Bài thơ Bài ca ngất ngưởng – Nguyễn Công Trứ - Nội dung, tác giả, tác phẩm

Tải xuống 2 4.2 K 1

Tài liệu tác giả tác phẩm Bài ca ngất ngưởng Ngữ văn lớp 11 Kết nối tri thức gồm đầy đủ những nét chính về văn bản như: tóm tắt, nội dung chính, bố cục, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật, hoàn cảnh sáng tác, ra đời của tác phẩm, dàn ý từ đó giúp học sinh dễ dàng nắm được nội dung bài Bài ca ngất ngưởng lớp 11.

Tác giả tác phẩm: Bài ca ngất ngưởng - Ngữ văn 11

I. Tác giả Nguyễn Công Trứ

Bài ca ngất ngưởng - Tác giả tác phẩm (mới 2023) | Ngữ văn lớp 11 Kết nối tri thức

- Nguyễn Công Trứ (1778- 1858) tự là Tồn Chất, hiệu là Ngộ Trai, biệt hiệu Hi Văn

- Là người có tài năng và nhiệt huyết trên nhiều lĩnh vực từ văn hóa, kinh tế đến chính trị, quân sự. Thế nhưng con đường làm quan lại trắc trở, gập ghềnh, thăng giáng thất thường

- Là người ưa tự do, phóng túng, có cá tính có bản lĩnh, ngông ngạo

- Là người yêu nước thương dân có nhiều đóng góp cho đất nước

- Các tác phẩm chính:

+ Các sáng tác chủ yếu bằng chữ Nôm với nhiều thể loại thơ, phú, câu đối, hát nói

+ Riêng thơ Đường luật có khoảng 150 bài

- Đặc điểm sáng tác:

+ Tập trung vào ba chủ đề chính: chí nam nhi, triết lí sống nhàn, thế thái nhân tình đen bạc

+ Nguyễn Công Trứ là người đầu tiên có công đưa hát nói trở thành thể loại văn học dân tộc

⇒ Cùng với Cao Bá Quát, Nguyễn Công Trứ là một trong hai thi sĩ nổi tiếng nhất của văn học Việt Nam nửa cuối thế kỉ 19

II. Tìm hiểu tác phẩm Bài ca ngất ngưởng

1. Thể loại

Văn bản thuộc thể loại ca trù

2. Xuất xứ và hoàn cảnh sáng tác

- Bài thơ được viết sau năm 1848, khi tác giả cáo quan về ở ẩn

3. Phương thức biểu đạt

Văn bản có phương thức biểu đạt là biểu cảm

4. Bố cục

- Phần 1 (6 câu đầu): Ngất ngưởng trên con đường công danh, sự nghiệp

- Phần 2 (12 câu tiếp): Ngất ngưởng trong lối sống, suy nghĩ

- Phần 3 (còn lại) : Lời khẳng định về sự ngất ngưởng vô địch

5. Giá trị nội dung

Bài thơ khẳng định ngất ngưởng là cách Nguyễn Công Trứ thể hiện bản lĩnh cá nhân trong cuộc sống

6. Giá trị nghệ thuật

- Cách gieo vần, các câu thơ thuần Hán , thuần Việt được đan cài vào nhau tạo nên nhịp điệu câu thơ

- Số âm tiết qua cách nói cách hát thể hiện sự phóng khoáng của cá nhân, nghệ thuật điệp từ

III. Tìm hiểu chi tiết tác phẩm Bài ca ngất ngưởng

1. Cảm hứng chủ đạo của bài thơ

- Từ “Ngất ngưởng” xuất hiện 4 lần trong bài thơ ở các câu: 4, 8, 12 và câu cuối.

- “Ngất ngưởng” diễn tả một con người, sự vật có chiều cao hơn so với con người và sự vật khác nhưng ngả nghiêng, chực đổ mà không đổ.

-> Đây là trạng thái gây cảm giác rất khó chịu cho người xung quanh, như trêu trọc, trêu ngươi.

- Là khác người, xem mình cao hơn người khác.

- Là thoải mái tự do, phóng túng, không theo một khuôn khổ nào hết.

*Từ “Ngất ngưởng” thứ nhất gắn liền với những năm ra làm quan. Đó là cái “Ngất ngưởng” ở chốn quan trường. (6 câu đầu)

*Từ “Ngất ngưởng” thứ hai, ba gắn liền với những năm cáo quan về hưu. Đó là cái “Ngất ngưởng ở chốn hành lạc. (12 câu tiếp).

* Từ “Ngất ngưởng” thứ tư trở lại quãng đời làm quan. Nhưng đây là cái “Ngất ngưởng” ở chốn triều chung. (Câu cuối).

=> Phẩm chất sống tự do, phóng khoáng, vượt lên trên những trói buộc của cuộc sống đời thường ở nhà thơ.

Bài ca ngất ngưởng - Tác giả tác phẩm (mới 2023) | Ngữ văn lớp 11 Kết nối tri thức

2. Lời tự thuật về cuộc đời

a. Khi làm quan (6 câu đầu)

- Câu 1:

“Vũ trụ nội mạc phi phận sự”

Mọi việc trong trời đất đều là phận sự của ta: Phẩm chất tự tin, ý thức sâu sắc về vai trò, trách nhiệm và tài năng của bản thân.

- Câu 2:

“Ông Hi văn tài bộ đã vào lồng”

-> Tuy cho việc làm quan là mất tự do, là “vào lồng” song vẫn ra làm quan vì đó là phương tiện để ông thể hiện tài năng và hoài bão của mình, một sự dấn thân tự nguyện.

- Câu 3, 4, 5, 6: Liệt kê tài năng hơn người:

+ Giỏi văn chương (khi thủ khoa)

+ Tài dùng binh (thao lược)

-> Tài năng lỗi lạc xuất chúng: văn võ song toàn

- Khoe danh vị hơn người:

+ Tham tán

+ Tổng đốc

+ Đại tướng (bình định Trấn Tây)

+ Phủ doãn Thừa Thiên

- Thực tế đã cho thấy ông là người có tài năng xuất chúng, tận tâm với sự nghiệp và lập nhiều công trạng, thể hiện tài “kinh bang tế thế”.

- Đường công danh khi thăng lúc giáng, nhưng khi nhìn lại ông không hề che giấu niềm tự hào, kiêu hãnh về tài năng và vì đã cống hiến hết mình.

- Nghệ thuật

+ Sử dụng nhiều từ Hán Việt mang màu sắc trang trọng.

+ Thủ pháp NT: điệp từ kết hợp liệt kê vừa có tác dụng khoe tài, vừa nhấn mạnh các chức danh đã từng trải qua -> Thể hiện một ý thức rõ nét, trang trọng về tài năng và địa vị của bản thân.

+ Giọng điệu: lúc khoe khoang, phô trương; lúc tự cao tự đại, khinh đời.

=> "Ngất ngưởng" trên hành trình hoạn lộ: người quân tử sống bản lĩnh, đầy tự tin, kiên trì lí tưởng.

b. Lúc về hưu (12 câu tiếp)

* Sự kiện về hưu:

- Mở ra bằng câu thơ nguyên văn chữ Hán → sự kiện quan trọng.

“Đô môn giải tổ chi niên”

-> Nhắc lại một sự kiện quan trọng trong cuộc đời (về hưu), điều kiện để ông thực hiện lối sống ngất ngưởng.

* Những hành động ngất ngưởng:

- “Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng”

-> Dạo chơi bằng cách cưỡi con bò vàng, đeo nhạc ngựa trước ngực nó, đeo mo cau sau đuôi, bảo rằng để che miệng thế gian.

+ “Kìa núi nọ phau phau mây trắng”

->Thưởng thức cảnh đẹp, ngao du sơn thủy.

+ “Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi”

-> Cười mình là tay kiếm cung (một ông tướng có quyền sinh quyền sát) dạng từ bi: dáng vẻ tu hành, trái hẳn với trước.

+ “Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì”

-> Dẫn các cô gái trẻ lên chơi chùa, đi hát ả đào.

+ Chứng kiến cảnh ấy

“Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng”

-> Một cá tính nghệ sĩ: Sống phóng túng, tự do, thích gì làm nấy, sống theo cách của mình, nhanh chóng thích nghi hoàn cảnh.

- Quan niệm sống:

+ Câu 13: Vượt qua dư luận xã hội, không quan tâm được mất.

+ Câu 14: không bận lòng trước những lời khen chê.

+ Câu 15, 16: Sống tự do, phóng túng, tận hưởng mọi thú vui, không vướng tục.

⭢ Một nhân cách, một bản lĩnh ngất ngưởng: sống không giống ai, không nhập tục cũng không thoát tục.

- Câu 17, 18: Cá tính và bản lĩnh

+ So sánh mình với các bậc anh tài

+ Tự khẳng định mình là bề tôi trung thành

+ Ý thức về bản lĩnh, tài năng và phẩm chất.

- Nghệ thuật

+ Sử dụng nhiều từ Hán Việt mang màu sắc trang trọng.

+ Hình ảnh: đối lập-> trái khoái, ngược đời

+ Thủ pháp NT: liệt kê

+ Giọng điệu: hài hước, hóm hỉnh.

+ Nhịp điệu: khoan thai, không gò bó về niêm luật, số câu, số chữ.

-> Thể hiện lối sống tự do, tự tại, phóng túng, hào hoa.

=> "Ngất ngưởng" khi cáo quan về hưu: bậc tài tử phong lưu, không ngần ngại khẳng định cá tính của mình.

c. Ngất ngưởng ở chốn triều cung:

- Câu cuối: vừa hỏi vừa khẳng định: mình là một đại thần trong triều, không có ai sống ngất ngưởng như ông cả.

- Nêu bật sự khác biệt của mình so với đám quan lại khác: cống hiến, nhiệt huyết.

- Ý thức muốn vượt ra khỏi quan niệm “đạo đức” của nhà nho.

- Thể hiện tấm lòng sắt son, trước sau như một đối với dân, với nước.

-> Ngất ngưởng nhưng phải có thực tài, thực danh.

3. Khẳng định phong cách sống

- Khi làm quan, ông không chấp nhận sự khom lưng uốn gối hay thói quỵ lụy.

- Khẳng định tấm lòng trung quân, ái quốc bằng tài năng và sự cống hiến hết mình cho xã hội, cho triều đại.

- Không chấp nhận uốn mình theo lễ giáo Nho giáo, mà thuận theo sự tôn trọng cá tính, sự trung thực và cũng là dám sống cho mình.

=> Vẻ đẹp nhân cách của NCT: Một con người giàu năng lực, dám sống cho mình, bỏ qua sự gò bó của lễ giáo phong kiến, theo đuổi cái tâm tự nhiên.

IV. Đọc tác phẩm Bài ca ngất ngưởng

Vũ trụ nội mạc phi phận sự,

Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng.

Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông,

Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng.

Lúc bình Tây, cờ đại tướng,

Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên

Độ môn giải tổ chi niên,

Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng.

Kìa núi nọ phau phau mây trắng,

Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi.

Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì,

Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng.

Được mất dương dương người thái thượng,

Khen chê phơi phới ngọn đông phong.

Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng,

Không Phật, không Tiên, không vướng tục.

Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú,

Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung.

Trong triều ai ngất ngưởng như ông!

V. Văn mẫu

Đề bài: Giới thiệu về một tác phẩm nghệ thuật Bài ca ngất ngưởng

Chào thầy cô và các bạn! Tôi tên là…

Nguyễn Công Trứ, cái tên thật sự quen thuộc và gần gũi mà từ xưa đến nay vẫn được bao người dân Việt Nam nhắc đến như một sự biết ơn trân trọng về công lao khai phá ra hai vùng đất trù phú: Tiền Hải (Thái Bình) và Kim Sơn (Ninh Bình). Song không vì thế mà ta có thể quên đi một Nguyễn Công Trứ, nghệ sĩ tài hoa, một nhân cách đã khẳng định được cái bản ngã của chính mình, để từ đó định hình nên một tính cách, một bản lĩnh trong cuộc sống và sáng tạo nghệ thuật. "Bài ca ngất ngưởng" của Nguyễn Công Trứ sẽ cho ta thấy rõ cái bản lĩnh riêng không thể trộn lẫn ấy của ông.

Theo "Từ điển Tiếng Việt'', ngất ngưởng được hiểu là ở thế không vững lắc lư, nghiêng ngả như chực ngã. Tuy nhiên hai chữ ngất ngưởng trong bài thơ này của Nguyễn Công Trứ cần được hiểu theo một cách khác, ở đây ngất ngưởng cần hiểu gắn với một cách sống, một thái độ sống. Có như vậy ta mới có thể hiểu được về con người Nguyễn Công Trứ - một con người có lối sống khác người, bất chấp mọi thế lực ở đời, một lối sống được khẳng định bằng chính tài năng tuyệt vời.

Toàn bộ bài thơ không chỉ là sự cắt nghĩa lí giải về cái sự ngất ngưởng của chính mình, mà nó còn được xem như là một lời tự thuật về cuộc đời, là niềm tự hào về con người có công dài, tiền tài, đồng thời cho ta thấy một phong cách lối sống tài tử phóng khoáng của Nguyễn Công Trứ.

Mở đầu bài thơ là lời khẳng định về quan niệm sống của một đấng làm trai:

Vũ trụ nội mạc phi phận sự.
(Mọi việc trong vũ trụ chẳng có việc nào không là phận sự của ta).

Câu thơ vang lên chắc nịch, khẳng định một cách mạnh mẽ và tự hào về quan niệm làm trai của Nguyễn Công Trứ. Đây là một quan niệm cho thấy Nguyễn Công Trứ luôn luôn ý thức được về bản thân mình, đồng thời luôn xác định được vị trí của mình trong cuộc đời. Điều này có được từ một kẻ sĩ có tài. Tuyên ngôn này của Nguyễn Công Trứ đã được khẳng định như một chân lí và trở đi trở lại như một mệnh đề quen thuộc trong thơ ông.

Vũ trụ giai ngô phận sự
(Những việc trong vũ trụ đều thuộc phận sự của ta - Nợ tang bồng).

Hay trong bài Gánh trung hiếu, Nguyễn Công trứ cũng đã khẳng định:

Vũ trụ chức phận nộ
(Việc trong vũ trụ là chức phận của ta)

Nói như vậy để ta khẳng định rằng Nguyễn Công Trứ luôn luôn xác định cho mình một quan niệm sống tích cực, đồng thời càng cho thấy rõ sự tự ý thức về bản thân của chính tác giả.

Chính vì luôn luôn có ý thức về vị trí của chính mình trong trời đất mà Nguyễn Công Trứ không ngại ngùng khẳng định về chí làm trai, tác giả lần lượt chứng minh cho người đọc thấy được tài năng và bản ngã của chính mình:

Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng
Khi thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông
Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng.

Nguyễn Công Trứ đã tự xưng danh, đồng thời khẳng định tài bộ (tài năng lớn, nhiều mặt) của bản thân với những thực danh: Thủ khoa, tham tán, Tổng đốc Đông. Câu thơ được ngắt nhịp ngắn đều, chậm rãi cùng với việc sử dụng điệp từ khi tạo nên một lối nói khẳng định đầy sự tự hào.

Tuy nhiên hiện lên trong bài thơ không chỉ là một Nguyễn Công Trứ thiên tài, mà còn là một Nguyễn Công Trứ có tài kinh bang tế thế:

Lúc bình Tây, cờ đại tướng,
Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên.

Như vậy đến đây chúng ta có đầy đủ cơ sở để khẳng định một con người có tài năng thực sự và luôn luôn ý thức được về tài năng của chính bản thân mình. Đây cũng chính là sự khẳng định bản ngã của Nguyễn Công Trứ, là một phần trong phẩm chất mà ông tự hào gọi là tay ngất ngưởng. Để từ đó ta có thể hiểu ngất ngưởng theo một nghĩa tích cực, trong đó có sự khẳng định bản ngã của chính mình.

Một Nguyễn Công Trứ có tài, có thực danh như vậy, ấy mà khi trờ về đời thường lại là một tay ngạo nghễ giễu đời:

Đô môn giải tổ chi niên
Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng
.

Cho nên ông không ngại ngùng bày tỏ một cách sống thật khác người, khác đời:

Kìa núi nọ phau phau mây trắng
Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi
Gót tiên theo đủng đinh một đôi dì
Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng.

Là một nhà nho, từng là một danh tướng, từng xông pha trận mạc ấy vậy mà lại sống cuộc sống bình dị nên dạng từ bi. Tuy nhiên cái lối sống ấy của Nguyễn Công Trứ lại chẳng bình thường một chút nào: đi vãng cảnh chùa mà: "gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì" phải chăng ông đang bất chấp cuộc sống, đang giễu cợt sự đời, có lẽ hiểu biết như vậy còn phiến diện. Bởi sinh thời Nguyễn Công Trứ là một người biết chơi theo quan niệm sống hết mình và chơi cũng hết mình. Trong trần hoàn mấy mặt làng chơi... Biết mùi chơi chưa dễ mấy người hay ông từng tuyên bố Nếu không chơi thiệt ấy ai bù... Vậy cũng có thể hiểu đây là một lối sống phóng túng, không chịu gò bó. Câu thơ được Nguyễn Công Trứ miêu tả bằng nụ cười hóm hỉnh, nhiều tự hào của tác giả, phải chăng là cười cho sự khen chê của thiên hạ, có lẽ là cả hai điều đó, bởi một điều thật đơn giản.

Được mất dương dương người thái thượng
Khen chê phơi phới ngọn đông phong

Với Nguyễn Công Trứ một khi đã thoát khỏi vòng danh lợi thì những chuyện được mất, khen chê ở đời xin bỏ ngoài tai, như ngọn gió đông thổi qua mà thôi. Điều này chỉ có được khi người ta có bản lĩnh tự tin về tài năng của mình. Đó cũng chính là cái ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ trong đó chứa đựng hạt nhân của phong cách sống phóng túng, hiếm thấy của ông. Chính vì vậy mà ông có được cuộc sống thanh cao vui vẻ:

Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng
Không Phật, không Tiên, không vướng tục.

Câu thơ được ngắt nhịp hai, kết hợp với lối diễn đạt trùng điệp tạo cho câu thơ chậm rãi, qua đó lột tả được phong thái ung dung yêu đời, thanh cao của nhà nho Nguyễn Công Trứ. Thái độ sống như vậy của ông có được từ con người luôn tự tin vào bản thân mình, luôn ý thức được bản thân. Sự phô bày bản ngã được bộc lộ rõ nét một cách cực độ ở khổ thơ cuối:

Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú
Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo xơ chung
Trong triều ai ngất ngưởng như ông!

Nguyễn Công Trứ đã tự khẳng định mình là con người trung thần, làm tròn đạo vua tôi, điều này góp phần khẳng định thêm quan niệm về chí làm trai của tác giả ở đầu bài thơ. Bằng lối so sánh với những bậc anh hùng như Nhạc Phi, Hàn Kì, Phú Bật... của đời Hán, Tống bên Trung Quốc. Tác giả đã khẳng định tài năng và công lao của mình một cách đĩnh đạc hào hùng. Cũng có thể xem đó là những lời nói đầy tự hào về bản thân của chính tác giả. Để từ đó Nguyễn Công Trứ ngạo nghễ tuyên bố:

Trong triều ai ngất ngưởng như ông!

Như vậy đến đây hẳn chúng ta đã hiểu cái ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ. Đó chẳng phải là cái gì khác mà chính là thái độ, cách sống của một nhà nho tài tử. Nguyễn Công Trứ có được điều đó xuất phát từ tài năng, thực danh, từ sự làm tròn bổn phận. Vậy cái ngất ngưởng của ông không phải tiêu cực mà sự khẳng định bản thân của mình, là bản lĩnh dám sống ở đời, và một phong cách sống tài hoa tài tử.

Cùng với những bài thơ khác như Đi thi tự vịnh, Chí làm trai, Nợ tang bồng, Gánh trung hiếu... Bài thơ Bài ca ngất ngưởng đã một lần nữa vẽ rõ nét chân dung của nhà thơ. Đây chính là phong cách sống, phong cách nghệ thuật của con người và của thơ Nguyễn Công Trứ - phong thái ngất ngưởng.

Tài liệu có 2 trang. Để xem toàn bộ tài liệu, vui lòng tải xuống
Đánh giá

0

0 đánh giá

Tải xuống