Tài liệu nội dung chính bài Cha con nghĩa nặng Ngữ văn lớp 11 gồm 2 trang đầy đủ bố cục, tóm tắt, phương thức biểu đạt, thể loại, ngôi kể, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật giúp học sinh nắm được những nét chính của văn bản.
Cha con nghĩa nặng
Tìm hiểu chung về văn bản:
1. Văn bản Cha con nghĩa nặng
Xuống tới cầu Mê Tức, phần thì mệt, phần thì mỏi cẳng, nên Trần Văn Sửu ngồi dựa cầu mà nghỉ.
Trên trời trăng sáng vặc vặc; dưới sông dòng bích nao nao. Cảnh im lìm mà lòng lại bồi hồi; con vui sướng, còn cha thì sầu não.
Trần Văn Sửu ngồi khoanh tay ngó dòng nước chảy một hồi rồi nói trong trí rằng: “Bây giờ mình còn sống làm gì. Bấy lâu nay mình lăn lóc chịu cực khổ mà sống ấy là vì mình thương con, mình sợ nó không hiểu việc xưa rồi nó trở lại oán mình, mình sợ nó bơ vơ đói rách, mà tội nghiệp thân nó. Bây giờ mình biết nó thương mình, nó còn kính trọng mình, mà nó lại gần được giàu có sung sướng hết thảy nữa, vậy thì mình nên chết cho rồi, chết mới quên hết các việc cũ được, chết đặng hết buồn rầu cực khổ nữa”.
Anh ta nghĩ như vậy rồi nhắm mắt lại. Anh ta thấy thị Lựu nằm ngay đơ trên bộ ván, miệng nhễu mấy giọt máu đỏ lòm, mắt hết thần mà còn mở trao tráo. Anh ta lại thấy buổi chiều anh ta ở ngoài ruộng đi về, con Quyên thằng Tí chạy ra, đứa níu áo, đứa nắm tay mà nói đỏ đẻ. Anh ta thấy cái cảnh gia đình ngày trước rõ ràng trước mặt, thì anh ta đau đớn trong lòng quá, chịu không được, nên vùng đứng dậy và nói lớn rằng: “Mấy con ơ! Cha chết nghe. Mấy con ở lại mạnh giỏi, để cha theo mẹ con cho rồi”. Anh ta và nói và chun qua lan can cầu. Anh ta vừa mới đút đầu, bỗng có người chạy lên cầu và hỏi rằng: “Ai đó? Phải cha đó hay không, cha?”.
Trần Văn Sửu giật mình, tháo đầu trở vô, rồi day lại mà ngó. Thằng Tí chạy riết lại nắm cánh tay cha nó, nó dòm sát trong mặt mà nhìn, rồi ôm cứng trong lòng và nói: “Cha ôi! Cha! Cha chạy đi đâu dữ vậy?”.
Lúc ấy Trần Văn Sửu mất trí khôn, hết nghị lực, máu trong tim nhảy thịch thịch, nước trong mắt tuôn ròng ròng, đứng xui xị xụi lơ, không nói được một tiếng chi hết.
Cha con ôm nhau mà khóc một hồi rồi buông ra.
Trần Văn Sửu ngồi trên cây đà dọc dựa lan can cầu, rồi nói rằng: “Thôi, con về đi”. Thằng Tí lắc đầu đáp rằng:
- Con về không được. Bấy lâu nay con tưởng cha đã chết rồi, té ra cha còn sống. Vậy thì bây giờ cha đi đâu con theo đó.
- Con đừng có cãi cha. Con phải về đặng lo cưới vợ.
- Cưới vợ làm gì? Cưới vợ đặng báo hại như má báo hại cha hồi trước đó sao?
- Con không nên phiền trách má con. Má con có quấy là quấy với cha, chớ không có quấy với con. Mà cha đã quên cái lỗi của má con rồi, sao con còn nhớ làm chi?
- Quên sao cho được!
- Phải quên đi, đừng có nhớ nữa. Tại mạng số của cha như vậy, chớ không phải tại má con đâu. Mà má con làm quấy, thì sự chết đó đã chuộc cái quấy hết rồi. Bây giờ quấy về phần cha, chớ má con hết quấy nữa.
- Cha nói vậy thì con nghe lời cha. Thôi, cha trở về nhà với con.
- Húy! Về sao được!
- Sao vậy?
- Về rồi làng tổng họ thấy họ bắt còn gì?
Thằng Tí nghe nói như vậy thì nó tỉnh ngộ, nên ngồi lặng thinh mà suy nghĩ. Cách một hồi nó mới nói rằng:
- Bây giờ làm sao?
- Để cha đi, cha đi cho biệt tích, đặng con cưới vợ và con Quyên lấy chồng mới tử tế được.
- Cha đi đâu?
- Đi đâu cũng được.
- Hễ cha đi thì con đi theo.
- Đi theo làm gì?
- Đi theo đặng làm mà nuôi cha, chừng nào cha chết rồi con sẽ về.
- Con đừng có tính bậy. Con phải ở nhà mà nuôi ông ngoại.
- Có trâu có lúa sẵn, ông ngoại làm mà ăn, cần gì con nuôi nữa. Lại có con Quyên ở nhà đó chi. Cậu ba Giai cưới nó đây, nó giàu có, thiếu chi tiền bạc, nó giúp đỡ ông ngoại được rồi. Bây giờ có một mình cha nghèo khổ, vậy con phải làm mà nuôi cha chớ.
Trần Văn Sửu nghe con nói mấy lời hiếu nghĩa ấy thì anh ta cảm xúc quá, nên ngồi khóc nữa.
Lúc ấy anh ta lấy làm bối rối, không biết liệu lẽ nào cho xuôi. Thấy con bịn rịn, muốn ở lại đặng cha con sum hiệp, thì sợ làng tổng bắt; nghĩ đến con nên muốn ra đi đặng biệt tích cho rồi, thì đau đớn đi không đành.
Hai cha con ngồi khít một bên nhau, cha thì lo, con thì tính, cả hai đều lặng thinh, song một lát thằng Tí đụng cánh tay nó vào cánh tay cha nó một cái, dường như nó thăm chừng coi cha nó có còn ngồi đó hay không.
Cha con dan díu bịn rịn cho đến sao mai mọc, Trần Văn Sửu mới nói rằng:
- Cha tính như vầy, để cha nói cho con nghe thử coi được hay không. Cha lấy giấy thuế thân theo dân Thổ, tên cha là Sơn Rùm, bây giờ cha nói tiếng Thổ giỏi lắm. Cha tính thôi để cha xuống Láng Thó hoặc Ba Si, cha vô sóc kiếm chỗ ở đậu mà làm mướn. Có làm như vậy thì mới khỏi lo ai bắt buộc, mà lâu lâu con lén đến thăm cha được.
- Theo lời cha tính đó thì cha còn sống mà cũng như cha chết. Phải dấu tên dấu họ hoài, con đến thăm cũng phải núp lén, không dám đến chán chường.
- Phải tính như vậy mới yên được.
- Tính sao cũng được miễn là con có thể gần cha thì thôi. Mà cha ở với Thổ, thì cực khổ tội nghiệp thân cha lắm.
- Có sao đâu mà tội nghiệp. Hơn mười năm nay cha đau lòng cực xác không biết chừng nào mà kể cho xiết. Bây giờ cha vui lòng rồi, dầu lao khổ tấm thân lại nệ gì. Cha tính phải làm như vậy mới xong, con phải nghe lời cha mà trở về đi.
Thằng Tý ngồi ngẫm nghĩ rồi nói rằng:
- Con không đành để cha đi một mình. Con muốn theo cha mà kiếm chỗ cho cha ăn ở yên nơi rồi con sẽ về.
- Con đi như vậy, ông ngoại không biết con đi đâu, ông ngoại lo sợ, thêm cực lòng cho ông ngoại nữa.
- Thôi, cha trở về nhà với con một chút đặng con thưa với ông ngoại hay rồi con đi với cha.
- Trở về con Quyên nó thấy càng khó lòng nữa.
- Nó ở dưới nhà bà Hương quản, chớ có ở nhà đâu mà thấy.
- Trời gần sáng rồi, trở về Giồng Ké họ gặp cha rồi làm sao. Không được đâu. Con trở về, để cha đi một mình, trong ít bữa cha kiếm chỗ ăn ở xong rồi, cha sẽ lén về mà cho con hay.
- Con không muốn để cha đi một mình. Như cha sợ họ gặp, thôi thì cha lên chòi ruộng của con ở trong đồng Phú Tiên, cha nằm đó chờ con. Con chạy về Giồng Ké thưa với ông ngoại hay một chút xíu rồi con trở lên liền.
Trần Văn Sửu ban đầu còn dục dặc, mà bị con thôi thúc quá, anh ta không thể không làm vừa lòng nó được, nên phải đứng dậy mà đi với nó trở lên Phú Tiên.
2. Đôi nét về tác giả, tác phẩm
1. Tác giả
- Hồ Biểu Chánh (1885 - 1958), tên thật là Hồ Văn Trung.
- Quê ở làng Bình Thành (nay là xã Thành Công, huyện Gò Công Tây, tỉnh Tiền Giang).
- Thử nhỏ học chữ Nho, sau đó được học chữ quốc ngữ, ông từng làm công chức ở nhiều địa phương.
- Năm 1909, Hồ Biểu Chánh sáng tác U tình lục - là tác phẩm đầu tay được viết bằng thơ lục bát.
- Các tác phẩm của ông thuộc nhiều thể loại, nhưng thành công hơn cả là ở lĩnh vực tiểu thuyết, với 64 cuốn tiểu thuyết mang đậm dấu ấn tính cách và cuộc sống của con người Nam Bộ.
- Hồ Biểu Chánh là một trong những nhà văn đầu tiên đặt nền móng cho sự xuất hiện và phát triển tiểu thuyết hiện đại Việt Nam.
- Một số tác phẩm:
2. Tác phẩm
- “Cha con nghĩa nặng” là tác phẩm thứ 15 của Hồ Biểu Chánh, xuất bản năm 1929.
- Đoạn trích trong SGK thuộc chương IX, kể lại sự việc Sửu bỏ đi sau khi về thăm con, thằng Tí chạy theo, hai cha con gặp lại nhau trên cầu Mê Tức.
3. Bố cục
- Phần 1 (từ đầu ... buồn rầu khổ cực nữa): tâm trạng của Trần Văn Sửu khi trên cầu Mê Tức
- Phần 2 (tiếp … trở lại liền): cuộc gặp gỡ cảm động của hai cha con
- Phần 3 (còn lại): cuộc đoàn tụ của hai cha con
4. Tóm tắt
Trần Văn Sửu một nông dân hiền lành, chăm chỉ. Sửu lấy Thị Lựu sinh được ba con: Tí, Quyên, Sung. Anh thương vợ, yêu con nhưng không may gặp phải người tính cách xấu xa. Một hôm Sửu bắt gặp vợ ngoại tình hương hào Hội. Sửu xô vợ, không may vợ ngã vấp vào phản chết ngay. Sửu bỏ trốn, mọi người thì tưởng Sửu nhảy xuống sông tự tử. Anh em thằng Tí về ở với ông ngoại là hương thị Tào. Sung ốm chết, Tí và Quyên đi làm thuê cho bà hương quản Tồn, được bà thương, Quyên trở thành con dâu của bà. Sau mười mấy năm trốn tránh, Sửu lẻn về nhà thăm con, được bố vợ cho biết cuộc sống hai đứa con ổn định và hạnh phúc, sự có mặt của anh lúc này là bất lợi, Sửu vội vã ra đi... Sau đó, Sửu được xóa án và cha con đoàn tụ.
5. Phương thức biểu đạt
- Tự sự, biểu cảm
6. Thể loại
- Tiểu thuyết
7. Ngôi kể
- Ngôi thứ 3
8. Giá trị nội dung
Thể hiện vẻ đẹp của tình phụ tử và lòng hiếu thảo. Khẳng định những tình cảm tốt đẹp này là bài học đạo lí muôn đời của nhân dân ta.
9. Giá trị nghệ thuật
- Tạo tình huống căng thẳng, mâu thuẫn được đẩy lên qua lời thoại.
- Nghệ thuật kể truyện tự nhiên, hấp dẫn
- Ngôn ngữ mang sắc thái Nam Bộ