Sơ đồ tư duy bài Chí Phèo (năm 2024) dễ nhớ - Ngữ văn lớp 11

Tải xuống 13 12 K 8

Tailieumoi.vn xin giới thiệu đến các quý thầy cô, các em học sinh lớp 11 tài liệu sơ đồ tư duy bài Chí Phèo hay nhất, gồm 13 trang đầy đủ những nét chính về văn bản như:

Các nội dung được Giáo viên nhiều năm kinh nghiệm biên soạn chi tiết giúp học sinh dễ dàng hệ thống hóa kiến thức từ đó dễ dàng nắm vững được nội dung tác phẩm Chí Phèo Ngữ văn lớp 11.

Mời quí bạn đọc tải xuống để xem đầy đủ tài liệu Sơ đồ tư duy bài Chí Phèo dễ nhớ, ngắn nhất - Ngữ văn lớp 11:

Chí Phèo

Bài giảng: Chí Phèo (Phần 2: Tác phẩm)

A. Sơ đồ tư duy Chí Phèo

1

B. Tìm hiểu Chí Phèo

I. Tác giả

- Nam Cao (1915/1917 – 1951), tên thật là Trần Hữu Tri.

- Quê ông ở Lý Nhân, Hà Nam.

- Ông sinh ra trong một gia đình công giáo bậc trung.

- Đề cao con người tư tưởng: Quan tâm tới đời sống tinh thần của con người, luôn hứng thú khám phá "con người trong con người".

- Đi sâu khám phá nội tâm nhân vật

- Thường viết về những cái nhỏ nhặt nhưng lại mang ý nghĩa triết lý sâu sắc

- Ông có phong cách triết lý trữ tình sắc lạnh.

II. Tác phẩm

1. Thể loại: Truyện ngắn.

2. Hoàn cảnh ra đời:

- Dựa vào những cảnh thật, người thật mà Nam Cao được chứng kiến và nghe kể về làng quê mình, bức xúc trước hiện thực tàn khốc đó ông đã viết thành truyện năm 1941.

3. Bố cục

- Phần 1 (Từ đầu đến …..  cả làng Vũ Đại cũng không ai biết): Chí Phèo xuất hiện cùng tiếng chửi.

- Phần 2 (Tiếp đến…. không bảo người nhà đun nước mau lên): Chí Phèo mất hết nhân tính.

- Phần 3 (còn lại): Sự thức tỉnh về ý thức bi kịch của cuộc đời Chí Phèo.

4. Ý nghĩa nhan đề tác phẩm

- Truyện lúc đầu có tên là “Cái lò gạch cũ” nhằm nhấn mạnh sự xuất hiện của Chí Phèo trong cuộc đời. Cách gọi này dựa vào hình ảnh cái lò gạch bỏ không ở phần đầu và được lặp lại ở câu kết của tác phẩm, điều đó có ý nghĩa nhấn mạnh tính chất quy luật của hiện tượng Chí Phèo, tạo ra ám ảnh trong tâm trí người đọc. Tuy nhiên nhan đề này đã thể hiện cái nhìn bi quan của tác giả về số phận của người nông dân. Sau đó Nhà xuất bản Đời mới đổi tên là “Đôi lứa xứng đôi”, nhan đề này dựa vào mối tình Chí Phèo - thị Nở, gợi sự tò mò của độc giả. Tuy nhiên, nhan đề này cũng chưa khái quát được ý nghĩa của tác phẩm. Cuối cùng nhan đề “Chí Phèo” được nhà văn đặt khi được in lại trong tập Luống cày.

– Nhan đề “Chí Phèo” cũng là tên nhân vật chính của câu chuyện. Tác giả sử dụng nhan đề này để làm rõ số phận, cuộc đời, bất hạnh, cô đơn, cô độc của nhân vật chính được nhắc đến. Đồng thời, nhan đề này cũng gây ám ảnh, ấn tượng mạnh đối với người đã, đang và sẽ đọc câu chuyện.

– Nhan đề “Chí Phèo” thâu tóm được nội dung của tác phẩm. Chí Phèo là nạn nhân, là sản phẩm của xã hội phong kiến nửa thực dân. Chí là người nông dân lương thiện nhưng lại bị đẩy vào “bước đường cùng” trở thành kẻ lưu manh, côn đồ, mất hết cả nhân hình nhân tính. Trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Chí bị cự tuyệt quyền làm người. Nam Cao phát hiện trong sâu thẳm con người ấy là bản tính lương thiện. Chỉ cần một chút tình thương nhen nhóm sẽ bùng lên. Cuối cùng nhờ tình yêu của thị nở, Chí được thức tỉnh. Anh đến nhà Bá Kiến đòi lương thiện rồi giết chết Bá Kiến và tự kết liễu đời mình.

– Nhan đề đã góp phần bộc lộ giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm.

5. Tóm tắt

Chí Phèo là một đứa trẻ bị bỏ hoang trong một lò gạch cũ và được nhặt về nuôi. Khi lớn lên Chí Phèo đi ở hết nhà này nhà khác để nuôi thân. Đến năm 20 tuổi, hắn làm canh điền cho nhà bá kiến và tấm bi kịch cuộc đời hắn từ diễn ra từ đây. Vì bá kiến ghen nên hắn bị giải lên huyện và bị bắt bỏ tù. Hắn ở tù bảy tám năm, sau khi trở về, hắn xuất hiện với bộ dạng khác hẳn ngày xưa với nhiều hình xăm trên mình. Hắn lúc nào cũng say và cứ say là hắn lại đến nhà bá kiến để chửi bới, rạch mặt ăn vạ. Bá kiến đã biến Chí Phèo thành kẻ tay sai chuyên đâm thuê chém mướn cho lão. Trong tình trạng luôn say mèm, ai cho tiền sai gì hắn cũng làm, hắn trở thành một con quỷ dữ của làng Vũ Đại luôn làm những trò tác quái phá làng, phá xóm, khiến người dân ai ai cũng khiếp sợ. Cuộc đời hắn không lúc nào tỉnh. Vào một đêm trăng, Phèo say thì gặp thị nở. Đêm đó, họ ăn nằm với nhau. Phèo nửa đêm đau bụng, nôn mửa, sáng hôm sau, thị cho hắn một bát cháo hành. Cũng từ đó hắn khao khát trở về cuộc sống lương thiện và được sống cùng thị nở. Nhưng một lần nữa hắn bị đạp xuống vực vì bà cô của Thị không đồng ý. Chí Phèo tuyệt vọng, lại uống và lại xách dao ra đi, vừa đi hắn vừa chửi rủa sự đời. Hắn cầm dao đến nhà bá kiến đòi trả lương thiện cho hắn. Hắn đâm chết bá kiến rồi tự tử. thị nở nghe tin hắn chết nhìn xuống bụng và nghĩ đến lò gạch.

6. Giá trị nội dung

- Qua truyện ngắn Nam Cao đã khái quát một hiện tượng xã hội ở nông thôn Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám: một bộ phận nông dân lương thiện bị đẩy và tình trạng lưu manh hóa.

- Nhà văn đã kết án đanh thép cái xã hội tàn bạo tàn phá cả thể xác tâm hồn của người nông dân lương thiện đồng thời khẳng định bản chất lương thiện ngay trong khi họ bị vùi dập mất cả nhân hình lẫn nhân tính.

- Chí Phèo là tác phẩm có giá trị nhân đạo và hiện thực sâu sắc.

7. Giá trị nghệ thuật

- Tác phẩm thể hiện tài năng truyện ngắn bậc thầy của Nam Cao: xây dựng nhân vật điển hình bất hủ; nghệ thuật trần thuật linh hoạt, tự nhiên mà vẫn nhất quán chặt chẽ; ngôn ngữ trần thuật đặc sắc.

III. Dàn ý phân tích tác phẩm

1. Nhân vật Chí Phèo.

a. Từ khi ra đời đến trước ki vào tù.

- Xuất thân:

+ Là đứa con hoang bị bỏ rơi, không cha, không mẹ, không thân không thích.

+ Bị bán trao tay không biết bao nhiêu người, phải đi ở.

- Lớn lên:

+ Hiền lành, cần cù chất phác.

+ Có lòng tự trọng.

+ Có ước mơ giản dị một mái ấm bình yên chồng cày thuê cuốc mướn, vợ dệt vải như bao người nông dân khác.

b. Bị đẩy vào nhà tù, bị tha hóa khi ra tù.

- Nguyên nhân:

+ Cơn ghen của bá kiến đã đẩy Chí vào tù.

+ Nhà tù thực dân phong kiến đã nhào nặn nên con người Chí, biến hắn thành người khác hẳn.

- Ra tù chí xa đọa vào con đường lưu manh hóa.

+ Chí bị hủy hoại hình người: mặt hắn ngang dọc không biết bao nhiêu là sẹo, đầy mình xăm trổ,....

+ Hủy hoại tính người: Chí trở thành tay sai đắc lực cho bá kiến, con quỷ dữ của làng Vũ Đại.

• Dọa nạt, chửi bới, đập đầu rạch mặt ăn vạ, đâm chém cướp phá đó đều là kì tích bất hảo của Chí.

• Chí chìm trong cơn say liên miên.

• Chí từng bước bán linh hồn cho quỷ dữ.

- Bị xã hội loài người chối bỏ.

+ Tiếng chửi của Chí đầu đoạn trích là minh chứng, hắn càng chửi đáp lại hắn chỉ là tiếng chó sủa.

+ Chí Phèo tiêu biểu cho cả một hiện tượng bi thảm trong xã hội cũ có tính quy luật: hiên tượng lưu manh hóa, bị hủy diệt những giá trị của con người sức mạnh tố cáo xã hội, giá trị hiện thực sâu sắc.

c. Chí Phèo thức tỉnh khi gặp thị Nở.

* Thức tỉnh: 

- Sau cuộc gặp gỡ với thị nở, lần đầu tiên Chí Phèo thực sự “tỉnh”.

+ Chợt nhận ra ở trong cái lều ẩm thấp của Chí sẽ thấy “chiều lúc xế trưa và gặp đêm khi bên ngoài vẫn sáng”.

+ Bâng khuâng như tỉnh dậy sau một cơn say rất dài.

+ Tỉnh để cảm thấy miệng đắng và “lòng mơ hồ buồn”.

+ Cảm thấy “sợ rượu” dấu hiệu của sự thức tỉnh rõ ràng nhất.

+ Cảm nhận những thanh âm của cuộc sống: âm thanh của tiếng chim hót, tiếng người cười nói…

+ Hắn đủ tình để nhận thức hoàn cảnh của mình, để thấy mình cô độc.

 Cuộc gặp với thị đã làm Chí Phèo thực sự tỉnh táo sau những cơn say triền miên.

* Niềm vui, hi vọng, ước mơ quay trở về.

- Niềm hi vọng của thời trẻ quay trở lại: mong muốn một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn, cày thuê, vợ dệt vải; nuôi lợn, khá giả thì mua dăm ba sào ruộng

- Khi thấy bát cháo hành của thị nở, Chí Phèo ngạc nhiên và thấy “mắt mình như ươn ướt”  xúc động vì lần đầu tiên có người chăm sóc.

- Thấy thị nở có duyên, cảm thấy vừa vui vừa buồn.

- Hắn muốn làm nũng với thị, thấy lòng thành trẻ con.

- Chí Phèo thèm lương thiện: Tình yêu của thị nở làm hắn nghĩ bản thân có cầu nối để trở về.

- Tình yêu với thị nở khiến hắn đủ hi vọng và mong ước có một gia đình: “Hay là mình sang ở với tớ một nhà cho vui”.

Gặp thị nở, Chí Phèo đã trải qua những cảm xúc chưa hề có trong đời, mang đến niềm vui, niềm hi vọng và mong ước trở về làm người lương thiện trỗi dậy.

* Thất vọng, đau đớn. 

- Tình yêu bị ngăn cấm bởi bà cô thị nở, nởi vậy, khi thị nở từ chối, Chí Phèo thất vọng và đau đớn:

+ “Ngẩn người”, “ngẩn mặt”: Thái độ biểu thị sự hiểu ra, nhận thức được tình cảnh của mình đáng thương.

+ Thoáng thấy hương cháo hành: hồi tưởng về tình yêu đã trải qua.

+ Hành động: Nắm lấy tay thị mong muốn níu kéo hạnh phúc.

+ Hắn tìm đến rượu rồi “ôm mặt khóc rưng rức”.

Mong muốn trở về làm người lương thiện không còn nữa, Chí đau đớn, tuyệt vọng.

d. Sự bế tắc trên con đường trở về làm người lương thiện.

- Mối tình với thị nở tan vỡ.

+ Nguyên nhân: định kiến xã hội, bà cô thị không đồng ý.

+ Đến một con người như thị mà Chí cũng không được phép yêu.

Có thể nói trong cái xã hội ấy Chí đã hoàn toàn bị vứt bỏ, Chí rơi và bi kịch đau đớn khi nhận ra mình không trở trở về cái xã hội bằng phẳng của những người lương thiện được nữa.

- Đến nhà bá kiến.

+ Chí đến đòi lương thiện.

+ Với Chí những khao khát cuộc sống lương thiện lúc này còn quan trọng hơn tính mạng và Chí giết bá kiến rồi tự sát.

+ Cái chết của Chí Phèo mang tính tố cáo xã hội không những đẩy con người vào bước đường tha hóa, lưu manh hóa mà còn đẩy họ đi tới cái chết.

+ Ở đây ta còn thấy cảm quan hiện thực sâu sắc của nhà văn Nam Cao: thực trạng mâu thuẫn xung đột ở nông thôn Việt Nam lúc bấy giờ chỉ có thể giải quyết bằng đấu tranh.

Chí Phèo điểm hình cho những gì tủi khổ nhất của người nông dân nhưng ở họ vẫn lấp lánh ánh sáng lương thiện.

2. Nhân vật thị Nở.

* Ngoại hình:

- Miêu tả khách quan, trần trụi: một người “ngẩn ngơ như những người đần trong cổ tích và xấu ma chê quỷ hớn”.

+ Ngẩn ngơ: hành động theo bản năng.

+ Xấu ma chê quỷ hờn: từng đường nét trên khuôn mặt không giống với những gì nên có trên khuôn mặt con người.

+ Đã vậy, thị còn nghèo và nhà có mả hủi.

=> Thị khó có được hạnh phúc bởi một con người mang trên mình toàn những điều bất lợi.

* Vẻ đẹp

- Là con người với phẩm chất tốt đẹp, giàu tình người.

+ Nam Cao xây dựng hình tượng nhân vật thị nở xấu ma chê quỷ hờn không phải để miệt thị mà nhằm làm nổi bật nội tâm đầy tình thương của thị nở.

+ Sau cuộc gặp gỡ vào đêm định mệnh, thị nở dành sự quan tâm cho Chí Phèo.

+ Thị nở quan tâm đến Chí Phèo, nấu cháo hành cho Chí ăn khi hắn bị ốm. Bưng bát cháo hành thị nở đưa cho “hắn thấy mắt mình hình như ươn ướt. Bởi vì lần này là lần thứ nhất hắn được một người đàn bà cho”.

+ Chính thị nở đã suy nghĩ về Chí Phèo: “Ôi sao mà hắn hiền, ai dám bảo đó là cái thằng Chí Phèo vẫn đập đầu, rạch mặt mà đâm chém người”  một cái nhìn khác với những cái nhìn của người làng Vũ Đại.

+Tình cảm và sự quan tâm của thị nở với Chí Phèo đã như một liều thuốc chữa lành bao nhiêu “vết thương, vết rạch” để Chí Phèo quay trở lại thành một người với sự lương thiện trong căn tính.

=> Chính tình thương và sự quan tâm khiến Thị trở nên có duyên trong mắt Chí.

- Thị nở còn là người có khát khao hạnh phúc gia đình.

+ Thị nở thích cuộc sống gia đình có vợ có chồng.

+ Suy nghĩ rất nghiêm túc về mối quan hệ với Chí.

+ Đối với Chí, cảm giác “ngượng ngượng mà thinh thích”.

+ Bởi khát khao và suy nghĩ nghiêm túc về hạnh phúc gia đình nên thị đã trở về xin phép bà cô và thái độ tức giận khi bà cô từ chối.

- Là nhân vật góp phần làm nổi bật chủ đề tác phẩm: bi kịch cuộc đời Chí Phèo

+ Xây dựng nhân vật thị nở, Nam Cao muốn làm trọn vẹn thêm vấn đề trung tâm của tác phẩm: sự bi thảm trong bi kịch cuộc đời Chí Phèo.

+ Ban đầu, thị nở và Chí Phèo đến với nhau chỉ bởi sự chung đụng về mặt thể xác.

+ Sau đó, chính tình thương của thị nở đã làm thức dậy sự lương thiện vốn có trong Chí.

+ Khi thị nở từ chối Chí, Chí Phèo từ chỗ khát khao và hạnh phúc đến tột cùng bị đẩy xuống tận cùng của nỗi tuyệt vọng  đẩy Chí đến những hành động sau này: uống rượu, xách dao đi giết Bá Kiến và tự sát.

=> Thị nở là nhân vật thúc đẩy sự phát triển của câu chuyện, đồng thời cho người ta cảm nhận sâu sắc hơn bi kịch của nhân vật chính.

3. Nhân vật Bá Kiến.

- Xuất thân trong một gia đình từng làm bốn đời lý trưởng. Bản thân hắn mưu mô, thủ đoạn, khôn khéo leo lên đỉnh cao danh vọng “khét tiếng đến cả trong hàng huyện”.

- Điển hình cho bộ mặt cường hào ác bá: bất nhân, vô lương tâm, nham hiểm, gian hùng, thối nát, bỉ ổi, là “kẻ già đời trong nghề đục khoét”.

+ “Cái giọng quát rất sang”, bao giờ cũng quát để thử dây thần kinh của nguười khác.

+ Bá kiến có cái giọng cười “Tào Tháo”, và giọng nói ngọt nhạt mà thâm hiểm chết người.

+ Có những thủ đoạn rất khôn ngoan và hiệu quả: “không trị được thì cụ dùng”, “dùng những thằng đầu bò để trị những thằng đầu bò”, “mềm nắn rắn buông”, “thứ nhất sợ kẻ anh hùng, thứ hai sợ kẻ cố cùng liều thân”,...

IV. Bài phân tích

“Chí Phèo” chỉ là một truyện ngắn và là một truyện ngắn sáng tác trong những ngày đầu mới cầm bút của Nam Cao viết về đề tài nông dân, nhưng tác phẩm chính là sự tổng hợp, kết tinh đỉnh cao của ngòi bút nhà văn. Có thể nói rằng, “Chí Phèo” là một bản án cáo trạng đanh thép đối với một xã hội phong kiến đầy bất công đã đẩy người nông dân vào con đường bần cùng hóa trước Cách mạng. Đồng thời, tác phẩm cũng là một câu chuyện chứa đựng nhiều ý nghĩa nhân văn sâu sắc.

Trước hết, tác phẩm “Chí Phèo” của Nam Cao đã khắc họa tấn bi kịch của người nông dân trước Cách mạng. Trong tác phẩm này, Nam Cao không đi vào nạn sưu thuế hay thiên tai dịch họa mà nhà văn lại hướng đến một phương diện khác, đó là hình tượng người nông dân cố cùng bị xã hội phá hủy về tâm hồn, hủy diệt cả nhân tính và bị phủ nhận tư cách làm người. Nỗi thống khổ ghê gớm của Chí Phèo chính là bị cướp đi hình hài của một con người, bị đẩy ra khỏi xã hội loài người và phải sống kiếp sống đớn đau như thú vật. Chí từ một anh canh điền lương thiện khỏe mạnh, vì hầu hạ bà Ba, khiến cụ Bá ghen ghét đẩy vào lao tù. Từ đây, con đường tha hóa của người nông dân chất phác bắt đầu như trượt dốc không phanh. Ra khỏi tù, người ta không nhận ra thằng Chí Phèo trước đây nữa mà thay vào đó là một hình hài quỷ dữ: “Cái đầu thì trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà rất cong cớn, hai mắt gườm gườm […]. Cái ngực phanh đầy những nét chạm trổ rồng, phượng với một ông tướng cầm chùy, cả hai cánh tay cũng thế. Trông gớm chết!”

Với ngòi bút hiện thực, nhà văn Nam Cao đã chỉ ra rằng, để tồn tại thì những người nông dân hiền lành khốn khổ đã dần trở nên lưu manh hóa và bất cần. Họ không chỉ bị tha hóa về nhân hình mà còn bị tha hóa cả về nhân tính.

Ngay sau khi ở tù về, Chí đã uống rượu say khướt rồi cầm vỏ chai đến cổng nhà Bá Kiến (lúc này Bá Kiến đã là Bá bộ) chửi Lí Cường con trai Bá Kiến xông ra hành hung Chí, được thể Chí đã dùng mảnh chai rạch mặt ăn vạ. Đang thế, Bá Kiến xuất hiện, lên giọng mắng Lí Cường rồi dùng lời ngon ngọt để an ủi Chí, lại mời Chí vào nhà tiếp đãi cơm rượu hậu hĩnh, cho Chí một đồng bạc đem về Chí vô cùng hả hê. Từ đó, khi nào hết tiền hắn, lại đến ăn vòi. Lần thứ hai, Chí đến nhà Bá Kiến xin đi ở tù lần nữa với cách lập luận đi tù còn có cơm ăn, ở làng mảnh đất cắm rùi cũng không có mà cái ăn cũng không, Bá Kiến lợi dụng cơ hội này nhờ hắn đi đòi nợ Đội Tảo 50 đồng và hứa sẽ, có vườn cho Chí. Sau khi Chí hoàn thành việc được giao, bá kiến cho vài hào uống rượu và cắt cho hắn 5 sào vườn ở bãi sông. Lúc này Chí mới 27, 28 tuổi. Cũng bắt đầu từ đây, Chí trở thành kẻ đâm thuê chém mướn, một công cụ đắc lực của Bá Kiến nhằm ức hiếp dân lành và thanh toán những kẻ có máu mặt trong làng nhưng không cùng vây cánh. Chí Phèo đã thực sự trở thành "con quỷ dữ của làng Vũ Đại", ai ai cũng đều sợ hắn và tránh mặt hắn.

Một lần trong buổi tối sáng trăng, sau khi được uống rượu với Tự Lãng, hắn trở về túp lều ven sông định bước xuống tắm, tình cờ nhìn thấy thị nở đang nằm ngủ. Thị là người nghèo rớt mồng tơi, xấu ma chê quỷ hờn lại ngẩn ngơ như người đần trong cổ tích. Họ đã ăn nằm với nhau và đánh thức tình cảm bình thường cùng mong muốn làm một người bình thường trong Chí. Nhờ thứ tình cảm này mà bao nhiêu mơ ước hiền lành thời trai trẻ bỗng thức dậy, hắn muốn có một tổ ấm gia đình bình dị. Rồi Chí bị cảm. Thị nở đã ân cần chăm sóc, nấu cháo hành cho hắn ăn giải cảm... Tưởng được bền lâu, nào ngờ chỉ được vẻn vẹn năm ngày, đến ngày thứ sáu, bà cô thị nở đi buôn chuyến trở về. Bà đã xỉ vả mắng nhiếc thị vì đã biết được chuyện giữa thị với Chí Phèo. Do đấy, thị nở đến mắng Chí Phèo và bỏ mặc Chí trong tuyệt vọng. Thế rồi Chí khóc, Chí lại tìm đến rượu, khi say hắn dắt dao vào lưng, nói là đi đâm chết “nó", tức đâm chết hai cô cháu nhà thị nở. Nhưng bước chân thật của Chí cứ thế đến nhà bá kiến. Hắn xông vào bá kiến, vung dao đòi làm người lương thiện. Trong cơn tỉnh say cuối cùng này. Chí đã vung dao đâm chết bá kiến và cũng tự kết liễu cuộc đời mình.

Nghe tin hai cái chết, trong lúc bao người, bao kẻ hả hê, thị nở nghĩ đến Chí “sao có lúc nó hiền như đất và nhớ lại những lúc ăn nằm với hắn”. Thị lo mình có chửa. Khép lại câu chuyện là hình ảnh thị nhìn nhanh xuống bụng và “đột nhiên thị thấy cái lò gạch thoáng hiện, xa nhà cửa và vắng bóng người qua lại”.

Đây là một truyện ngắn mà dung lượng hiện thực được phản ánh trong trạng thái dồn nén, chứa nhiều mâu thuẫn, với nhiều nhân vật, có nhiều lớp thời gian..., mang tầm vóc của một tiểu thuyết. Có thể phân tích theo vấn đề ý nghĩa nhân sinh của truyện, có thể phân tích theo tuyến nhân vật, hoặc cũng có phân tích từng mối quan hệ giữa nhân vật chính là Chí Phèo với làng Vũ Đại và một số nhân vật có quan hệ trực tiếp (bá Kiến, thị Nở). Đâu đi theo con đường nào cũng cần làm nổi bật rõ nghệ, thuật xây dựng tình huống, nghệ thuật miêu tả nhân vật và ngôn ngữ truyện. Sức mạnh của truyện ngắn trước hết là chi tiết. Cách phân tích dưới đây cố gắng đi theo tình huống này.

Làng Vũ Đại, một hình ảnh thu nhỏ của xã hội phong kiến ở nông thôn Việt Nam trước cách mạng. Về kết cấu và ngôn ngữ truyện. Trước nhất phải kể đến kết cấu. Nếu xét về kết cấu hình tượng, truyện Chí Phèo cũng có một cốt truyện có thể kể được nhưng điều đáng nói ở đây là kết cấu văn hán truyện. Nam Cao đã rất có ý thức sáng tạo và huy động kết cấu tham gia vào việc xây dựng nhân vật cũng như đắp bổi thêm bề dày, bề sâu các lớp nghĩa cho tác phẩm. Thứ nhất, Nam Cao sử dụng kết cấu vòng tròn. Đó là sự trở lại chi tiết “cái lò gạch bỏ hoang” ở phần kết truyện hình ảnh cái lò gạch bỏ hoang nơi Chí bị bỏ rơi lúc mới đẻ ở phần đầu truyện được nhà văn sử dụng để cho thị nở đột nhiên thấy thoáng hiện ra khi nhìn xuống bụng, sợ nhỡ may mình có chửa. Kết truyện nay có sức gợi rất lớn. Điểu này gì nếu không phải là khả năng tái sinh của Chí Phèo? Chừng nào còn tồn tại cái xã hội kiểu làng Vũ Đại thì chừng đó sẽ còn nảy nòi ra loại người như Chí. Môi trường này cần được thay đổi. Nếu như đặt vấn đề hãy cứu lấy nhân cách con người thì rõ ràng phải bắt đầu từ việc cứu lấy môi trường đã huỷ hoại nhân cách. Thứ hai, các thành, phần lời trần thuật được xáo trộn, lắp ghép, đan xen không tuân theo trình tự tuyến tính của cốt truyện. Nam Cao bắt đầu bằng hình ảnh Chí khật khưỡng say và vừa đi vừa chửi; Chân dung nhân vật bước đầu hiện ra với những đường nét thật ấn tượng, buộc người đọc chú ý và ham mê theo dõi ngay lập tức.

Về yếu tố ngôn ngữ truyện có nhiều điều có thể bán được nhưng ở đây chỉ xin đơn cử một cách thức sử dụng ngôn ngữ hết sức sáng tạo và độc đáo kiểu Nam Cao. Ông đã đan xen, trộn lẫn lời nhân vật và lời người kể truyện, nhiều đơn vị lời văn có thể là của nhân vật vừa là của người kể chuyện. Điều này có tác dụng rất lớn cho phép nhà văn soi quét, lách sâu vào thẻ giới nội tâm rất phức tạp và tinh tế của nhân vật. Nhờ vậy chân dung nhân vật hiện ra hết sức chân thực và sống động. Chỉ cần đơn cử đoạn mở đầu truyện là đã thấy thủ pháp nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ đan xen, hoà trộn như thế’ nào. Đây là một kĩ thuật của ngôn ngữ tiểu thuyết hiện đại mà không phải nhà văn cùng thời nào với Nam Cao cũng đã biết và sử dụng. Hiểu như vậy mới thấy sự cách tân và đóng góp vào kĩ thuật tiểu thuyết của Nam Cao thực sự là không nhỏ và có nhiều ý nghĩa cho nền tiểu thuyết Việt Nam hiện đại.

Chí Phèo đến nhà bá kiến và kết thúc chuỗi ngày không ước mơ, triền miên trong những cơn say. “Tao muốn làm người lương thiện” câu nói gào lên trong ruột gan Chí, khát vọng vượt khỏi tâm trí, thúc giục hắn đến đây. Nhưng “làm thế nào mất đi những mảnh chai trên mặt”, Chí không thể trở lại con người lương thiện được nữa. Kẻ đã trượt dài trên con đường tha hóa, biến dạng thành ác quỷ,liệu có thể trở lại? Định kiến đã giết chết con người, đúng đã khiến một con người không thể hoàn lương được nữa. Hắn chết, nhưng tâm hồn luôn được sống mãi chẳng phải sẽ tốt hơn, đó là cái chết đau đớn và đầy ám ảnh, Chí Phèo phải chăng muốn nói những lời xám hối muộn màng, lời ăn năn của một con “quỷ dữ” và lời khao khát của người nông dân lương thiện đã tìm lại được ý nghĩa của cuộc đời . Cách kết thúc mở nhưng lại hoàn toàn rơi vào bế tắc, đây cũng là cái chung của văn học trước 1945, khi cái nhà văn vẫn chưa tìm được lối thoát cho bản thân mình.

Truyện ngắn “Chí Phèo” kết thúc nhưng vẫn còn đó những ám ảnh về một chế độ nửa thực dân nửa phong kiến tàn nhẫn. Tác phẩm đã lên án mạnh mẽ, phê phán chính xác một xã hội đầy vô cảm. Với khả năng sáng tạo văn học điêu luyện kết hợp lối viết chân thực đan xen những biện pháp tu từ độc đáo, Nam Cao đã để lại một tuyệt phẩm cho văn học nước nhà. Tác phẩm kết thúc trong nỗi rưng rưng của người đọc, có một tình thương nỗi xót xa lan thấm trong tâm trí của người đọc, còn lại đó cả một nỗi bâng khuâng cho số phận cuộc đời người dân vô tội trước năm 1945, mang cả giá trị nhân sinh sâu sắc vừa có sức mạnh tố cáo.

Dàn ý chi tiết Phân tích truyện ngắn Chí phèo

I. Mở bài

- Vài nét tiêu biểu về tác giả Nam Cao: Ông được xem là đại diện xuất sắc nhất của văn học hiện thực ở chặng đường phát triển cuối cùng của khuynh hướng này

- Giới thiệu tác phẩm Chí Phèo: Truyện ngắn kết tinh thành công của Nam Cao trên đề tài nông thôn, nông dân và là một kiệt tác trong nền văn xuôi trước cách mạng

II. Thân bài

1. Làng Vũ Đại - không gian nghệ thuật của truyện ngắn

- Đây chính là không gian nghệ thuật của truyện bởi toàn bộ những chuyện của Chí Phèo đều diễn ra tại đây

- Mâu thuẫn giai cấp gây gắt, âm thầm mà quyết liệt, không khí tối tăm , ngột ngạt.

- Đời sống của người nông dân vô cùng khổ cực bị đẩy vào đường cùng không lối thoát, bị tha hóa.

⇒ Không gian nghệ thuật làm cơ sở đi sâu khai thác hình tượng nhân vật, đồng thời thấy được giá trị hiện thực, nhân đạo của tác phẩm

Top 14 bài Phân tích Chí Phèo hay nhất (ảnh 1)

2. Nhân vật Bá Kiến

- Tiếng cười Tào Tháo, mềm nắn rắn buông, dùng đầu bò trị đầu bò… ⇒ Xảo quyệt, gian hùng, thủ đoạn

- Nhân cách ti tiện bỉ ổi, dâm đãng, ghen tuông và độc ác

⇒ Điển hình cho loại địa chủ cường hào ở nông thôn Việt Nam trước cách mạng

3. Hình tượng nhân vật Chí Phèo

a. Sự xuất hiện của nhân vật

- Hắn vừa đi vừa chửi...: sự xuất hiện tự nhiên

- Qua tiếng chửi, chân dung nhân vật hiện lên: Kẻ lưu manh cứ rượu vào là chửi nhưng đằng sau đó thấy Chí Phèo mong muốn được coi là người bình thường

b. Lai lịch, cuộc đời Chí Phèo trước khi ở tù

- Hoàn cảnh xuất thân: không cha, không mẹ, không nhà, không cửa

- Tuy vậy, Chí vẫn giữ những phẩm chất tốt đẹp:

+ Là một con người lương thiện làm ăn chân chính với ước mơ giản dị và có lòng tự trọng

c. Sự biến đổi của Chí Phèo sau khi ra tù

- Sự kiện Chí Phèo bị bắt vào tù:

+ Vì Bá Kiến ghen với vợ hắn.

+ Chế độ nhà tù thực dân đã biến Chí trở thành lưu manh, có tính cách méo mó và quái dị.

- Hậu quả của những ngày ở tù:

+ Hình dạng: biến đổi thành con quỷ dữ ⇒ Chí Phèo đã đánh mất nhân hình.

+ Nhân tính: triền miên trong cơn say, đập đầu, chửi bới, phá phách và làm công cụ cho Bá Kiến ⇒ Chí Phèo đã đánh mất nhân tính.

- Quá trình tha hóa của Chí Phèo: Đến nhà Bá Kiến trả thù ⇒ Chí mắc mưu, trở thành tay sai cho Bá Kiến

⇒ Chí đã bị cướp đi cả nhân hình lẫn nhân tính

d. Cuộc gặp gỡ giữa Chí Phèo và Thị Nở

- Tình yêu thương của Thị Nở đã đánh thức bản chất lương thiện của Chí Phèo.

+ Về nhận thức: Nhận biết được mọi âm thanh trong cuộc sống.

+ Nhận ra bi kịch trong cuộc đời của mình và sợ cô đơn, cô độc

+ Về ý thức: Chí Phèo thèm lương thiện và muốn làm hòa với mọi người.

- Hình ảnh bát cháo hành là hình ảnh độc đáo, chân thật và giàu ý nghĩa: lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng Chí được ăn trong tình yêu thương và hạnh phúc.

⇒ Chí Phèo đã hoàn toàn thức tỉnh

e. Bi kịch bị cự tuyệt

- Nguyên nhân: do bà cô Thị Nở không cho Thị lấy Chí Phèo → định kiến của xã hội .

- Diễn biến tâm trạng của Chí Phèo:

+ Lúc đầu: Chí ngạc nhiên trước thái độ của Thị Nở

+ Sau Chí hiểu ra mọi việc: xách dao đên nhà Bá Kiến đâm chết Bá Kiến và tự sát.

⇒ Cái chết của Chí Phèo là cái chết của con người trong bi kịch đau đớn trên ngưỡng cửa trở về cuộc sống làm người.

4. Đặc sắc nghệ thuật

- Xây dựng nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình.

- Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật sắc sảo.

- Ngôn ngữ giản dị, diễn đạt độc đáo.

- Kết cấu truyện mới mẻ, tưởng như tự do nhưng lại rất chặt chẽ, lôgic.

- Cốt truyện và các tình tiết hấp dẫn, biến hóa giàu kịch tính.

III. Kết bài

- Khẳng định lại những nét tiêu biểu nhất về mặt nội dung và nghệ thuật của tác phẩm Chí Phèo

- Với tác phẩm này, nam Cao đã tố cáo mạnh mẽ xã hội thực dân nửa phong kiến và đồng thời trân trọng, phát hiện và khẳng định bản chất tốt đẹp của con người ngay cả khi tưởng chừng học đã biến thành quỷ dữ.

Sơ đồ tư duy Phân tích truyện ngắn Chí phèo

 Phân tích truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao năm 2021

Bài văn mẫu: Phân tích truyện ngắn Chí Phèo - mẫu 1

Chỉ là một truyện ngắn, lại là truyện ngắn sáng tác sớm của Nam Cao về đề tài nông dân, nhưng Chí Phèo là sự tổng hợp, sự kết tinh của ngòi bút Nam Cat về đề tài này. Nếu như Nam Cao có thể được coi là "nhà văn của nông dân" , cùng với Ngô Tất Tố, thì trước hết vì ông có Chí Phèo.

Khác với truyện ngắn cùng đề tài của tác giả, Chí Phèo có phạm vi hiện thực được phản ánh trải ra cả bề rộng không gian (một làng quê) và cả bề dài thời gian. Có thể nói, làng Vũ Đại trong truyện chính là hình ảnh thu nhỏ của xã hội nông thôn Việt Nam đương thời.

Những năm 1940 - 1945, nông thôn vẫn là một đề tài lớn trong văn xuôi khu vực hợp pháp. Các nhà văn đã đi vào đề tài này theo chiều hướng khác nhau. Trước hết là đi vào phong tục tập quán dân quê, sự lục đục giữa vợ cả và vợ lẽ, mẹ chồng và nàng dâu, dì ghẻ và con chồng, anh và em, chú bác, cô cậu và những đứa cháu bên nội, bên ngoại.

Trên bối cảnh chung của văn học hiện thực thời kì 1940 - 1945, Chí Phèo là một hiện tượng đột xuất. Giống như Tắt đèn, Bước đường cùng, Giông tố.... thời Mặt trận dân chủ, Chí Phèo cũng là "bức tranh xã hội rộng lớn với những xung đột giai cấp quyết liệt". Tác phẩm gây ấn tượng đậm nét về tính đầy đặn, đa dạng nhiều màu sắc của bức tranh về đời sống xã hội nông thôn.

Song, dựng lên bức tranh xã hội ở nông thôn, Nam Cao trước hết tập trung nổi bật mối xung đột giai cấp đối kháng giữa bọn địa chủ cường hào thống trị và người nông dân bị áp bức bóc lột. Tức là, cũng như tác giả Tắt đèn, Bước cùng.... Nam Cao đã phản ánh hiện thực nông thôn trên bình diện mâu thuẫn giai cấp.

Chí Phèo của Nam Cao đã xây dựng một hình tượng điển hình khá hoàn chỉnh về giai cấp phong kiến thống trị ở nông thôn: Bá Kiến.

Chân dung lão cường hào cáo già Bá Kiến dần dần hiện rõ trong tác phẩm những nét tính cách được thể hiện hết sức sinh động, đầy ấn tượng. Đó là khái quát "rất sang" ("bắt đầu bao giờ cụ cũng quát để thử dây thần kinh mọi người"), lối nói ngọt nhạt, và nhất là "cái cười Tào Tháo" ("cụ vẫn tự phụ hơn đời cái cười Tào Tháo ấy") - tất cả đều cho thấy bản chất gian hùng của lão cường hào "khôn róc đời" này. Nam Cao cũng hé cho thấy tư cách nhem nhuốc của "cụ tiên chỉ": đó là thói ghen tuông thảm hại của lão cường hào háo sắc mà sợ vợ - lão cay đắng nhận ra mình "già yếu quá " mà "bà Tư" thì "cứ trẻ, cứ phây phây", "nhìn thì thích nhưng mà tưng tức lạ... khác gì nhai miếng bò lựt sựt khi rụng gần hết răng". Đó là chuyện lão gỡ gạc tồi tệ đối với người vợ lính vắng chồng... Và bổ sung vào đó, để cho sự thối nát của nhà "cụ Bá" được hoàn chỉnh, còn có "Bà Tư" quỷ cái "thường gọi canh điền lên bóp chân mà lại "cứ bóp lên trên, trên nữa''... Nhà văn chỉ kể qua, nhẹ nhàng, - tuy không kém thâm thúy, chứ không sa đà trong việc soi mói đời tư thối tha của lão cường hào.

Ông tập trung ngòi bút vào việc soi sáng bản chất xã hội của nhân vật, chủ yếu thể hiện trong mối quan hệ với người nông dân bị áp bức. Đoạn độc thoại nội tâm rất mực sinh động của "cụ tiên chỉ làng Vũ Đại" về cái "nghề tổng lí"cho thấy Nam Cao chẳng những soi thấu tim đen của nhân vật mà còn tỏ ra hiểu rất sâu các mối quan hệ xã hội ở nông thôn. Bá Kiến đã lặng lẽ nghiền ngẫm về nghề thống trị, rút ra từ bốn đời tổng lí những phương châm, thủ đoạn thống trị khôn ngoan: "mềm nắn, rắn buông", "bám thằng có tóc, ai bám thằng trọc đầu", "thứ nhất sợ kẻ anh hùng, thứ hai sợ kẻ cố cùng liều thân", "chỉ bóp đến nửa chừng", "hãy ngấm ngầm đẩy người ta xuống sông nhưng rồi lại dắt nó lên để nó đền ơn"... Còn đây là chính sách dùng người của lão: "không có những thằng đầu bò thì lấy ai trị những thằng đầu bò", "thu dụng những thằng bạt mạng không sợ chết và không sợ đi tù. Những thằng ấy chính là những thằng được việc. Khi cần đến chỉ cho nó dăm hào uống rượu là có thể sai nó đến tác oai tác quái bất cứ anh nào không nghe mình (...). có chúng nó sinh chuyện thì mới có dịp mà ăn.... "... Tất cả đều nhằm sao cho vừa bóp nặn được nhiều nhất, vừa giữ chắc cái ghế thống trị. Tâm địa thâm độc tới ghê sợ của Bá Kiến còn thể hiện trong việc hắn nhẹ nhàng "khích" Chí Phèo đòi nợ đội Tảo, đẩy những kẻ sẵn sàng đâm chém ấy vào chỗ chém nhau, để kẻ nào sống "cũng có lợi cụ cả"! Bá Kiến thật là một con hổ biết cười!.

Vạch khổ cho người nông dân bị áp bức bóc lột, Nam Cao không đi vào nan sưu thuế, nạn chiếm đoạt ruộng đất, nạn tô tức, quan tham lại những, thiên tai địch họa.... ở Chí Phèo và nhiều truyện nữa, nhà văn đi vào một phương khác: người nông dân bị xã hội tàn phá về tâm hồn, hủy diệt cả nhân tính, do đó, bị phủ nhận giá trị, tư cách làm người. Nỗi thống khổ ghê gớm của Chí Phèo không phải ở chỗ tất cả cuộc đời người nông dân cố cùng này chỉ là một không: không nhà, không cửa, không cha không mẹ, không họ hàng thân thích không tấc đất cắm dùi, cả đời không hề biết đến một bàn tay chăm sóc của đàn bà nếu không gặp Thị Nở..., mà chính là ở chỗ anh đã bị xã hội rạch nát cả bộ mặt người, cướp đi linh hồn người, để bị loại ra khỏi xã hội loài người, phải sống kiếp sống tối tăm của thú vật. Mở đầu truyện là hình ảnh hết sức sống động, độc đáo của Chí Phèo khật khưỡng vừa đi vừa chửi. Nhưng đằng sau cái chân dung gã say rượu chửi lảm nhảm được vẽ bằng những nét bút tưởng đâu là kí họa gây cười ấy, nếu đọc kĩ còn có thể thấy một cái gì như là sự vật vã của một linh hồn đau đớn, tuyệt vọng. Không, tiếng chửi của Chí Phèo không hẳn là bâng quơ. Hắn từ "chửi trời" đến "chửi đời" rồi "chửi ngay tất cả làng Vũ Đại..." .Và hắn bỗng tức tối khi thấy "không ai lên tiếng cả"... Trong cơn say hắn vẫn cảm thấy tuy mơ hồ mà thấm thía "nông nỗi" khốn khổ của thân phận. Đó là "nông nỗi" không có người nào chịu chửi lại hắn! Có nghĩa là tất cả mọi người đã dứt khoát không coi hắn là người. Chửi lại hắn nghĩa là còn thừa nhận hắn là người, là còn bằng lòng giao tiếp, đối thoại với hắn. Chí Phèo chửi cả làng với... hi vọng được người nào đó chửi lại. Những tín hiệu yêu cầu giao tiếp phát đi liên tục đó chỉ gặp sự im lặng đáng sợ. Và vẫn còn lại một mình Chí Phèo trong sa mạc cô đơn: Hắn cứ "chửi rồi lại nghe", "chỉ có ba con chó dữ một thằng say rượu!...

Cảnh mở đầu đột ngột của thiên truyện đó chẳng những đã giới thiệu hấp dẫn tính cách độc đáo của nhân vật mà còn hé thấy tình trạng bi đát của một số phận. Chí Phèo trước hết là một hiện tượng có tính quy luật, tính phổ biến, sản phẩm của tình trạng áp bức bóc lột tàn tệ ở nông thôn Việt Nam trước đây. Đây là hiện tượng những người nông dân lao động bị đè nén thái quá đã chống trả lại để tồn tại bằng con đường lưu manh. Bá Kiến đẩy anh canh điền hiền lành vào tù; nhà tù thực dân - chỗ dựa tin cậy của bọn phong kiến trong việc đàn áp nông dân - đã tiếp tay lão cường hào để giết chết phần người trong con người Chí, biến Chí thành Chí Phèo, biến một người nông dân lương thiện thành một con quỷ dữ. Với ngòi bút hiện thực tỉnh táo ông vạch ra rằng, những người nông khốn khổ phải giành lấy sự tồn tại sinh vật bằng việc bán cả nhân phẩm ấy, đã trở thành lực lượng phá hoại mù quáng, dễ dàng bị bọn thống trị thâm độc lợi dụng, Vì thế mà Chí Phèo từ chỗ hung hăng đến nhà Bá Kiến, tuyên bố "liều chết với bố con" lão, chỉ cần mấy câu nói ngọt xớt, chuỗi cười Tào Tháo và mấy hào chỉ, đã trở thành tên tay sai mới của lão. Hiện tượng mỉa mai, đau xót rất phổ biến và có tính quy luật mà ngòi bút phân tích xã hội sâu sắc Nam Cao đã vạch ra.

Giá trị điển hình, sức mạnh tố cáo to lớn của hình tượng Chí Phèo trước hết là ở chỗ làm nổi bật lên cái hiện tượng có tính quy luật vẫn hằng diễn ra ở xã hội nông thôn đầy bất công và tội ác đương thời đó. Vấn đề của Chí Phèo là vấn đề nông dân - với ý nghĩa đó, vẫn có thể nói Chí Phèo là một hình tượng điển hình về nông dân.

Truyện ban đầu được tác giả đặt tên là Cái lò gạch cũ; hình ảnh cái lò gạch cũ được xuất hiện ở phần mở đầu và cả khi kết thúc truyện. Rõ ràng đó là ý nghệ thuật của Nam Cao. Cái lò gạch cũ như là một biểu tượng về sự hiện tất yếu của hiện tượng Chí Phèo, gắn liền với tuyến chủ đề chính của tác phẩm.

Câu chuyện mối tình Chí Phèo - Thị Nở quả là hấp dẫn đặc biệt. Song mặc dù giọng văn bông lớn, có lúc như chế giễu, mặc dù đối với một số người, đó là sự hấp dẫn của loại truyện tình bờ hụi của hạng nữa người ngợm, ngưu tầm ngưu mã tầm mã, "đôi lứa xứng đôi", thì đây vẫn thật sự là truyện có một nội dung hết sức nghiêm túc, chứa đựng một tư tưởng nhân đạo thật mới mẻ, độc đáo đem lại cho tác phẩm một tầm vóc bất ngờ.

Ban đầu, Chí Phèo đến với Thị Nở một cách rất... Chí Phèo. Trong một đêm "rười rượi những trăng", có những tầu chuối nằm ngửa ưỡn cong cong lên hứng lấy trăng xanh rười rượi như là ướt nước, thỉnh thoảng bị gió lay lại giãy lên đành như là "hứng tình", Chí Phèo rất say và cảm thấy "bứt rứt", "ngứa ngáy" da thịt, đã xông tới người đàn bà khốn khổ "dại dột đã nằm ềnh ệch mà ngủ ngay gần nhà hắn". Khi Thị Nở hốt hoảng kêu làng, thì "cái thằng trời đánh không chết ấy lại kêu to hơn, "vừa kêu vừa dằn người đàn bà xuống"! Lì lợm đến thế là cùng! Nhưng điều kì diệu đã xảy ra là, nếu như ban đầu, Thị Nở chỉ khơi dậy bản năng giống đực ở gã đàn ông Chí Phèo, thì sau đó, sự chăm sóc giản dị đầy ân tình và lòng yêu thương mộc mạc mà chân thành của đàn bà khốn khổ ấy đã làm thức dậy bản chất lương thiện của người lao động trong Chí Phèo. Đoạn văn viết về sự thức tỉnh của linh hồn Chí Phèo sau cuộc gặp gỡ với Thị Nở, là một đoạn tuyệt bút, đầy chất thơ và tập trung thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc bất ngờ của ngòi bút Nam Cao.

Sáng hôm ấy, Chí Phèo tỉnh dậy muộn và lòng "bâng khuâng", "mơ hồ buồn". Lần đầu tiên sau bao nhiêu năm, Chí Phèo mới lại nghe thấy tiếng chim hót vui vẻ, tiếng cười nói của những người đi chợ, tiếng anh thuyền chài gõ nể chèo đuổi cá...Những âm thanh quen thuộc trong cuộc sống lao động xung quanh ấy hôm nào chả có, nhưng hôm nay bỗng trở nên vang động sâu xa trong lòng Chí Phèo, trở thành những tiếng gọi tha thiết của cuộc sống vẳng đến bên tai lần đầu tiên tỉnh táo của anh. Cuộc gặp gỡ với Thị Nở đã lóe sáng như một tia chớp trong cuộc đời tăm tối dằng dặc của Chí Phèo. Dưới ánh sáng của tia chớp ấy, Chí Phèo bỗng nhìn rõ tất cả cuộc đời mình: những ngày xưa "rất xa xôi " đã từng "ao ước có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc mướn cày thuê. Vợ dệt vải, chúng lại bỏ một con lợn để làm vốn liếng! Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm". Cái hiện tại đáng buồn: "già mà vẫn cô độc", cái tương lai còn đáng buồn hơn: "đói rét và ốm đau và cô độc cái này còn đáng sợ hơn đói rét và ốm đau". Nếu như bao nhiêu năm nay, Chí Phèo "bao giờ cũng say", "say tận", "có lẽ hắn chưa bao giờ tỉnh táo, để nhớ rằng có hắn ở đời", thì hôm nay lần đầu tiên Chí Phèo tỉnh táo, tỉnh táo để tự ý thức về thân phận. Trước đi Chí Phèo sống và hành động hoàn toàn vô thức, hắn không thể biết và không cần biết hắn là gì và đã làm những gì: "hắn không biết rằng hắn là con quỷ .. của làng Vũ Đại, để tác quái cho bao nhiêu dân làng (...). Hắn biết đâu vì làm tất cả những việc ấy trong khi người hắn say... Giờ đây, lần đầu tiên, Chí Phèo nhận ra sự hiện hữu của mình, đối mặt với chính mình, và đồng thời, cũng lần đầu tiên, nhận ra sự bế tắc tuyệt vọng của thân phận mình. Khi thấy Thị Ni bưng cháo hành đến, hắn "rất ngạc nhiên" và hết sức xúc động. Bởi vì lần này là lần thứ nhất hắn được một người đàn bà cho". Hắn ăn bát cháo từ tay Thị Nở và bỗng nhận thấy rằng cháo hành ăn rất ngon. Bởi vì hương vị cháo hành này chính là hương vị của tình yêu thương chân thành, của hạnh phúc giản dị, mà có thật, lần đầu tiên đến với Chí Phèo. Lần đầu tiên, Chí Phèo mắt "như ươn ướt", "ôi sau mà hắn hiền, ai dám bảo đó là thằng Chí Phèo vẫn đập đầu, rạch mặt của mình". Trở lại là anh canh điền trong trắng năm xưa cảm thấy bị xúc phạm khi bị cái bà ba "quỷ cái" gọi lên bóp chân, trở lại anh nông dân lương thiện từng mơ ước cuộc sống gia đình hạnh phúc hết sức bình dị khiêm nhường trong lao động... "Đó là cái bản tính của hắn ngày thường bị lấp đi... "

Như vây là, lòng yêu thương, cái tình người chân thành đã làm sống lại trong Chí Phèo cái bản chất đẹp đẽ của người nông dân lao động, bao lâu nay bị cho lấp, vùi dập nhưng vẫn không tắt. Bọn cường hào và nhà tù thực dân, nói rộng ra là cả cái xã hội tàn bạo ấy, ra sức giết chết cái "bản tính tốt" ấy của anh "Trần trụi giữa bầy sói", anh không thể hiền lành, trong trắng, mà để tồn tại anh phải cướp giật, ăn vạ, đâm chém. Muốn thế phải liều và mạnh, những thứ ấy Chí Phèo tìm ở rượu. Và Chí Phèo luôn luôn say, " hắn say thì hắn làm bất cứ cái gì người ta sai hắn làm" - xét cho cùng, Chí Phèo không chịu trách nhiệm về những hành động của mình: linh hồn của anh đã bị cướp đi rồi.

Nhưng hôm nay, tình yêu đã thức tỉnh anh và linh hồn anh đã trở về. Anh thấy "thèm lương thiện", "muốn làm hòa với mọi người biết bao!", Anh như rưng rưng và bẽn lẽn trong sự phục sinh của linh hồn đó. Anh mong được nhận vào cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện". Tình của Thị Nở chẳng những đã thức tĩnh anh mà còn hé mở cho anh con đường trở lại làm người, trở lại cuộc đời, và anh hồi hộp hy vọng.

Đã hơn một lần, Nam Cao viết về những mối tình của những kẻ bị cả xã hội miệt thị, lăng nhục độc ác: Lang Rận - mụ Lợi, Đức - Nhi, Chí Phèo - Thị Nở... Tuy vẫn giữ giọng văn khách quan, hài hước, nhà văn đã dứt khoát đứng ra làm luật sư cãi trắng án cho những con người bất hạnh, bị mọi người hắt hủi đó, nhất là khi họ bị ném vào tình thế nhục nhã, trở thành cái đích cho những mũi tên chế giễu độc ác của người đời đầy thành kiến mu muội. Ông đã đanh thép bênh quyền được yêu của họ và khẳng định tính chính đáng của những mối tình như thế. Có gì là không chính đáng nếu như những con người trong khi bị cả xã hội xua đuổi ấy đã đến với nhau, tìm thấy ở nhau sự giao cảm, chia sẻ nỗi lòng? Vì nếu tình yêu chân chính là tình yêu làm nhân đạo hóa con người, nâng cao sống, thì đã có mấy lần tình yêu có tác dụng nhân đạo hóa kì diệu, cảm động như mối tình Thị Nở - Chí Phèo? Chẳng phải tình yêu thương tuy đơn giản, có phần thô lỗ của người đàn bà xấu xí ấy đã gọi dậy linh hồn người trong con quỷ dữ Chí Phèo, đưa hắn từ cõi địa ngục trở về cõi người đó sao? Chẳng phải một sự hóa giải thần bí nào mà chỉ là một tình yêu rất mực trần tục, nhưng là tình yêu đích thực con người, thật lành mạnh, khỏe khoắn. Mô típ nghệ thuật này được xử lí bằng một tư tưởng nhân đạo lớn lao và một bút lực phi thường, chỉ có Nam Cao.

Tư tưởng nhân đạo và hút lực phi thường đó còn thể hiện ở đoạn văn miêu tả tấn bi kịch tinh thần của Chí Phèo. Truyện ngắn đầy hấp dẫn này càng về cuối càng đặc biệt hấp dẫn; không phải chỉ vì cốt truyện, tình tiết đầy tính kịch, biến hóa khôn lường, mà còn vì tầm tư tưởng càng ngày càng nâng cao một cách bất ngờ của tác phẩm.

Nhiều người cũng nói đến Chí Phèo như là một bi kịch số phận, song nếu hiểu cho chặt chẽ, chính xác thì chỉ từ nhân vật này đã thức tỉnh linh hồn, khao khát trở lại làm người nhưng bị cự tuyệt lạnh lùng, thì chỉ đến khi đó, Chí Phèo mới thật sự rơi vào tình thế bi kịch: bi kịch của con người bị từ chối không được làm người.

Khi hiểu ra rằng xã hội không công nhận mình, Chí Phèo vật vã đau đớn. Hắn lại uống, nhưng điều lạ là, hôm nay "hắn càng uống càng tỉnh ra". Đúng hơn là tuy say, trong tâm thức Chí Phèo lúc này vẫn có một điềm tĩnh: nỗi đau khôn cùng về thân phận, và "hắn ôm mặt khóc rưng rức". Rồi như để chạy trốn bản thân, chạy trốn nỗi đau, hắn "lại uống... lại uống... đến say mềm người". Rồi hắn đi với một con dao và vừa đi vừa chửi... như mọi lần. Nhưng lại hoàn toàn khác mọi lần: hôm nay, Chí Phèo quằn quại đau đớn vì tuyệt vọng, càng thấm thía hơn bao giờ tội ác của kẻ thù, đã đến thẳng trước Bá Kiến "trợn mắt, chỉ tay vào mặt" lão, dõng dạc đòi quyền làm người, đòi lại bộ mặt người đã bị vằm nát của mình. Kẻ chết vì ý thức nhân phẩm đã trở về, anh không thể chấp nhận trở lại kiếp sống thú vật được nữa. Chí Phèo đã chết trên ngưỡng cửa trở về cuộc sống, chết trong tâm trạng bi kịch đau đớn. Thế là, trước đây, để bám lại sự sống, Chí Phèo phải từ bỏ nhân phẩm, bán linh hồn cho quỷ; giờ đây, ý thức nhân phẩm thức dậy, linh hồn trở về. Nhiều người nghi ngờ tấm lòng của Nam Cao đối với nông dân, vì thấy người nông dân của nhà văn phần nhiều xấu xa dữ tợn. Vậy mà chính ở những người khốn khổ có bộ mặt và tính cách không mấy "đáng yêu" đó, nhiều khi ý thức nhân phẩm còn mạnh hơn cả cái chết. Lão Hạc bề ngoài dường như lẩm cẩm, gàn dở nhưng lão đã lặng lẽ tìm đến cái chết để giữ trọn lòng tự trọng trong cảnh cùng đường (Lão Hạc). Lang Rận cũng tìm đến cái chết vì không chịu nổi điều nhục nhã đang chờ ông ta hôm sau (Lang Rận) và ở đây là Chí Phèo?

Chí Phèo đã chết quằn quại trên vũng máu trong niềm đau thương vô hạn, khao khát lớn lao, thiêng liêng là được làm người lương thiện đã không thực hiện được. Lời nói cuối cùng của Chí Phèo, vừa đanh thép, chất chứa phẫn nộ vừa mang sắc thái triết học và âm điệu bi thống đầy ám ảnh, làm người đời sững sờ và day dứt không thôi..."Ai cho tao lương thiện?". Làm thế nào để con người được sống cuộc sống con người? Đó là "một câu hỏi lớn không lời đáp chẳng những Bá Kiến không thể hiểu mà xã hội khi ấy cũng chưa thể trả lời Câu hỏi ấy được đặt ra một cách bức thiết, day dứt trong hầu như toàn bộ sáng tác Nam Cao trước cách mạng. Và đặt ra bằng một tài năng lớn, độc đáo, khiến cho nhiều sáng tác của Nam Cao - trước hết là Chí Phèo - thuộc vào những trang hay nhất của nền văn xuôi Việt Nam.

Bài văn mẫu: Phân tích truyện ngắn Chí Phèo - mẫu 2

"Khi Chí Phèo ngật ngưỡng bước ra từ trang sách của Nam Cao, người ta mới thấy đây là hiện thân đầy đủ nhất cho những gì gọi là cùng khổ của người dân cày trong một xã hội thuộc địa: bị dày đạp, cào xé, hủy hoại từ nhân tính đến nhân hình." (Nguyễn Đăng Mạnh). Người ta vẫn coi Chí Phèo như một hiện tượng lạ của văn học và đời sống, một sáng tạo đặc biệt của Nam Cao mà qua đó, bao lớp hiện thực được lật dở, bao tầng tư tưởng được cày xới.

"Chí Phèo" thật sự đã đưa tên tuổi của Trần Hữu Tri chính thức trở thành Nam Cao. Vốn là một nhà văn hiện thực đến sau, bước vào làng văn khi mà mảnh đất về người nông dân đã được lật xới nhiều lần, Nam Cao vẫn cày được những đường cày thật đẹp và nâng tác phẩm của mình trở thành tuyệt tác. Tôi cho rằng "Chí Phèo" là tác phẩm Nam Cao viết hay và sâu sắc nhất về người nông dân bởi tính hiện thực và tư tưởng nhà văn gửi trong đó.

Đi theo cách nhà văn muốn dẫn dắt người đọc, Nam Cao đã đẩy Chí Phèo ra giữa sân khấu cuộc đời với trạng thái say và chửi - một trạng thái đầy ấn tượng và ám ảnh: "Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng vậy, cứ rượu xong là hắn chửi." Hắn - cái cách mà Nam Cao gọi Chí Phèo - là một kẻ đang đằm mình trong men rượu và đối thoại với đời bằng tiếng chửi. Tiếng chửi có lớp có lang, có gần có xa, từ chửi trời, hắn chửi đời, rồi chửi sang cả dân làng Vũ Đại, chửi đứa nào không chửi nhau với hắn, và sau cùng là chửi "đứa chết mẹ nào đã đẻ ra hắn". Tiếng chửi như đã trở thành quy luật sống của một kẻ say, Nam Cao đã cho ta thấy trạng thái tồn tại cụ thể nhất của nhân vật, thấy được chất lưu manh trong con người hắn, và phần nào thấy được bi kịch bị cự tuyệt của Chí Phèo. Trong tiếng chửi dường như có sự cô độc. Dân làng Vũ Đại không ai ra điều, đáp lại hắn chỉ là tiếng sủa của ba con chó dữ. Chí Phèo bị gạch tên ra khỏi xã hội chăng? Vì đâu mà hắn bị cả xã hội ghê sợ và lảng tránh? Những câu hỏi gợi mở Nam Cao đặt ra từ đầu truyện đã cho ta lần bước tìm hiểu về nhân vật...

Chí Phèo vốn là một thanh niên hiền lành, lương thiện nhưng đã bị bọn cường hào ở làng Vũ Đại đẩy vào bước đường cùng. Là đứa con hoang bị bỏ rơi từ lúc mới lọt lòng, Chí được một bác phó cối không con đem về nuôi. Bác phó cối chết, Chí tứ cố vô thân, hết đi ở cho nhà này lại đi ở cho nhà khác. Không cha không mẹ, không một tấc đất cắm dùi, Chí lớn lên như cây cỏ, chẳng được ai ban cho chút tình thương. Thời gian làm canh điền cho nhà lí Kiến, Chí được tiếng là hiền như đất. Dù nghèo khổ, không được giáo dục nhưng Chí vẫn biết đâu là phải trái, đúng sai, đâu là tình yêu và đâu là sự dâm đãng đáng khinh bỉ. Mỗi lần bị mụ vợ ba lí Kiến bắt bóp chân, Chí "chỉ thấy nhục chứ yêu đương gì". Cũng như bao nông dân nghèo khác, Chí từng mơ ước một cuộc sống gia đình đơn giản mà đầm ấm: "Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm". Thế nhưng cái mầm thiện trong con người Chí sớm bị quật ngã và không sao gượng dậy được. Đó là lúc Chí bị Bá Kiến đẩy vào tù chỉ vì một cơn ghen bạo chúa, bi kịch lưu manh hóa cũng bắt đầu từ đó.

Chí ra tù, mang theo sự biến đổi nhân hình và nhân tính đến méo mó dị dạng. Từ một anh canh điền khỏe mạnh, Chí trở nên là một đứa "đặc như thằng săng đá", với "cái đầu trọc lốc, cái răng cạo trắng, cái mặt câng câng, con mắt gườm gườm. Người ta tưởng như một con quỷ dữ về làng. Chuỗi ngày sau khi ra tù, hắn ngụp lặn trong trạng thái tinh thần say miên man. Ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say, đập đầu, rạch mặt, chửi bới, dọa nạt trong lúc say. Đau đớn hơn, sự tha hóa không chỉ hiện lên thành hình, nó còn đang dần gặm nhấm từ bên trong khi mà Chí đã tự mình bán rẻ linh hồn cho Bá Kiến. Trở về làng Vũ Đại, cái mảnh đất quần ngư tranh thực, cá lớn nuốt cá bé ấy, Chí Phèo không thể hiền lành, nhẫn nhục như trước nữa. Hắn đã nắm được quy luật của sự sinh tồn: những kẻ cùng đinh càng hiền lành càng bị ức hiếp đến không thể ngóc đầu lên được. Phải dữ dằn, lì lợm, tàn ác mới mong tồn tại. Vậy là chỉ sau những lời mời dụ ngọt nhạt của tên gian hùng lọc lõi như Bá Kiến, Chí đã trở thành một tay đi đòi nợ thuê, chém giết thuê. "Hắn đâu biết hắn đã phá bao nhiêu cơ nghiệp, đập nát bao nhiêu cảnh yên vui, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt của bao người dân lương thiện". Chí Phèo đã thực hiện đúng mưu đồ của cha con nhà Bá Kiến: "Lấy thằng đầu bò để trị những thằng đầu bò". Chất Người trong hắn dường như đã cạn kiệt, linh hồn quỷ xâm chiếm và tàn phá hắn.

Nhưng cũng chính từ bi kịch ấy mà ta nhìn thấy bản chất, bộ mặt của cả một xã hội - một xã hội vô nhân với những những con người cạn sạch tính người, một xã hội mà Vũ Trọng Phụng gọi là "chó đểu". Ở đó, có những tên cường hào ác bá như Bá Kiến nắm mọi quyền lực, có thể tuyệt đường sống của người dân lương thiện bất cứ lúc nào, có nhà tù thực dân bắt vào một người lương thiện và thả ra một con quỷ dữ, có những người như dân làng Vũ Đại khước từ sự dung nạp và chấp nhận một người như Chí Phèo.

Tưởng như Chí đã trượt dài và lún sâu trong tấn bi kịch đời mình, nhưng Nam Cao vẫn đủ tin tưởng và trái tim nhà văn vẫn rất nhân đạo khi "cố tìm mà hiểu" chất Người trong tâm hồn của một kẻ mà phần Con đã chiếm thế. Đó là lúc Chí gặp Thị Nở - một người đàn bà xấu ma chê quỷ hờn của làng Vũ Đại. Qua cái đêm ăn nằm như vợ chồng với thị, Chí tỉnh dậy và bao nhiêu sự hồi sinh đã được đánh thức. Hồi sinh ý thức về không gian, thời gian, về tình cảm và tiếng nói con người. Lần đầu tiên trong cuộc đời, Chí nghe thấy "tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá. Có tiếng cười nói của những người đi chợ. Anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá". Cũng lần đầu, hắn ý thức được về tuổi tác của mình, về hiện tại "đã già mà vẫn còn cô độc", về quá khứ với ước mơ lành thiện khi xưa, về tương lai với "đói rét, ốm đau và cô độc". Con người ấy lần đầu có những cảm giác rất người, thức dậy cả về lương tri và lương tâm. Hắn biết lo, biết sợ, biết xúc động rưng rưng trước bát cháo hành tỏa nồng hơi ấm, biết ăn năn hối cải về tội ác của mình. Chính bàn tay của một người phụ nữ có dòng dõi mả hủi đã cứu đỡ hắn ra khỏi bờ vực tha hóa, để rồi không chỉ bộc lộ bản chất lương thiện vẫn luôn sẵn có trong con người, Chí Phèo còn trỗi dậy cả khao khát hoàn lương - trở về với xã hội loài người. Hắn tin rằng "Thị Nở sẽ mở đường cho hắn"; "Thị có thể làm hòa với hắn sao mọi người lại không thể". Chưa bao giờ, ước muốn được quay trở về làm người lương thiện lại mãnh liệt đến thế. Chính đôi mắt tinh tế và tấm lòng cảm thương của Nam Cao đã nhìn thấy mầm thiện của một con người vốn sống lương thiện, bị xã hội tàn ác vùi dập và đày đọa.

Nhưng hiện thực vẫn là hiện thực. Ngòi bút trung thành với hiện thực của Nam Cao đã không chối bỏ một sự thật khác, rằng sống trong xã hội đầy rẫy những định kiến cổ hủ lạc hậu, con người không thể sống yên ổn theo đúng nghĩa. Một lần nữa, Chí Phèo rơi vào bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người bởi định kiến của bà cô Thị Nở. Người đàn bà ấy đã dõng dạc tuyên bố rằng: "Trai làng đã chết hết hay sao mà đi đâm đầu lấy một thằng không cha, lấy một thằng chỉ có một nghề là rạch mặt ăn vạ". Cái loa của định kiến làng xã đã đưa bước chân Thị Nở đến từ chối thẳng thừng khát vọng hoàn lương và hạnh phúc của Chí Phèo. Giây phút nhân vật nửa tin nửa ngờ, nửa say nửa tỉnh, cố níu mà không thể giữ, bàng hoàng đến đau đớn đã biến Chí Phèo trở thành một kẻ thật sự tội nghiệp và đáng thương. Thị Nở bước đi, cánh cửa dẫn lối về xã hội loài người đóng sầm ngay trước mặt. Chí Phèo tìm đến tên kẻ thù lớn nhất của đời mình để trả thù và cũng kết liễu luôn đời mình. Chết là một kết cục bi thảm đau đớn, nhưng là lẽ tất yếu khi sống trong xã hội đầy nhơ nhuốc ấy. Không được dung nạp vào xã hội chung, Chí Phèo cũng không thể trở lại làm quỷ dữ, bởi lương tri và lương tâm đã trở về. Chí có chết mới là cách giải quyết tốt nhất, dù nó thật đau đớn. Đó là cái chết bảo toàn nhân phẩm, cái chết cảnh tỉnh cho cả một xã hội, để rồi ngày nay, tiếng hỏi "Ai cho tao lương thiện?" vẫn không ngừng vang vọng và ám ảnh.

Để làm nên thành công của tác phẩm trong việc xây dựng nhân vật, không thể không kể đến nghệ thuật phân tích tâm lý bậc thầy của Nam Cao, nghệ thuật kết cấu linh hoạt theo dòng tâm lý và sử dụng những đoạn độc thoại, đối thoại phù hợp. Ngòi bút của Nam Cao đã điển hình hóa một kiểu người, một số phận trong xã hội, để ngày nay Chí Phèo vẫn là cái tên đầu tiên khi người ta nhớ về Nam Cao.

Tài liệu có 13 trang. Để xem toàn bộ tài liệu, vui lòng tải xuống
Đánh giá

0

0 đánh giá

Tải xuống