Tailieumoi.vn xin giới thiệu đến các quý thầy cô, các em học sinh lớp 7 tài liệu sơ đồ tư duy bài Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh hay nhất, gồm 7 trang đầy đủ những nét chính về văn bản như:
Các nội dung được Giáo viên nhiều năm kinh nghiệm biên soạn chi tiết giúp học sinh dễ dàng hệ thống hóa kiến thức từ đó dễ dàng nắm vững được nội dung tác phẩm Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh Ngữ văn lớp 7.
Mời quí bạn đọc tải xuống để xem đầy đủ tài liệu Sơ đồ tư duy bài Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh dễ nhớ, ngắn nhất - Ngữ văn lớp 7:
I. Tác giả
- Lí Bạch (701-762), nhà thơ nổi tiếng Trung Quốc đời Đường, tự Thái Bạch, hiệu Thanh Liên cư sĩ, quê ở Tam Cúc.
- Lúc mới 5 tuổi, gia đình về định cư ở làng Thanh Liên, huyện Xương Long thuộc Miên Châu (Tứ Xuyên) nên nhà thơ vẫn thường coi Tứ Xuyên là quê hương của mình.
- Lí Bạch được mệnh danh là “thi tiên”.
- Đặc điểm thơ Lí Bạch:
+ Biểu hiện một tâm hồn tự do, hào phóng.
+ Hình ảnh thơ thường mang tính chất tươi sáng, kì vĩ.
+ Ngôn ngữ tự nhiên mà điêu luyện.
+ Ông thường viết rất hay về chiến tranh, thiên nhiên, tình yêu và tình bạn.
II. Tìm hiểu chung tác phẩm
1. Thể loại
- Thể thơ: Ngũ ngôn tứ tuyệt cổ thể.
- Khác với thể thơ ngũ ngôn tứ tuyệt Đường luật (trong bài Tụng giá hoàn kinh sư):
+ Đây là thể thơ ra đời trước thời Đường - có trước các thể thơ Đường luật.
+ Không gò bó, bắt buộc tuân thủ theo các niêm luật và phép đối như thơ Đường.
+ Số chữ của 1 câu là 5 chữ nhưng số câu thì không hạn định.
2. Xuất xứ, hoàn cảnh sáng tác
- Bản dịch thơ Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh được Tương Như dịch, in trong cuốn Thơ Đường, tập II, xuất bản năm 1987 bởi Nhà xuất bản văn học.
- Cuộc đời Lí Bạch là những năm tháng phiêu bạc giang hồ, đi khắp nơi trong thiên hạ để thảo chí thăm thú. Tuy vậy, không lúc nào trong ông quên đi quê hương mình. Trong một đêm trăng sáng, nhìn khung cảnh trong đêm, nhà thơ tức cảnh sinh tình mà sáng tác bài thơ Tĩnh dạ tứ.
3. Bố cục: 2 phần
- Phần 1: (hai câu đầu): Cảnh trăng sáng và tâm trạng của tác giả.
- Phần 2: (hai câu còn lại): Nỗi nhớ quê hương của tác giả.
4. Giá trị nội dung
Bài thơ thể hiện một cách nhẹ nhàng mà thấm thía tình quê hương của một người sống xa nhà, xa quê hương trong cảnh đêm trăng thanh tĩnh.
5. Giá trị nghệ thuật
- Thể thơ ngũ ngôn cổ thể.
- Ngôn ngữ giản dị mà tinh luyện.
- Sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa miêu tả và biểu cảm.
- Nghệ thuật đối tinh tế.
III. Dàn ý phân tích tác phẩm
1. Hai câu thơ đầu: Cảnh trăng sáng và tâm trạng của tác giả
- Cảnh đêm trăng:
+ Không gian: “sàng” – đầu giường, đây là một dụng ý nghệ thuật của tác giả, ánh trăng được cảm nhận rất gần so với vị trí của tác giả.
+ So sánh: ánh trăng – sương trên mặt đất, gợi nên hình ảnh một đêm trăng rất sáng, ánh trăng bồng bềnh như cõi tiên.
+ “Rọi”: ánh trăng tìm đến thi nhân như tri âm, tri kỉ giản dị mà đầy bất ngờ.
⇒ Khung cảnh rất thi vị, lãng mạn, đêm trăng huyền ảo, đẹp như ở chốn bồng lai.
- Tâm trạng của nhà thơ: “nghi” – ngỡ:
+ Tâm trạng ngạc nhiên, bất ngờ.
+ Cảm giác vừa say, vừa tỉnh, nửa thực nửa ảo.
+ Sự băn khoăn, trăn trở, chứa đầy ưu tư.
⇒ Hai câu thơ đầu vừa tả cảnh vừa tả tình; đó là một đêm trăng đẹp huyền ảo với tâm trạng ngỡ ngàng, bâng khuâng của nhà thơ.
2. Hai câu thơ cuối: Nỗi nhớ quê hương của tác giả
- Từ vọng được sử dụng với 2 nét nghĩa:
+ Nhìn ra xa - chỉ hành động nhìn ánh trăng ở phía xa của nhà thơ.
+ Ngóng trông, nhìn về phía quê hương ở phía xa mà đã lâu chưa được về thăm.
→ Từ “vọng” đã diễn tả được nét tâm trạng nhớ thương về quê hương của nhà thơ.
- Nhà thơ sử dụng phép đối giữa 2 hình ảnh: cử đầu - đê đầu → giúp cho câu thơ trở nên đăng đối, nhịp nhàng, đồng thời tạo được sự chuyển biến:
+ Ngẩng đầu - nhìn lên cao → nhìn về phía ánh trăng tuyệt đẹp của thiên nhiên - ánh trăng đang chiếu rọi xuống vạn vật và có lẽ cũng đang chiếu rọi ở miền quê hương của nhà thơ - khơi gợi lên nỗi nhớ quê hương.
+ Cúi đầu - nhớ cố hương → Hành động này tượng trưng cho hành động tự nhìn vào nội tâm của nhân vật trữ tình - tự đối mặt với nỗi nhớ cố hương da diết trong tâm khảm.
- Ở 2 câu thơ cuối, tình cảm của nhân vật trữ tình được thể hiện trực tiếp chứ không ẩn sau cảnh vật như 2 câu thơ đầu: “tư cố hương” - nỗi nhớ quê hương được bộc bạch trực tiếp, nhân vật trữ tình trong đêm khuya đã tự thổ lộ cõi lòng mình.
→ Trong đêm khuya, một mình đối diện với ánh trăng cô đơn, lạnh lẽo đã tạo cơ hội, tình huống cho nhà thơ bộc bạch lòng mình - đây là thủ pháp quen thuộc của thơ trung đại: tức cảnh sinh tình.
IV. Bài phân tích
Thơ xưa thường hay nói đến thiên nhiên. Thiên nhiên như một người bạn để thi nhân có thể chia sẻ tâm sự của mình. Thơ Lí Bạch cũng nhắc đến thiên nhiên, đặc biệt là trăng, trăng tràn ngập trong thơ Lí Bạch. Có những bài, trăng như người bạn cùng vui chơi với Lí Bạch cũng có những bài ánh trăng như là cái cớ để ông bày tỏ tâm sự, nỗi lòng của mình. Và bài thơ Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh là một bài như thế.
Có thể thấy, hai câu thơ mở đầu bài thơ Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh tác giả Lí Bạch đã cho người đọc cảm nhận được khung cảnh của đêm trăng sáng cùng nỗi niềm tâm trạng của nhà thơ:
Sàng tiền minh nguyệt quang
Nghi thị địa thượng sương
(Đầu giường ánh trăng rọi
Ngỡ mặt đất phủ sương)
Hai câu thơ đã vẽ nên khung cảnh của đêm trăng sáng. Đêm đã về khuya, cả màn không gian trở nên tĩnh lặng hơn bao giờ hết và để rồi, trong không gian ấy, ánh trăng chiếu tỏa muôn nơi. Có lẽ chiếu sáng hơn cả là vào đầu giường của tác giả. Chữ sàng với ý nghĩa đầu giường đã được tác giả sử dụng rất độc đáo, nó cho thấy vị trí của ánh trăng đang rất gần với tác giả và có tác động trực tiếp đến tâm trạng, cảm xúc của nhà thơ. Thêm vào đó, với việc sử dụng hai từ ngữ minh và quang cùng chung nét nghĩa là sáng đã nhấn mạnh, làm nổi bật độ sáng của ánh trăng trong đêm khuya. Đặc biệt, với hình ảnh so sánh ánh trăng với sương trên mặt đất, tác giả đã vẽ nên một bức tranh tràn đầy ánh trăng, lung linh, huyền ảo, bồng bềnh như ở cõi tiên.
Không dừng lại ở miêu tả đêm trăng sáng, hai câu thơ còn cho thấy nỗi niềm tâm trạng của tác giả. Tâm trạng ấy được thể hiện rõ nét qua từ nghi, nó vừa cho thấy tâm trạng ngạc nhiên, ngỡ ngàng của tác giả vừa cho thấy nỗi niềm trăn trở, ưu tư của nhà thơ. Như vậy, hai câu thơ mở đầu bài thơ vừa miêu tả khung cảnh đêm trăng sáng vừa thể hiện nỗi niềm tâm trạng của nhân vật trữ tình.
Nỗi nhớ quê hương trào dâng lên như một con sóng. Chứng tỏ đây là một tình cảm thường trực trong tâm hồn tác giả, chỉ một cái cớ nhỏ cũng có thể khơi dậy. Bằng vài nét chấm phá đơn sơ, tác giả đã vẽ nên một bức tranh phác thảo làm phông nền cho những suy tư nội tâm. Tình ẩn trong cảnh, cảnh chan chứa tình:
Cử đầu vọng minh nguyệt,
Đê đầu tư cố hương.
(Ngẩng đầu nhìn trăng sáng,
Cúi đầu nhớ cố hương.)
Hai câu thơ cuối là sự trở về của tâm hồn nhà thơ trong hai bài suy tưởng rất quen thuộc ở thơ Đường: hiện thực và hoài niệm, hồi ức và tưởng tượng. Thơ Đường là thơ của sự đăng đối, hài hoà. Hai câu thơ trên chính là một minh chứng mẫu mực cho ý kiến đó. Phép đối thể hiện ở cả đối từ, đối thanh, đối ý: “cử đầu – đê đầu”, “vọng – nhớ, “minh nguyệt – cố hương”. “Cử đầu vọng” (ngẩng đầu nhìn) là cái nhìn hướng ngoại, hướng ra ngoại cảnh. Còn “đê đầu tư” (cúi đầu nhớ) là cái nhìn hướng vào nội tâm, vào nỗi nhớ, hoài niệm. Điểm hướng tới của hai hướng nhìn trái chiều nhau ấy là “minh nguyệt” và “cố hương”. Giữa “trăng sáng” và “cố hương” ấy có mối quan hệ hữu cơ với nhau. “Trăng sáng” vừa là hình ảnh thực vừa là cầu nối về quê hương, nối quá khứ với hiện tại. “Nhìn trăng sáng – nhớ cố hương” vì trăng đã trở thành biểu tượng cho hình ảnh quê hương. Đó chính là vầng trăng trên núi Nga Mi thuở nào. Trăng từ thời ấu thơ luôn ám ảnh trong tâm hồn tác giả, trở thành nỗi nhớ thường trực, day dứt khôn nguôi. “Cố hương” là quê cũ, là những kỉ niệm ấu thơ về vùng đất Ba Thục, là những người thân yêu…. “Cố hương” là sự gắn bó đã trở thành máu thịt lắng đọng thành một phần hồn của tác giả, luôn hiện về trong nỗi nhớ, trong những phút tĩnh lặng nhất của tâm hồn. “Cố hương” là những gì êm đẹp nhất, thân thương nhất đối với mỗi con người. Xa xa mãi rồi nhớ cố hương. Đi đi mãi rồi không trở về. Đến đây, ta lại liên tưởng đến hai câu thơ của Thôi Hiệu:
Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai?
(Hoàng Hạc Lâu – Thôi Hiệu)
Ở Thôi Hiệu, khói sóng trên sông trong bóng chiều mờ ảo khiến cho tâm tư không ngừng nhớ về quê cũ. Xưa con người ra đi trên bến nước, đêm nhìn trăng mà lòng dạ thương nhớ biết bao. Bởi thế, bến nước hay vầng trăng đều gợi nhớ đến quê nhà cả. Bài thơ không chỉ gửi gắm tình quê mà còn khắc tạc một tư thế nhớ quê “đê đầu tư cố hương”. Tình quê vì thế thấm thía lan toả trong tâm hồn người đọc.
Với ngôn ngữ giàu chất biểu cảm, bài thơ đã thể hiện tình yêu quê hương tha thiết, sâu nặng của người con xa xứ. Có thể nói thơ Lý Bạch thể hiện một tình yêu quê hương,đất nước chân thành. Trong đó bài thơ Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh có thể được coi là một bài thơ viết về tình yêu quê hương hay nhất, tác giả rất tinh tế lấy ngoại cảnh thiên nhiên để biểu hiện nỗi nhớ quê của mình.
V. Một số lời bình về tác phẩm
Câu thơ viết về nỗi nhớ quê hương:
Cộng khan minh nguyệt ưng thùy lệ
Nhất phiến hương tâm ngũ xứ đồng
(Bạch Cư Dị, Từ Hà Nam trải cơn li loạn)
Một đêm trăng sáng năm nơi ngóng
Cùng một lòng quê lệ mấy dòng.
(Khương Hữu Dụng dịch)