâm phải người. Tôi dừng xe chừng năm phút, còn chú bé con trai của tôi cứ ghì chặt lấy tôi lặng im, run rẩy. Tay phải tôi quàng sang ôm lấy nó, khẽ áp nó vào người, còn tay trái tôi mở máy quay trở về nhà mình. Đến kho thóc làm gì nữa, khi mà tôi không còn bụng dạ nào để đi đến đó.

Tôi để xe cạnh cổng, bế con trai mới của tôi vào nhà. Còn nó thì hai tay bé bỏng cứ ôm chặt lấy cổ tôi, vào đến nơi vẫn không chịu buông ra. Nó áp chặt má vào cái má lởm chởm chưa cạo của tôi, cứ như là dán vào đó. Tôi cứ thế bế vào. May quá, cả hai vợ chồng nhà chủ đều đang ở nhà. Tôi bước vào, nháy mắt ra hiệu cho cả hai người rồi nói một cách phấn khởi: “Đây, tôi tìm được cháu Va-niu-ska của tôi rồi! Hai bác là người tốt bụng, cho chúng tôi ở nhờ nhé!”. Cả hai, những người không có con, lập tức hiểu ngay câu chuyện, cứ lăng xăng tíu tít. Còn tôi thì không làm sao dứt khỏi chú con trai. Cuối cùng, rồi cũng dỗ được nó. Tôi lấy xà phòng rửa tay cho nó rồi đặt ngồi vào bàn ăn. Bà chủ múc xúp bắp cải vào đĩa cho nó, rồi đứng nhìn nó ăn ngấu nghiến mà nước mắt ròng ròng. Bà đứng cạnh lò sưởi lấy tạp dề che mặt khóc. Bé Va-niu-ska của tôi thấy bác ấy khóc bèn chạy lại níu lấy vạt áo và nói: “Cô ơi, sao cô lại khóc? Bố cháu tìm thấy cháu ở gần hiệu giải khát, mọi người phải vui mừng chứ, sao cô lại khóc?”. Chao ôi, nghe nói thế bác ta lại càng đầm đìa nước mắt, càng khóc sướt mướt.

Sau bữa ăn trưa, tôi đưa nó tới hiệu cắt tóc, rồi về nhà đặt ngồi vào chậu giặt, tắm rửa xong rồi bọc nó vào tấm khăn trải giường sạch. Nó ôm lấy tôi và cứ thế ngủ thiếp đi. Tôi cẩn thận đặt nó lên giường, rồi cho xe chạy tới kho thóc, dỡ lúa mì xuống, đem xe về trạm để đó, chạy ra cửa hàng tạp hoá. Tôi mua cho nó một cái quần dạ, một sơ mi, đôi dép và một cái mũ lưỡi trai bằng sợi. Tất nhiên là tất cả mọi thứ đều không vừa và chất lượng cũng kém. Về cái quần dạ thì bà chủ đã quở tôi: “Bác điên hay sao, trời nóng thế này mà mặc quần dạ cho con!”. Và lập tức, chiếc máy khâu được đặt lên bàn; rương hòm được lục tung lên. Một giờ sau, Va-niu-ska của tôi đã có một chiếc quần đùi xa tanh và một sơ mi trắng cộc tay. Tôi ngủ chung với nó, và lần đầu tiên, sau bao nhiêu năm tôi được ngủ một giấc yên lành. Nhưng trong đêm cũng phải dậy đến vài bốn bận. Tôi thức giấc, thấy nó rúc vào nách tôi như con chim sẻ dưới mái rạ, ngáy khe khẽ, tôi thấy lòng vui không lời nào tả xiết! Tôi không dám trở mình để nó khỏi thức giấc, nhưng rồi không nén được, tôi nhẹ nhàng ngồi dậy đánh diêm ngắm nhìn nó ngủ...

Tôi thức giấc trước khi trời sáng, không hiểu vì sao mà lại khó thở thế. Hoá ra chú con trai của tôi đã đạp tung khăn trải giường, bò lên nằm vắt ngang trên người tôi, xoạc chân ra, bàn chân bé nhỏ đè lên cổ họng tôi. Ngủ với nó thật không yên, nhưng quen hơi, không có nó thì buồn. Đêm đêm khi thì nhìn nó ngủ, khi thì thơm mái tóc xù của nó, trái tim tôi đã suy kiệt, đã bị chai sạn vì đau khổ, nay trở nên êm dịu hơn...

Thời gian đầu, nó còn theo tôi trong các chuyến xe, nhưng rồi tôi hiểu ra rằng như thế không có lợi. Chỉ một mình tôi thì cần gì đâu? Một mẩu bánh mì, một củ hành với tí muối, thế là đủ no cho một ngày của đời lính. Nhưng thêm nó thì khác: khi thì phải mua sữa cho nó, khi thì phải luộc quả trứng, không có thức ăn nóng cho nó là không xong. Nhưng công việc thì cần gấp. Tôi kiên quyết để nó ở nhà cho bà chủ chăm nom, nhưng nó cứ khóc suốt từ sáng cho đến tối, chiều tối chuồn ra kho thóc tìm tôi. Nó thường đợi tôi ở đó đến khuya.

Ban đầu thật là vất vả với nó. Có hôm trời còn sáng, hai bố con đã đi nằm ngủ - ban ngày tôi làm việc mệt lử người - còn nó, lúc thì cứ luôn luôn ríu rít như chim sẻ, có lúc không hiểu sao lại cứ tự nhiên im lặng. Tôi hỏi: “Con trai bố đang nghĩ gì đấy?”. Nó hỏi lại, mắt nhìn lên trần: “Bố ơi, cái áo bành tô bằng da của bố đâu rồi?”. Cả đời tôi, có bao giờ tôi có bành tô da nào đâu! Tôi đành phải đánh trống lảng: “Bố để lại ở Vô-rô-ne-giơ rồi!” - Tôi bảo nó. “Thế tại sao bố lại tìm con lâu thế?”. Tôi đáp: bố tìm con ở bên Đức, bên Ba Lan, và đi bộ, đi xe tìm khắp cả Bê-lô-ru-xi-a, mà con thì lại ở U-riu-pin-xcơ.”. - “Thế U-riu-pin-xcơ có gần nước Đức không hả bố? Thế Ba Lan có cách xa nhà ta lắm không?”. Đấy hai bố con cứ nói chuyện huyên thuyên như thế cho đến khi ngủ thiếp đi.

Anh bạn ạ, không phải là vô cớ mà nó hỏi về cái áo bành tô da đâu? Không, hoàn toàn không đơn giản. Tức là, ông bố đẻ của nó đã có thời mặc bành tô da, và nó chợt nhớ lại. Đấy, trí nhớ trẻ con cứ như quầng sáng mùa hạ, soi sáng tất cả trong chốc lát rồi vụt tắt. Trí nhớ của chú bé ấy cũng như vậy, như quầng sáng, cứ chợt loé lên như thế.

Cũng có thể là tôi và cháu bé còn ở U-riu-pin-xcơ, chừng hơn một năm nữa, nếu như hồi tháng mười một không bị chuyện rủi ro. Hôm ấy tôi lái xe đường lầy, đến một thôn nọ thì xe bị trượt, vừa lúc đó có một con bò quay lại, xe tôi chạm phải chân nó. Thế là như ta biết đấy, các bà gào thét ầm lên, người ta xúm lại, anh kiểm soát xe hơi lập tức đến ngay. Anh ta thu hồi bằng lái của tôi mặc dù tôi đã hết sức van nài mong anh rộng lượng tha thứ. Con bò đứng dậy, ve vẩy đuôi rồi chạy vào ngõ hẻm, còn tôi thì bị tước bằng lái. Mùa đông, tôi làm thợ mộc, rồi thư từ với một người bạn trước kia ở cùng đơn vị. Anh ta ở cùng một tỉnh với anh đấy, ở huyện Ka-sa-rư, làm nghề lái xe hơi - anh ấy mời tôi đến nhà anh ấy. Anh ấy viết thư bảo rằng đến đó tôi sẽ làm ở bộ phận thợ mộc chừng nửa năm, rồi ở tỉnh họ cấp lại bằng lái xe mới cho tôi. Thế là tôi và cháu bé cùng đi bộ tới Ka-sa-rư.

Mà nói thực với anh, nếu không xảy ra chuyện lôi thôi với con bò thì rồi tôi cũng vẫn rời U-riu-pin-xcơ. Nỗi đau buồn không cho tôi ở lâu mãi một chỗ được. Có lẽ phải đến khi nào cháu Va-niu-ska lớn lên, buộc lòng phải gửi cháu vào một trường học ổn định, thì may ra lúc ấy, nguôi bớt nỗi buồn, tôi mới có thể ở yên một chỗ. Còn bây giờ thì hai bố con cứ cuốc bộ khắp nước Nga.

- Cháu bé đi vất vả lắm nhỉ, - tôi nói.

- Cháu đi bộ ít thôi, phần lớn thời gian tôi cõng cháu. Tôi để nó ngồi lên vai và cứ thế đi, nếu muốn vận động cho dãn gân cốt thì nó lại tụt xuống chạy, tung tăng bên đường như con dê con. Anh bạn ạ, tất cả những điều ấy cũng chẳng sao, miễn là bố con chúng tôi sống được; nhưng mà quả tim của tôi đã rệu rã lắm rồi, đến phải thay pít-tông thôi... Có khi tự nhiên nó nhói lên, thắt lại và giữa ban ngày mà tối tăm mặt mũi. Tôi chỉ sợ lúc nào đó đang ngủ mà tôi chết luôn làm cho con trai tôi phải khiếp sợ. Lại còn thêm một nỗi khổ tâm này nữa: hầu như đêm nào tôi cũng chiêm bao thấy những người thân quá cố. Và lúc nào cũng thế, tôi ở bên này, sau hàng rào dây thép gai, còn vợ con thì tự do ở bên kia... Tôi nói đủ chuyện với I-ri-na, với các con nhưng chỉ vừa mới toan lấy tay đẩy dây thép gai ra, thì vợ con lại rời bỏ tôi, cứ như là vụt tan biến mất... Và đây là một điều rất kì lạ: ban ngày bao giờ tôi cũng trấn tĩnh được, không hở ra một tiếng thở dài, một lời than vãn, nhưng ban đêm thức giấc thì gối ướt đẫm nước mắt...

Trong rừng đã nghe tiếng đồng chí của tôi gọi, tiếng mái chèo vỗ nước.

Người khách lạ nhưng đã trở thành thân thiết đối với tôi đứng dậy, đưa bàn tay to bè cứng rắn như bằng gỗ:

- Tạm biệt anh bạn, chúc anh may mắn.

- Chúc anh đến Ka-sa-rư may mắn.

- Cảm ơn anh. Này con, sang đò đi.

Chú bé chạy tới, đứng bên phải bố, túm lấy vạt áo bông của bố, chạy lon ton cho kịp bước sải dài của người lớn.

Hai con người côi cút, hai hạt cát đã bị sức mạnh phũ phàng của bão tố chiến tranh thổi bạt tới những miền xa lạ... Cái gì đang chờ đón họ ở phía trước? Thiết nghĩ rằng con người Nga đó, con người có ý chí kiên cường, sẽ đứng vững được và sống bên cạnh bố, chú bé kia một khi lớn lên sẽ có thể đương đầu với mọi thử thách, sẽ vượt qua mọi chướng ngại trên đường nếu như Tổ quốc kêu gọi.

Với một nỗi buồn thấm thía, tôi nhìn theo hai bố con... Có lẽ cuộc chia tay của chúng tôi sẽ thanh thản tốt đẹp hơn; nhưng Va-niu-ska, mới đi được ít bước, đôi chân lũn cũn chuệnh choạng, chợt quay lại nhìn tôi, vẫy bàn tay bé xíu hồng hồng. Bỗng như có một bàn chân con vật nào đó mềm mại nhưng móng sắc nhọn bóp lấy tim tôi, và tôi vội quay mặt đi. Không, không phải những người đứng tuổi đã bạc đầu trong chiến tranh chỉ khóc trong chiêm bao đâu. Họ cũng khóc trong thực tại đấy. Cái chính ở đây là phải biết kịp thời quay mặt đi. Cái chính ở đây là đừng làm tổn thương trái tim em bé, đừng để cho em thấy những giọt nước mắt đàn ông hiếm hoi nóng bỏng lăn trên má anh.

2. Đôi nét về tác giả, tác phẩm

1. Tác giả

- Mi-khai-in A-lếch-xan-đrô-vích Sô-lô-khốp (1905 - 1984) là một nhà văn Nga lỗi lạc, đã vinh dự nhận Giải thưởng Nô-ben về văn học năm 1965.

- Ông sinh ra tại thị trấn Vi-ô-sen-xcai-a thuộc tỉnh Rô-xtốp trên vùng thảo nguyên sông Đông.

- Sô-lô-khốp tham gia cách mạng từ khá sớm (với các công việc như thư ký ủy ban trấn, nhân viên thu mua lương thực, tiễu phỉ…)

- Năm 1922, ông đến Mát-cơ-va rồi làm nhiều nghề để kiếm sống như đập đá, khuân vác, kế toán.

- Năm 1925, ông trở về quê, bắt đầu viết tác phẩm tâm huyết nhất của đời mình: Sông Đông êm đềm.

- Năm 1926, ông đã cho in hai tập truyện ngắn là Truyện sông Đông và Thảo nguyên xanh.

- Năm 1932, Sô-lô-khốp trở thành Đảng viên Đảng cộng sản Liên Xô.

- Năm 1939, ông được bầu làm Viện sĩ Viện hàn lâm Khoa học Liên Xô.

- Trong những năm tháng chiến tranh vệ quốc vĩ đại, Sô-lô-khốp đã theo sát Hồng quân trên nhiều chiến trường với tư cách là phóng viên của báo Sự thật.

2. Tác phẩm

Hoàn cảnh sáng tác

- Truyện ngắn Số phận con người sáng tác 1957, là cột mốc quan trọng mở ra chân trời mới cho văn học Nga.

- Tác phẩm đã thể hiện cách nhìn cuộc sống và chiến tranh một cách toàn diện, chân thực, cũng như sự đổi mới cách miêu tả nhân vật, khám phá tính cách Nga, khí phách anh hùng và nhân hậu của người lính Xô viết.

3. Bố cục

- Phần 1 (từ đầu đến “chú bé đang nghịch cát đấy”): Giới thiệu về nhân vật

- Phần 2 (tiếp đó đến “chợt lóe lên như thế”): Niềm hạnh phúc của bé Va-ni-a

- Phần 3 (còn lại): Số phận hẩm hiu của Sô-cô-lốp và niềm tin vào sức mạnh của con người Nga

4. Tóm tắt

Trong những năm nội chiến, Xô-cô-lốp tham gia Hồng quân. Nạn đói xảy ra, gia đình anh bị chết. Anh phải làm nhiều nghề để kiếm sống và đã xây dựng được một gia đình hạnh phúc. Chiến tranh chống phát xít bùng nổ, anh ra trận, bị bắt làm tù binh, bị tra tấn. Khi trốn thoát về được với Hồng quân thì anh mới biết vợ và hai con gái đã bị bom sát hại trước đó hai năm. Anh tiếp tục chiến đấu và đúng vào ngày chiến thắng, con trai của anh đã hi sinh. Sau chiến tranh, anh xuất ngũ và làm lái xe cho một đội vận tải. Gặp bé Va-ni-a (mồ côi cha mẹ), anh nhận nó làm con.Cuộc sống của anh từ đó thêm khó khăn song đã ấm áp hơn. Anh phải nén chịu, giấu đi những mất mát đau đớn của thể xác và tinh thần để bé Va-ni-a được hạnh phúc. Một lần gặp rủi ro, anh bị thu bằng lái xe. Sau sự việc đó, anh lại cùng con đến Ka-sa-rư để kiếm sống.

5. Phương thức biểu đạt: Tự sự

6. Thể loại: Truyện ngắn

7. Ngôi kể: Ngôi thứ nhất

8. Giá trị nội dung

- Từ nỗi buồn kết lại tác phẩm lại khiến ta nhận ra tầm vóc vĩ đại của đất nước và con người Nga xô viết quả cảm, kiên cường, nhân hậu.

- Tác phẩm chứa đựng một nội dung sâu sắc về triết học và thẩm mĩ, mang giá trị nhân văn sâu sắc: sức mạnh tinh thần, tình yêu thương có thể cứu vớt con người và nhờ nó, con người có thể vượt qua sự tàn phá, hủy diệt của chiến tranh, xây dựng cuộc sống tự do, yên lành. 

9. Giá trị nghệ thuật

- Lối kể chuyện giản dị 

- Nhân vật được xây dựng và miêu tả đặc sắc, sinh động.

Sơ đồ tư duy Phân tích Số phận con người

Sơ đồ tư duy Số phận con người dễ nhớ, ngắn gọn

Dàn ý chi tiết Phân tích Số phận con người

1. Mở bài

- Giới thiệu về tác giả Sô-lô-khốp (tiểu sử, các tác phẩm chính, phong cách sáng tác…)

- Giưới thiệu về tác phẩm Số phận con người (hoàn cảnh ra đời, giá trị nội dung và nghệ thuật…)

2. Thân bài

a. Hoàn cảnh và tâm trạng của Xô-cô-lốp và bé Va-ni-a sau chiến tranh

* Xô-lô-khốp

- Vợ và hai cô con gái bị bọn phát xít giết hại từ giữa năm 1942

- Đứa con trai – niềm hi vọng cuối cùng cũng bị bắn chết vào ngày 9/5/1945

- Nỗi đau, sự mất mát cứ bám theo anh cả trong những giấc ngủ, đến khi tỉnh giấc thì gối vẫn ướt đẫm nước mắt

- Trong công việc, gặp pahri những rủi ro, bất trắc, luôn sống trong nỗi thất vọng, cô đơn, luôn như người mất hồn “cặp mắt buồn nguội lạnh lúc nào cũng buồn thê thảm”ngày ngày tìm đến quán rượu, suýt trở thành kẻ nghiện rượu.

⇒ Số phận đầy mất mát, đau thương. Anh trở thành người không gia đình, không chốn trở về và anh rơi vào bi kịch của cuộc sống.

* Bé Va-ni-a

- Ngoại hình:

   + Rách bươm xơ mướp

   + Mặt mũi bê bết nước dưa hấu, lem luốc, bụi bặm, bẩn như ma lem

   + Đầu tóc rối mù

   + Cặp mắt như những ngôi sao sáng

- Gia cảnh:

   + Bố chết ở mặt trận

   + Mẹ chết trên tàu hỏa

   + Không quê hương, không bà con thân thiết

⇒ Đứa trẻ lang thang, không nơi nương tựa, sống cô độc.

b. Cuộc gặp gỡ giữa Xô-cô-lốp và bé Va-ni-a

- Cảm thương cho số phận của Va-ni-a, Xô-cô-lốp lập tức quyết định nhận bé làm con nuôi.

→ Trái tim giàu lòng nhân ái, nhạy cảm trước nỗi đau của con người

- Sự thay đổi trong suy nghĩ và hành động của bé Va-ni-a:

   + Khi được Xô-cô-lốp nhận làm con, Va-ni-a vô cùng sung sướng và xúc động: nhảy chồm lên ôm cổ, hôn vào má, vào môi, vào trán, áp sát vào người,…

   + Cậu vô cùng hồn nhiên, vui vẻ, quyến luyến người bố không rời

- Sự thay đổi trong Xô-cô-lốp:

   + Xúc động cực độ, Xô-cô-lốp không nghĩ việc anh nhận Va-ni-a làm con lại khiến cậu bé hạnh phúc tới vậy

   + Anh lấy lại được thăng bằng trong cuộc sống, cảm nhận được sự bình an, niềm hạnh phúc và không khí gia đình dù còn đó những vất vả, những vụng về trong cách chăm sóc con

⇒ Các nhân vật đã nương tựa vào nhau để sống, chính tình yêu thương chân thành đã giúp họ cùng nhau vượt qua nỗi cô đơn và những mất mát, bi kịch của số phận mình

c. Số phận hẩm hiu của Xô-cô-lốp và niềm tin vào sức mạnh của con người Nga

- Số phận hẩm hiu của Xô-cô-lốp:

   + Gặp khó khăn trong công việc: Xe anh quét nhẹ phải con bò nhưng anh bị tước bằng, bị mất việc, phải đi phiêu bạt để kiếm sống.

   + Thể chất anh cũng đang yếu dần đi: trái tim tôi đã rệu rã lắm rồi, có khi tự nhiên nó nhói lên, thắt lại và giữa ban ngày mà mà tối tăm mặt mũi

   + Nỗi đau ám ảnh anh không dứt

→ Anh đã và đang gánh chịu những nỗi đau không gì bù đắp nỗi, thời gian cũng không xoa dịu được vết thương lòng. Anh đã cứng cỏi nuốt thầm giọt lệ để cho bé Va – ni – a không phải khóc

- Đoạn kết tác phẩm và niềm tin vào sức mạnh của con người Nga:

   + Tác giả bày tỏ nỗi băn khoăn lo lắng về tương lai của 2 nhân vật “Hia con người côi cút…phía trước?”Nhưng nghĩ đến tính cách con người Nga, nhà văn cũng thể hiện thái độ tin tưởng: “Thiết nghĩ…có thể đương đầu với thử thách”

→ nhà văn khẳng định sức mạnh tiềm ẩn và những cống hiến thầm lặng của một thế hệ Xô Cô Lốp nói riêng và nhân dân Nga nói chung cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.

   + Lời nhắn gửi của tác giả hàm nhiều ý nghĩa và hướng đến nhiều đối tượng: “ Cái chính ở đây là…đừng làm tổn thương trái tim em bé…”

3. Kết bài

Khái quát lại giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm.

Bài văn mẫu Phân tích Số phận con người - mẫu 1

Sô lô khốp được biết đến là một nhà văn Xô viết lỗi lạc, ông được nhận giải thưởng Noben về văn học vào năm 1965. Ông đã có nhiều tác phẩm hay và nổi tiếng để lại bao gồm truyện, tiểu thuyết và đặc biệt hơn nữa là tác phẩm xuất sắc viết về “số phận con người”. Và thông qua tác phẩm này chúng ta thấy được những số phận bất hạnh của con người sau chiến tranh.

Nhân vật chính trong truyện được biết đến là nhân vật Xô-cô-lốp. Và anh ta được xây dựng lên là một người rơi vào bi kịch sau khi chiến tranh kết thúc. Trong khi trước đó anh phải đi lính và sau khi hòa bình thì anh mất hết tất cả từ người thân, nhà cửa và cả bạn bè nữa. Đối với Xô-cô-lốp thì có thể nói thì anh chiến đấu vì gia đình, vì quê hương đất nước nhưng khi hòa bình đã được lập lại thì mọi thứ đã bỏ anh mà đi thì không còn gì nữa cả. Anh dường như đã phải sống trong một cuộc sống đau khổ, kể cả khi chiến đấu, anh bị thương rất nhiều. Có cả vợ và hai người con của anh cũng bị bom của phát xít cướp đi tính mạng của mình. Và lúc này Xô-cô-lốp chỉ còn biết hi vọng và trông chờ vào người anh trai nhưng rồi cuối cùng anh ấy cũng đã chết trận.

Như vậy, thông qua đây chúng ta như đã có thể thấy được rằng số phận anh rất bất hạnh, khi chiến đấu đã chịu những giày vò thật tủi cực về thể xác lẫn tinh thần. Sau đó khi trở giờ về thì lại phải nếm trải niềm đau khổ về tinh thần tụt độ bởi người thân yêu duy nhất của mình cũng không còn nữa. Từ đó chúng ta có thể thấy được những hậu quả mà chiến tranh đã để lại là quá lớn lao, quá đắng cay và thật đáng thương cho Xô-cô-lốp.

Sau chiến tranh, anh cứ ngỡ được sống trong hạnh phúc, nhưng không, Xô-cô-lốp phải sống trong bế tắc và tuyệt vọng. Không hề có một mái nhà che nắng che mưa mà anh phải sống nhờ nhà một người bạn. Và để rồi cho tới khi anh tình cờ gặp được cậu bé có tên Va-ni-a. Nhà văn đã miêu tả thật ám ảnh về ngoại hình của cậu bé bằng những lời văn hết sức chân thật. Hiện lên đó là một cậu bé tầm 5 tới 6 tuổi ăn mặc rách rưới, cả cha và mẹ của cậu bé đều đã chết trong chiến tranh, ít ra Sô-lô-khốp còn có thể lao động được còn cậu bé thì lại không có ai, ai cho ăn gì thì cậu bé ăn nấy và bạ đâu ngủ đấy. Duyên phận dường như đã đưa đẩy cho họ gặp nhau như để bù đặp cho nhau những thiếu sót của cuộc đời đầy giông bão này vậy.

Xô-cô-lốp đã nhận nuôi bé Va-ni-a, anh còn chăm sóc tận tình chu đáo, anh còn mua quần áo cho cậu bé, là một chiếc áo bành tô rất đẹp. Có thể nói rằng chính lòng nhân ái đó đã đem hai trái tim đó như đã xích lại với nhau như để sưởi ấm cho nhau vậy. Anh luôn luôn cố gắng làm mọi việc để nuôi bé Va-ni-a, nhưng trớ trêu thay cuộc sống không giống như những gì mình nghĩ, anh vượt qua mọi nỗi đau, xe anh quệt nhẹ vào người ta và cuối cùng bị mất bằng lái và không được lái xe. Nghề mưu sinh của anh cũng đã không còn cho nên anh phải đi khắp nơi, đã thế sức khỏe anh lại yếu đi trông thấy, anh đau đến mức khóc nhưng anh lại không để cho bé Va-ni-a biết được điều này. Thông qua điều này chúng ta dường như nhận thấy tác giả có một tấm lòng nhân đạo cao cả.

Đến đoạn cuối của tác phẩm đầy tình thương yêu và biết bao sự nghiệt ngã này thì nhà văn đã thể hiện sự thương xót của mình đối với nhân vật. Đó chính là “Với nỗi buồn thấm thía, tôi nhìn theo hai bố con…”. Đoạn văn như đã thể hiện được sự khâm phục, tính cách của những con người luôn luôn kiên cường đứng vững vàng trước những khó khăn của cuộc sống. Có thể nói trong hoàn cảnh có nghèo khó thế nào thì họ vẫn luôn trao nhau những tình yêu thương đầy sự nhân ái, họ luôn luôn đùm bọc nhau cho nhau những yêu thương để vượt qua cuộc đời khó khăn và để sống.

Như vậy, chỉ với qua tác phẩm thôi mà chúng ta như có thể thấy được số phận đau khổ của con người qua chiến tranh là như thế nào. Con người đó, họ không những phải chịu những nỗi đau thể xác trên chiến trường mà còn phải chịu nhiều nỗi đau về tinh thần. Xô-cô-lốp cùng bé Va-ni-a là hai nhân vật chính là hiện thân của những số phận bất hạnh đó. Qua đó tác giả Sô-lô-khốp như đã muốn kêu gọi mọi người hãy có trách nhiệm đối với những con người như vậy hơn, để cuộc sống thực sự có ý nghĩa.

Bài văn mẫu Phân tích Số phận con người - mẫu 2

Sô Lô Khốp là nhà văn nổi tiếng của nước Nga, ông đạt được rất nhiều thành tựu văn học to lớn, trong đó ông đã đạt được giải thưởng Nô ben văn học năm 1965 và đạt được nhiều cảm xúc trong lòng người đọc. Số phận con người là một tác phẩm xuất sắc của ông.

Chiến tranh là một đề tài sâu rộng và nó dần ăn đi tiềm thức và cuộc sống của con người, con người được xem như là nạn nhân của chiến tranh, họ phải chịu đựng những đau khổ, và bất hạnh do cuộc sống gây nên, chiến tranh đã cướp đi rất nhiều thứ của con người, con người đang dần phải sống những năm tháng tăm tối và bị chiến tranh vùi dập đến tận xương tủy. Khi chiến tranh nhiều anh hùng đã xung phong ra mặt trận và Xô cô Lốp là một nhân vật như thế, chiến tranh nổ ra anh đã từ giã gia đình để xung phong ra mặt trận, bỏ lại ở nhà đó là vợ và con, buôn ba ngoài mặt trận nhiều năm, con trai lớn của anh cũng đang tham gia vào đội quân của Liên xô.

Trước khi tham gia vào chiến tranh Xô Cô Lốp được xem như là một nhân vật giàu lòng yêu thương, có tấm lòng nhân ái, và sự quả quyết trong cuộc sống, nhưng rồi chính chiến tranh đã cướp đi rất nhiều thứ của anh, từ gia đình, quê hương, người thân… anh đã trở thành nạn nhân của chiến tranh, bị chiến tranh vùi dập anh lâm vào tình trạng đau khổ, số phận con người đang dần phải chịu đựng nhiều đau khổ, và điều đó đã mang một ý nghĩa to lớn, ngay trong chính nhan đề, tác giả đã thể hiện được dòng tâm trạng, và một thái độ dứt khoát trước kẻ thù, ở đây số phận con người đã nêu ra một hiện thực đó là con người phải chịu nhiều đau khổ và là nạn nhân xấu số của chiến tranh.

Xô Cô Lốp là nhân vật đại diện cho con người Nga, với tính chất kiên cường, quả cảm mặc dù khó khăn như anh vẫn luôn thể hiện cho mình một thái độ dứt khoát và anh dũng trước cuộc sống, giá trị của tác phẩm để lại cho người đọc nhiều cảm xúc về chiến tranh, chính chiến tranh làm cho các nhân vật này phải chịu nhiều cực khổ, họ phải sống cuộc sống vất vả và gian nan nhất. Trong hoàn cảnh đó con người đang phải chịu những đau đớn, không chỉ nỗi đau về tinh thần mà còn thể hiện nỗi đau về thể xác, con người phải chịu những hậu quả lớn do chiến tranh gây nên, chiến tranh là thủ phạm gây nên bao nhiêu đau khổ cho con người.

Chiến tranh cướp đi người thân và gia đình của con người, luôn hết mình quả cảm chiến đấu vì dân tộc, họ luôn phải vượt qua rất nhiều những gian nan để có thể quật cường đứng dậy trước những sóng gió mà cuộc sống này gây ra, con người cũng đang phải chịu những nỗi đau đớn, dằn vặt, đúng từ những điều đó mà con người phải chịu đựng nhiều bất hạnh và số phận con người đang phải chịu những vô định, dạt dào từ cuộc sống này. Giống như cậu bé Va ni a, chính chiến tranh cũng đã cướp đi cha mẹ của bé, mặc dù mới ít tuổi nhưng nỗi đau đớn về tinh thần đã bủa vây lấy con người của chính nhân vật này.

Tác phẩm đã để lại cho người đọc, nhiều cảm xúc, đó là những cảm xúc đau thương và sự cảm thông sâu sắc cho số phận của những con người trong tác phẩm, họ phải chịu nhiều đau đớn và sự tổn thương tinh thần sâu sắc, trong những cảm xúc đó con người đang bị chiến tranh vùi dập và nó cướp đi nhiều thứ quan trọng trong cuộc sống của con người, họ phải chịu nhiều tổn thương, không chỉ về thể xác mà còn chịu nhiều tổn thương tinh thần.

Và chiến tranh cũng đang ám ảnh lấy cuộc sống của con người, họ phải chịu đựng nhiều bất hạnh mà cuộc sống này đã gây nên, họ cướp đi gia đình người thân, và qua đó họ còn bị ám ảnh trước những hiện thực của chiến tranh, chiến tranh đã gây cho họ nhiều tổn thương, không chỉ về thể xác mà tinh thần của họ, cũng bị ám ảnh và đau đớn, mặc dù hòa bình, nhưng cuộc sống của họ vẫn bị ám ảnh những nỗi đau không thể nào nguôi ngoai, đó là những cảm xúc riêng trong tâm hồn của con người.

Chiến tranh để lại cho con người nhiều nỗi nhớ, khi người thân của họ ra chiến trường, nhưng không biết bao giờ mới quay trở về, họ vẫn đang bị ám ảnh và mang lại cho người đọc nhiều cảm xúc, hình ảnh bé van i a vẫn từng ngày chờ đợi bố về đó cũng thể hiện tình yêu thương mà những người con dành cho người bố, hình ảnh chiếc áo bành tô đó là sự thể hiện những nỗi khắc khoải sâu sắc của con người mong ngóng từng ngày người thân của mình sẽ trở về, đó là những cảm xúc riêng và cũng chứa chan bao nhiêu ý nghĩa.

Trong tác phẩm tác giả đã thể hiện được những ý nghĩa tư tưởng một cách sâu sắc, đó là hoàn cảnh của cuộc sống, của chiến tranh đang dần bao vây và che lấp đi cuộc sống cũng như giá trị của con người, từng ngày con người vẫn đang phải chịu những tổn thương sâu sắc, đó là hình ảnh của sự mất mát, đó là sự mất mát và không bao giờ có thể nguôi ngoai được, mỗi nhân vật trong tác phẩm đều thể hiện một tư tưởng khác nhau, nhưng họ đều phải chịu những nỗi đau chung đó là sự mất mát trong tâm hồn từ việc ra đi của người thân, họ bị thiếu hụt đi tình yêu thương.

Nhan đề trong tác phẩm cũng đã thể hiện mạnh mẽ được những điều đó, qua cách nhìn mới mẻ của tác giả, ông đã nêu lên hiện thực của chiến tranh, nó thật tàn khốc, và cướp đi cuộc sống bình lặng của con người. Trong tác phẩm, giá trị của nó để lại cho người đọc nhiều cảm xúc, con người có thể hiểu biết và có cái nhìn nhận về chiến tranh, chiến tranh cướp đi cuộc sống của con người.

Tác phẩm đã để lại cho người đọc nhiều cảm xúc, đó là sự tàn khốc và đau đớn và chiến tranh đã gây nên cho con người.

Tài liệu có 2 trang. Để xem toàn bộ tài liệu, vui lòng tải xuống
Đánh giá

0

0 đánh giá

Tải xuống