Tài liệu tóm tắt Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc môn Ngữ văn lớp 11 ngắn gọn, chi tiết có 8 bài tóm tắt tác phẩm Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc hay nhất từ đó giúp học sinh nắm được những nét chính về nội dung của văn bản để học tốt môn Ngữ văn lớp 11.
Mời các quý thầy cô và các em học sinh cùng tham khảo và tải về chi tiết tài liệu dưới đây:
Tóm tắt Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc
Bài giảng: Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc (Phần 1: Tác giả)
Tóm tắt Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc – mẫu 1
Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc được Nguyễn Đình Chiểu viết để tưởng nhớ công ơn của những người nông dân đã anh dũng đứng lên chống giặc. Năm 1858, giặc Pháp đánh vào Đà Nẵng, nhân dân Nam Bộ đứng lên chống giặc. Năm 1861, vào đêm 14 -12, nghĩa quân tấn công đồn giặc ở Cần Giuộc trên đất Gia Định, gây tổn thất cho giặc, nhưng cuối cùng lại thất bại. Bài văn tế tuy được viết theo yêu cầu của tuần phủ Gia Định, song chính là những tình cảm chân thực của Đồ Chiểu dành cho những người đã xả thân vì nghĩa lớn.
Văn tế (ngày nay gọi là điếu văn) là thể văn thường dùng để đọc khi tế, cúng người chết, nó có hình thức tế - tưởng. Bài văn tế thường có các phần: Lung khởi (cảm tưởng khái quát về người chết); Thích thực (hồi tưởng công đức của người chết); Ai vãn (than tiếc người chết); Kết (nêu lên ý nghĩa và lời mời của người đứng tế đối với linh hồn người chết). Bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc có kết cấu đủ bốn phần như vậy.
Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, lần đầu tiên trong lịch sử văn học dân tộc có một tượng đài nghệ thuật sừng sững về người nông dân tương xứng với phẩm chất vốn có ngoài đời của họ - người nông dân nghĩa sĩ chống giặc, cứu nước. Đó là những con người vốn hiền lành chất phác chỉ quen với chuyện “ruộng trâu ở trong làng bộ” nhưng khi đất nước đứng trước nạn ngoại xâm họ đã dám đứng lên chống lại kẻ thù mạn.
Tóm tắt Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc – mẫu 2
"Văn tế nghĩa sĩ cần giuộc" là văn tế viết theo thể phú Đường Luật để tóm tắt cần đọc kĩ để hiểu nội dung. Đây là các ý tóm tắt nội dung của bài:
- Kẻ thù vũ khí tối tân, hiện đại còn người dân chỉ có lòng yêu nước.
- Mười năm vỡ ruộng ko ai biết đến một trận đánh tây tiếng vang như mõ.
- Xa với việc binh đao nhưng khi giặc pháp chiếm trở thành người nghĩa sĩ.
- Ban đầu lo sợ, căm ghét giặc nhưng chỉ biết chờ đợi triều đình.
- Nhận thức sâu sắc trách nhiệm của mình đối với đất nước.
- Anh dũng đứng dậy đấu tranh.
- Nỗi tiếc thương vô hạn không chỉ của lòng người mà còn của cỏ cây hoa lá đối với người nghĩa sĩ.
- Niềm cảm phục trước quan niệm cao đẹp "sống vinh còn hơn chết nhục".
- Ca ngợi khẳng định sự bất tử của người nghĩa sĩ trong lòng dân.
Tóm tắt Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc – mẫu 3
Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc: là bài văn tế những người nông dân nghĩa sĩ đã hi sinh. Bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc được viết theo thể phú Đường luật gồm bốn phần: lung khởi, thích thực, ai vãn, kết.
- Phần 1: Lung khởi (từ đầu đến tiếng vang như mõ): khái quát bối cảnh của thời đại và khẳng định ý nghĩa cái chết bất tử của người nông dân. Đất nước bị xâm lăng trong cái dữ dội, ác liệt. Súng giặc đã rền khắp núi sông. Trước sự làm ngơ của triều đình nhà Nguyễn đã đặt người nông dân vào thử thách lịch sử, một khung cảnh bão táp của thời đại, vận nước là thước đo lòng người, những biến cố chính trị lớn lao. Người nghĩa sĩ không coi trọng chuyện được mất, sẵn sàng hi sinh vì nghĩa lớn.
- Phần 2: Thích thực (từ Nhớ linh xưa... đến tàu đồng súng nổ): kể về nguồn gốc, phẩm hạnh, công đức của những người nghĩa sĩ Cần Giuộc. Họ là những người nông dân 100% mộc mạc, chất phác sau lũy tre làng nhưng suốt đời vẫn nghèo khó. Họ cui cút làm ăn, toan lo nghèo khó, quen việc quốc, cày, bừa, cấy và hoàn toàn xa lạ với việc nhà binh: tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ… Mặc dù khi vào trận đánh họ có nhiều thiếu thốn nhưng họ tự nguyện đứng lên kiên quyết xông pha vào mặt trận: “nào đợi ai đòi ai bắt”, “ra sức đoạn kình”, “ra tay bộ hổ” và giành được nhiều thắng lợi.
- Phần 3: Ai vãn (từ Ôi! Những lăm lòng nghĩa lâu dùng đến cơn bóng xế dật dờ trước ngõ): Bày tỏ lòng thương tiếc, sự cảm phục của tác giả và nhân dân đối với người nghĩa sĩ. Đó là tiếng khóc quặn lòng cho một thời đại bi thương: Già trẻ trai gái Trường Bình khóc,chùa Tông Thạnh khóc, cây cỏ khóc, sông Cần Giuộc khóc, tác giả khóc. Đó cũng là tiếng khóc thể hiện niềm tự hào.- Phần 4: Khốc tận (Kết) đoạn còn lại: Ca ngợi linh hồn bất tử của các nghĩa sĩ. Tác giả đề cao quan niệm cao đẹp: Chết vinh còn hơn sống nhục. Nêu cao tinh thần chiến đấu, xả thân vì nghĩa lớn của nghĩa quân, họ ra trận không cần công danh, bổng lộc, gượng ép mà chỉ vì một điều rất đơn giản là lòng yêu nước, thương dân
Tóm tắt Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc – mẫu 4
Tác phẩm là một bài văn tế, được viết để tế những nghĩa sĩ đã hi sinh trong trận tập kích đồn quân Pháp ở Cần Giuộc. Tác phẩm kể lại công chiến đấu, sự hi sinh anh dũng của những nghĩa sĩ và bày tỏ nỗi đau thương, mất mát, lòng kính trọng, biết ơn của người ở lại đối với người đã khuất.
Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc được Nguyễn Đình Chiểu làm để đọc tại buổi truy điệu những anh hùng nghĩa sĩ nông dân đã hi sinh trong trận tập kích đồn giặc ở Cần Giuộc vào năm 1861. Mặc dù diệt trừ được một số quan quân của giặc và bọn quan lại bán nước nhưng khoảng hai mươi nghĩa sĩ đã hi sinh quả cảm, để lại niềm xúc động lớn lao, khôn xiết trong lòng nhân dân. Chính vì lẽ đó, tác phẩm của Nguyễn Đình Chiểu cũng phần nào thể hiện tiếng lòng xót xa của quần chúng nhân dân đối với những người lính áo vải trong trận quyết chiến ở Cần Giuộc.
Tóm tắt Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc – mẫu 5
Bài “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” là một tác phẩm nói về tiếng khóc từ đáy lòng của tác giả và tiếng khóc lớn của nhân dân trước sự hi sinh của những anh hùng. Văn tế là một loại văn thường dùng trong khi đọc tế cúng người chết nó có hình thức tế – tưởng. Bài văn tế có các phần: Lung khởi là cảm hứng khái quát về người chết, Thích thực hồi tưởng về công đức của người chết, Ai vãn than tiếc người chết và phần kết nêu ý nghĩa và lời mời của người cúng tế đối với linh hồn người chết. Bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc có đủ bốn phần như vậy.
Mở đầu bài thơ là một lời than:
“Hỡi ôi! Súng giặc đất rền lòng dân trời tỏ”
Tiếng than vang lên mà nghe sao đau thương đến thế. Tiếng than ấy cho ta một ý nghĩ về một cảnh tang thương chết chóc là cảnh chiến tranh tàn khốc với những người đã bị tử trận trên chiến trường. Ông trời có thấu hiểu lòng người, có thấu hiểu được nỗi tang thương đau xót trong lòng những người thân nhân của những người dân đã tử trận. Tiếng khóc bi tráng của tác giả xuất phát từ rất nhiều nguồn cảm xúc. Đó là thái độ cảm phục và niềm thương xót vô hạn của tác giả đối với người nông dân nghĩa sĩ.
Đó là những hình ảnh của những người dân chân lấm tay bùn cơm không đủ no áo không đủ ấm. Còn cuộc sống hàng ngày của họ thì được tác giả miêu tả bằng những câu văn mộc mạc dễ hiểu không mấy cầu kì về câu chữ, họ hiện lên là những người “cui cút làm ăn toan lo nghèo khó”, “chưa quen cung ngựa”, “việc cuốc việc cày việc bừa việc cấy tay vốn quen làm; tập khiên tập súng tập mác tập cờ mắt chưa từng ngó”.
Từ đó cho ta một cái nhìn toàn diện đầy đủ nhất về người nông dân. Họ vốn là những người dân lao động bình thường và họ cực kì lương thiện không bao giờ muốn xảy ra chiến tranh, họ không đi cướp bóc không muốn đi xâm chiếm nước khác để làm giàu cho mình mà họ mãn nguyện về cuộc sống khốn khó nhưng hòa bình của mình. Có chăng ước mơ to lớn nhất của họ chính là đủ cơm ăn áo mặc. Thế nhưng khi tổ quốc lâm nguy súng giặc nổ vang rền trời đất và quê hương sứ xở thì họ lạ có một tinh thần kháng chiến sục sôi.
“Súng rền” cho thấy bọn giặc đã sử dụng những vũ khí rất tối tân chứ không phải là gậy gộc, là khiên là mác nữa cho thấy ở đây có một khoảng cách xa về vũ trang của cả hai bên. Nhà văn đã miêu tả được vẻ đẹp của người dân yêu nước sao mà giản dị đến thế: “Tiếng phong hạc phập phồng hơn mười tháng trông tin quan trường như trời hạn trông mưa mùi chinh chiến vấy vá đã ba năm ghét thói mọi như nhà hồn ghét cỏ”.
Nhà văn đã thành công trong khi khắc họa hình tượng nghĩa quân Cần Giuộc. Các từ miêu tả nguồn gốc xuất thân ngoại hình và hành động của người nghĩa sĩ nông dân cho thấy họ chỉ là những dân bình thường chất phác chăm chỉ nhưng khi nước nhà có giặc họ tự nhận về mình trách nhiệm phải bảo vệ đất nước sẵn sàng hi sinh vì nước. Cách thể hiện hình tượng người nghệ sĩ rất tỉ mỉ từ trang bị thô sơ hành động dũng cảm nguyện xả thân mình để bảo vệ đất nước.
Tóm tắt Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc – mẫu 6
Văn tế (ngày nay gọi là điếu văn) là thể văn thường dùng để đọc khi tế, cúng người chết, nó có hình thức tế – tưởng. Bài văn tế thường có các phần: Lung khởi (cảm tưởng khái quát về người chết); Thích thực (hồi tưởng công đức của người chết); Ai vãn (than tiếc người chết); Kết (nêu lên ý nghĩa và lời mời của người đứng tế đối với linh hồn người chết). Bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc có kết cấu đủ bốn phần như vậy.
Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, lần đầu tiên trong lịch sử văn học dân tộc có một tượng đài nghệ thuật sừng sững về người nông dân tương xứng với phẩm chất vốn có ngoài đời của họ – người nông dân nghĩa sĩ chống giặc, cứu nước. Đó là những con người vốn hiền lành chất phác chỉ quen với chuyện “ruộng trâu ở trong làng bộ” nhưng khi đất nước đứng trước nạn ngoại xâm họ đã dám đứng lên chống lại kẻ thù mạn. Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc được tác giả Nguyễn Đình Chiểu viết ra để tưởng nhớ công ơn của những người nông dân đã anh dũng đứng lên chống giặc.
Tóm tắt Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc – mẫu 7
Nguyễn Đình Chiểu (1822 – 1888), tự là Mạch Trạch, hiệu Trọng Phủ, Hối Trai. Sinh ra tại quê mẹ ờ làng Tân Thới, huyện Bình Dương, tỉnh Gia Định (nay thuộc Thành phố Hồ Chí Minh). Ông xuất thân trong gia đình nhà nho, cha là Nguyễn Đình Huy, người Thừa Thiên (nay là Thừa Thiên – Huế), vào Gia Định làm thư lại tại dinh Tổng trấn Lê Văn Duyệt.
Năm 1843, Nguyễn Đình Chiểu đỗ tú tài tại trường thi Gia Định. Năm 1846, ông ra Huế học, chuẩn bị thi tiếp tại quê cha, nhưng lúc sắp vào trường thi thì nhận được tin mẹ mất, phải bỏ thi trở về Nam chịu tang (1849). Dọc đường về, Nguyễn Đình Chiểu bị đau mắt nặng rồi bị mù. Không khuất phục trước số phận oan nghiệt, Nguyễn Đình Chiểu về Gia Định mở trường dạy học, bốc thuốc chữa bệnh cho dân, và tiếng thơ Đồ Chiểu cũng bắt đầu vang lên khắp miền Lục tỉnh.
Năm 1859, khi giặc Pháp đánh vào Gia Định, người trí thức Nguyễn Đình Chiểu đã đứng vững trên tuyến đầu của cuộc kháng chiến chống ngoại xâm cùng các nhà lãnh tụ nghĩa quân bàn mưu tính kế đánh giặc và sáng tác những vẫn thơ cháy bỏng căm hờn, sôi sục ý chí chiến đấu. Nam Kì mất, ông ở lại Ba Tri (Bến Tre). Thực dân Pháp tìm mọi cách dụ dỗ, mua chuộc, nhưng ông giữ trọn tấm lòng thủy chung son sắt với nước với dân.
Cuộc đời sáng tác của ông được chia làm hai giai đoạn chính: trước và sau khi thực dân Pháp xâm lược:
Ở giai đoạn đầu, ông viết hai truyện thơ dài: Truyện Lục Vân Tiên và Dương Từ – Hà Mậu, đều nhằm mục đích truyền bá đạo lí làm người.
Đến giai đoạn sau, thơ văn Nguyễn Đình Chiểu là lá cờ đầu của văn thơ yêu nước chống Pháp nửa cuối thế kỉ XIX với những tác phẩm xuất sắc về cả nội dung tư tưởng, tình cảm và nghệ thuật như Chạy giặc, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, Văn tế Trương Định, Thơ điếu Trương Định, Thơ điếu Phan Tòng, Văn tế nghĩa sĩ trận vong Lục tỉnh, Ngư Tiều y thuật vấn đáp (còn gọi là Ngư Tiều vấn đáp nho y diễn ca, một truyện thơ dài).
Nội dung thơ văn thường theo các chủ đề tiêu biểu là: lí tưởng đạo đức, nhân nghĩa và lòng yêu nước, thương dân.
Lí tưởng đạo đức, nhân nghĩa: Đạo lí làm người mang tinh thần nhân nghĩa của đạo Nho, nhưng lại rất đậm đà tính nhân dân và truyền thống dân tộc. Những mẫu người lí tưởng trong tác phẩm là những con người sống nhân hậu, thủy chung, biết giữ gìn nhân cách ngay thẳng, cao cả, dám đấu tranh và có đủ sức mạnh để chiến thắng những thế lực bạo tàn, cứu nhân độ thế.
Lòng yêu nước, thương dân: Ghi lại chân thực thời kì đau thương của đất nước, khích lệ lòng căm thù quân giặc, nhiệt liệt biểu dương người anh hùng nghĩa sĩ hi sinh vì Tổ quốc. Tố cáo tội ác của kẻ thù, lên án những kẻ bán nước, cầu vinh. Ca ngợi những người sĩ phu yêu nước, giữ niềm tin vào ngày mai, bất khuất trước kẻ thù, khích lệ lòng yêu nước, ý chí cứu nước
Phong cách nghệ thuật đậm sắc thái Nam Bộ: Ngôn ngữ: mộc mạc, bình dị như lời ăn tiếng nói của nhân dân Nam Bộ. Nhân dân: trọng nghĩa khinh tài, nóng nảy, bộc trực nhưng đằm thắm ân tình.
Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc được Nguyễn Đình Chiểu viết theo yêu cầu của tuần phủ Gia Định, để tưởng nhớ công ơn của những người nông dân đã anh dũng đứng lên chống giặc. Năm 1858, giặc Pháp đánh vào Đà Nẵng, nhân dân Nam Bộ đứng lên chống giặc. Năm 1861, vào đêm 14 – 12, nghĩa quân tấn công đồn giặc ở Cần Giuộc trên đất Gia Định, gây tổn thất cho giặc, nhưng cuối cùng lại thất bại.
Tóm tắt Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc – mẫu 8
Trong văn học Việt Nam một tượng đài sừng sững, hùng tráng về người nông dân đã được Nguyễn Đình Chiểu chắp bút qua “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc”. Bên cạnh việc khắc họa hình ảnh bi tráng, đầy hi sinh của người nông dân chống Pháp thì bài tế còn là nỗi lòng, nỗi xót thương của tác giả cho “những anh hùng áo vải”.
Bài tế ra đời trong hoàn cảnh thực dân Pháp đang “tung hoành” ở nước ta. Sau khi chiếm được thành Gia Định, Pháp bắt đầu đánh chiếm ra các vùng gần đó như Tân An, Cần Giuộc, Gò Công… Ngày 16/12/1861 do quá căm phẫn, những người nông dân Cần Giuộc đã đứng lên tập kích đồn Pháp tiêu diệt được một số quân của Pháp. Nhưng xót xa thay, có khoảng mười lăm nghĩa sĩ đã anh dũng hi sinh. Xúc động trước sự ra đi này, Nguyễn Đình Chiểu đã sáng tác nên bài “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” nhằm đọc truy điệu lần cuối cho những anh hùng dũng cảm.
Mở đầu bài tế, tác giả đã lên tiếng tố cáo tội ác của thực dân:
“Hỡi ôi!
Súng giặc đất rền; lòng dân trời tỏ…”
Xung quanh đâu đâu cũng có tiếng súng, âm thanh ấy làm rung động cả một vùng đất. Nhưng từ trong gian nguy người ta mới thấy được bản lĩnh, đức tính của những người nông dân bình dị. Cái họ làm đã được trời đất “chứng giám” và được lịch sử ghi công với hành động “một trận nghĩa đánh Tây, thân tuy mất tiếng vang như mõ”. Chỉ với mấy dòng đầu tiên, tác giả đã trực tiếp lên tiếng ngợi ca cho những hành động anh hùng của người nông dân. Họ sẵn sàng hi sinh bản thân mình những mong đánh đuổi kẻ thù xâm lược.
Họ chỉ là những người nông dân chân chất, hiền lành, quanh năm “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời” suốt ngày quanh quẩn với con trâu con bò, với rặng tre làng. Những người nông dân ấy trước giờ chỉ quan tâm đến công việc làm ăn, chỉ mong “kiếm kế sinh nhai”. Họ chỉ biết “việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm;” vì đó là những công việc gắn bó với người nông dân từ ngày này qua ngày khác.
Chứ còn việc binh đao “chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung” và đối với họ việc “Tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ, mắt chưa từng ngó”. Có thể thấy những người nông dân của Nguyễn Đình Chiểu chỉ quen với công việc đồng áng, chưa hề có sự “quen tay” với súng đao. Dù bản thân không hề là những binh lính rành nghề, cũng không phải là người có thể điều khiển vũ khí tốt. Thế nhưng, những anh hùng ấy vẫn hiên ngang tôi luyện, đứng lên chống giặc. Tất cả những hành động của họ đều xuất phát từ sự căm phẫn tội ác của giặc.
Tác giả cũng rất tinh tế khi nêu ra một trong những nguyên nhân khác thôi thúc những người nông dân đứng lên là vì “Tiếng phong hạc phập phồng hơn mươi tháng, trông tin quan như trời hạn mong mưa”. Sự yếu đuối, nhu nhược của triều đình khi không có bất một hành động nào thể hiện sự phản kháng đối với tội ác của giặc đã buộc lòng nông dân Cần Giuộc “Nào đợi ai đòi, ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình; Chẳng thèm chốn ngược, chốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ”.
Có thể thấy những người nông dân trong “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” không những phải luyện tập binh đao để ra trận, mà ở họ sự hy sinh còn thể hiện trong cách vượt lên hoàn cảnh ngặt nghèo. Độc “manh áo vải” nhưng họ nào đợi được trang bị mọi thứ bảo hộ, cứ thế mà lên đường chiến đấu.
Nhìn lại tình hình lịch sử lúc bấy giờ, khi thực dân tiến đánh nước ta, triều đình Huế nhu nhược, yếu hèn không có bất cứ thái độ nào để đối phó với giặc. Mặc nhiên đầu hàng, bám víu vào cái ngôi vua của mình, không màng tới trọng trách giữ gìn đất nước. Nông dân cả nước nói chung và những “chiến sĩ” Cần Giuộc nói riêng đã tự mình đứng lên đòi lại quyền tự do, tự mình bảo vệ lấy tấc đất của mình.
Tuy nhiên, sự bất cân xứng về lực lượng giữa ta và địch đã làm cho một phần nghĩa sĩ ngã xuống. Dẫu thế, cái “ngã” của họ chính là tư thế của những anh hùng đã dũng cảm, quyết tâm đuổi giặc xâm lăng bảo vệ tổ quốc. Đoạn tế này chính là nỗi xót thương mà Nguyễn Đình Chiểu không chỉ dành cho những người đã khuất mà cùng với đó là sự cảm thông, chia sẻ cho những gia đình có “vị anh hùng” buộc phải “dừng chân”.
Còn gì đau đớn hơn khi mẹ xa con, chồng xa vợ! Có nỗi đau nào bằng khi mất đi người thân. Những nghĩa sĩ Cần Giuộc càng anh hùng, quả cảm bao nhiêu thì người đọc lại xót thương, căm phẫn Pháp bấy nhiêu. Những câu cảm thán mà tác giả sử dụng như xé toạc bầu trời ấy, là tiếng hét ai oán cho những con người vì độc lập dân tộc. Nguyễn Đình Chiểu có cách so sánh rất hay khi “mẹ già” bây giờ như “ngọn đèn khuya leo lét”.
Cảm phục, xót thương cho những linh hồn của nghĩa sĩ tác giả đã có những giây phút lắng đọng khi đọc bài tế. Đến cuối cùng tác giả vẫn không nguôi về những hành động dũng cảm mà các nghĩa sĩ đã làm cho mảnh đất của mình, cho người dân của họ.
Bắt đầu bài tế cũng là những anh hùng hào kiệt, đến cuối bài tế vẫn sống mãi với non sông. Những “chiến sĩ Cần Giuộc” quả là bức tượng sống cho hình ảnh những con người đời thường nhưng sẵn sàng đứng lên cho sự an nguy của tổ quốc. Hình ảnh “chết vinh còn hơn sống nhục” là biểu tượng vàng son cho khí tiết hào hùng, oanh liệt của người nông dân.
Đôi nét về tác giả, tác phẩm
1. Tác giả
1. Cuộc đời
- Nguyễn Đình Chiểu (1822 - 1888) tự là Mạnh Trạch, hiệu Trọng Phủ, Hối Trai.
- Quê quán: sinh tại quê mẹ - làng Tân Thới, huyện Bình Dương, tỉnh Gia Định (nay thuộc thành phố Hồ Chí Minh).
- Ông xuất thân trong một gia đình nhà nho.
- Năm 1843 ông đỗ tú tài tại trường thi Gia Định.
- Năm 1846 ông ra Huế chuẩn bị thi tiếp tại quê cha nhưng nhận được tin mẹ mất phải bỏ thi trở về Nam chịu tang (1849). Dọc đường về ông bị đau mắt nặng rồi bị mù. Không khuất phục trước số phận, Nguyễn Đình Chiểu về Gia Định mở trường dạy học và bốc thuốc chữa bệnh cho dân và tiếng thơ bắt đầu vang khắp lục tỉnh.
- Giặp Pháp đánh vào Gia Định (1859), ông đã đứng vững trên tuyến đầu của cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, cùng nhiều lãnh tụ bàn mưu tính kế đánh giặc và những vần thơ cháy bỏng căm hờn, sục sôi ý chí chiến đấu.
a. Những tác phẩm chính
Ở giai đoạn đầu, ông viết hai truyện thơ dài là: Truyện Lục Vân Tiên, Dương Từ - Hà Mậu.
Giai đoạn sau, thơ văn Nguyễn Đình Chiểu là lá cờ đầu của văn thơ yêu nước chống Pháp nửa cuối thế kỉ XIX với nhiều tác phẩm xuất sắc cả về nội dung và nghệ thuật: Chạy giặc, Thư gửi cho em, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, Ngư tiều vấn đáp y thuật…
b. Nội dung thơ văn
c. Nghệ thuật thơ văn
- Vẻ đẹp thơ văn Nguyễn Đình Chiểu ẩn trong tầng sâu của cảm xúc, suy ngẫm.
- Bút pháp trữ tình xuất phát từ cõi tâm trong sáng, nhiệt thành và đầy tình yêu thương con người.
- Thơ văn Nguyễn Đình Chiểu đậm đà sắc thái Nam Bộ.
- Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng vào Đà Nẵng, Việt Nam. Sau khi chiếm được thành Gia Định vào đầu năm 1859, quân Pháp bắt đầu một quá trình mở rộng tấn công ra các vùng lân cận như Tân An, Cần Giuộc, Gò Công.
- Đêm rằm tháng 11 năm Tân Dậu (ngày 16 tháng 12 năm 1861), những nghĩa sĩ mà trước đây vốn là nông dân, vì quá căm phẫn kẻ ngoại xâm, đã quả cảm tập kích đồn Pháp ở Cần Giuộc, tiêu diệt được một số quân của đối phương và viên tri huyện người Việt đang làm cộng sự cho Pháp. Khoảng 20 nghĩa sĩ bỏ mình. Những tấm gương đó đã gây nên niềm xúc động lớn trong nhân dân.
- Theo yêu cầu của Tuần phủ Gia Định là Đỗ Quang, Nguyễn Đình Chiểu làm bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, để đọc tại buổi truy điệu các nghĩa sĩ đã hy sinh trong trận đánh này.
2. Bố cục
- Phần 1 - Lung khởi (Hỡi ôi ... tiếng vang như mõ): Khái quát bối cảnh thời đại và khẳng định ý nghĩa cái chết của người nghĩa binh nông dân
- Phần 2 - Thích thực (tiếp đến tàu đồng súng nổ): miêu tả hình ảnh người nông dân nghĩa sĩ qua các giai đoạn lao động vất vả tới lúc thành dũng sĩ đánh giặc, lập công
- Phần 3 - Ai vãn (tiếp đến cơn bóng xế dật dờ trước ngõ): Niềm đau xót, tiếc thương, cảm phục của tác giả và nhân dân với người nghĩa sĩ
- Phần 4 - Kết (còn lại) ngợi ca linh hồn bất tử của nghĩa sĩ
3. Tóm tắt
Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc được Nguyễn Đình Chiểu viết để tưởng nhớ công lao của những người nông dân đã anh dũng đứng lên chống giặc. Năm 1858, giặc Pháp đánh vào Đà Nẵng, nhân dân Nam Bộ đứng lên chống giặc. Năm 1861, vào đêm 14 -12, nghĩa quân tấn công đồn giặc ở Cần Giuộc trên đất Gia Định, gây tổn thất cho giặc, nhưng cuối cùng lại thất bại. Bài văn tế tuy được viết theo yêu cầu của tuần phủ Gia Định, song chính là những tình cảm chân thực của Đồ Chiểu dành cho những người đã xả thân vì nghĩa lớn.
4. Phương thức biểu đạt
- Phương thức biểu đạt chính là biểu cảm
5. Thể loại
- Văn tế
6. Giá trị nội dung
- Tác phẩm là tiếng khóc bi tráng cho một thời kì lịch sử đau thương nhưng vĩ đại của dân tộc, là bức tượng đài bất tử về người nông dân nghĩa sĩ Cần Giuộc đã dũng cảm chiến đấu hi sinh vì Tổ quốc
7. Giá trị nghệ thuật
- Bài văn là thành tựu xuất sắc về nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật, kết hợp nhuần nhuyễn chất trữ tình và chất hiện thực, ngôn ngữ bình dị, trong sáng, sinh động