TOP 33 bài Cảm nhận Sang thu 2023 SIÊU HAY

Tải xuống 16 12.9 K 12

Tailieumoi.vn xin giới thiệu đến các quý thầy cô, các em học sinh lớp 9 bài văn mẫu Cảm nhận về bài thơ Sang thu hay nhất, gồm có sơ đồ tư duy, dàn ý phân tích chi tiết và 33 bài văn mẫu hay nhất giúp các em học sinh có thêm tài liệu tham khảo trong quá trình ôn tập, củng cố kiến thức và chuẩn bị cho bài thi môn Văn sắp tới. Chúc các em học sinh ôn tập thật hiệu quả và đạt được kết quả như mong đợi.

Mời các quý thầy cô và các em học sinh cùng tham khảo và tải về chi tiết tài liệu dưới đây:

CẢM NHẬN BÀI THƠ SANG THU

Bài giảng: Sang thu

Cảm nhận bài thơ Sang thu - mẫu 1

Dẫu biết rằng bốn mùa luân chuyển: hết xuân đến hạ, thu sang rồi lại đông tới, ta vẫn thấy ngỡ ngàng khi quên đi nhịp sống sôi động hàng ngày mà lắng nghe tiếng mùa thu đi, cảm nhận những thời khắc đặc biệt. Đọc Sang thu của Hữu Thỉnh, ta được sống lại những giây phút giao mùa tinh tế đầy ý vị mà bấy lâu ta hờ hững. Đó sẽ là lúc hồn ta rung lên những cảm nhận dung dị:

Bỗng nhận ra hương ổi

...

Hình như thu đã về

Chỉ với bốn câu thơ ngắn, Hữu Thỉnh đã đem đến cho chúng ta những cảm nhận sâu sắc về thiên nhiên. Những tín hiệu của mùa thu với những nét phác họa tài hoa: hương ổi, gió se, sương chùng chình giản dị mà hiện lên đầy gợi cảm. Tín hiệu đầu tiên của mùa thu là hương ổi, thứ hương thơm quê mùa, dân dã. Hương ổi không nồng nàn. Đó là thứ hương dìu dịu, nhè nhẹ. Cảm nhận được hương thơm đặc trưng của mùa thu ấy, nhà thơ còn thể hiện rất khéo cái khí thu trong lành. Nếu như mùa xuân ẩm ướt, mùa hè nóng nực, mùa đông khô hanh thì mùa thu trong mát. Tuy có chút ẩm của hơi sương nhưng khí thu lại có độ trong khiến người ta có thể cảm nhận hương thơm dịu nhẹ lan tỏa trong không gian. "Phả" vốn là một động tác mạnh gợi một cái gì đó đột ngột. Thế nhưng câu thơ: "Bỗng nhận ra hương ổi. Phả vào trong gió se" rất nhẹ bởi động thái phả ấy lại vào không gian trong gió se – vô hình chứ không phải hữu hình. Câu thơ ngắn mà có cả gió cả hương. Hương là hương ổi, gió là gió se. Đây là những nét riêng của mùa thu vùng đồi trung du miền Bắc. Gợi được như vậy hẳn cái tình quê của Hữu Thỉnh phải đậm đà lắm.

Câu thơ: "Bỗng nhận ra hương ổi. Phả vào trong gió se" còn có cái cảm giác ngỡ ngàng bối rối: bỗng nhận ra. Nhận ra hương ổi giống như một sự phát hiện nhưng ở đây là phát hiện ra mùi hương vẫn vương vấn mà bấy lâu nay con người hờ hững. Chính vì sự phát hiện ra cái gần gũi xung quanh mình cho nên con người mới có cảm giác ngỡ ngàng đôi chút bối rối ấy. Tiếp nối những tín hiệu mùa thu là hình ảnh: sương chùng chình qua ngõ. Một hình ảnh đầy ấn tượng. Sương được cảm nhận như một thực thể hữu hình có sự vận động – một sự vận động chậm rãi. Từ láy chùng chình làm hiện hình tạo vật, làm ta như thấy một sự dùng dằng, gợi cảnh thu sống động trong tĩnh lặng, thong thả yên bình. Hình ảnh sương chùng chình qua ngõ cùng với hương ổi phả vào trong gió se thực là những hình ảnh mùa thu ở thôn quê êm ả thanh bình.

Như vậy, tín hiệu mùa thu được cảm nhận bằng cả khứu giác (hương ổi), cả thị giác (sương). Những tín hiệu, bởi vậy, tạo nên ấn tượng mới mẻ với những liên tưởng mơ hồ, chập chờn không rõ nét. Phải vậy chăng mà nhà thơ, khi đã cảm nhận những nét riêng của mùa thu, vẫn còn dè dặt: Hình như thu đã về. Giống như một sự hoài nghi: hình như, giống như tự vấn lòng mình. Thế nhưng thực ra là một lời thông báo – một thông báo rất nhẹ nhàng, ý vị. Không phải là một lời khẳng định, một tiếng reo vui. Câu thơ của Hữu Thỉnh như có chút gì thâm trầm, kín đáo rất hợp với cách nghĩ, cách nói của người dân quê. Khổ thơ ngắn mà đã để lại cho ta biết bao rung động. Ta như cảm thấy một hồn quê, một tình quê đi về trong câu chữ làm lòng ta ấm áp. Hình ảnh quê hương như càng thêm gần gũi, yêu mến.

Mùa thu lặng lẽ và nhẹ nhàng. Những hình ảnh thơ cứ vương vấn mãi trong hồn. Có một cái gì thật êm, dịu dàng toát lên từ đoạn thơ ấy. Quả thực ta thấy lòng thanh thản vô cùng mà lại vô cùng nôn nao nhớ đến những miền quê xa vắng trong nắng thu khi đọc mấy câu thơ của Hữu Thỉnh.

Sơ đồ tư duy

Cảm nhận về bài thơ Sang thu hay nhất ( 5 mẫu) (ảnh 3)

Dàn ý chi tiết

1. Mở bài:

- Giới thiệu được bài thơ "Sang thu" của Hữu Thỉnh và nêu cảm nhận, ý kiến khái quát. (Gợi ý: bài thơ biểu hiện những cảm xúc tinh tế của nhà thơ khi đất trời chuyển từ mùa hạ sang thu. Chỉ với 3 khổ thơ 5 chữ nhưng những cảm nhận, những hình ảnh và sức gợi của bài thơ lại hết sức mới mẻ).

2. Thân bài:

- Học sinh có thể trình bày cảm nhận nghệ thuật và nội dung bài thơ qua ngôn từ, hình ảnh cụ thể:

a, Khổ 1:

- Những cảm nhận tinh tế bất ngờ: Không có lá rụng của thơ xưa, không có màu vàng như trong "Thơ mới", tác giả cảm nhận mùa thu rất riêng, rất mới, bằng sự rung động tinh tế.

- Khứu giác (hương ổi) > xúc giác (gió se) > cảm nhận thị giác (sương chùng chình qua ngõ) > cảm nhận của lý trí (hình như thu đã về).

- Tâm trạng ngỡ ngàng, cảm xúc cảm nhận thị giác (sương chùng chình qua ngõ) > cảm nhận của lý trí bâng khuâng qua các từ “bỗng”, “hình như".

b, Khổ 2:

- Từ cảm nhận của các giác quan, cảm xúc của tác giả về mùa thu dần hòa vào cảnh vật chung quanh. Sự vật ở thời điểm giao mùa hạ - thu đã bắt đầu chuyển đổi: sông "dềnh dàng" - chim "bắt đầu vội vã", đám mây mùa hạ "vắt nửa mình sang thu". Hai khổ thơ đầu, các từ ngữ "chùng chình", "dềnh dàng", "vội vã", "vắt nửa mình" vốn là những từ ngữ dùng để chỉ trạng thái, tính chất của người được tác giả dùng để chỉ miêu tả thiên nhiên, vì thế cảnh vật trở nên sống động có hồn.

c, Khổ 3:

- Cảm nhận về thời điểm giao mùa dần đi vào lý trí. Hai dòng thơ cuối bài cần hiểu với hai tầng nghĩa. Hình ảnh tả thực "mưa, nắng, sấm" nhưng gợi cho ta liên tưởng đến một tầng ý nghĩa khác - ý nghĩa về con người và cuộc sống.

- Tóm lại:

+ Nghệ thuật: bài thơ hấp dẫn bởi những từ ngữ gợi cảm, gợi nhiều về cảnh về tình. Nhân hóa làm cho cảnh vật có hồn, gần gũi với cuộc sống.

+ Nội dung: tình yêu thiên nhiên, quê hương, đất nước.

3. Kết bài:

- Khẳng định giá trị nghệ thuật và nội dung bài thơ.

- Nêu cảm xúc khái quát.

Top 23 bài Cảm nhận về bài thơ Sang thu hay nhất (ảnh 1)

Các bài mẫu khác

Cảm nhận bài thơ Sang thu - mẫu 2

Nếu mùa xuân là mùa hội tụ của những bàn tay nghệ sĩ tài hoa thì mùa thu bước vào thơ ca cũng tự nhiên và gần gũi. Trước đây Nguyễn Khuyến nổi tiếng với ba bài thơ thu, sau này Xuân Diệu có “Đây mùa thu tới”. Nhỏ nhẹ, khiêm nhường Hữu Thỉnh cũng góp vào cho mùa thu đất nước một góc quê hương “Sang thu”

Với “Sang thu”, Hữu Thỉnh miêu tả bức tranh thu bằng những bước chuyển mình đầy tinh tế của vạn vật trước thời khắc giao mùa. Thời gian bao giờ cũng là quy luật và tất cả mọi thứ đều phải vận động theo quy luật ấy. Hình như các sự vật trong bài thơ cũng vậy, chuyển mình vào thu một cách đầy chủ động.

Bài thơ mở đầu bằng một phát hiện bất ngờ:

“Bỗng nhận ra hương ổi

Phả vào trong gió se

Sương chùng chình qua ngõ

Hình như thu đã về”

“bỗng nhận ra hương ổi”- một trạng thái chưa hề được chuẩn bị, như là vô tình như là sửng sốt như là cơ duyên để từ đây nhà thơ có thể quan sát xuất hiện của mùa thu trong trời đất bằng tất cả giác quan và cũng chính từ góc nhìn này, hình ảnh của cả sự vật sang thu được nhà thơ đưa vào ống kính.

Mở đầu là một làn hương thật đặc biệt của mùa thu Việt Nam, hương ổi – phả vào gió buổi sớm. “Phả” – một động từ mang ý nghĩa chủ động tác động được dùng như một cách khẳng định sự xuất hiện của hơi thu trong không gian. Sự góp mặt của màn sương buổi sớm cùng với hương ổi làm con người chợt giật mình thảng thốt: Hình như thu đã về. Hai đặc điểm để cảm nhận mùa thu Hương ổi, làn sương không phải là những hình ảnh đã trở nên ước lệ nữa, mà là một chi tiết thật mới mẻ, bất ngờ. có lẽ, chỉ với Hữu Thỉnh làn hương ổi rất quen của Việt nam mà rất lạ với nhà thơ được đưa vào thơ một cách tự nhiên. Cũng từ đây, một loạt những hình ảnh quen mà lạ ấy sẽ xuất hiện để làm nên một bức tranh mùa thu đẹp đẽ và trong sáng vô vùng:

“Sóng được lúc dềnh dàng

Chim bắt đầu vội vã

Có đám mây mùa hạ

Vắt nửa mình sang thu”

Top 23 bài Cảm nhận về bài thơ Sang thu hay nhất (ảnh 2)

Toàn là những sự vật được lựa chọn để miêu tả cảnh đất trời vào thu đang ở trạng thái “ngập ngừng” nhưng sự ngập ngừng đầy chủ động. “Sông được lúc, chim bắt đầu, đám mây, vắt nửa mình” với cách diễn đạt này hình ảnh của sự vật không chỉ hiện lên ở thời điểm hiện tại mà còn dẫn người đọc liên tưởng về quá khứ của chúng, một quá khứ chưa xa “quá khứ màu hạ” và chắc rằng, đó là một quá khứ đầy sôi nổi. Khiến cho đâu đó trong không gian dâng lên một niềm tiếc nuối:

“Vẫn còn bao nhiêu nắng

Đã vơi dần cơn mưa

Sấm cũng bớt bất ngờ

Trên hàng cây đứng tuổi”

Nắng – hình ảnh cụ thể của màu hạ - đang là hiện tại nhưng mưa màu hạ đã trở thành quá khứ. Trạng thái này của thời tiết lại một lần nữa như khẳng định sự ngập ngừng thì thời gian vẫn bước đi vô tình của nó, và hàng cây sẽ bớt bất ngờ nếu mọi ngày vẫn xanh là thế mà giờ đây đã trở thành “hàng cây đứng tuổi”. Hàng cây đứng tuổi – hình ảnh gợi lên ở người đọc nhiều liên tưởng về tuổi tác của con người. Thời gian trôi nhanh qua, cuộc đời mỗi người là một chứng nhân nhìn mùa thu đi qua. Bởi thế, nuối tiếc vẫn mãi là cảm xúc của con người trước thời gian. Tâm trạng ấy đã được nhà thơ gửi vào cảnh vật, gửi vào trạng thái của thiên nhiên nhằm khắc họa thời khắc mà mọi vật đang chuyển mình sang thu. Điều này lí giải vì sao tất cả các sự vật được khắc họa bằng hành động từ trạng thái với sắc thái nghiêng chủ động. Phải chăng những sự vật đang “sang thu” chứ không phải “đây mùa thu tới” hay “mùa đã thu rồi”. Xưa nay mùa thu thường gắn liền hình ảnh chiếc lá vàng, ngõ đầy rụng,lá khô xào xạc và ta cứ ngỡ như chỉ những sự vật ấy mới là đặc điểm của mùa thu. Nhưng đến “sang thu” của Hữu Thỉnh, người đọc chợt nhận ra: Một làn hương ổi, một màn sương, một dòng sông, một đám mây, một tia nắng những sự vật gần gũi thế cũng làm nên những đường nét rất riêng của mùa thu Việt Nam và điều này làm nên sức hấp dẫn cho bài thơ “Sang thu”

“Sang thu” của Hữu Thỉnh đã không chỉ mang đến cho người đọc những cảm nhận mới về màu thu quê hương mà còn làm sâu sắc hơn tình cảm quê hương trong trái tim mọi người. “Sang thu” chính là một tấm gương trong để người đọc có thể nhìn thấy ở đó hình ảnh quê hương xứ sở mình, hình ảnh của tâm hồn mình. Miêu tả mùa thu bằng những bước chuyển mình của vạn vật, Hữu Thỉnh đã khuấy động một cách nhìn riêng, một lối miêu tả riêng, thoát khỏi những ước lệ để khẳng định vị trí của riêng mình trên con đường sáng tạo nghệ thuật

Cảm nhận bài thơ Sang thu - mẫu 3

"Sang thu" là bài thơ ngũ ngôn của Hữu Thỉnh, từng được nhiều người ưa thích. Bài thơ gồm có ba khổ thơ; mỗi khổ thơ bốn câu là một nét thu đẹp êm đềm của đất trời, tạo vật trong buổi đầu thu - thu mới về, thu chợt đến.

"Sang thu" thể hiện một bút pháp nghệ thuật thanh, nhẹ, tài hoa, diễn tả những cảm nhận, những rung động man mác, bâng khuâng của tác giả trước vẻ đẹp và sự biến đổi kì diệu của thiên nhiên trong buổi chớm thu. Đối tượng được cảm nhận là cảnh sắc mùa thu nơi đồng quê trên miền Bắc đất nước ta. Với thi sĩ Xuân Diệu thì tín hiệu đầu thu là sắc "mơ phai" của lá được bàn tay tạo hóa "dệt" nên giữa muôn ngàn cây:

"Đây mùa thu tới, mùa thu tới

Với áo mơ phai dệt lá vàng."

(Đây mùa thu tới)

Nhưng với Hữu Thỉnh là "hương ổi" của vườn quê được "'phả vào" trong làn gió thu se lạnh. Cái hương vị nồng nàn ấy nơi vườn nhà mà tuổi thơ mỗi chúng ta sẽ mang theo mãi trong tâm hồn, đi suốt cuộc đời:

"Bỗng nhận ra hương ổi

Phả vào trong gió dịu."

"Phả" nghĩa là bốc mạnh và tỏa ra thành luồng (Từ điển Tiếng Việt - Hoàng Phê). Hữu Thỉnh không tả mà chỉ gợi, đem đến cho người đọc những liên tưởng về màu vàng ươm, về hương thơm lừng, thơm ngát tỏa ra, bốc lên từ những trái ổi chín nơi vườn quê trong những ngày cuối hạ, đầu thu. Vì gió thu "se" lạnh, nên hương ổi mới thêm nồng nàn phả vào đất trời và hồn người. Nhiều người đã biết: Thạch Lam, Vũ Bằng, Nguyễn Tuân, Bằng Sơn, Nguyễn Đình Thi, ... đã viết thật hay về hương cốm Vòng (Hà Nội), một nét đẹp mến yêu về hương vị mùa thu của quê hương đất nước:

"Sáng mát trong như sáng năm xưa

Gió thổi mùa thu hương cốm mới..."

(Đất nước - Nguyễn Đình Thi)

Video bài văn mẫu Cảm nhận bài thơ Sang thu

"Hương ổi" trong bài "Sang thu" là một cái mới trong thơ, đậm đà màu sắc dân dã của Hữu Thỉnh. Sau "hương ổi" và "gió se", nhà thơ nói đến sương thu. Cũng không phải là "Sương thu lạnh... Khói thu xây thành" trong "Cảm thu tiễn thu" của Tản Đà. Cũng chẳng phải là giọt sương lạnh và tiếng thu buồn những ngày xa xưa: "Cành cây sương đượm, tiếng trùng mưa phun" (Chinh phụ ngâm). Mà là sương thu chứa đầy tâm trạng "chùng chình" cố ý làm chậm chạp để kéo dài thời gian:

"Sương chùng chình qua ngõ

Hình như thu đã về."

Sương thu đã được nhân hóa; hai chữ "chùng chình" diễn tả rất thơ bước đi chầm chậm của mùa thu về. Nếu các từ ngữ "bỗng nhận ra" biểu lộ cảm xúc ngạc nhiên thì hai chữ "hình như" thể hiện sự phỏng đoán một nét thu mơ hồ vừa chợt phát hiện và cảm nhận. Chữ "se" vần với chữ "về" (vần chân, vần bằng, vần cách) đã góp phần tạo nên sự phong phú về vần điệu và nhạc điệu, làm cho giọng thơ nhẹ nhàng, mênh mông gợi cảm. Không gian nghệ thuật của bức tranh "Sang thu" được mở rộng, ở chiều cao, độ rộng của bầu trời với cánh chim bay và đám mây trôi, ở chiều dài của dòng sông qua khổ thơ thứ hai tiếp theo:

"Sông được lúc dềnh dàng

Chim bắt đầu vội vã

Có đám mây mùa hạ

Vắt nửa mình sang thu."

Sông mùa thu trên miền Bắc nước ta nước trong xanh, êm đềm trôi: "Trắng xóa tràng giang, phẳng lặng tờ" ("Tức cảnh chiều thu" - Bà Huyện Thanh Quan). Sông nước đầy nên mới "dềnh dàng", nhẹ trôi như cố tình chậm chạp, thiếu khẩn trương, để mất nhiều thì giờ... Chim bay "vội vã", đó là những đàn cu ngói, những đàn sâm cầm, những đàn chim đổi mùa, tránh rét, từ phương Bắc xa xôi bay về phương Nam. Trong số đàn chim bay "vội vã" ấy phải chăng có những đàn ngỗng trời mà nhà thơ Nguyễn Khuyến đã nói tới trong "Thu vịnh":

"Một tiếng trên không ngỗng nước nào?"

Dòng sông, cánh chim, đám mây mùa thu đều được nhân hóa. Bức tranh thu trở nên hữu tình, chứa chan thi vị. Hữu Thỉnh không dùng những từ ngữ như: lang thang, lơ lửng, bồng bềnh, nhẹ trôi, ... mà lại dùng chữ vắt.

"Có đám mây mùa hạ

Vắt nửa mình sang thu."

Mây như kéo dài ra, vắt lên, đặt ngang trên bầu trời, buông thõng xuống. Câu thơ tả đám mây mùa thu của Hữu Thỉnh khá hay và độc đáo: cách chọn từ và dùng từ rất sáng tạo. Khổ thơ cuối nói lên một vài cảm nhận và suy ngẫm của nhà thơ khi nhìn cảnh vật trong những ngày đầu thu:

"Vẫn còn bao nhiêu nắng

Đã vơi dần cơn mưa

Sấm cũng bớt bất ngờ

Trên hàng cây đứng tuổi"

Nắng, mưa, sấm, những hiện tượng của thiên nhiên trong thời điểm giao mùa: mùa hạ - mùa thu được Hữu Thỉnh cảm nhận một cách tinh tế. Các từ ngữ: vẫn còn, đã vơi dần, cũng bớt bất ngờ, gợi tả rất hay thời lượng và sự hiện hữu của sự vật, của thiên nhiên như nắng thu, mưa thu, tiếng sấm buổi đầu thu. Mùa hạ như còn níu giữ. Nắng, mưa, sấm mùa hạ như còn vương vấn hàng cây và đất trời. Nhìn cảnh vật sang thu buổi giao mùa, từ ngoại cảnh ấy mà nhà thơ suy ngẫm về cuộc đời. "Sấm" và “hàng cây đứng tuổi” là những ẩn dụ tạo nên tính hàm nghĩa của bài "Sang thu". Nắng, mưa, sấm là những biến động của thiên nhiên, còn mang ý nghĩa tượng trưng cho những thay đổi, biến đổi, những khó khăn thử thách trong cuộc đời. Hình ảnh "hàng cây đứng tuổi" là một ẩn dụ nói về lớp người đã từng trải, được tôi luyện trong nhiều gian khổ, khó khăn:

"Sấm cũng bớt bất ngờ

Trên hàng cây đứng tuổi"

Hữu Thỉnh viết bài thơ "Sang thu" vào đầu những năm 80 của thế kỉ trước. Lúc bấy giờ, đất nước ta tuy đã được độc lập và thống nhất nhưng đang đứng trước nhiều khó khăn, thử thách mới về kinh tế, về xã hội. Hai câu kết bài thơ mang hàm nghĩa khẳng định bản lĩnh cứng cỏi và tốt đẹp của nhân dân ta trong những năm tháng gian khổ, khó khăn ấy.

Cảm nhận bài thơ Sang thu - mẫu 4

Vào cuối năm 1977, khi chiến tranh đã chấm dứt, hòa bình lập lại, trong một buổi chiều thu, ra ngoại thành Hà Nội, đến thăm một vườn ổi chín, hương vị dịu dịu... một chút ngỡ ngàng, một chút xao xuyến, Hữu Thỉnh tức cảnh sinh tình. Trong ánh nắng hoàng hôn vàng óng, bài thơ Sang thu ra đời. Hãy tưởng tượng ta đang cùng với nhà thơ đứng giữa vườn ổi mà ngâm nga bài thơ tuyệt vời của ông.

"Bỗng nhận ra hương ổi

Phả vào trong gió se

Sấm cũng bớt bất ngờ

Trên hàng cây đứng tuổi"

Bài thơ được viết theo thể thơ 5 chữ, cô đọng, súc tích. Cả bài thơ là giọng điệu nhẹ nhàng, đôi lúc trầm lắng suy tư. Bài thơ là sự rung động của hồn thơ trước thiên nhiên khi đất trời sang thu, một bức tranh giao mùa tuyệt đẹp.

Mở đầu bài thơ, người đọc có thể nhận ra ngay cảm nhận tinh tế của Hữu Thỉnh khi tiết trời sang thu:

"Bỗng nhận ra hương ổi

Phả vào trong gió se".

Từ "bỗng" thể hiện sự đột ngột, bất chợt trong cảm nhận. Nhưng chính cái bất ngờ ấy mới thật nên thơ và đáng yêu trong một buổi chiều thu ở làng quê Bắc Bộ, nhà thơ đã chợt nhận ra điều gì? "Hương ổi phả vào trong gió se". Vì sao lại là hương ổi chứ không phải là các hương vị khác? Người ta có thể đưa vào bức tranh mùa thu các hương vị ngọt ngào của ngô đồng, cốm xanh, hoa ngâu... nhưng Hữu Thỉnh thì không. Đứng giữa vườn ổi chín vàng, giữa tiết trời cuối hạ đầu thu, ông nhận ra hương vị chua chua, ngòn ngọt của những quả ổi chín vàng ươm. Hương vị ấy đơn sơ, mộc mạc, đồng nội, rất quen thuộc với quê hương. Thế mà ít ai nhận ra sự hấp dẫn của nó. Bằng cảm nhận thật tinh tế, bằng khứu giác, thị giác, nhà thơ đã chợt nhận ra những dấu hiệu của thiên nhiên khi mùa thu lại về. Chúng ta thật sự rung động trước cái "bỗng nhận ra" ấy của tác giả. Chắc hẳn nhà thơ phải gắn bó với thiên nhiên, với quê hương lắm, nên mới có được sự cảm nhận tinh tế và nhạy cảm như thế?

Dấu hiệu của sự chuyển mùa còn được thể hiện qua ngọn gió se mang theo hương ổi chín. Gió se là làn gió nhẹ, thoáng chút hơi lạnh, còn gọi là gió heo may. Ngọn gió se se lạnh, se se thổi, thổi vào cảnh vật, thổi vào lòng người một cảm giác mơn man, xao xuyến. Từ "phả" được dùng trong câu thơ "Phả vào trong gió se" mới độc đáo làm sao! Nó diễn tả được tốc độ của gió, vừa góp phần thể hiện sự bất chợt trong cảm nhận: hương ổi có sẵn mà chẳng ai nhận ra, thế mà Hữu Thỉnh đã bất chợt nhận ra và xao xuyến vì cái hương đồng gió nội ấy.

Không chỉ có hương ổi trong "gió se", tiết trời sang thu còn có hình ảnh:

"Sương chùng chình qua ngõ"

Từ "chùng chình" gợi nhiều liên tưởng. Tác giả nhân hóa làn sương nhằm diễn tả sự cố ý đi chậm chạp của nó khi chuyển động. Nó bay qua ngõ, giăng mắc vào giậu rào, hàng cây khô trước ngõ xóm đầu thôn. Nó có cái vẻ duyên dáng, yểu điệu của một làn sương, một hình bóng thiếu nữ hay của một người con gái nào đấy. Đâu chỉ có thế, cái hay của từ láy "chùng chình" còn là gợi tâm trạng. Sương dềnh dàng hay lòng người đang tư lự hay tâm trạng tác giả cũng "chùng chình"?

Khổ thơ thứ nhất khép lại bằng câu thơ: "Hình như thu đã về". "Hình như" không có nghĩa là không chắc chắn mà thể hiện cái ngỡ ngàng, ngạc nhiên và chút bâng khuâng. Từ ngọn gió se mang theo hương Ổi chín thơm, vàng ươm nơi vườn nhà đến cái duyên dáng yểu điệu của một làn sương cứ chùng chình không vội vàng trước ngõ, tác giả đã nhận ra sự chuyển mình nhẹ nhàng nhưng khá rõ rệt của thời tiết và thiên nhiên trong khoảnh khắc giao mùa bằng đôi mắt tinh tế và tâm hồn nhạy cảm của một thi sĩ yêu thiên nhiên, yêu mùa thu gắn bó với cuộc sống nơi làng quê, của một người lính đã từng trải qua những năm tháng chiến tranh. Nếu không phải là Hữu Thỉnh, liệu ta có cảm nhận được cái duyên hương thu, có được cái tâm trạng như nhà thơ không?

Dùng dằng hoa quan họ

Nở tím bên sông Thương

Nắng thu đang trải đầy

Đã trăng non múi bưởi

Bến cần con nghé đực

Cả chiều thu sang sông?

(Chiều sông Thương)

Sang thu đậm chất dân gian làng quê dân dã, mang đậm hơi thở của ruộng đồng, nhưng vẫn rõ nét triết lí.

"Sấm cũng bớt bất ngờ

Trên hàng cây đứng tuổi".

Mưa bớt dần, sấm mùa hạ ít đi khi sang thu, hàng cây không còn phải giật mình đột ngột. Đó là quy luật tự nhiên. Nhưng hai câu thơ còn có ý nghĩa hàm ngôn: "Sấm" là những âm vang, tiếng động bất thường của ngoại cảnh, của cuộc đời. "Hàng cây đứng tuổi" chính là những con người từng trải, đứng tuổi và họ sẽ vững vàng hơn trước tác động của ngoại cảnh. Khi sáng tác Sang thu, Hữu Thỉnh cùng với dân tộc vừa trải qua những năm tháng khốc liệt của chiến tranh. Cuộc chinh chiến ấy như một mùa hạ oi ả, bức bối. Sống những năm tháng hòa bình, vào một buổi chiều thu êm ả thanh bình ở làng quê, tác giả cảm nhận sự thanh thản trong tâm hồn như "sông được lúc dềnh dàng" bởi trước kia dẫu muốn con người cũng chẳng thể dềnh dàng, chùng chình, cho nên dẫu có gặp sóng gió cuộc đời, tác giả vẫn "bình tĩnh chấp nhận đương đầu, không trở ngại nào đánh gục được". Hai câu thơ chất chứa suy tư và trải nghiệm về con người và cuộc sống. Nếu ở khổ 1, trạng thái cảm xúc của tác giả mới chỉ là "bỗng", "hình như", thì ở khổ còn lại, sự vận động của mùa thu đã được cụ thể hóa bằng những sắc thái đổi thay của tạo vật:

"Sông được lúc dềnh dàng

Chim bắt đầu vội vã".

Vì sao sông thì "dềnh dàng" còn chim lại "vội vã"? Đây là những cảm nhận rất tinh tế và có cơ sở khoa học nhưng vẫn giàu sức biểu cảm. "Sông được lúc dềnh dàng" vì sang thu sông bắt đầu cạn, chảy chậm lại, không cuồn cuộn ào ạt như mùa hè, rất thư thả và chuyển động chậm rãi. Còn những đàn chim vội vã vì mùa hè chim trú mưa, ít có cơ hội kiếm mồi. Bây giờ sang thu khô ráo hơn, chúng tranh thủ đi kiếm mồi và trú rét ở phương Nam khi trời ấm áp. Hai hoạt động dường như có vẻ đối lập nhau, nhưng với lối nhân hóa, Hữu Thỉnh đã phả hồn người vào vật, tác giả đã làm cho con sông trở nên duyên dáng, gần người hơn, thể hiện một không gian đẹp, khơi gợi hồn thơ.

Dấu hiệu sang thu còn được miêu tả rất sinh động qua hình ảnh:

"Có đám mây mùa hạ

Vắt nửa mình sang thu".

Đây là một liên tưởng sáng tạo, thú vị. Mây mùa hạ thường xám xịt, đen kịt tạo cảm giác nặng nề. Mây mùa thu trong vắt, xanh ngắt. "Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt" (Nguyễn Khuyến). Sự thật, không hề có đám mây nào như thế. Vì sao có sự phân chia rạch ròi, mắt nhìn thấy được trên bầu trời. Đó là đám mây trong liên tưởng, tưởng tượng của tác giả. Nhưng chính cái hình ảnh mùa hạ nối với mùa thu bởi nửa đám mây lững lờ, cũng dềnh dàng, chùng chình, bảng lảng trên tầng không làm cho người đọc cảm nhận không gian và thời gian lúc chuyển mùa mới đẹp làm sao! Có thể nói đây là hai câu thơ đẹp nhất trong bài và tiêu biểu nhất của tiết trời sang thu.

Nhà thơ cảm nhận những biểu hiện nào khác của thời tiết khi chuyển hạ qua thu?

"Vẫn còn bao nhiêu nắng

Đã vơi dần cơn mưa".

Đại từ phiếm chỉ "bao nhiêu" diễn tả số nhiều. Không đếm được. Làm sao đếm được nắng, nhưng tác giả cảm nhận rằng cuối hạ đầu thu đã bớt nồng nàn, oi ả, tia nắng đã bớt rực rỡ và những cơn mưa rào ào ạt cũng đã thưa dần, không chỉ vơi mà mưa cũng ít dần. Hữu Thỉnh cũng đã có những câu thơ, đoạn thơ gần tứ thơ này nhưng không tài hoa, bất ngờ, thú vị bằng. Chẳng hạn:

"Đi suốt cả ngày thu

Vẫn chưa về tối nao"

Sang thu là một khúc giao mùa nhẹ nhàng, thơ mộng, bâng khuâng mà cũng thầm thị triết lí, đã nối tiếp hành trình thơ thu dân tộc, góp một tiếng thu đằm thắm về mùa thu quê hương, đem đến cho chúng ta tình quê hương đất nước qua nét đẹp mùa thu Việt Nam.

Cảm nhận bài thơ Sang thu - mẫu 5

Mùa thu luôn là đề tài khiến thi nhân phải động lòng thương yêu bởi đó là mùa của những gì nhẹ nhàng và dịu êm nhất, mùa của sự tĩnh lặng và những rung động sâu sắc nhất. Mùa thu đi vào thơ Nguyễn Khuyến bình dị, gần gũi; đi vào thơ Nguyễn Đình Thi là tiếng vọng từ đất nước ngàn đời. Còn mùa thu của Hữu Thỉnh qua bài thơ "Sang thu" thật đẹp, thật nên thơ và trữ tình, và tấm lòng của nhà thơ cũng thật duyên. Bài thơ đã phác họa thành công sự chuyển mùa kỳ diệu của đất trời và của lòng người.

"Sang thu" là một bài thơ tái hiện lại một cách nhẹ nhàng sự chuyển mùa tinh tế, trời đất lúc sang thu có chút gì đó bối rối, có chút gì đó ngập ngừng và hơn hết là sự ngỡ ngàng, bồi hồi của nhà thơ khi nhận ra sự thay đổi của trời đất. Mùa thu về, mùa thu mang lại cho con người ta những giai điệu dịu êm nhất. Dấu hiệu của mùa thu trong thơ Hữu Thỉnh thực sự rất bình dị và gần gũi, không phải là hương cốm mùa thu, không phải mặt hồ tĩnh lặng, cũng không phải những mùa lá rụng. Mùa thu trong thơ ông chính là "hương ổi", là thứ hương đặc trưng của vùng quê Việt Nam mỗi khi thu về.

Bỗng nhận ra hương ổi

Phả vào trong gió se

Phải thật tinh tế, thật khéo léo tác giả mới có thể nhận ra được thứ hương rất đỗi nhẹ nhàng và có thể bị gió cuốn đi lúc nào. Cụm từ "bỗng nhận ra" giống như một phát hiện mới, một sự ngạc nhiên rất thú vị như khi khám phá ra điều gì đó đẹp đẽ. Đây là cụm từ diễn ra trạng thái ngỡ ngàng của tác giả khi nhận ra mùa thu đã chạm ngõ chỉ với "hương ổi", mùi hương đồng nội thân quen khiến những người con xa quê khó quên được. Mùi hương ổi ấy đã "phả" vào trong "gió se" đầu mùa thu dịu nhẹ, se sắt. Động từ "phả" đã làm toát lên thần thái của mùa thu, của hương ổi. Nó diễn tả sự quyện chặt vào, sự gắn kết giữa hương ổi và làn gió đầu mùa.

Chỉ qua hai câu thơ đầu, Hữu Thỉnh đã mang đến cho người đọc một cảm nhận mới về mùa thu, về sự chuyển mùa tinh tế nhất, về những điều bình dị ở xung quanh chúng ta.

Sương chùng chình qua ngõ

Hình như thu đã về

Hai câu thơ rất duyên, rất tinh tế nhưng rất sâu sắc, gợi lên sự mơ hồ của giây phút chuyển mùa. Hình ảnh "sương chùng chình qua ngõ" khiến người đọc tưởng tượng ra khung cảnh sương đang ngập ngừng giăng mắc ở đầu ngõ. Từ láy "chùng chình" dùng rất đắt, đã làm toát lên thần thái của mùa thu, không vội vàng, hồ hởi mà luôn tạo nên sự mơ hồ và mông lung nhất. Tác giả phải thốt lên "hình như", là chưa chắc chắn, không chắc chắn nhưng thực ra là tác giả tự khẳng định rằng mùa thu về thật rồi.

Có lẽ mùa thu đã sang, là mùa thu của đất trời và mùa thu của lòng người mênh mang, nhiều tâm trạng. Đến khổ thơ thứ hai thì dường như mùa thu đã hiện rõ ra từng đường nét hình khối trong cảm nhận của tác giả:

Sông được lúc dềnh dàng

Chim bắt đầu vội vã

Có đám mây mùa hạ

Vắt nửa mình sang thu

Nước mùa thu dâng lên theo mùa "dềnh dàng", những cánh chim trời bắt đầu "vội vã" bay. Thiên nhiên khi mùa thu về có chút gì đó vội vàng, gấp gáp hơn và trĩu nặng hơn nhưng vẫn giữ được thần thái đặc trưng nhất. Đường nét của mùa thu hiện lên rất rõ nét, không còn mơ hồ như ở khổ thơ thứ nhất nữa. Đây cũng là quá trình và là sự chuyển biến trong thiên nhiên và trong nhận thức của tác giả. Sự quan sát tinh tế, tỉ mỉ của tác giả còn thể hiện ở cách nhìn "đám mây mùa hạ" như "vắt" sang thu. Thật tài hoa, thật khéo léo và dường như ông động lòng với mùa thu, khí thu, vị thu rất nhiều nên mới tưởng tượng ra viễn cảnh đám mây cao trên trời như đang chuyển mình cùng nhịp đập của mùa thu. Từ "vắt" dùng rất hay, rất độc đáo đã diễn tả được quá trình chuyển mình của mùa thu rất uyển chuyển, nhịp nhàng. Mùa thu có chút gì đó độc đáo, tinh nghịch và cũng không kém phần duyên dáng qua cảm nhận của Hữu Thỉnh. Mùa thu đã đến thật rồi, mùa thu mang theo những gì tinh khôi, nhẹ nhàng và dịu êm nhất.

Bức tranh chuyển mùa qua lời thơ Hữu Thỉnh thực sự mềm mại, nhẹ nhàng và uyển chuyển biết bao. Đó chính là cái Tài của tác giả, tài dùng chữ vẽ tranh. Điều bất ngờ nằm ở khổ thơ cuối, mùa thu đã thực sự đến rồi và đất trời đã có những chuyển biến khiến con người có thể nhận ra, nhưng tác giả đã chiêm nghiệm mùa thu bằng cách nhìn nhận của một đời người:

Vẫn còn bao nhiêu nắng

Đã vơi dần cơn mưa

Sấm cũng bớt bất ngờ

Trên hàng cây đứng tuổi

Mùa thu có nắng, là thứ nắng dịu nhẹ và tinh khôi, thứ nắng có chút se se lạnh của gió đầu mùa. Thiên nhiên mùa thu cũng trở nên tĩnh lặng và trầm ngâm hơn. Tiếng sấm không còn khiến con người giật mình nữa mà nó trở nên lặng lẽ hơn trên hàng cây đứng tuổi. Tác giả đã đúc kết chiêm nghiệm và sự từng trải của một đời người qua sự liên tưởng đến "hàng cây đứng tuổi". Tiếng sấm và hàng cây ở hai câu thơ cuối dường như là hiện thân của những con người từng trải, đã qua giai đoạn tuổi trẻ bồng bột, nhiều hối hả. Ở giai đoạn con người ta "đứng tuổi" mọi thứ cần chắc chắn và đứng đắn, tĩnh lặng hơn. Tác giả đã mượn hình ảnh "hàng cây đứng tuổi" để nói lên đời người ở tuổi xế chiều, cũng như mùa thu vậy; có chăng mùa thu là mùa của tuổi con người ta không còn trẻ trung nữa. Nhịp đập của mùa thu, sự chuyển động của mùa thu rất nhẹ nhàng và êm đềm. Có lẽ khi con người ta trải qua tuổi bồng bột, đến một lúc nào đó cần bình thản nhìn lại và nhẹ nhàng cảm nhận chúng. Khổ thơ cuối với giọng điệu trầm lắng khiến người đọc nhận ra rất nhiều điều trong cuộc sống này đáng suy ngẫm.

Hữu Thỉnh với bài thơ "Sang thu" độc đáo và thú vị, cách cảm nhận tinh tế nhẹ nhàng cùng những chiêm nghiệm đáng suy ngẫm đã khiến cho người đọc có cái nhìn khái quát và mới mẻ hơn về mùa thu. Gấp trang sách lại, mùa thu của Hữu Thỉnh vẫn còn quẩn quanh đâu đây trong trí óc của mỗi chúng ta.

Cảm nhận bài thơ Sang thu - mẫu 6

Mặc dù một năm có 4 mùa nhưng dường như mùa Thu được các nhà thơ ưu ai hơn cả khi có rất nhiều bài thơ hay về nó. Chẳng hạn như nhà thơ Nguyễn Khuyến có một chùm thơ viết về mùa thu là Thu vịnh, Thu ẩm, Thu điếu. Trong văn học Việt Nam hiện đại, các nhà thơ cũng tiếp tục lấy mùa thu làm đề tài chính cho các sáng tác của mình. Điển hình như nhà thơ Hữu Thỉnh có bài thơ Sang thu vô cùng độc đáo.

Có thể nói, thời điểm chuyển giao giữa mùa này sang mùa khác bao giờ cũng làm cho con người ta có những cảm xúc lắng đọng. Đó vừa là sự háo hức chào đón cái mới, vừa là sự nuối tiếc dành cho những cái đã qua. Với sự chuyển biến của thiên nhiên, con người bao giờ cũng có sự ngỡ ngàng, sự bâng khuâng.

Có một điều đặc biệt của thiên nhiên là chúng ta không thể nào biết chính xác khi nào thì một mùa mới tới. Vào giây phút chuyển giao giữa mùa hè sang mùa thu, con người chỉ có thể cảm nhận bằng các giác quan của bản thân mình. Nếu như nhà thơ Lưu Trọng Lư cảm nhận mùa thu qua thính giác với hình ảnh “con nai vàng ngơ ngác, đạp trên lá vàng khô” thì nhà thơ Hữu Thỉnh lại cảm nhận mùa thu thông qua khứu giác.

Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se

Cây ổi, một loại cây ăn quả được trồng nhiều ở khắp các làng quê Việt Nam. Cứ đến mùa thu là cây ổi đơm hoa. Hương thơm của ổi không ngào ngạt như những loài hoa khác và phải tinh tế lắm mới có thể cảm nhận được hương ổi trong gió. Phó từ “bỗng” vừa cho ta cảm giác ngỡ ngàng, vừa cho thấy tác giả như đã chờ đợi để được ngửi thấy hương ổi từ lâu. Câu thơ không chỉ miêu tả đơn thuần về cảm nhận của tác giả khi mùa thu về mà còn khiến người đọc liên tưởng đến hình ảnh những quả ổi chín vàng ươm trên cây. Dường như người đọc cũng có thể ngửi thấy hương ổi như tác giả. Không chỉ có tác giả mà sương thu cũng chứa đầy tâm trạng. Sương thong thả len lỏi ở khắp mọi nơi và trong cả các con ngõ nhỏ. Lúc này, tác giả mới thốt lên một câu nghi vấn:

Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về

Từ “chùng chình” thể hiện bước đi của sương. Có thể thấy, sương thu đã được nhân hóa lên giống như con người. Nhà thơ nhìn thấy rõ, cảm nhận được rõ nét sự thay đổi của thời tiết. Biết được rằng mùa thu đã về nhưng làm không dám khẳng định. Từ “hình như” cho người đọc cảm giác mơ hồ, bâng khuâng giống như đang ở một thế giới thần tiên nào đó và chẳng dám tin đây lại là sự thật.

Thế nhưng đến những câu thơ tiếp theo, sự chuyển biến của mùa thu đã trở nên rõ nét hơn. Tác giả không chỉ cảm nhận bằng khứu giác nữa mà đã nhìn thấy rõ nét thông qua thị giác:

Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã

Hai câu thơ tạo nên hai hình ảnh đối lập của tự nhiên. Bên dưới lại sông nước êm đềm, mềm mại dường như đang cố tình trôi thật chậm. Trên trời, những đàn chim đã bắt đầu chuẩn bị cho một cuộc di chuyển đường dài về phương nam tránh rét. Cảnh tượng ấy mới thật thi vị biết bao. Nhưng đẹp hơn cả vẫn là hình ảnh:

Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu

Câu thơ cho người đọc thấy rõ được sự chuyển mình từ mùa hạ sang mùa thu của thiên nhiên. Nhưng trên thực tế, mây mùa hạ và mây mùa thu thì có khác gì nhau? Câu thơ của tác giả dường như đã vẽ ra được một ranh giới trên bầu trời. Đám mây mùa hạ kia đang di chuyển qua ranh giới ấy để bước vào mùa thu. Một sự liên tưởng thật tuyệt vời. Mùa thu ấy chỉ vừa mới bắt đầu thôi. Vì vậy mà những sự vật, hiện tượng của mùa hạ vẫn còn sót lại nhưng cũng “đã vơi dần”:

Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi

Những câu thơ cuối của tác giả không chỉ đơn thuần là miêu tả thiên nhiên nhiên nữa mà nó còn chứa đựng cả những tâm tư trong lòng ông. Hữu Thỉnh chỉ ra cho chúng ta thấy rằng những người lớn tuổi đã trải qua rất nhiều thăng trầm trong cuộc sống nên đứng trướng sóng gió của cuộc đời họ không còn bất ngờ nữa. Cũng giống như những hàng cây đứng tuổi kia, sấm cũng đã “bớt bất ngờ”.

Chính những xúc cảm tinh tế trong lòng tác giả đã khiến người đọc thêm yêu hương sắc của mùa thu. Bài thơ Sang thu như một bức tranh giao thoa của đất trời, đầy sắc nét, tinh tế và ngọt ngào.

Cảm nhận bài thơ Sang thu - mẫu 7

Sang thu của Hữu Thỉnh chỉ vỏn vẹn với 12 câu thơ năm chữ, nhưng nó đã vẽ nên một bức tranh đầu thu tinh tế, đẹp đẽ với sự biến chuyển nhẹ nhàng, giao cảm của đất trời khoảnh khắc giao mùa.

Bằng những cảm nhận tinh tế, sâu sắc của mình, Hữu Thỉnh đã phát hiện ra tín hiệu giao mùa qua hương ổi chín thoảng qua trong làn gió se lạnh:

Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se

Hương ổi chín là một mùi hương đặc biệt quen thuộc ở vùng nông thôn Việt Nam. Dường như chính tác giả cũng ngỡ ngàng khi phát hiện sự biến đổi của đất trời lúc sang thu. Từ “bỗng” đã mang đến cho người đọc một cảm giác bất ngờ khi một mùi hương vốn dĩ quen thuộc mà lại có lúc bị bỏ quên. Mãi đến khi chớm sang thu, người ta mới có cơ hội tận hưởng từng chút hương vị thân thuộc của làng quê.

Tác giả sử dụng từ “phả” - sự bốc mạnh và tỏa ra thành luồng - để gợi nên sự liên tưởng cho người đọc về hương thơm nồng nàn tỏa ra từ những vườn ổi chín nơi vườn quê Bắc Bộ. Lúc này, làn gió đầu thu mang theo chút se lạnh càng làm nổi bật hương thơm ổi thêm nồng nàn. Đó là một mùi hương rất đổi quen thuộc với người Việt mà xa lạ với thi ca, nhưng lại được Hữu Thỉnh đưa vào ý thơ một cách vô cùng tự nhiên.

Sau làn gió se lạnh mang theo mùi hương ổi chín nồng nàn là làn sương mỏng đang chuyển động nhẹ nhàng khắp xóm nhỏ:

Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về.

Làn sương mỏng được miêu tả với hai từ “chùng chình” như đang lan dần đến một cách chầm chậm theo nhịp thở của mùa thu. Có lẽ, chính sự xuất hiện của mùi hương ổi chính cùng làn sương mỏng đã khiến tác giả phải ngỡ ngàng, ngạc nhiên và bâng khuâng. Từ “hình như” chính là một sự phỏng đoán mơ hồ của tác giả trước một vài tín hiệu sang thu của vạn vật. Để cảm nhận bức tranh mùa thu tuyệt đẹp đó, nhà thơ đã dùng tất cả giác quan và sự rung động tinh tế của mình:

Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã.

Tác giả đã có sự chuyển đổi tầm nhìn từ trong vườn ra ngoài ngõ, rồi mở rộng không gian bao la bên ngoài với dòng sông, bầu trời rộng lớn và khép lại bằng sự suy ngẫm về triết lý, giá trị sống trong cuộc đời. Những sự vật xuất hiện trong bài thơ đều miêu tả cảnh vạn vật đang chuyển dần sang thu một cách ngập ngừng. Dòng sông phải chăng đang cố ý trôi một cách chậm chạp, nhẹ nhàng để tận hưởng sự yên bình của mùa thu.

Trái ngược với trạng thái tận hưởng ấy là những cánh chim đang vội vã làm tổ, tha mồi để chuẩn bị đối phó với mùa đông khắc nghiệt. Sự trái chiều ấy chính là quy luật tự nhiên không đồng đều trong thời điểm giao thoa của muôn loài. Đồng thời, nó cũng là tâm trạng của con người khi đứng trước sự thay đổi của cuộc sống.

Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu.

Đây là hình ảnh rất độc đáo được thể hiện qua cảm nhận tinh tế của tác giả. Mùa hạ mùa thu đang ở hai đầu bến và đám mây phải chăng chính là nhịp cầu ô thước vắt qua. Qua đó, nhà thơ đã sử dụng không gian để miêu tả chuyển động của thời gian. Tuy nhiên, ẩn sau hình ảnh thơ ấy là một thoáng bâng khuâng trong tâm trạng của Hữu Thỉnh.

Nếu tinh tế, người đọc có thể cảm nhận được âm điệu có phần trầm lắng trong sự sâu lắng của hai câu thơ này. Nói sơ qua về hoàn cảnh sáng tác thì bài thơ này được viết vào năm 1977 - hai năm sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ kết thúc. Hữu Thỉnh lúc này là một người lính đã trở về với cuộc sống đời thường.

Trong giây phút cảm nhận sự chuyển mùa ấy, dường như tác giả bất giác nhớ về những người đồng đội đã mãi mãi an nghỉ giữa tuổi thanh xuân rực cháy cùng khát vọng trở thành “đám mây mùa hạ” cống hiến cho quê hương của mình. Để rồi, trong lời thơ dường như có chút gì đó nuối tiếc, có chút sự vấn vương, lại như là sự hồi tưởng như đám mây đang trôi nhẹ nhàng vì tiếc nuối mùa hạ. Vì thế mà câu thơ “vắt nửa mình sang thu” không chỉ là hình ảnh thiên nhiên, mà nó còn là sự lắng đọng trong nỗi ưu tư, trăn trở của tâm hồn thi nhân.

Hình ảnh của mùa hạ còn sót lại cũng được nhà thơ miêu tả một cách tinh tế, thi vị:

Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi.

Sự chuyển giao mùa của đất trời vẫn chưa được hoàn thiện khi trong không gian vẫn còn đọng lại chút dư vị của mùa hạ. Mùa hạ vẫn còn chưa đi nên nắng hạ vẫn còn nồng, còn sáng, chỉ có điều là nó đã bắt đầu nhạt dần đi. Những cơn mưa mùa hạ lúc này cũng đã vơi dần đi khi hơi thở của mùa thu đang dần ôm trọn không gian. Những tiếng sấm bất chợt cũng vì thế mà dần dần ít đi.

Những hình ảnh đặc trưng của mùa hạ vẫn còn, nhưng độ gay gắt của nó đang giảm để rồi chuyển hóa thành dịu êm. Dấu hiệu của mùa thu đang dần tăng lên nhưng sự phân hóa ranh giới hai mùa cũng vô cùng mong manh. Sự phân chia hai mùa vì thế mà chỉ có thể xác định qua sự nhạy cảm của giác quan, sự tinh tế của hồn người.

Âm điệu của khổ thơ giờ đang mang một màu trầm lắng đầy suy tư. Sự chuyển giao mùa chính là một quy luật tất yếu của tự nhiên, của cuộc đời. Vì thế, ta dẫu có tiếc nuối mùa hạ thì vẫn phải tiếp nhận mùa thu một cách an nhiên.

Trong hai câu thơ cuối, hình ảnh hàng cây đứng tuổi chính là một chứng nhân đang quan sát từng sự chuyển động của vạn vật xung quanh. Và phải chăng, hình ảnh này cũng mang những nỗi niềm suy tư mà Hữu Thỉnh muốn gửi gắm qua bài thơ? Tiếng sấm là những vang động bất thường của ngoại cảnh, và hàng cây đứng tuổi chính là những người đã từng trải, đã đi qua nhiều thăng trầm trong cuộc sống.

Khi người ta đã từng trải, người ta sẽ không còn quá bất ngờ trước những tác động của ngoại cảnh. Người ta cũng chẳng sợ hãi mà vững vàng khi biến động kéo đến. Chỉ khi đặt hai câu thơ trong hoàn cảnh đất nước khó khăn thì ta mới hiểu hết được thông điệp cũng như ý nghĩa của hai câu cuối. Đó chính là lời khẳng định cho bản lĩnh của dân tộc ta, dám đương đầu trước mọi khó khăn sóng gió để giành về cuộc sống bình yên cho dân tộc.

Nói tóm lại, qua Sang thu, người đọc có thể cảm nhận được sự biến chuyển nhẹ nhàng mà rõ rệt của vạn vật của đất trời cuối hạ đầu thu. Qua đó, thông điệp mà nhà thơ muốn gửi gắm đến độc giả cũng được truyền tải một cách tinh tế, khiến cho người ta thêm yêu quý quê hương, đất trời Tổ quốc mình.

Cảm nhận bài thơ Sang thu - mẫu 8

Mùa thu hiện lên trong hương cốm mới, trong cái nắng vàng ươm ướp đất trời, trong hương bưởi nồng nàn say đắm. Mùa thu của Hữu Thỉnh cũng đẹp như thế, để lại nhiều ấn tượng và dư ba trong lòng người đọc. Bài thơ "Sang thu" chính là sự cảm nhận tinh tế của nhà thơ về một trong những mùa đẹp nhất trong năm.

Bài thơ được tác giả sáng tác năm 1977, khi ông tham gia trại viết văn quân đội. Mùa thu vốn là đề tài không mới trong thi ca: ta từng bắt gặp mùa thu trong "Thu ẩm", "Thu điếu", "Thu vịnh" trong thơ cụ Nguyễn Khuyến, trong "Đây mùa thu tới" của Xuân Diệu:

"Với áo mơ phai dệt lá vàng"

hay

"Những cành run rẩy rung rinh lá
Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh"

Ta cũng từng bắt gặp mùa thu buồn man mác trong sáng tác của Lưu Trọng Lư:

"Em không nghe mùa thu
Lá thu rơi xào xạc
Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô"

Tiếp nối vào mạch thi cảm đó, Hữu Thỉnh đưa ta đến một mùa thu đẹp tuyệt nhưng lại trong một khoảnh khắc rất đặc biệt khi trời vừa chớm sang thu. Khoảnh khắc ấy phải là một tâm hồn đầy tinh tế, nhạy cảm mới có thể nhận ra được. Mở đầu bài thơ, tác giả đem tới không khí của mùa thu qua những cảm nhận đầu tiên về hương vị đất trời:

"Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về"

Tác giả nhận ra mùa thu qua hương thơm rất đặc trưng của vùng quê đồng bằng Bắc Bộ. Hương ổi nồng nàn "phả" vào không gian – động từ "phả" khiến hương thơm như quyện thành luồng rất đậm đặc. Từ "bỗng" đặt ở đầu câu thơ làm nổi bật sự bất ngờ của tác giả khi nhận ra hương vị đầu tiên của mùa thu đất trời. Làn gió heo may mang theo hương ổi, đưa hương thơm ấy đi khắp mọi nơi khiến tâm hồn tác giả ngây ngất. Trong hương thơm đó, sương hiện lên qua từ láy gợi hình "chùng chình" khiến làn sương như trở thành một người còn đang lưỡng lự, chậm chạp len lỏi khắp mọi con ngõ. Sương giăng mắc trên những ngọn cây, sương lan ra trong từng con hẻm, tất cả hòa vào nhau tạo nên bức tranh phong cảnh làng quê Bắc Bộ vào thu trong một buổi chiều làm hiện lên vẻ đẹp thơ mộng đầy lãng mạn. Câu thơ cuối với nhịp 2/3 diễn tả sự phỏng đoán của tác giả.

Trong buổi chiều đó, tác giả như cảm nhận mùa thu đã thật sự lan tỏa khắp đất trời:

"Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu"

Dòng sông ăm ắp nước bắt đầu "dềnh dàng", những cánh chim bắt đầu "vội vã" tìm nơi cư trú trước khi mùa đông lạnh giá bắt đầu. Các từ "được lúc, bắt đầu" khiến các sự vật trở nên như một con người, bắt đầu một cuộc hành trình mới. Thu sang như mở ra một ô cửa đến với một thế giới mới, một sắc màu mới. Hình ảnh đám mây mùa hạ "vắt nửa mình sang thu" là hình ảnh đầy độc đáo và giàu giá trị biểu cảm. Trên bầu trời cao xanh của mùa thu hình như còn sót lại những đám mây của mùa hạ. Động từ "vắt" khiến hình ảnh đám mây trở nên thật uyển chuyển, mềm mại như đang chấp chới nửa muốn nửa không sang. Không muốn vì nuối tiếc của hạ, nhưng lại muốn sang để trải nghiệm một không khí mới. Đó phải chăng cũng chính là tâm hồn tác giả đang đứng giữa ranh giới của thu và hè để hòa vào khoảnh khắc giao mùa của đất trời hay chăng? Hai khổ thơ đầu tiên tác giả sử dụng các từ láy có mật độ rất cao, thể hiện được những cảm xúc tinh tế của tác giả về thời khắc thu sang.

Nếu như hai khổ trên tác giả tập trung miêu tả mùa thu của đất trời thì đến khổ cuối lại quay về khắc họa mùa thu của lòng người qua các câu thơ đầy tính triết lí:

"Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi"

Mùa hạ đã qua đi, những gì của mùa hạ đều đang giảm dần đi. Nắng vẫn vàng ươm nhưng mưa đã vơi bớt và những cơn sấm cũng bớt bất ngờ để không làm kinh động đến hàng cây đứng tuổi. Thế nhưng chính hình ảnh "hàng cây đứng tuổi" lại gợi cho ta nhiều suy ngẫm. Phải chăng, nó là hình ảnh của con người khi đã trưởng thành, đã đi đến cái dốc bên kia của đời người còn "sấm" là hình ảnh tượng trưng để chỉ những vang động, va đập của cuộc sống? Từ đó nhà thơ mang đến cho ta suy ngẫm sâu sắc: Khi con người ta đã đủ trưởng thành, đủ kinh nghiệm thì những vang động và thử thách của cuộc sống sẽ không còn khiến họ thấy nản lòng mà ngược lại lại luôn giữ một thái độ bình tĩnh đến không ngờ.

Bài thơ mang lại cho ta cảm nhận về khoảnh khắc sang thu đầy ấn tượng mà chỉ có một tâm hồn tinh tế, nhạy cảm mới có thể cảm nhận được, không những thế, nhà thơ còn đem đến cho ta triết lí sâu sắc về mùa thu của đời người, của con người. Chính vì vậy mà "Sang thu" cho đến nay vẫn là một trong những bài thơ thu hay nhất trong nền văn học Việt Nam.

Cảm nhận bài thơ Sang thu - mẫu 9

Trong bốn mùa của thiên nhiên, đất trời thì ai cũng công nhận rằng mùa xuân là mùa đẹp nhất với vẻ tươi mới và sức sống tràn trề, đã trở thành nguồn cảm hứng lớn cho thi ca, nhạc họa. Nhưng mùa thu cũng có vẻ đẹp riêng tạo nên nguồn cảm hứng cho những nghệ sĩ tào hoa. Trước đây, Nguyễn Khuyến có ba bài thơ thu, nức danh nhất là “Thu điếu” “Thu ẩm” “Thu vịnh”, Tản Đà có “Cảm thu- Tiễn thu” , sau này, Lưu Trọng Lư có bài “Tiếng thu” và Xuân Diệu có “Đây mùa thu tới” . Nhưng nói về thời điểm giao mùa thì có lẽ “Sang thu” của nhà thơ Hữu Thỉnh là nổi bật hơn cả.

Bài thơ Sang thu được sáng tác năm 1977, thể hiện những cảm nhận tinh tế của tác giả trước những biến chuyển của thiên nhiên, sức sống của tạo vật trong những khoảnh khắc giao mùa.

Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về

Mở đầu bài thơ là từ “bỗng” thể hiện sự bất ngờ, đột ngột, một sự cảm nhận từ khứu giác, đánh thức tâm hồn, gợi lên một tứ thơ rất “hương ổi”. Hương vị đặc trưng của mùa thu bất chợt làm nhà thơ xao lòng, không phải là hương thơm của một loài hoa mà là mùa ổi chín, nghe mới mộc mạc, dân dã làm sao! Hương ooitr hay chính là hương vị nồng nàn của quê hương gợi nhớ gợi thương cho những kẻ nặng tình với quê hương yêu dấu. hương ổi không chỉ lan tỏa mà còn vận động rất mạnh trong không gian, phả vào trong gió se. Mùa thu miền bắc đã bắt đầu chớm lạnh, vì gió thu “se” lành lạnh nên hương ổi mới thêm nồng nàn mà phả vào đất trời và hồn người. Từ láy gợi hình “chùng chình” được nhân hóa khiến nó mang dáng vẻ thon thả, nhẹ nhàng như thiếu nữ đôi mươi. Và câu thơ “hình như thu đã về” đã kết lại dòng cảm xúc bất ngờ đột ngột của nhà thơ. Tất cả tín hiệu trên rồi cũng đi đến nghi vấn “Thu đã về?”, ngỡ ngàng và thảng thốt, thu đã đến với đất trời.

Hơi thở của thu đã rõ rệt hơn. Sự hiện diện của thu ko còn mơ hồ mà đã cụ thể, hữu hình trong thiên nhiên và tạo vật, Trong không gian rộng lớn hơn, từ bầu trời tới mặt đất, đâu đâu cũng thấy cảnh sắc nhuốm thu. Dòng sông chảy khoan thai, lững lờ, mà mềm mại và duyên dáng chứ ko ào ạt, cuộn dâng như trong hạ. Thế nhưng trái lại với vẻ chậm chạp của dòng sông, đàn chim trời lại đang vội vã, chuẩn bị cho một hành trình mới, khi thu sang, ngày ngắn, đêm dài và gió se đã thổi. Như vậy, mùa thu của tác giả không chỉ có bình yên, thư thả mà còn có cả sự vội vã, gấp gáp.

Không gian nghệ thuật của bức tranh “Sang thu” được mở ra ở chiều cao, độ rộng của bầu trời và chiều dài của dòng sông qua khổ tiếp theo:

Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu

Sự vận động của thời điểm giao mùa được cụ thể hóa bằng những sắc thái đổi thay của mọi vật. Đó là vẻ “dềnh dàng” của dòng sông đầy nước đang thong thả , ung dung trôi thật chậm sau những tháng ngày hè mệt mỏi vì phải chảy cuồn cuộn, ào ào. Đó là cái “bắt đầu vội vã” của những đàn chim di trú đang khẩn trương, sửa soạn đi tránh rét. Từ láy “vội vã” ở đây đối rất đẹp với từ “dềnh dàng. Bắt đầu vội vã thôi chứ chưa phải đang vội vã. Cho nên không khí chung vẫn thư thái, lắng đọng, chậm rãi. Vì thế , đám mây mùa hạ mới thảnh thơi, duyên dáng “vắt nửa mình sang thu”. Một tưởng tượng sáng tạo và độc đáo, đám mây như đang mang trên mình cả hai mùa.

Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi.

Nếu như hai khổ thơ trên đẹp về mặt tạo hình , rất tinh trong cảm nhận. Thì ở khổ thơ cuối này vẻ đẹp của thu được khẳng định bằng suy ngẫm, kinh nghiệm chứ không phải cảm nhận trực tiếp. vẫn là nắng, mưa , sấm, chớp như mùa hạ, nhưng ở cuối mùa , ở mức độ khác rồi. Nắng nhạt dần chứ không còn chói chang, gay gắt, mưa cũng ít di. Những từ “vẫn còn” “đã vơi dần” “cũng bớt bất ngờ” gợi tả rất hay các hiện tượng, sự việc đang dần đi vào thế ổn định của mùa thu. Bài thơ khép lại với hình ảnh “sấm” và “hàng cây đứng tuổi” vừa tả thực vừa mang ý nghĩa ẩn dụ, gợi ra những suy nghĩ thâm trầm. Mùa thu không những làm cho hàng cây như già dặn hơn, đứng tuổi hơn mà mùa thu càng làm cho hàng cây như vững vàng hơn trước những biến cố của thiên nhiên. Cây lá mùa thu vẫn nhuốm buồn vì lá dần ngả sang màu úa theo quy luật của thiên nhiên nhưng nó vẫn mang một dòng nhựa rạo rực, tràn trề sức sống. Khi thu đến, nó đã chuẩn bị cho nhiệm vụ mới của mình. Hình ảnh hàng cây đứng tuổi và ấm đã gợi lên một ý nghĩa sâu xa hơn, đó là hình ảnh con người từng trải trước những tác động của ngoại cảnh, những biến cố bất thường của cuộc đời.

Tóm lại, Sang thu là một bài thơ hay. Tác giả không sa vào cách miêu tả ước lệ, khuôn sáo mà bằng những cảm nhận tinh tế qua những hình ảnh thơ tự nhiên mộc mạc mà mới lạ, những hình ảnh này được đặt trong sự vận động nhẹ nhàng mà không làm mất đi cái hồn của thiên nhiên là rất trong và rất tĩnh. Từ đó, ta thấy được thưởng thức một bức tranh thiên nhiên độc đáo giàu sức biểu cảm về thời điểm giao mùa và một tâm hồn giàu cảm xúc, giàu tình yêu thiên nhiên của Hữu Thỉnh.

Cảm nhận bài thơ Sang thu - mẫu 10

Hữu Thỉnh là nhà thơ trưởng thành từ trong quân đội. “Sang thu” là một thi phẩm đặc sắc của ông. Với con mắt nghệ sĩ, tâm hồn nhạy cảm và ngòi bút tài hoa, Hữu Thỉnh đã có những cảm nhận mới mẻ trước sự biến chuyển của thiên nhiên đất trời lúc cuối hạ sang đầu thu. “Sang thu” ở đây là chớm thu, là lúc thiên nhiên giao mùa. Mùa hè vẫn chưa hết và mùa thu tới có những tín hiệu đầu tiên. Trước những sự thay đổi tinh vi ấy, phải nhạy cảm lắm mới cảm nhận được.

Với Hữu Thỉnh mùa thu bắt đầu thật giản dị:

Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se

Nếu trong “Đây mùa thu tới” cảm nhận thu sang của Xuân Diệu là rặng liễu thu buồn ven hồ “Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang – Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng” thì Hữu Thỉnh lại cảm nhận về một mùi hương quen thuộc phảng phất trong “gió se” – thứ gió khô và se se lạnh, đặc trưng của mùa thu về ở miền Bắc. Đó là “hương ổi” – mùi hương riêng của dân tộc, mùi hương riêng của mùa thu làng quê ở vùng đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam. Cái hương vị ngọt ngào, đằm thắm của mùa thu, nhà thơ “Bỗng nhận ra” – một trạng thái chưa hề chuẩn bị, như là vô tình, như là sửng sốt. Một sự bất ngờ mà như đã đợi sẵn, đợi từ lâu rồi để giờ đây có dịp là buông ra ngay. Một tiếng kêu vang thích thú, một khoảnh khắc nhanh chóng qua đi mà để lại biết bao cảm xúc. Kìa! Mùa hạ sắp qua, hình như mùa thu đến.

Mùi hương ấy không hòa quyện vào mà “phả” vào trong gió. “Phả” nghĩa là bốc mạnh và tỏa ra từng luồng. Hữu Thỉnh đã không tả mà chỉ gợi, đem đến cho người đọc một sự liên tưởng thú vị: tại vườn tược quê nhà, những quả ổi chín vàng trên các cành cây kẽ lá tỏa ra hương thơm nức, thoang thoảng trong gió. Chỉ một chữ “phả” thôi cũng đủ gợi hương thơm như sánh lại. Sánh lại bởi hương đậm một phần, sánh bởi tại gió se.

Nhận ra trong gió có hương ổi là cảm nhận tinh tế của một người sống giữa đồng quê và nhà thơ đã đem đến cho ta một tín hiệu mùa thu dân dã mà thi vị. Tác giả đã phát hiện ra một nét đẹp đáng yêu của mùa thu vàng nông thôn vùng đồng bằng Bắc Bộ. Nhiều người đã biết: Thạch Lam, Vũ Bằng, Nguyễn Tuân, Nguyễn Đình Thi… đã viết thật hay về hương cốm làng Vòng Hà Nội – một vẻ đẹp về hương vị mùa thu của quê hương đất nước. Với Hữu Thỉnh trong “Sang thu”, “hương ổi” là một tứ thơ mới đậm đà màu sắc dân dã. Hương ổi ấy, cơn gió đầu mùa se lạnh ấy là sứ giả của mùa thu (cũng như chim én là sứ giả của mùa xuân). Nó đến rất khẽ khàng, “khẽ” đến mức chỉ một chút vô tình thôi là không một ai hay biết.

Nếu hai câu đầu diễn tả cái cảm giác chưa hẳn đã tin thì đến hình ảnh “Sương chùng chình qua ngõ” lại càng lung linh huyền ảo. Không phải là màn sương dày đặc, mịt mù như trong câu ca dao quen thuộc miêu tả cảnh Hồ Tây lúc ban mai “Mịt mù khói tỏa ngàn sương”, hay như nhà thơ Quang Dũng đã viết trong bài thơ “Tây Tiến”: “Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi” mà là “Sương chùng chình qua ngõ” gợi ra những làn sương mỏng, mềm mại, giăng màn khắp đường thôn ngõ xóm làng quê. Nó làm cho khí thu mát mẻ và cảnh thu thơ mộng, huyền ảo, thong thả, bình yên. Nhà thơ đã nhân hóa màn sương qua từ “chùng chình” khiến cho sương thu chứa đầy tâm trạng. Nó như đang chờ đợi ai hay lưu luyến điều gì? Câu thơ lắng đọng tạo cảm giác mơ hồ đan xen nhiều cảm xúc.

Bằng tất cả các giác quan: khứu giác, xúc giác và thị giác, nhà thơ cảm nhận những nét đặc trưng của mùa thu đều hiện diện. Có “hương ổi”, “gió se” và “sương”. Mùa thu đã về trên quê hương. Vậy mà nhà thơ vẫn còn dè dặt: “Hình như thu đã về”. Sao lại là “Hình như” chứ không phải là “chắc chắn”? Một chút nghi hoặc, một chút bâng khuâng không thật rõ ràng. Đúng là một trạng thái cảm xúc của thời điểm chuyển giao. Thu đến nhẹ nhàng quá, mơ hồ quá.

Hóa ra bức tranh kia không phải cảm nhận bằng giác quan mà bằng cả tâm hồn nữa. Đó là tâm hồn nhạy cảm của một tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống. Khổ thơ mang cái man mác buồn, lắng đọng ngọt ngào thi vị của mùa thu. Từ đây cũng cho ta thấy con người của thi ca đến với thiên nhiên bằng sự khám phá đường nét nhỏ nhất, tinh xảo nhất của vũ trụ bao la. Đó cũng chính là cái hay tạo nên sự khác biệt cho mùa thu mà ngay ở bốn câu thơ đầu ta đã thấy tiếp tục lan tỏa, mở ra trong cái nhìn xa hơn, rộng hơn.

Sau giây phút ngỡ ngàng và khe khẽ vui mừng, cảm xúc của thi sĩ tiếp tục lan tỏa, mở ra trong cái nhìn xa hơn, rộng hơn:

Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu

Cái nhìn tinh tế của Hữu Thỉnh đã phát hiện ra bao điều mới lạ từ những sự vật đã quá quen thuộc với trời đất với con người. Tất cả đều trong trạng thái ngập ngừng:

Dòng sông - nước sông vẫn đầy chứ không cạn như mùa đông, mùa xuân, dòng nước trôi lững lờ, khoan thai chứ không cuồn cuộn cuốn đi như cơn lũ mùa hạ. Sông như được lúc nghỉ ngơi “dềnh dàng”. Cảm nhận về một dòng sông êm đềm, mềm mại, thiết tha rất hợp với vẻ đẹp dịu êm của mùa thu.

Chim - thu sang, khí trời se se lạnh, trên bầu trời trong xanh, cao rộng, những cánh chim vội vã bay đi tìm nơi trú ngụ nhưng mới chỉ là “bắt đầu” mà thôi. Điều này càng cho thấy thời gian thu mới chớm, mới sang. Không gian trở nên xôn xao, không có âm thanh nhưng câu thơ lại gợi được cái động.

Cánh chim trong “Tràng giang” của Huy Cận cô đơn, mong manh như đang sa xuống mặt đất cùng áng chiều “Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa”. Còn trong “Sang thu” của Hữu Thỉnh, bầu trời cũng như nhỏ lại, ấm áp hơn theo nhịp vận động “vội vàng” của cánh chim. Hai câu thơ đối nhau rất nhịp nhàng, dựng lên hai hình ảnh đối lập, ngược chiều nhau: sông dưới mặt đất, chim trên bầu trời, sông “dềnh dàng” chậm rãi, chim “vội vã” lo lắng. Đó là sự khác biệt của vạn vật trên cao và dưới thấp trong khoảnh khắc giao mùa.

Trong khi đó, đám mây - thật đặc biệt, đám mây mang trên mình cả hai mùa:

Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu.

Trong thơ ca Việt Nam, không ít những vần thơ nói về đám mây trên bầu trời thu: “Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt” (Nguyễn Khuyến – “Thu điếu”), “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc” (Huy Cận – “Tràng giang”). Nhưng đám mây trong thơ Hữu Thỉnh rất đặc biệt, tác giả dùng động từ “vắt” để gợi ra trong thời điểm giao mùa, đám mây như kéo dài ra, nhẹ trôi như tấm lụa mềm treo lơ lửng giữa bầu trời trong xanh, cao rộng.

Hình như đám mây đó vẫn còn lại một vài tia nắng ấm của mùa hạ nên mới “Vắt nửa mình sang thu”. Đám mây vắt lên cái ranh giới mỏng manh và ngày càng bé dần, bé dần đi rồi đến một lúc nào đó không còn nữa để toàn bộ sự sống, để cả đám mây mùa hạ hoàn toàn nhuốm màu sắc thu. Nhưng trong thực tế, không hề có đám mây nào như thế vì mắt thường đâu dễ nhìn thấy được sự phân chia rạch ròi của đám mây mùa hạ và thu. Đó chỉ là một sự liên tưởng thú vị - một hình ảnh đầy chất thơ. Thời khắc giao mùa được sáng tạo từ một hồn thơ tinh tế, nhạy cảm, độc đáo không những mang đến cho đọc giả mà còn đọng lại những nỗi bâng khuâng trước vẻ dịu dàng êm mát của mùa thu. Có lẽ đây là hai câu thơ hay nhất trong sự tìm tòi khám phá của Hữu Thỉnh trong khoảnh khắc giao mùa. Nó giống như một bức tranh thu vĩnh hằng tạc bằng ngôn ngữ.

Dòng sông, cánh chim, đám mây đều được nhân hóa khiến cho bức tranh thu trở nên hữu tình, chứa chan thi vị. Cả ba hình ảnh trên là tín hiệu của mùa thu sang còn vương lại một chút gì của cuối hạ. Nhà thơ đã mở rộng tầm quan sát lên chiều cao (chim), chiều rộng (mây) và chiều dài (dòng sông). Phải chăng có sợi tơ duyên đồng cảm giữa con người với thiên nhiên đang vào thu. Qua cách cảm nhận ấy, ta thấy Hữu Thỉnh có một hồn thơ nhạy cảm, yêu thiên nhiên tha thiết, một trí tưởng tượng bay bổng.

Sau những sự vật hiện tượng khi chớm thu, nhà thơ chú ý đến những yếu tố thời tiết:

Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi.

Trong cảm nhận này, nhà thơ luôn có sự liên tưởng so sánh với mùa hạ nhằm tạo nên ấn tượng rõ nét.

Nắng – mưa: nắng, mưa vốn là hiện tượng của thiên nhiên vận hành theo quy luật riêng của nó. Hữu Thỉnh đã nhìn ra từ cái mưa, nắng hàng ngày một sự hụt hơi – dấu hiệu của sự chuyển mùa từ hạ sang thu. Nắng lắm mưa nhiều là đặc điểm của mùa hạ. Nắng vẫn còn vàng tươi nhưng nắng thu trong và dịu hơn cái nắng chói chang, gay gắt của mùa hạ. Mưa cũng vẫn còn nhưng đã vơi nhiều so với những cơn mưa bong bóng kéo dài của mùa hạ. “Vơi dần” không chỉ là ít mưa đi mà còn là mưa ít nước đi. Đây cũng là dấu hiệu của sự chuyển mùa. Hai chữ “bao nhiêu” thường hướng về một cái gì đong đếm được nhưng sắc nắng làm sao có thể cân đo? Cũng như “vơi”, dù biết vơi bớt nhưng vơi bớt đến mức nào thì ai có khả năng xác định? Tất cả chỉ là ước lượng mà thôi, không có gì là chừng mực cố định cả. Cách nói mơ hồ của nghệ thuật khắc hẳn với khoa học chính là ở chỗ này. Phải chú ý, phải để lòng mình bắt nhịp với thiên nhiên mới cảm nhận thấy điều đó.

Sấm – hàng cây: cuối hạ - đầu thu, khi đã vơi đi những cơn mưa xối xả thì sấm cũng bớt bất ngờ và dữ dội. Nó không còn đột ngột, đùng đoàng rền vang cùng với những tia sáng chớp lòe như xé rách bầu trời trong những trận mưa bão tháng 6 tháng 7. “Hàng cây đứng tuổi” phải chẳng là hàng cây đã đi qua bao cuộc chuyển mùa nên không biết chính xác là bao nhiêu nhưng chắc cũng đủ trải nghiệm để có thể điềm nhiên đứng trước những biến động. Cảnh vật, thời tiết thay đổi. Tất cả vẫn còn nhiều dấu hiệu của mùa hè nhưng giảm dần mức độ, cường độ, để rồi lặng lẽ vào thu qua con mắt quan sát và cảm nhận tinh tế của tác giả.

Hai câu kết của bài thơ không chỉ mang nghĩa tả thực, mà còn mang ý nghĩa ẩn dụ, gợi những suy nghĩ cho người đọc người nghe:

Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi

“Sấm” là những vang động bất thường của ngoại cảnh, cuộc đời. “Hàng cây đứng tuổi” chỉ những con người đứng tuổi từng trải. Giọng thơ trầm hẳn xuống, câu thơ không đơn thuần chỉ là giọng kể, là sự cảm nhận mà còn là sự suy nghĩ, chiêm nghiệm về đời người. Nhìn cảnh vật biến chuyển khi thu mới bắt đầu, Hữu Thỉnh nghĩ đến cuộc đời khi đã “đứng tuổi”. Phải chăng, mùa thu đời người là sự khép lại của những tháng ngày sôi nổi với những bất thường của tuổi trẻ và mở ra một mùa thu mới, một không gian mới, yên tĩnh, trầm lắng, bình tâm, chín chắn…trước những chấn động của cuộc đời.

Vậy là “Sang thu” đâu chỉ là sự chuyển giao của đất trời mà còn là sự chuyển giao cuộc đời mỗi con người. Hữu Thỉnh rất đỗi tinh tế, nhạy bén trong cảm nhận và liên tưởng. Chính vì vậy những vần thơ của ông có sức lay động lòng người mãnh liệt hơn.

Bằng hình ảnh thơ tự nhiên, không trau chuốt mà giàu sức gợi cảm. Cùng thể thơ năm chữ, Hữu Thỉnh đã thể hiện một cách đặc sắc những cảm nhận tinh tế để tạo ra một bức tranh chuyển giao từ cuối hạ sang thu nhẹ nhàng, êm dịu, trong sáng nên thơ… ở vùng đồng bằng Bắc Bộ của đất nước. Bài thơ của Hữu Thỉnh đánh thức tình cảm của mỗi người về tình yêu quê hương đất nước và suy ngẫm về cuộc đời.

Cảm nhận bài thơ Sang thu - mẫu 11

Từ xưa đến nay, vẻ đẹp thiên nhiên bốn mùa luôn là những đề tài thân thuộc trong thơ ca. Khung cảnh thiên nhiên bốn mùa luôn là nguồn cảm hứng vô tận của các nhà văn, nhà thơ. Trong đó vẻ đẹp thuần khiết, bình dị của mùa thu đã được khắc họa một cách rõ nét và thành công qua bài “Sang thu” của Hữu Thỉnh. Dưới ngòi bút và cảm nhận của nhà thơ, bạn đọc cảm nhận được vẻ đẹp e ấp của thiên nhiên lúc giao mùa hạ - thu.

“Sang thu ” được Hữu Thỉnh sáng tác năm 1977 ngay khi đất nước được giải phóng, bắt đầu bắt tay vào thời kì xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. ‘Sang thu” ở đây là chớm thu, khi thiên nhiên bắt đầu chuyển giao giữa mùa hạ và thu. Mặc dù cái nắng nóng của mùa hạ chưa hết nhưng cái không khí nhẹ nhàng của mùa thu đã bắt đầu lan toả. Có lẽ chỉ có ai có tình yêu thiên nhiên, có sự cảm nhận tinh tế, nhạy cảm nhất mới có thể cảm nhận thời khắc giao mùa tuyệt vời này.

Bài thơ mở đầu bằng những cảm nhận, những rung động mập mờ, bâng khuâng của tác giả trước vẻ đẹp chuyển đổi của thời khắc thiên nhiên lúc chuyển giao mùa. Mùa thu trong cảm nhận của Hữu Thỉnh không phải là sắc “mơ phai” hay hình ảnh “con nai vàng ngơ ngác” mà là “hương ổi” thân quen nơi vườn mẹ được “gió se” đánh thức, một mùi hương đặc trưng của mùa thu làng quê Bắc Bộ Việt Nam. Tất cả hòa quyện lại với nhau gợi dậy những cảm xúc của tác giả. Mùa thu dần xuất hiện qua sự quan sát bằng các giác quan tình thế của nhà thơ.

“Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se.”

Câu thơ cho ta cảm nhận được hương vị ấm nồng của chớm thu của một trên miền quê nhỏ. Một chút tín hiệu đầu để tác giả nhận ra “hương ổi” chính là tín hiệu báo đầu của mùa thu, là sự hoán đổi giữa hai mùa. Mùi hương quê nhà mộc mạc, bình dị, bất chợt “phả” trong gió, thoảng bay trong không gian. Cảm giác bất ngờ chợt đến để nhà thơ “bỗng nhận ra” thu đã đến rồi – một sự chờ đợi sẵn từ lâu đến hoàn toàn tự nhiên. Câu thơ không chỉ đơn thuần là tả mà còn khiến người đọc cảm nhận vẻ đẹp mùa thu bằng tất cả các giác quan: liên tưởng đến màu vàng ươm, hương thơm lựng, vị ngọt, giòn, chua chua nơi đầu lưỡi của trái ổi quê nhà. Một nét bút chấm phá đơn giản nhưng đầy nét gợi hình, gợi tả một cách giản dị, mộc mạc nhưng vẫn làm nên nét riêng hoàn toàn đặc sắc trong của mùa thu của trong thơ Hữu Thỉnh. Hương ổi trong gió đầu mùa se lạnh chính là sứ giả của mùa thu, nó đến khẽ khàng, “khẽ” đến mức nếu ai vô tình sẽ không thể nhận ra được. Có thể nói, Hữu Thỉnh đã có một phát hiện về khúc giao mùa thật tinh tế và đặc biệt, phát hiện của ông đã tạo nên một hồn thơ xứ sở đầy nét đặc trưng, thi vị.

Bên cạnh hương ổi nhàn nhạt nhẹ nhàng khúc giao mùa, cả sương thu như cũng chứa đầy tâm trạng, sương nhẹ nhàng, chùng chình giăng mắc trên khắp nẻo đường thôn:

“Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về.”

Dưới ngòi bút tuyệt vời và tài cảm nhận đặc biệt của Hữu Thỉnh, sương dường như hóa thành một người lữ hành trên đường đã được nhân hoá qua hai chữ “chùng chình” không muốn bước, nói lên rất thơ bước đi chầm chậm lúc, dường như còn bỡ ngỡ trước khoảnh khắc giao mùa sang thu. Nếu ở câu thơ đầu tiên nhà thơ “bỗng nhận ra” thu về trong sự đột ngột và bất ngờ thì sau khi cảm nhận được hơi lạnh của sương thu, gió thu, người thi sĩ vẫn ngỡ ngàng thốt lên tiếng lòng tự hỏi: “Hình như thu đã về”? Tâm hồn của Hữu Thỉnh hoàn toàn có thể nắm bắt những chuyển biến nhẹ nhàng, mong manh của tạo vật trong phút giao mùa. Bằng chính tài quan sát của mình, Hữu Thỉnh đã khắc hoạ thành công những bước đi nhỏ bé nhẹ nhàng, mong manh nhỏ nhẹ của mùa thu. Thu đến nhẹ nhàng quá, mơ hồ nhưng khiến ta cảm nhận được tâm hồn nhạy cảm của một hồn thơ mang nặng tình yêu với thiên nhiên và cuộc sống.

Sau phút giao mùa nhẹ nhàng, những dấu hiệu bắt đầu mùa thu đã trở nên rõ ràng hơn, nhanh hơn. Tác giả cảm nhận mùa thu bằng cả tâm hồn của mình

“Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu.”

Từ “hương ổi”, “gió se”, “sương”, thiên nhiên trong giây phút giao mùa đã được cụ thể bằng những hình ảnh rõ ràng: “sông dềnh dàng”, “chim vội vã”, mây “vắt nửa mình sang thu”. Cảm xúc của tác giả lan tỏa trong không gian rộng hơn, nhiều cung bậc cảm xúc hơn. Từ không gian nhỏ bé như con ngõ nhỏ đã lan tỏa ra tới bầu trời, một không gian bao la rộng lớn không gì có thể đo đếm được. Bằng nghệ thuật nhân hoá, tác giả đã tạo dựng nên linh hồn cho cảnh vật. Dòng sông êm đềm, nhẹ nhàng trôi sau những cơn mưa mùa hạ như trút nước. Giờ đây, nó lại “dềnh dàng”, chậm chạp, khoan thai chảy trong không gian bức tranh tuyệt đẹp của mùa thu. Sông giống như tâm trạng của con người, dường như đang sống “chậm” lại, ngẫm nghĩ, chiêm nghiệm về cuộc đời.

Trái ngược với “dềnh dàng” của dòng sông, những cánh chim di trú lại bắt đầu ‘vội vã” đầy lo lắng trước khoảnh khắc giao mùa. Với nghệ thuật tương phản đặc sắc, Hữu Thỉnh đã gợi lên bức tranh thu đầy sinh động: nhẹ nhàng, lãng mạn nhưng không kém phần hối hả, vội vã. Thông qua bức tranh ấy, ông muốn gợi lên sự chuyển mình của đất nước ta. Một đất nước vừa trải qua mưa bom lửa đạn, giành được độc lập và đang bắt đầu xây dựng đất nước trong không khí vui tươi, rộn ràng.

Với động từ “vắt”, bầu trời lúc giao mùa bỗng trong cảm nhận của thi sĩ trở nên đặc biệt hơn:

“Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu.”

Đám mây bé nhỏ dường như trải dài hơn, trôi lững lờ trong bầu trời xanh ngắt, cao rộng. Dường như nó vẫn còn vương vấn ánh nắng ấm áp của mùa hạ nên chỉ “vắt nửa mình sang thu”. Nó đã tạo nên một lằn ranh giới mỏng manh, hư ảo. Có lẽ, thực tế sẽ không thể nào có áng mây bé nhỏ nào như thế. Đó chỉ là sự liên tưởng đầy thú vị của thi sĩ. Tất cả góp phần tạo nên một thời khắc giao mùa đầy chất thơ, tinh tế và nhạy cảm, độc đáo nhưng bâng khuâng trong không gian êm dịu của mùa thu. Dòng sông, đám mây, cánh chim đều được nhân hoá rõ nét khiến cho bức tranh thu hữu tình của Hữu Thỉnh trở nên thi vị hơn. Qua đó, ta cảm nhận được một tâm hồn nhạy cảm, yêu thiên nhiên tha thiết và trí tưởng tượng bay bổng độc đáo của nhà thơ.

Hai khổ thơ đầu là những tín hiệu và hình ảnh lúc chớm thu. Khổ thơ cuối chính là lúc tác giả chiêm niệm về cuộc sống con người, chiêm niệm về cuộc đời.

“Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi.”

“Nắng – mưa” hai hiện tượng thiên nhiên hay đến rồi đi bất chợt của mùa hạ. Giờ đây chỉ còn “bao nhiêu nắng” và đã “vơi dần cơn mưa” – một dấu hiệu chuyển mình nhẹ nhàng sang thu. Nắng vẫn còn đó nhưng đã nhẹ nhàng hơn, không còn gay gắt mà mang sự dịu nhẹ của mùa thu. Mưa ít đi, với dần và nhẹ nhàng hơn, không còn dồn dập và mạnh mẽ như khi vào hạ. Hai chữ “bao nhiêu” thường chỉ sự đong đếm, thế nhưng nắng sao có thể đong? Mưa đã “vơi” nhưng có ai biết là đã ít đi như thế nào? Cách nói đầy mơ hồ nhưng lại thể hiện rõ sự hoà nhịp đầy sâu lắng của tác giả với thiên nhiên. Chỉ có thể hòa mình vào thiên nhiên, cảm nhận thiên nhiên bằng tâm hồn tinh tế và đồng điệu mới có thể nhận ra được điều đó.

Với cách sử dụng ẩn dụ đầy nghệ thuật, hai câu thơ cuối đã xây dựng nên hình ảnh “sấm” và “hàng cây” thật đặc sắc.

“Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi.”

Cuối hạ - đầu thu. “Sấm” lúc này không còn kêu vang rộn rã như khi vào hạ mà đã bắt đầu giảm dần mức độ xuất hiện của mình qua sự quan sát của tác giả. Giọng thơ bắt đầu trầm lắng, hình ảnh “hàng cây đứng tuổi” đứng lặng im suy ngẫm, chiêm nghiệm cuộc đời để lại bao suy nghĩ trong lòng người đọc. Hàng cây ấy như đang suy nghĩ về cuộc đời, về những chuyển biến của thời đại. Có phải chăng, mùa thu của Hữu Thỉnh không còn là mùa thu nhẹ nhàng, êm dịu. Đây còn là mùa thu của đời người, mùa thu của sự khép lại những tháng ngày sôi nổi của tuổi trẻ. Từ đó mở ra một mùa thu mới, mùa thu yên tĩnh, trầm lắng trước biến động của đất nước và cuộc đời con người.

Nhìn chung cả bài thơ đều là hình ảnh thơ giản dị, không trau chuốt mà giàu sức gợi cảm. Hữu Thỉnh đã thành công miêu tả bức tranh thiên nhiên lúc giao mùa tuyệt đẹp của đất nước. Qua đó thể hiện tinh tế tình yêu quê hương đất nước của ông. “Sang thu” là bức tranh mộc mạc về miền quê Bắc Bộ: nhẹ nhàng, êm dịu, trong sang và nên thơ. Thông qua bài thơ, tác giả thể hiện những triết lý về cuộc đời qua những gì giản đơn, nhỏ bé của cuộc sống. Tất cả tạo nên đặc sắc cho bức tranh giao mùa hiếm có của thiên nhiên Việt Nam. Qua đó giúp người đọc có những cảm xúc đong đầy, tự hào và thêm thương yêu Tổ quốc.

Cảm nhận bài thơ Sang thu - mẫu 12

“Thơ là thu của lòng người, thu là thơ của đất trời.” Mùa thu từ bao lâu nay đã trở thành suối nguồn vô tận, khơi nguồn cảm hứng cho thi ca nhạc họa. Những cảnh đẹp thiên nhiên tươi sáng, trời thu trong xanh, khí thu dịu mát, cảnh thu trong sáng đã làm mê luyến trái tim bao thi sĩ. Nhỏ nhẹ và khiêm nhường Hữu Thỉnh góp vào cho bản hòa ca của đất trời một góc thiên nhiên “Sang thu” để cùng tôn vinh những mùa trái, mùa hương của đất trời, xứ sở.

Mở đầu bài thơ, trước hết nhà thơ Hữu Thỉnh đã gửi đến người đọc cảm nhận tinh tế của mình trước mùa thu trong không gian làng quê:

“Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về.”

Trong không gian quen thuộc của làng quê Bắc Bộ, nhà thơ bỗng tinh tế nhận ra mùi hương ổi chín. Đó là mùi vị ngọt ngào, nồng nàn thanh mát của quê hương, của những tâm hồn đã chắt chiu vun trồng nên hương ổi. Đó là hương vị quen thuộc, bình dị gợi nhắc đến mùa thu quê hương. Không phải là lá ngô đồng như trong thơ của Bích Khê, cũng không phải là hương cốm trong bài Đất Nước của Nguyễn Đình Thi, bằng cảm nhận và tình yêu quê tha thiết, hương ổi đã phả vào tâm hồn nhà thơ, đánh thức những cảm nhận riêng để ngỡ ngàng nhận ra mùa thu đã đặt chân xuống trần gian tuyệt diệu. Nhưng hương ổi mạnh mẽ, ngọt ngào phả vào trong gió se, càng làm quyện đọng vị ngọt và sánh mịn của hương ổi. Nhưng Hữu Thỉnh cũng cho ta những cảm nhận về đám mây khi thu chớm sang: “Sương chùng chình qua ngõ.”

Từ “chùng chình” diễn tả vẻ đẹp mộng mơ, duyên dáng và yêu kiều như nàng thiếu nữ đang e ấp duyên dáng bao quanh xóm làng. Cảnh vật không gian làng quê ngập chìm trong màn sương khói mờ ảo, giăng mắc như làm thiên nhiên thêm huyền ảo, lung linh hơn. Và trước hương ổi trong gió se, trước đám mây chùng chình kia, thi nhân của chúng ta ngỡ ngàng “Hình như thu đã về”. Từ “hình như” diễn tả tâm trạng bâng khuâng, man mác của nhà thơ, cũng như vẻ ngờ ngợ không dám tin rằng thu đã về đấy rồi. Đó là sự luyến tiếc của âm hồn thi nhân, vừa ngỡ ngàng với thu sang, vừa luyến tiếc khi hạ đã rời đi. Quả là một tâm hồn nhạy cảm, yêu thiên nhiên tha thiết.

Sang đến khổ thơ tiếp theo, là sự cảm nhận tinh tế của thiên nhiên mùa thu trong không gian đất trời. Sự tinh tế và tấm lòng khát khao giao cảm, muốn nắm bắt sự thay đổi của vạn vật đã được bộc lộ rõ:

“Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu.”

Dòng sông mùa thu không còn vẻ vội vàng, gấp gáp và chảy xiết như trong những ngày hạ, sông êm đềm, tĩnh lặng, yên ả uốn mình hiền hòa sau lũy tre xanh xanh của làng quê. Những cánh chim bắt đầu, cho thấy sự quan sát sát tinh tế của Hữu Thỉnh khi nhận ra sự chuyển dời của đàn chim tìm nơi trú ẩn cũng là dấu hiệu nhận thu sang. Và đám mây kia chính là điểm nhấn cho nền trời, cho bức tranh thiên nhiên quyến rũ, xinh tươi ấy. Đám mây vắt nửa mình, dường như cũng đang chứa đựng sự lưu luyến, bịn rịn. Đám mây giống như cây cầu nối liền giữa mùa hạ và mùa thu để ngân rung mãi lên một nhịp riêng của đất trời, nhịp giao thời, nhịp chuyển mùa. Thu sang trong bao nhiêu của thi ca muôn thuở, nay trở về trong những câu thơ của Hữu Thỉnh sao vẫn đắm đuối, si mê lòng người như thế. Vậy là mùa thu trong không gian làng quê được cảm nhận mới tinh tế và nên thơ làm sao. Chỉ có thể yêu thiên nhiên lắm, Hữu Thỉnh mới vẽ nên một bức tranh thật đẹp, thật duyên đến vậy.

Khổ thơ cuối là những chiêm nghiệm sâu sắc của nhà thơ về cuộc đời mỗi con người:

“Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi”.

Bằng những chiêm nghiệm sâu sắc về nhân sinh Hữu Thỉnh đã gửi đến chúng ta những thông điệp thật ý nghĩa. Hình ảnh “nắng, mưa, sấm” là biểu tượng cho những sóng gió, thăng trầm của cuộc đời mà con người đã trải qua, khi đã đi qua bao nhiêu nắng mưa, bao nhiêu giông tố, con người dường như cũng trở nên điềm đạm, bình tĩnh hơn trước những thử thách, chông gai của cuộc đời. Con người khi trưởng thành “hàng cây đứng tuổi” sẽ không còn những bồng bột, sôi nổi và sự liều lĩnh của tuổi trẻ mà sẽ lắng mình xuống để suy ngẫm và chiêm nghiệm, cũng sẽ không để những sóng gió cuộc đời quật ngã mỗi bước đi. Phải chăng đó cũng chính là thông điệp sâu sắc mà Hữu Thỉnh gửi gắm.

Với thể thơ năm chữ, cách ngắt nhịp linh hoạt, giọng điệu tự nhiên, nhẹ nhàng, ngôn ngữ hình ảnh trong sáng, tinh tế giàu sức gợi, sức biểu cảm, Hữu Thỉnh đã gửi đến người đọc một bức tranh thiên nhiên lúc sang thu thật sự đẹp, thật duyên, thật tinh tế của một tâm hồn yêu thiên nhiên, quê hương tha thiết. “Sang Thu” của Hữu Thỉnh đã góp vào bản hoà ca mùa thu của quê hương, đất nước một tiếng nói riêng, đầy thi vị, ám ảnh, xúc động.

Cảm nhận bài thơ Sang thu - mẫu 13

Theo Xuân Diệu, thu là dáng buồn liêu, là những luồng run rẩy rung rinh lá, đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh. Tiếng thu của Lưu Trọng Lư là một hình ảnh mùa thu đầy thơ mộng: Con nai vàng ngơ ngác, đạp trên lá vàng khô. Thu điếu của Nguyễn Khuyến là sự vắng lặng, yên ả của không gian, là cảnh đẹp nên thơ của nước hồ thu. Còn Hữu Thỉnh với bài thơ Sang thu, ông đã khắc họa bức tranh mùa thu tươi đẹp, bức tranh đang ở thời khắc giao mùa với một làn hương mới. Mùa thu trong bài thơ của Hữu Thỉnh không có dáng vẻ tĩnh mịch, hồn thơ không vương vấn những cảm xúc buồn như mùa thu ở trong thơ của Nguyễn Khuyến, Lưu Trọng Lư, Nguyễn Du hay Xuân Diệu… Sang thu là một bài thơ gợi tả thiên nhiên tươi đẹp. Đất trời đang chuyển mình từ cuối hạ sang thu. Mở đầu bài thơ là một phát hiện bất ngờ:

Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về.

Mùa thu đã xuất hiện ở một làng quê Việt Nam. Mùa thu với hương thơm mộc mạc nhưng đầy hương vị ấm nồng. Hương ổi phả trong gió nhẹ đã làm cho con người nhận ra ngay mùa thu đang đến. Động từ phả thể hiện một mùi hương nồng nàn, lan tỏa trong không gian, hòa quyện với làn gió nhẹ để tạo nên một cảm giác thật đáng yêu. Cảm giác ấy không phải trầm buồn, ướt lệ mà là một cảm giác vui tươi đến bất ngờ, mới mẻ. Mùa thu đã mang đến hương thơm và sương mờ ướt lạnh. Sương chùng chình đã tạo nên một phong cảnh đáng yêu. Chùng chình là sự kéo dài, chậm chạp như muốn chờ muốn đợi ai đây? Cảnh vật cứ dần như thế, mềm mại như thế và thu đến tự lúc nào không hay. Nhà thơ đã ngỡ ngàng trước cái đến bất chợt của mùa thu. Cảm giác bỡ ngỡ ban đầu đã tan biến và nhường chỗ cho sự rung cảm mãnh liệt trước mùa thu tươi sáng:

Sông bắt đầu dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Những đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu.

Ở khổ thơ thứ hai, dấu hiệu sang thu mang tính rõ nét hơn. Tác giả không cảm nhận bằng khứu giác mà cảm nhận trực tiếp bằng thị giác. Từ láy dềnh dàng diễn tả sự chậm chạp, thong thả của dòng nước sông mùa thu. Dấu hiệu mùa thu còn thể hiện ở cánh chim trời, chim vội vã bay vì trời mùa thu nhanh tối hơn mùa hạ, chim phải bay nhanh về tổ. Mùa thu với đất trời sáng trong, sống lặng lờ, thong thả chảy cùng với đàn chim đang tung cánh bay cao. Hình ảnh đám mây mùa hạ đang vật nửa mình sang thu là sự chuyển biến của đất trời. Dù sang thu nhưng dư âm mùa hạ vẫn còn. Một bóng mây vương lại như sự quyến luyến, ngập ngừng. Mùa thu với nắng nhẹ, dịu êm. Đất trời như thay áo mái nhưng vẫn có đâu đây làn nắng ấm mùa hè. Có lẽ đây là hình ảnh đẹp nhất thể hiện nét riêng của sự giao mùa từ hạ sang thu. Đám mây ở thời điểm này rất đẹp, nó như chiếc cầu nối giữa hai mùa. Tác giả sử dụng nghệ thuật nhân hóa để diễn tả sự chuyển giao của đất trời. Mây mùa hạ “vắt nửa mình sang thu” bởi còn chần chừ, lưu luyến. Dù sang thu nhưng vẫn còn vương vấn những hình ảnh của mây mùa hạ. Đây là sự biến chuyển nhẹ nhàng của trời đất phút giao mùa. Kết thúc bài thơ là hình ảnh thiên nhiên của mùa thu: Vẫn còn bao nhiêu nắng Đã vơi dần cơn mưa Sấm cũng bớt bất ngờ Trên hàng cây đứng tuổi. Phong cảnh mùa thu hiện ra thật rõ nét. Nắng mùa thu đang nồng đượm. Mưa mùa hạ vơi dần nên âm thanh của sấm cũng không còn làm cho con người ta giật mình, hốt hoảng. Mùa thu không những làm cho hàng cây như già dặn hơn, đứng tuổi hơn mà mùa thu càng làm cho hàng cây như vững vàng hơn trước những biến cố của thiên nhiên. Cây lá mùa thu vẫn nhuốm buồn vì lá dần ngả sang màu úa theo quy luật của thiên nhiên nhưng nó vẫn mang một dòng nhựa rạo rực, tràn trề sức sống. Khi thu đến, nó đã chuẩn bị cho nhiệm vụ mới của mình. Hình ảnh hàng cây đứng tuổi và ấm đã gợi lên một ý nghĩa sâu xa hơn, đó là hình ảnh con người từng trải trước những tác động của ngoại cảnh, những biến cố bất thường của cuộc đời.

Với bút pháp tả thực về thiên nhiên, cách sử dụng nghệ thuật ẩn dụ, bài thơ Sang thu của Hữu Thỉnh đã mang đến cho người đọc những cảm nhận mới về mùa thu, thấy được những chuyển biến nhẹ nhàng mà rõ rệt của đất trời từ hạ sang thu. Tác giả đã vẽ nên bức tranh mùa thu quê hương nồng đượm, ấm áp tình người, nó bình dị mà tươi tắn, sống động, nó tôn thêm vẻ đẹp của đất nước Việt Nam.

Cảm nhận bài thơ Sang thu - mẫu 14

Với tâm hồn nhạy cảm sâu sắc và tình yêu thiên nhiên tha thiết, Hữu Thỉnh trong bài thơ "Sang thu" đã nêu lên những cảm nhận tinh tế của mình về sự biến đổi của đất trời từ cuối hạ sang đầu thu.

Tâm hồn nhạy cảm của tác giả hòa quyện vài khoảnh khắc giao mùa, với một cảm giác mơn man khó tả:

Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về

Khoảnh khắc giao mùa đến với tác giả bằng nhiều giác quan: Khứu giác (hương ổi), xúc giác (gió se lạnh), thị giác (sương chùng chình). Mỗi giác quan man đến cho tác giả một cảm nhận riêng và mỗi giác quan là một dấu hiệu nhận biết sự chuyển mùa. Đầu thu, hương ổi lan tỏa đi khắp nơi hòa quyện vào làn gió se lạnh trở thành một mùi thơm đặc biệt, nồng nặc cả hai cánh mũi. Thứ hương thơm ấy cứ nhẹ trôi trong không gian, xoa dịu lòng người và bất ngờ đến với tác giả ("bỗng"). Những màn sương giăng mắc bắt đầu xuất hiện. "Chùng chình" là cố ý chậm lại, quyến luyến không muốn bước qua "ngõ" - ngưỡng cửa của thời gian. Hình ảnh "Sương chùng chình qua ngõ" vừa có tính tạo hình trong không gian vừa diễn tả sự chuyển mùa. Tất cả chỉ là những cảm nhận ban đầu của tác giả ("hình như"), không có một căn cứ xác thực cho "sang thu".

Mùa thu sần được hiện ra qua những kinh nghiệm của tác giả:

Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu

Bằng kinh nghiệm của mình tác giả nhận ra cái đặc trưng của mùa thu. Thu sang, sông không còn chảy gấp gáp, cuộc khúc nữa mà nhẹ nhàng trôi, êm ả như đang suy ngẫm. Ngược lại, những chú "chim bắt đầu vội vã" tìm nơi trú ẩn vì gió se lạnh đã đến. "Đám mây mùa hạ" "vắt nửa mình sang thu" gợi cho ta hình ảnh một cô gái thướt tha với chiếc khăn thể uốn lượn. Đặc biệt, tác giả đã sáng tạo nên hình ảnh "vắt nửa mình sang thu" vừa có tính tạo hình trong không gian vừa diễn tả sự chuyển mùa. Đám mây cứ nhẹ trôi và thời gian thì cũng trôi heo. Đến đây mùa thu đã hiện ra một cách rõ ràng, không thể nào phủ nhận được.

Mùa thu hiện ra, tác giả dang tay đón nhận cùng những suy ngẫm triết lí của mình.

Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi

Mùa thu sang, nắng giảm dần, không còn gắt, những cơn mưa giảm dần và sấm thì cũng vơi đi. Mọi thứ đến một cách nhẹ nhàng, êm dịu, không ồn ào gấp gáp. Hình ảnh "Sấm cũng bớt bất ngờ - Trên hàng cây đứng tuổi" có thể hiểu theo hai lớp nghĩa. Thứ nhất, những cây đã lớn không còn bất ngờ trước tiếng sấm. Thứ hai, những người từng trải thì không còn sợ hãi trước sóng gió cuộc đời nữa. Có phải chăng tác giả muốn gửi đến ta một triết lý của cuộc đời con người. Những người khi "sang thu" thì không còn sôi nổi như khi còn trẻ, nhưng họ đã từng trải, đã bước qua những thời khắc khó khăn nhất của cuộc đời thì không còn ngại sóng gió nữa.

Cảm nhận bài thơ Sang thu - mẫu 15

Mùa thu luôn có sức hấp dẫn lạ kỳ khiến bao những thi nhân phải xuyến xao, rung động. Không căng tràn nhựa sống, tươi mới như mùa xuân, cũng không mang cái lạnh tái tê khi đông về, mùa thu mà tạo hóa mang đến cho con người là sự dịu dàng, êm đềm và bình lặng. Cũng bởi thế mà khi vào thơ, thu luôn khiến cho con người chìm đắm trong những cảm xúc mác mác buồn, trong không gian mênh mang, huyền diệu của sương thu, khí thu và trời thu. Đọc "Sang thu" của Hữu Thỉnh ta lại càng thiết tha, say đắm với mùa thu nhiều hơn như thế.

"Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Hương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về"

Có lẽ đó là một sớm mai thức giấc, nhà thơ đang loanh quanh tận hưởng khí trời buổi tình mơ, thì đâu đó, hương ổi nhẹ nhàng pha chút ngọt ngào tràn về. Nhà thơ "bỗng" cảm thấy chút bất ngờ bởi sự thanh mát của hương ổi phá trong làn gió se. Không phải là lá vàng trong thơ Lưu Trọng Lư hay Nguyễn Khuyến, cũng không phải là hương cốm mới trong thơ của Nguyễn Đình Thi mà đó là vị ổi quê hương, một thức trái cây bình dị, giản đơn. Hương ổi "phả" vào trong làn gió se lạnh của buổi ban mai, cơn gió mang hương thơm ấy đi xa, đến phả vào tâm hồn người thi sĩ những rung động đầy yêu thương khiến tác giả có chút ngờ ngờ, vừa tiếc nuối hè qua lại vừa háo hức bất chợt khi thu đến.

"Sương chùng chình qua ngõ."

Khác với sương mai mùa hạ dày đặc, vội vã, nhộn nhịp, giăng ngập lối buổi sớm, sương thu đến với đất trời vô cùng bình thản, có chút gì đó còn ngại ngùng, chậm rãi, e ấp nhưng là cái e ấp đầy duyên dáng và yêu kiều khi đi quá mỗi ngõ nhà, ngách phố của con đường quê hương. Ta như cảm nhận được không gian trong làn sương mờ ảo đầy huyền diệu, vừa lung linh, vừa gợi cảm bởi cả hương và sắc của thu chớm tới.

"Hình như thu đã về"

Từ "hình như" được đặt ở đầu câu diễn tả chút gì đó vừa bối rối vừa ngỡ ngàng, vừa luyến tiếc lại vừa sung sướng của thi nhân khi nhận ra cảnh vật đang đổi thay cũng là lúc báo hiệu thu sang.

"Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu."

Thời gian trôi đi rồi mọi thứ sẽ đổi thay, thu sang cũng vậy, muôn vật cũng thấy đổi dù ít, dù nhiều. Sông như rộng hơn, sông chảy trôi "dềnh dàng", chậm chậm, có lẽ mùa thu về, sông được dịp để thư thái, tận hưởng vị dịu ngọt của khí thu. Sông chảy nhẹ nhàng ôm lấy làng quê sau lũy tre xanh, một khung cảnh thật yên bình và tuyệt diệu biết bao. Những cánh chim cũng ngừng thong dong mà bắt đầu vội vã hơn, nhắc nhở nhau nhanh chóng về phương Nam tránh rét trước khi đông về. Sông thì chầm chậm ưu tư, chim thì vội vàng nhanh chóng, mỗi vật lại có trạng thái, tâm thế riêng trước khoảnh khắc sang thu. Cái nhìn đầy tinh tế của tác giả được thể hiện qua hình ảnh "đám mây mùa hạ" đang "vắt nửa mình" để sang thu. Đám mây đầy quyến rũ ấy đã tạo nên một bầu trời thu đầy xinh đẹp. Hình ảnh nhân hoá tài tình tạo nên một sự thú vị và đặc biệt trong đám mây kia.

Đám mây là cầu nối của phút chuyển giao giữa hạ và thu. Phải chăng đám mây kia cũng còn quyến luyến mùa hạ nắng cháy rực rỡ nhưng cũng háo hức bước sang những ngày thu hiền diệu, an yên. Bức tranh thu qua ngòi bút tài năng và cách cảm nhận đầy tinh tế của Hữu Thỉnh thật duyên dáng, say đắm lòng người.

"Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi".

Thu về, nắng vẫn còn vương trên mái nhà, trên từng khóm tre và cả trong từng hơi thở của đất trời. Thu về, mưa giông ngày hạ dần vơi. Sấm chớp bất chợt cũng không còn đến bất ngờ. Không chỉ là hình ảnh tả thực, khổ thơ còn mang một thông điệp truyền tải đầy ý nghĩa về cuộc đời, về nhân sinh. "Mưa" ," sấm chớp" là những hình tượng thiên nhiên đến mà ta không thể nào biết trước hay ngăn trở nó được cũng như là những sóng gió, những giông tố của cuộc đời mà mỗi người đều phải đối mặt. "Hàng cây đứng tuổi" đại diện cho những con người trưởng thành, trải qua nhiều thách thức, sóng gió, nhiều chông gai, họ dần lĩnh hội được những kinh nghiệm cho mình

Bởi thế khi có phải đối mặt với những biến cố họ mạnh mẽ hơn, không còn quá sợ hãi mà bình thản đối mặt, chấp nhận. Thời gian đã tôi luyện cho con người những bản lĩnh, để vững vàng bước tới những con đường mới, chặng đường mới mà chẳng ngại gian khó, chẳng chùn bước sợ hãi.

Hữu Thỉnh đã đóng góp vào thơ ca dân tộc một bản nhạc mùa thu đầy xinh đẹp, hấp dẫn và gợi cảm. Sức thu hút của thi phẩm không chỉ đến từ ngôn từ, giống điệu mà còn đến từ trái tim của người viết gửi gắm vào tác phẩm.

Cảm nhận bài thơ Sang thu - mẫu 16

Nhà thơ Hữu Thỉnh được biết đến là một nhà thơ trưởng thành trong quân đội. Đến với bài thơ "Sang thu" của ông, bạn đọc bắt gặp một hồn thơ tinh tế, nhạy cảm, cảm nhận rõ nét những chuyển mình của thiên nhiên trong thời khắc giao mùa.

Mở đầu bài thơ, nhà thơ Hữu Thỉnh đã gợi ra mùi hương thơm quen thuộc của mùa thu, gợi ra cả một không gian đầy mùi hương thơm tinh tế, đặc trưng:

"Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về"

Mùi hương ổi chín, như một tín hiệu báo thu đã sắp sang. Tác giả sử dụng từ "bỗng" mở đầu bài thơ, như gợi ra một chút ngạc nhiên, một chút thích thú, một chút bất ngờ. Mùi hương quả chín đặc trưng của mùa thu đã báo hiệu thời gian vận hành đang sắp có sự thay đổi của mùa. Làn gió sẽ cũng là một nét riêng mà chỉ khi mùa thu sang mới có. Tác giả sử dùng hình ảnh thư "Sương chùng chình qua ngõ" vừa mang đến sự liên tưởng độc đáo, vừa mang đến sự cảm nhân tinh tế của tác giả. "Chùng chình" như nửa muốn ở lại, như nửa muốn đi, thái độ ngập ngừng không dứt khoát. Tác giả sử dụng từ tình thái "hình như" ở câu thơ cuối khổ, thể hiện sự cảm nhận rõ ràng của thị giác, khứu giác rồi, nhưng vẫn chưa dám khẳng định, cũng như chưa tin thu đã thực sự sang. Có thể sự khẳng định là chưa chắc chắn, nhưng dấu hiệu, tín hiệu của mùa thu đã về.

Khổ thơ thứ hai đã có sự mở rộng về không gian và sự vật:

"Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu"

Các sự vật của đất trời như đã tinh ý nhận ra sự thay đổi, nên cũng đã bắt đầu có sự chuyển biến. Hình ảnh dòng sông "dềnh dàng" như muốn chảy đi, mà như vẫn muốn níu kéo những ngày tháng hạ trước. Sự 'dềnh dàng" nửa muốn đi nửa muốn ở, như vẫn tiếc nuối những dòng chảy xiết của mùa hè đã qua. Hình ảnh những đàn chim "vội vã", đã bắt đầu lo lắng cho mùa đông. Và hình ảnh độc đáo nhất của bài thơ 'Có đám mây mùa hạ/vắt nửa mình sang thu" vừa mới lạ, vừa độc đáo. Hình ảnh ấy gợi cho người đọc sự liên tưởng, hình ảnh đám mây mùa hạ ấy như một dải lụa đào, đầy màu sắc, mềm mịn như tấm lụa của trời. Và nó cũng như một cây cầu mắc nối giữa hai mùa, nửa của của hạ nửa của mùa thu. Nhưng tất cả gợi mà một sự chuyển giao mùa tinh tế, mà phải ai thực sự tinh ý mới có thể cảm nhận được. Nhà thơ Hữu Thỉnh đã sử dụng biện pháp nghệ thuật nhân hóa "đám mây" như một con người có hành động chân thực và khéo léo.

Khổ thơ kết bài mở ra bài học chiêm nghiệm của tác giả:

"Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi"

Trong những khoảnh khắc chuyển giao mùa, thời tiết cũng đã có sự thay đổi. Nắng vẫn còn, nhưng cũng đã dịu hơn mùa hạ, những cơn mưa rào mùa hạ cũng đã qua đi, vơi đi dần. Hình ảnh "sấm cũng bớt bất ngờ/trên hàng cây đứng tuổi" không chỉ nói đến hiện thực mà còn nói đến chiêm nghiệm của tác giả trong cuộc đời. "Sấm' dùng để chỉ những khó khăn, thử thách trong cuộc đời mỗi con người. "Hàng cây đứng tuổi" để chỉ người từng trải, có kinh nghiệm. Nhà thơ đã rút ra một chiêm nghiệm: đó là, khi con người ta trưởng thành hơn, thì cũng sẽ vững vàng trước những bão tố, những khó khăn của cuộc đời.

Bài thơ được tác giả viết theo thể thơ 5 chữ, với ngôn từ giản dị, dễ nhớ dễ thuộc đã đem đến cho người đọc một không gian sắp vào thu mang hương vị riêng, màu sắc riêng. Bằng sự cảm nhận tinh tế của mình, tác giả đã gửi gắm chiêm nghiệm sống về cuộc đời sâu sắc.

Cảm nhận bài thơ Sang thu - mẫu 17

Mùa thu luôn là đề tài của các nghệ sĩ, nó gợi nhiều cảm xúc đối Với thi nhân. Theo Xuân Diệu, thu là dáng buồn liêu, là những luồng run rẩy rung rinh lá, đôi nhánh khô gầy sương mỏng manh. Tiếng thu của Lưu Trọng Lư là một hình ảnh mùa thu đầy thơ mộng: Con nai vàng ngơ ngác, đạp trên lá vàng khô. Thu điếu của Nguyễn Khuyến là sự vắng lặng, yên ả của không gian, là cảnh đẹp nên thơ của nước hồ thu. Còn Hữu Thỉnh với bài thơ Sang thu, ông đã khắc họa bức tranh mùa thu tươi đẹp, bức tranh đang ở thời khắc giao mùa với một làn hương mới. Mùa thu trong bài thơ của Hữu Thỉnh không có dáng vẻ tĩnh mịch, hồn thơ không vương vấn những cảm xúc buồn như mùa thu ở trong thơ của Nguyễn Khuyến, Lưu Trọng Lư, Nguyễn Du hay Xuân Diệu…

Sang thu là một bài thơ gợi tả thiên nhiên tươi đẹp. Đất trời đang chuyển mình từ cuối hạ sang thu. Mở đầu bài thực là một phát hiện bất ngờ:

Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về.

Mùa thu đã xuất hiện ở một làng quê Việt Nam. Mùa thu với hương thơm mộc mạc nhưng đầy hương vị ấm nồng. Hương ổi phả trong gió nhẹ đã làm cho con người nhận ra ngay mùa thu đang đến. Động từ phả thể hiện một mùi hương nồng nàn, lan tỏa trong không gian, hoà quyện với làn gió nhẹ để tạo nên một cảm giác thật đáng yêu. Cảm giác ấy không phải trầm buồn, ướt lệ mà là một cảm giác vui tươi đến bất ngờ, mới mẻ. Mùa thu đã mang đến hương thơm và sương mờ ướt lạnh. Sương chùng chình đã tạo nên một phong cảnh đáng yêu. Chùng chình là sự kéo dài, chậm chạp như muốn chờ muốn đợi ai đây? Cảnh vật cứ dần như thế, mềm mại như thế và thu đến tự lúc nào không hay. Nhà thơ đã ngỡ ngàng trước cái đến bất chợt của mùa thu.

Cảm giác bỡ ngỡ ban đầu đã tan biến và nhường chỗ cho sự rung cảm mãnh liệt trước mùa thu tươi sáng:

Sông bắt đầu dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Những đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu.

Ở khổ thơ thứ hai, dấu hiệu sang thu mang tính rõ nét hơn. Tác giả không cảm nhận bằng khứu giác mà cảm nhận trực tiếp bằng thị giác. Từ láy dềnh dàng diễn tả sự chậm chạp, thong thả của dòng nước sông mùa thu. Dấu hiệu mùa thu còn thể hiện ở cánh chim trời, chim vội vã bay vì trời mùa thu nhanh tối hơn mùa hạ, chim phải bay nhanh về tổ.

Mùa thu với đất trời sáng trong, sống lặng lờ, thong thả chảy cùng với đàn chim đang tung cánh bay cao. Hình ảnh đám mây mùa hạ đang vật nửa mình sang thu là sự chuyển biến của đất trời. Dù sang thu nhưng dư âm mùa hạ vẫn còn. Một bóng mây vương lại như sự quyến luyến, ngập ngừng.

Mùa thu với nắng nhẹ, dịu êm. Đất trời như thay áo mái nhưng vẫn có đâu đây làn nắng ấm mùa hè. Có lẽ đây là hình ảnh đẹp nhất thể hiện nét riêng của sự giao mùa từ hạ sang thu. Đám mây ở thời điểm này rất đẹp, nó như chiếc cầu nối giữa hai mùa. Tác giả sử dụng nghệ thuật nhân hoá để diễn tả sự chuyển giao của đất trời. Mây mùa hạ “vắt nửa mình sang thu” bởi còn chần chừ, lưu luyến. Dù sang thu nhưng vẫn còn vương vấn những hình ảnh của mây mùa hạ. Đây là sự biến chuyển nhẹ nhàng của trời đất phút giao mùa.

Kết thúc bài thơ là hình ảnh thiên nhiên của mùa thu:

Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi.

Phong cảnh mùa thu hiện ra thật rõ nét. Nắng mùa thu đang nồng đượm. Mưa mùa hạ vơi dần nên âm thanh của sấm cũng không còn làm cho con người ta giật mình, hốt hoảng. Mùa thu không những làm cho hàng cây như già dặn hơn, đứng tuổi hơn mà mùa thu càng làm cho hàng cây như vững vàng hơn trước những biến cố của thiên nhiên. Cây lá mùa thu vẫn nhuốm buồn vì lá dần ngả sang màu úa theo quy luật của thiên nhiên nhưng nó vẫn mang một dòng nhựa rạo rực, tràn trề sức sống. Khi thu đến, nó đã chuẩn bị cho nhiệm vụ mới của mình. Hình ảnh hàng cây đứng tuổi và ấm đã gợi lên một ý nghĩa sâu xa hơn, đó là hình ảnh con người từng trải trước những tác động của ngoại cảnh, những biến cố bất thường của cuộc đời.

Với bút pháp tả thực về thiên nhiên, cách sử dụng nghệ thuật ẩn dụ, bài thơ Sang thu của Hữu Thỉnh đã mang đến cho người đọc những cảm nhận mới về mùa thu, thấy được những chuyển biến nhẹ nhàng mà rõ rệt của đất trời từ hạ sang thu. Tác giả đã vẽ nên bức tranh mùa thu quê hương nồng đượm, ấm áp tình người, nó bình dị mà tươi tắn, sống động, nó tôn thêm vẻ đẹp của đất nước Việt Nam.

Cảm nhận bài thơ Sang thu - mẫu 18

Cũng như mùa xuân, mùa thu đã trở thành đề tài muôn thuở của thi ca Việt Nam. Có rất nhiều nhà thơ viết về mùa thu Việt Nam và mỗi người đều có một cảm nhận riêng, mang đậm dấu ấn cá nhân của mình. Với Nguyễn Khuyến mùa thu là bầu trời thu xanh ngắt, ngõ trúc quanh co… Với Xuân Diệu mùa thu là dáng liễu buồn, là màu áo mơ phai… Với Lưu Trọng Lư mùa thu là “Con nai vàng ngơ ngác/đạp trên lá vàng khô”. Và Hữu Thỉnh, một nhà thơ trưởng thành trong thời kì chống Mĩ đã góp vào tuyển tập những bài thơ thu Việt Nam một ấn tượng mới mẻ về mùa thu qua bài thơ “Sang thu”. Bài thơ đã đem lại cho người đọc cảm xúc nhẹ nhàng, bâng khuâng trước sự biến chuyển nhẹ nhàng của đất trời lúc giao mùa hạ - thu ở vùng đồng bằng Bắc Bộ qua sự cảm nhận tinh tế của tác giả.

Bài thơ chỉ có 12 câu thơ năm chữ nhưng đã miêu tả một cách tinh tế sự biến chuyển nhẹ nhàng, giao cảm của đất trời lúc giao mùa hạ thu. Nếu như trong thơ của Xuân Diệu, tín hiệu bắt đầu là màu sắc “mơ phai” của lá vàng:

“Đây mùa thu tới, mùa thu tới
Với áo mơ phai dệt lá vàng.”

Thì tín hiệu bắt đầu mùa thu trong bài thơ “Sang thu” của Hữu Thỉnh lại là hương ổi chín trong làn gió se se lạnh:

“Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se”

Sự biến đổi của đất trời lúc sang thu được nhà thơ phát hiện ra nhờ tín hiệu của sự chuyển mùa là làn gió se nhè nhẹ mang theo hương ổi chín lan vào không gian, một mùi hương đặc biệt của mùa thu ở nông thôn Việt Nam. Hữu Thỉnh đã mang đến cho người đọc một cảm giác bất ngờ ngay dòng thơ đầu tiên. “Bỗng” là bất chợt có pha chút ngỡ ngàng. Một mùi hương vốn dĩ quen thuộc mà có lúc nào đó bị bỏ quên đã bắt đầu trở về khi chớm sang thu để người đọc có cảm giác tưởng lạ mà quen. Hương vị thân thuộc của làng quê.

Từ “phả” có nghĩa là bốc mạnh và tỏa ra thành luồng, nhà thơ không tả mà chỉ gợi cho người đọc sự liên tưởng về màu vàng và hương thơm lừng tỏa ra từ những trái ổi chín nơi vườn quê Bắc Bộ. Làn gió se, nhẹ, khô và hơi lạnh của mùa thu càng làm cho hương ổi thêm nồng nàn. Mùi hương ổi chín vốn quen thuộc với người Việt nam nhưng lại xa lạ với thơ ca đã được tác giả đưa vào thơ hết sức tự nhiên. Và cũng từ đây một loạt hình ảnh quen mà lạ đã xuất hiện trong bài thơ để tạo nên một bức tranh mùa thu đẹp đẽ, trong sáng kì lạ. Sự kết hợp hài hòa giữa “động” và “tĩnh”, “mạnh” và “nhẹ” tạo cho câu thơ nhiều cung bậc như cảm xúc của nhà thơ lúc giao mùa.

Sau làn gió se lạnh mang theo hương ổi chín là làn sương mỏng giăng mắc, nhẹ nhàng, chuyển động chầm chậm nơi đường thôn ngõ xóm

“Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về.”

Hai chữ “chùng chình” đã diễn tả rất nên thơ bước đi chầm chậm khi trở về của mùa thu. Và rõ ràng sự có mặt của hương ổi chín và làn sương mỏng đã khiến tác giả ngỡ ngàng, bâng khuâng khi nhận ra mùa thu đã về. Nếu như từ “bỗng” bộc lộ cảm xúc ngạc nhiên của tác giả khi mùa thu về thì từ “hình như” lại thể hiện sự phỏng đoán một cách mơ hồ của tác giả. Và để cảm nhận được bức tranh đẹp đẽ đó, tác giả đã huy động tất cả các giác quan và cả sự rung động tinh tế của mình.

“Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã.”

Nét độc đáo của bài thơ sự chuyển đổi tầm nhìn từ trong vườn ra ngoài ngõ rồi mở rộng ra không gian bao la bên ngoài với sông với bầu trời bao la và khép lại sự nghiền ngẫm giá trị sống trong cõi đời. Tất cả các sự vật được tác giả lựa chọn để miêu tả cảnh đất trời sang thu đều ở trạng thái ngập ngừng. Dòng sông dường như cố ý trôi một cách chậm chạp, thanh thản, nhẹ nhàng gợi lên vẻ đẹp êm dịu của bức tranh mùa thu. Những cánh chim đã bắt đầu vội vã bởi vì mùa thu đã về, nó phải gấp gáp làm tổ, tha mồi chuẩn bị cho mùa đông rét mướt hoặc bay về phương Nam tránh rét. Hai tốc độ trái chiều nhau giữa chậm và nhanh của hai hình ảnh trên là quy luật tự nhiên không đồng đều ở thời điểm giao thoa của muôn loài, muôn vật những đồng thời cũng diễn tả tâm trạng con người trước đổi thay của cuộc sống.

Nét chấm phá độc đáo trong bức tranh thơ gợi nhiều suy tưởng cho người đọc có lẽ ở hai câu thơ sau:

“Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu.”

Mùa hạ, mùa thu là hai đầu bến và đám mây là nhịp cầu ô thước vắt qua. Nhịp cầu duyên dáng nối hai bờ thời gian. Đây là một hình ảnh thơ đầy sáng tạo và thú vị của Hữu Thỉnh. Nhà thơ đã lấy không gian để miêu tả thời gian. Do đó câu thơ diễn tả cảm giác lúc giao mùa tinh tế, sống động hơn và hình ảnh hơn. Ẩn sau hình ảnh thơ ấy, nếu tinh tế người đọc sẽ cảm nhận một thoáng bâng khuâng trong tâm trạng nhà thơ. Âm điệu hai câu thơ có phần trầm lắng trong cảm xúc nhè nhẹ mà sâu lắng. Bài thơ viết năm 1977, hai năm sau chiến tranh chống Mỹ kết thúc. Là một người lính trở về cuộc sống đời thường, cảm nhận giây phút chuyển mùa ấy, có thể bất giác Hữu Thỉnh nghĩ về những đồng đội của mình đã an nghỉ mãi mãi giữa tuổi thanh xuân mang theo cả những ước mơ khát vọng cháy bỏng “đám mây mùa hạ” cống hiến cho quê hương, Tổ quốc. Có chút gì đó nuối tiếc, có chút gì đó vấn vương, hồi tưởng như đám mây hạ nhè nhẹ trôi qua bầu trời rồi ngập ngừng nên câu thơ “vắt nửa mình sang thu” không chỉ miêu tả hình ảnh thiên nhiên vào thu mà còn lắng đọng lòng người nỗi ưu tư, trăn trở.

Nắng, mưa, sấm, chớp là những hiện tượng thiên nhiên cũng được nhà thơ nhắc đến trong thời điểm giao mùa này.

“Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi.”

Mùa thu đến nhưng mùa hạ chưa đi nên vẫn còn bao nhiêu nắng. Cái nắng cuối hạ vẫn còn nồng, còn sáng nhưng cũng đã bắt đầu nhạt dần. Và trong thời điểm giao mùa này, những cơn mưa rào mùa hạ thường hay ào ạt, bất ngờ cũng vơi dần đi. Theo đó, những tiếng sấm bất ngờ thường gắn với cơn mưa mùa hạ cũng ít đi và nó không còn làm cho những hàng cây xanh cổ thụ giật mình nữa. Những thi liệu như "nắng, sấm, mưa" là những hình ảnh đặc trưng của mùa hạ nhưng độ gay gắt của mùa hạ đang chuyển hóa thành dịu êm. Đây là dấu hiệu của mùa thu và sự phân hóa giữa hai bờ ranh giới hạ - thu cũng thật là mong manh. Người ta chỉ có thể xác định được bằng sự nhạy cảm của giác quan. Làm sao có thể đong đếm đầy vơi, nhiều ít, mau thưa? Người ta chỉ có thể ước lượng trong hồn mình mà thôi.

Âm điệu khổ thơ trở nên trầm lắng suy tư. Có “đầy” thì có “vơi”, có “còn” thì có “hết”, có “nắng” thì có “mưa”. Đó là quy luật của tự nhiên, của cuộc đời. Chính vì thế con người phải tiếp nhận một cách an nhiên. Trong hai câu cuối của bài thơ, hình ảnh hàng cây đứng tuổi giống như một chứng nhân đang quan sát và lắng nghe sự chuyển mình của vạn vật xung quanh nó và hình ảnh này cũng là những suy ngẫm mà tác giả muốn gửi gắm trong bài thơ. Tiếng sấm chính là những vang động bất thường của ngoại cảnh, hàng cây đứng tuổi là hình ảnh những người đã từng trải. Khi con người đã từng trải, đã đi qua mùa going bão thì cũng vững vàng hơn trước những tác động bất thường của ngoại cảnh, của cuộc đời. Có đặt hai câu thơ trong hoàn cảnh đất nước ta những năm đầy khó khăn thử thách thì mới thấy hết được ý nghĩa của hai câu kết. Nó khẳng định bản lĩnh cứng cỏi sẵn sàng đương đầu với mọi khó khăn thử thách trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của dân tộc ta.

Tóm lại, bằng các hình ảnh giàu sức biểu cảm và sự cảm nhận tinh tế, bài thơ "Sang thu" đã miêu tả thành công sự biến chuyển nhẹ nhàng mà rõ rệt của đất trời lúc cuối hạ sang đầu thu và qua hình ảnh thiên nhiên nhà thơ đã gửi gắm những suy ngẫm của mình về cuộc đời. Bài thơ "Sang thu" đã tôn thêm vẻ đẹp cho đất nước quê hương trong tiết trời thu và khiến cho ta thêm yêu quý đất trời quê hương mình.

Cảm nhận bài thơ Sang thu - mẫu 19

Khoảnh khắc giao mùa có lẽ là khoảnh khắc đẹp đẽ nhất của tự nhiên, nó gieo vào lòng người những rung động nhẹ nhàng khiến ta như giao hoà, đồng điệu. Khi chúng ta chưa hết ngỡ ngàng bởi một Xuân Diệu “tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì ” thì đã gặp một Hữu Thỉnh tinh tế, sâu sắc đến vô cùng qua một thoáng “Sang Thu”.

Hình ảnh thơ đẹp, ngôn từ tinh tế, giọng thơ êm đềm và những rung động man mác, bâng khuâng của tác giả trong buổi giao mùa đã tạo nên một dấu ấn không dễ phai mờ trong lòng bao độc giả. Có lẽ vì vậy mà sau khi đọc “Sang thu” của Hữu Thỉnh ta càng thấy yêu hơn mùa thu thiết tha, nồng hậu của quê nhà. Mùa thu luôn là đề tài của các nghệ sĩ, nó gợi nhiều cảm xúc đối Với thi nhân. Theo Xuân Diệu, thu là dáng buồn liễu, là những luồng run rẩy rung rinh lá, đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh. Tiếng thu của Lưu Trọng Lư là một hình ảnh mùa thu đầy thơ mộng: Con nai vàng ngơ ngác, đạp trên lá vàng khô. Thu điếu của Nguyễn Khuyến là sự vắng lặng, yên ả của không gian, là cảnh đẹp nên thơ của nước hồ thu. Còn Hữu Thỉnh với bài thơ Sang thu, ông đã khắc họa bức tranh mùa thu tươi đẹp, bức tranh đang ở thời khắc giao mùa với một làn hương mới. Mùa thu trong bài thơ của Hữu Thỉnh không có dáng vẻ tĩnh mịch, hồn thơ không vương vấn những cảm xúc buồn như mùa thu ở trong thơ của Nguyễn Khuyến, Lưu Trọng Lư, Nguyễn Du hay Xuân Diệu…

Sang thu là một bài thơ gợi tả thiên nhiên tươi đẹp. Đất trời đang chuyển mình từ cuối hạ sang thu. Mở đầu bài thơ là một phát hiện bất ngờ:

Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về.

Mùa thu đã xuất hiện ở một làng quê Việt Nam. Mùa thu với hương thơm mộc mạc nhưng đầy hương vị ấm nồng. Hương ổi phả trong gió nhẹ đã làm cho con người nhận ra ngay mùa thu đang đến. Động từ phả thể hiện một mùi hương nồng nàn, lan tỏa trong không gian, hòa quyện với làn gió nhẹ để tạo nên một cảm giác thật đáng yêu.

Cảm giác ấy không phải trầm buồn, ướt lệ mà là một cảm giác vui tươi đến bất ngờ, mới mẻ. Mùa thu đã mang đến hương thơm và sương mờ ướt lạnh. Sương chùng chình đã tạo nên một phong cảnh đáng yêu. Chùng chình là sự kéo dài, chậm chạp như muốn chờ muốn đợi ai đấy? Cảnh vật cứ dần như thế, mềm mại như thế và thu đến tự lúc nào không hay. Nhà thơ đã ngỡ ngàng trước cái đến bất chợt của mùa thu.

Cảm giác bỡ ngỡ ban đầu đã tan biến và nhường chỗ cho sự rung cảm mãnh liệt trước mùa thu tươi sáng:

Sông bắt đầu dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Những đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu.

Ở khổ thơ thứ hai, dấu hiệu sang thu mang tính rõ nét hơn. Tác giả không cảm nhận bằng khứu giác mà cảm nhận trực tiếp bằng thị giác. Từ láy dềnh dàng diễn tả sự chậm chạp, thong thả của dòng nước sông mùa thu. Dấu hiệu mùa thu còn thể hiện ở cánh chim trời, chim vội vã bay vì trời mùa thu nhanh tối hơn mùa hạ, chim phải bay nhanh về tổ.

Mùa thu với đất trời sáng trong, sông lặng lờ, thong thả chảy cùng với đàn chim đang tung cánh bay cao. Hình ảnh đám mây mùa hạ đang vắt nửa mình sang thu là sự chuyển biến của đất trời. Dù sang thu nhưng dư âm mùa hạ vẫn còn. Một bóng mây vương lại như sự quyến luyến, ngập ngừng.

Mùa thu với nắng nhẹ, dịu êm. Đất trời như thay áo mới nhưng vẫn có đâu đây làn nắng ấm mùa hè. Có lẽ đây là hình ảnh đẹp nhất thể hiện nét riêng của sự giao mùa từ hạ sang thu. Đám mây ở thời điểm này rất đẹp, nó như chiếc cầu nối giữa hai mùa. Tác giả sử dụng nghệ thuật nhân hóa để diễn tả sự chuyển giao của đất trời. Mây mùa hạ “vắt nửa mình sang thu” bởi còn chần chừ, lưu luyến. Dù sang thu nhưng vẫn còn vương vấn những hình ảnh của mây mùa hạ. Đây là sự biến chuyển nhẹ nhàng của trời đất phút giao mùa.

Kết thúc bài thơ là hình ảnh thiên nhiên của mùa thu:

Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi.

Phong cảnh mùa thu hiện ra thật rõ nét. Nắng mùa thu đang nồng đượm. Mưa mùa hạ vơi dần nên âm thanh của sấm cũng không còn làm cho con người ta giật mình, hốt hoảng. Mùa thu không những làm cho hàng cây như già dặn hơn, đứng tuổi hơn mà mùa thu càng làm cho hàng cây như vững vàng hơn trước những biến cố của thiên nhiên. Cây lá mùa thu vẫn nhuốm buồn vì lá dần ngả sang màu úa theo quy luật của thiên nhiên nhưng nó vẫn mang một dòng nhựa rạo rực, tràn trề sức sống. Khi thu đến, nó đã chuẩn bị cho nhiệm vụ mới của mình. Hình ảnh hàng cây đứng tuổi và sấm đã gợi lên một ý nghĩa sâu xa hơn, đó là hình ảnh con người từng trải trước những tác động của ngoại cảnh, những biến cố bất thường của cuộc đời.

Với bút pháp tả thực về thiên nhiên, cách sử dụng nghệ thuật ẩn dụ, bài thơ Sang thu của Hữu Thỉnh đã mang đến cho người đọc những cảm nhận mới về mùa thu, thấy được những chuyển biến nhẹ nhàng mà rõ rệt của đất trời từ hạ sang thu. Tác giả đã vẽ nên bức tranh mùa thu quê hương nồng đượm, ấm áp tình người, nó bình dị mà tươi tắn, sống động, nó tôn thêm vẻ đẹp của đất nước Việt Nam.

Cảm nhận bài thơ Sang thu - mẫu 20

Bài thơ là những cảm nhận, những rung động man mác, bâng khuâng của tác giả trước vẻ đẹp và sự biến đổi kỳ diệu của thiên nhiên trong buổi giao mùa. Không phải là sắc "mơ phai" hay hình ảnh "con nai vàng ngơ ngác" mà là hương ổi thân quen nơi vườn mẹ đã đánh thức những giác quan tinh tế nhất của nhà thơ:

Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se,

Câu thơ có hương vị ấm nồng của chớm thu ở một miền quê nhỏ. Tín hiệu đầu tiên để tác giả nhận ra mùa thu là "hương ổi". Mùi hương quê nhà mộc mạc "phả" trong gió thoảng bay trong không gian. Cảm giác bất chợt đến với nhà thơ: "bỗng nhận ra" - một sự bất ngờ mà như đã chờ đợi sẵn từ lâu lắm. Câu thơ không chỉ tả mà còn gợi liên tưởng đến màu vàng ươm, hương thơm lừng, vị giòn, ngọt, chua chua nơi đầu lưỡi của trái ổi vườn quê. Và không chỉ có thế, cả sương thu như cũng chứa đầy tâm trạng, thong thả, chùng chình giăng mắc trên khắp nẻo đường thôn:

Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về

Sương thu đã được nhân hoá, hai chữ "chùng chình" diễn tả rất thơ bước đi chầm chậm của mùa thu. Nếu ở câu thơ đầu tiên nhà thơ "bỗng nhận ra" thu về khá bất ngờ và đột ngột thì sau khi cảm nhận sương thu, gió thu, thi sỹ vẫn ngỡ ngàng thốt lên lời thầm thì như tự hỏi: Hình như thu đã về? Tâm hồn thi sỹ nắm bắt những biến chuyển nhẹ nhàng, mong manh của tạo vật trong phút giao mùa cũng êm đềm, bâng khuâng như bước đi nhỏ nhẹ của mùa thu.

Không gian nghệ thuật của bức tranh thu được mở rộng hơn, cái bỡ ngỡ ban đầu vụt tan biến đi nhường chỗ cho những rung cảm mãnh liệt trước không gian thu vời vợi:

Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã

Sông nước đầy nên mới "dềnh dàng" nhẹ trôi như cố tình chậm lại, những đàn chim vội vã bay về phương nam ... Không gian thu thư thái, hữu tình và chứa chan thi vị, đặc biệt là hình ảnh:

Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu

Câu thơ giúp ta hình dung về đám mây mỏng nhẹ, trắng xốp, kéo dài như tấm khăn voan duyên dáng của người thiếu nữ thảnh thơi, nhẹ nhàng "vắt nửa mình sang thu". Câu thơ có tính tạo hình không gian nhưng lại có ý nghĩa diễn tả sự vận động của thời gian: thu bắt đầu sang, hạ chưa qua hết, mùa thu vừa chớm, rất nhẹ, rất dịu, rất êm, mơ hồ như cả đất trời đang rùng mình thay áo mới ...

Khổ thơ thứ ba diễn tả rất rõ sự biến chuyển của không gian và cũng là một thoáng suy tư của nhà thơ trước cảnh vật, đất trời:

Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi

Vẫn là nắng, mưa, sấm, chớp của mùa hạ vương lại đâu đây, song chỉ là "vẫn còn", "đã vơi dần", "cũng bớt bất ngờ" bởi mùa thu đã đến. Ý thơ còn gợi liên tưởng đến con người khi đã lớn tuổi và từng trải thì những giông gió, thăng trầm của cuộc đời ít làm con người ta bất ngờ, bị động. Những suy tư đó của tác giả có lẽ đã góp phần làm cho "Sang thu" trở nên giàu ý nghĩa.

Cảm nhận bài thơ Sang thu - mẫu 21

Trong cảm nhận của mỗi nhà thơ, mùa thu lại mang vẻ đẹp riêng. Ta biết tới mùa thu thanh tao của Nguyễn Khuyến qua chùm thơ thu, “Tiếng thu” êm ái của Lưu Trọng Lư. Ta còn bắt gặp cái nhìn tinh tế của nhà thơ Hữu Thỉnh ghi lại phút giao mùa của đất trời “Sang thu” cùng những chiêm nghiệm sâu sắc về cuộc đời, con người.

Với giác quan nhạy bén, nhà thơ phát hiện dấu hiệu đầu tiên của mùa thu qua hương ổi thơm dịu ngọt, thoang thoảng trong làn gió nhẹ.

“Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se”

Nhà thơ từng gắn bó với vùng đồng bằng Bắc Bộ mới có thể tái hiện nét đặc trưng của thiên nhiên nơi đây một cách bình dị đến thế. Bài thơ phá bỏ những thi liệu khuôn mẫu về mùa thu như sắc vàng của lá, đóa hoa cúc,...

“Với áo mơ phai dệt lá vàng”
(Xuân Diệu)

“Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo”
(Nguyễn Khuyến)

Mấy khi ta để tâm tới hương ổi quen thuộc để rồi khi nhận ra ta không khỏi bất ngờ, ngỡ ngàng khi thưởng thức hương thơm phảng phất khắp không gian thoáng đãng. Động từ “phả” tạo ấn tượng mạnh mẽ, dường như hương sắc muốn quyện hòa với cơn gió dìu dặt, se lạnh ấy? Trong buổi sớm khoáng đạt, nhà thơ còn hình dung tới bước chân e thẹn, rón rén của màn sương:

“Sương chùng chình qua ngõ”

Từ láy “chùng chình” thổi hồn vào màn sương mỏng manh, với bước đi ngập ngừng thật duyên dáng, làn sương như làm duyên khi bén gót tới từng con đường. Có lẽ nó cũng ngây ngất giữa tiết trời chớm lạnh hòa cùng hương ổi thanh thanh nên chưa muốn dời. Chứng kiến vạn vật lúc giao mùa, nhà thơ buông câu hỏi vu vơ:

“Hình như thu đã về”

Hỏi để khẳng định thu đang đến, nhà thơ chắc hẳn còn bâng khuâng trước những chuyển biến của đất trời. Tầm nhìn mở rộng hơn, giúp tác giả lưu lại nét độc đáo của sự sống.

“Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu”

Những cụm từ “bắt đầu, được lúc” lột tả một cách chính xác sự đổi thay của dòng sông và cánh chim lúc giao mùa. Dưới mặt đất, dòng chảy của con sông mới “dềnh dàng” lưu tốc chậm hơn không cuồn cuộn những con nước như lúc hè về. Trên bầu trời, từng đàn chim sải cánh bay đều đều chưa thực vội vã âu lo tìm về phương nam tránh rét. Cuộc sống được hòa nhịp thật hài hòa. Trên nền bức tranh ấy, tác giả chú ý tới đám mây lơ lửng trên không trung. Với cách liên tưởng táo bạo, nhà thơ hình dung đó là đám mây mùa hạ chỉ “vắt nửa mình” sang bầu trời mùa thu, đám mây cũng giống như một người thiếu nữ còn đang lưỡng lự, vấn vương mùa hè rực rỡ, náo nhiệt nên chưa thực sự thuộc về mùa thu. Phát hiện của nhà thơ làm không gian càng trở nên sinh động hơn.

Trong khoảnh khắc giao mùa, thời tiết cũng có đổi thay rõ rệt:

“Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi”

Dư âm của nàng hạ vẫn còn vương lại nhưng nắng, mưa, sấm không còn dữ dội, gay gắt như trước nữa. Những trạng từ “vơi dần”, “bớt” gợi tả những chuyển biến tinh vi ấy. Không chỉ khắc họa khung cảnh thiên nhiên sang thu mà ý thơ ở hai câu kết còn nâng lên tầm chiêm nghiệm về con người trong cuộc đời. Âm thanh tiếng sấm ẩn dụ những khó khăn, thử thách của mỗi người phải trải qua trong suốt hành trình cuộc sống. “Hàng cây đứng tuổi” chỉ những con người tuổi đã “sang thu”, từng trải và dạn dày kinh nghiệm, họ không còn hoảng sợ, hãi hùng trước mọi thách thức. Câu thơ vừa mang nghĩa thực vừa mang nghĩa biểu tượng mở ra những cách cảm thú vị nơi bạn đọc.

Bài thơ “Sang thu” của Hữu Thỉnh không chỉ đọng lại trong lòng độc giả những phát hiện mới mẻ về khoảnh khắc giao thời từ hạ sang thu mà còn bởi triết lý sâu sắc về cuộc đời.

Cảm nhận bài thơ Sang thu - mẫu 22

Hữu Thỉnh thuộc lớp nhà thơ trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mĩ của dân tộc ta. Bài thơ sang thu là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của Hữu Thỉnh giai đoạn sau chiến tranh. Bài thơ là những rung động nhẹ nhàng, tinh tế của tác giả trước khoảnh khắc giao mùa từ cuối hạ sang đầu thu. Vẻ đẹp bài thơ “Sang thu” thể hiện qua bức tranh mùa thu tươi tắn, tràn đầy sức sống qua cảm nhận của một tâm hồn nhạy cảm, luôn muốn gắn kết với đất trời, với cuộc đời rộng lớn.

Bài thơ đưa ta đến với cảnh đất trời của đồng quê Bắc Bộ khi sang thu, từ gần đến xa, với những nét rất gần gũi, thân thương:

Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về

Mọi hình ảnh, hiện tượng đó của đất trời khi chuyển từ hạ sang thu mọi người đều biết, đều quen. Vậy mà đến bài thơ này của Hữu Thỉnh ta mới cảm nhận được đầy đủ vẻ đẹp êm ả, thanh bình của nó. Hương ổi, gió se, sương mỏng, mây nhởn nhơ bay, chim vội vã về phương nam, nắng vẫn rực vàng, mưa vơi dần, tiếng sấm bớt hẳn… những tín hiệu báo mùa thu về ấy sao mà thân thương, gần gũi, nao nao gợi nhớ một miền quê thời thơ ấu trong kí ức của mỗi chúng ta.

Nhà thơ không viết “Thu sang” mà chọn tựa đề “Sang thu”: mùa thu chỉ mới bắt đầu, để “thu” làm bổ ngữ cho động từ “sang” gợi chủ thể cảm nhận sự chuyển mùa ấy là con người. Cách đặt tựa đề báo hiệu những cảm nhận tinh tế và riêng biệt về mùa thu.

Hương thơm của những trái ổi chín trong vườn “phả vào trong gió se” tức là hương thơm bốc mạnh và tỏa ra thành luồng, chứ không thoang thoảng. Nhà thơ vừa ngửi thấy mùi hương ổi, lại vừa cảm nhận được cái se lạnh của gió đầu thu. Hương thì đậm đà mà gió thì nhè nhẹ nên không gian rất đỗi nồng nàn.

Sương thu thì “chùng chình” qua ngõ, nghĩa là nó có ý nhởn nhơ, chậm chạp lại, quấn quýt bên ngõ xóm, đường làng hay quấn quýt, giao hòa cùng người ngắm cảnh?

Hương ổi, gió sư, sương thu là những kí hiệu làm nhà thơ giật mình nhận ra “hình như thu đã về”. Cảm xúc của tác giả vừa nhẹ nhàng, vừa bâng khuâng. Vì lẽ, đây không phải là mùa thu đầu tiên trong đời nên sự hân hoan đã nhường chỗ cho sự đắm lắng, dịu nhẹ, khoan thai mà đón nhận:

Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu

Sông được lúc “dềnh dàng” chậm chạp, rề rà, không vội vàng gì. Người đọc như được thấy mặt nước phẳng lặng của sông thu soi chiếu cánh chim vội vã bay từ khung trời chói chang của mùa hạ sang khung trời ấm áp của mùa thu:

Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi.

Vì lẽ ấy mà đám mây trên bầu trời cũng “nửa hạ – nửa thu”, “Có đám mây mùa hạ – Vắt nửa mình sang thu” đám mây mùa lưu luyến lúc giao mùa được cảm nhận bằng tâm hồn tinh tế và trong trẻo. Và mùa hạ dần qua cũng vơi dần những cơn mưa rào, trả lại cho trời thu sắc xanh muôn thuở.

Hai câu kết vừa có ý nghĩa tả thực, lại vừa có ý nghĩa hàm ẩn.Ý nghĩa tả thực là tả hiện tượng sấm và hàng cây lúc sang thu. Còn ý nghĩa hàm ẩn mà nhà thơ gửi gắm ở đây có lẽ là những vang động bất thường của ngoại cảnh, của cuộc đời (sấm) đã bớt đi sự bất ngờ đối với những người từng trải (hàng cây đứng tuổi).

Phân tích những chiêm nghiệm sâu sắc của nhà thơ Hữu Thỉnh trong khổ cuối bài Sang thu
Đây là sự suy ngẫm của tác giả về nhân sinh, về quy luật của cuộc sống nhân nói chung về cảnh thiên nhiên đất trời sang thu. Rõ ràng, khi viết bài thơ này Hữu Thỉnh đã bước vào tuổi trung niên, đã đi qua một thời trai trẻ trong chiến tranh nên những chiêm nghiệm của nhà thơ có sức khơi gợi cho mọi người về lẽ sống làm người: Ta hãy bình tĩnh mà đón nhận và giải quyết mọi vấn đề gặp phải trong cuộc sống.

Cảm nhận bài thơ Sang thu - mẫu 23

Từ muôn đời, mùa thu luôn là nguồn cảm hứng bất tận của thơ ca. Non nước hữu tình trong cảnh sắc thu sang làm lay động cả những trái tim khó tính nhất! Hữu Thỉnh chính là một trong các nhà thơ tiêu biểu sở hữu cảm xúc tinh tế sâu sắc trước sự đổi thay đất trời trong những ngày tháng giao mùa. Mạch cảm xúc dâng trào mở ra bao tầng nghĩa đẹp đẽ qua bài thơ “Sang thu”.

Từ những câu thơ đầu tiên, ta đã nhận ra bao hình ảnh liên tưởng thú vị mà nhà thơ muốn gửi gắm:

“Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về”

Tâm hồn nhà thơ với bao sự nhạy cảm, tinh tế. Khoảnh khắc nhà thơ nhận ra mùa thu cũng làm gợi nên bao cảm xúc khác lạ. Từ muôn đời nay, các vị thi sĩ tìm ra mùa thu với tiếng lá khô xào xạc giòn giã

“Con nai vàng ngơ ngác
Đạp lên lá vàng khô”

Hoặc qua bầu trời trong xanh cao vút tựa như không có đáy như trong Thu điếu - Nguyễn Khuyến, hoặc là mùi hương cốm mới, là hình ảnh hoa cúc họa mi ẩn hiện, hoặc là ngọn gió heo héo hắt giữa mùa thu Hà Nội.

Cái khoảnh khắc nhận ra chớm thu của Hữu Thỉnh hiện lên chân thật, gần gũi hơn nhiều. Nó là chút tư vị của “hương ổi” xen lẫn trong gió. Mùi hương thơm ngọt ngào của một thức quà quê quen thuộc đi vào sâu trong tiềm thức tuổi thơ của mỗi người. Cái hương ổi quen thuộc và dễ chịu ấy không phải là thoang thoảng mà là “phả vào trong gió se”. Mùi hương hòa quyện, đặc quánh, kích thích khứu giác đầy tinh tế của thi nhân. Sự chuyển mùa vô hình giờ đây lại dần được tái hiện một cách rõ nét qua lời thơ của Hữu Thỉnh.

Từ láy “chùng chình” được sử dụng rất đắt! Động từ ấy gợi tả cảm giác của sự chậm rãi, thảnh thơi. Ta dường như có thể cảm nhận được màn sương đang giăng mắc giữa những con phố. Phải chăng sương đang cố nán lại quanh con ngõ nhỏ để thủ thỉ báo hiệu với chàng thi sĩ rằng “Hình như thu đã về”?

Màn sương “chùng chình” ấy còn tựa như một chiếc khăn voan đang hờ hững vắt ngang trời, còn chút gì đó vấn vương sự ấm áp của mùa hạ trước khi đón chào sự se se lạnh của mùa thu hiu lạnh. Sự ngỡ ngàng của người thi nhân trước khoảnh khắc mùa thu đến cửa:

“Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu”

Sự chuyển giao mùa đột nhiên hiện ra rõ nét với muôn vàng hình ảnh rộn ràng thể hiện rõ rệt thông qua sự chuyển biến của đất trời thiên nhiên rộng lớn. Khổ thơ như mở ra một không gian thoáng đãng và cao rộng tuyệt đẹp đón chào mùa thu.

Đó là hình ảnh một con sông “dềnh dàng” miên man chầm chậm chảy. Nó chẳng phải một dòng sông của mùa hạ cuồn cuộn chảy trong vội vã cùng những cơn mưa rào nặng hạt. Dòng sông mùa thu hiền hòa nhã nhặn, mỏng manh. Vẻ đẹp mơ màng của thiếu nữ mới lớn đầy sự trong trẻo, thanh khiết và dịu dàng. Trái ngược với một dòng sông “dềnh dàng”, đằm thắm, thư thả là những cánh chim mùa thu vội vã, khẩn trương.

Mùa thu đến, tiết trời trở nên ảm đạm và chớm lạnh, những cánh chim vội vã tìm kiếm thức ăn dự trữ, tìm kiếm nguyên liệu xây dựng tổ ấm cho kiên cố để chống chọi với một mùa đông lạnh giá sắp về. Khoảnh khắc giao mùa của tự nhiên muôn đời mờ mờ ảo ảo, ấy vậy mà bằng một tâm hồn tinh tế cùng óc quan sát tỉ mỉ Hữu Thỉnh làm sống dậy bức tranh giao mùa.

Hai câu thơ “Có đám mây mùa hạ /Vắt nửa mình sang thu”quả là một hình ảnh tuyệt đẹp. Tác giả đã tài tình dùng phép nhân hóa cho những đám mây vô tri vô giác, tạo cho đám mây chút cảm giác lười biếng và ngái ngủ. Phải chăng mây vấn vương lắm cái nắng ấm chói chang của mùa hạ nên mới chỉ mới hững hờ “vắt nửa mình sang thu”. Bức tranh dần hiện ra rõ nét với nhiều chi tiết, hình ảnh gợi cảm:

“Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi”

Bức tranh thiên nhiên không chỉ đem lại cho người đọc sự cảm thụ về cảnh sắc vẻ đẹp mà còn ẩn dưới lời thơ những triết lý sâu sắc của tác giả. Khổ thơ như tiếng lòng của Hữu Thỉnh về những triết lý ông đã trải qua và thấu hiểu trong những năm tháng cuộc đời. Ở thời khắc giao mùa hạ - thu mỏng manh mơ hồ ấy, tuy nắng vẫn ở đó thế nhưng sự gay gắt đã giảm đi rất nhiều, cái bức bối của mùa hạ để dần nhường chỗ cho sự dịu dàng, ấm áp xen lẫn chút không khí se lạnh đặc trưng của mùa thu.

Mưa cũng dần biến chuyển, mưa của mùa hạ là mưa của sự giận hờn, đỏng đảnh. Những cơn mưa dài, nặng hạt nhưng ngắn tựa như con gái lúc mới yêu vậy. Ngược lại thì mưa của mùa thu lại thưa thớt, nhẹ nhàng hơn rất nhiều. Vạn vật tự nhiên đều trở nên đằm thắm khi chớm sang thu.

Từ đây, Hữu Thỉnh đã gửi gắm đến cho người đọc những triết lý sâu sắc về cuộc đời: “Sấm đã bớt bất ngờ/Trên hàng cây đứng tuổi”. Sấm đối với chúng ta chỉ đơn thuần là một hiện tượng tự nhiên thường thấy trong những cơn mưa. Thế nhưng, bằng con mắt cảm quan tinh tế của nhà thơ, ông đã nhìn sấm tựa như những giông bão của cuộc đời. Trước mùa hạ của tuổi trẻ, của những năm tháng thanh xuân nhiệt huyết qua đi, con người dần ngả mình “sang thu”, ngả mình sang dốc bên kia của cuộc đời.

Giờ đây “hàng cây đứng tuổi” này đã từng chịu biết bao nhiêu giông bão vô thường của cuộc đời làm cho chao đảo thì nay đã đủ vững chãi để an nhiên trước những đợt sấm bão giông kia. Ai mà chẳng phải trải qua những tháng năm non dại bồng bột nhiều vấp ngã, nhưng có vấp ngã thì mới có trưởng thành. Càng nhiều trải nghiệm chúng ta sẽ càng mạnh mẽ, càng điềm nhiên trước những thử thách bao giông, trước những thay đổi trớ trêu cuộc đời. Điềm nhiên, bình thản nhìn sấm tan dần trước mắt!

Sang thu được viết khi Hữu Thỉnh bước vào ngưỡng tuổi ba lăm. Có lẽ chính vì thế mà hồn thơ của ông lại cảm nhận tinh tế bao xúc cảm kỳ diệu của thiên nhiên để rồi giật mình nhận ra mùa thu đã về. Từ mùa thu của thiên nhiên, ông nghĩ về mùa thu của đời mình. Để rồi ông viết khoảnh khắc giao mùa ấy thật chậm rãi, thật rõ nét như thể muốn ngăn đi sự khốc liệt, vội vã của thời gian. Bao nhiêu năm tháng huy hoàng đã trôi qua theo mùa hạ cuối cùng của đời người để lại bao lưu luyến trong lòng bạn đọc về một mùa thu chớm bước qua thềm.

Mở bài phân tích bài thơ Sang thu - Mẫu 1

Cũng như mùa xuân, mùa thu luôn là đề tài gợi nhiều cảm xúc cho các thi nhân. Mỗi người lại có cách nhìn, cách miêu tả rất riêng, mang đậm dấu ấn cá nhân của mình. Có nhà thơ, mùa thu là dáng liễu buồn, là màu áo mờ phai, là tiếng đạp lá vàng của con nai ngơ ngác. Hữu Thỉnh cũng góp vào tuyển tập thơ mùa thu của dân tộc một cái nhìn mới mẻ. Ông là nhà thơ viết nhiều, viết hay về những con người, cuộc sống ở nông thôn, về mùa thu. Những vần thơ thu của ông mang cảm xúc bâng khuâng, vương vấn trước đất trời trong trẻo đang chuyển biến nhẹ nhàng. Điều này thể hiện rõ qua bài "Sang thu" được ông sáng tác cuối năm 1977.

Mở bài phân tích bài thơ Sang thu - Mẫu 2

Mùa thu luôn là đề tài khiến thi nhân phải động lòng thương yêu bởi đó là mùa của những gì nhẹ nhàng và dịu êm nhất, mùa của sự tĩnh lặng và những rung động sâu sắc nhất. Mùa thu đi vào thơ Nguyễn Khuyến bình dị, gần gũi; đi vào thơ Nguyễn Đình Thi là tiếng vọng từ đất nước ngàn đời. Còn mùa thu của Hữu Thỉnh qua bài thơ "Sang thu" thật đẹp, thật nên thơ và trữ tình, và tấm lòng của nhà thơ cũng thật duyên. Bài thơ đã phác họa thành công sự chuyển mùa kỳ diệu của đất trời và của lòng người.

Mở bài phân tích bài thơ Sang thu - Mẫu 3

Có lẽ, trong bốn mùa xuân, hạ, thu, đông thì mùa thu thường gợi cảm hứng cho thi ca, nhạc họa nhiều nhất. Ta có thể bắt gặp chùm thơ Thu của Nguyễn Khuyến, "Tiếng thu" của Lưu Trọng Lư hay "Đây mùa thu tới" của Xuân Diệu... và cũng viết về đề tài mùa thu, nhà thơ Hữu Thỉnh với thi phẩm "Sang thu" đã có những cảm nhận về phút giây giao mùa chuyển từ cuối hạ sang đầu thu thật mới mẻ, tinh tế, nhẹ nhàng. Bài thơ được sáng tác năm 1977, in trong tập "Từ chiến hào đến thành phố", rất tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật thơ nhỏ nhẹ, thiết tha, sâu lắng của Hữu Thỉnh.

Nghị luận về bài thơ Sang thu mẫu 1

    Bác Hồ- vị lãnh đại vĩ đại, người cha già yêu thương của dân tộc Việt Nam. Hoàn thành tâm nguyện và sự nghiệp cả đời của mình- sự nghiệp cứu nước, năm 1946 Bác Hồ đã ra đi mãi mãi. Bác ra đi trong nỗi niềm tiếc thương của hàng vạn con dân Việt Nam:

“Suốt mấy hôm rày đau tiễn đưa

Đời tuôn nước mắt, trời tuôn mưa…”

       Tiếng khóc nghẹn ngào ấy vẫn cứ nỉ non, đau xót cho đến 7 năm sau, vang vọng trong những vần thơ của Viễn Phương. Sau một lần ra thăm lăng Bác, với nỗi tiếc thương khôn nguôi và lòng thành kính thiêng liêng, Viễn Phương đã sáng tác bài thơ Viếng Lăng Bác.

       Mở đầu bài thơ là cảm xúc ngỡ ngàng xen lẫn bồi hồi của tác giả:

“ Con ở Miền Nam ra thăm lăng Bác

Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát

Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam

Bão táp mưa sa vẫn đứng thẳng hàng”

       Nhà thơ dùng đại từ xưng hô “con- Bác” thể hiện tình cảm gần gũi gắn bó mật thiết và tình cảm sâu đậm nhà thơ dành cho Bác. Bác Hồ là vị cha già cả dân tộc, triệu triệu người dân Việt Nam đều là con của Người. Người mang ánh sáng chở che, bao bọc dân tộc. Giây phút này đây, qua bao nhiêu năm tháng con đã được về lăng Bác, được trở về trong vòng tay Người ngắm nhìn hình hài yêu dấu ấy. Miền Nam gợi ra khoảng cách địa lý vừa nói về một mối tình cảm đặc biệt. Trong những năm tháng chiến đấu gian khổ, Bác Hồ luôn dõi theo và quan tâm đến đời sống người dân miền Nam. Trong Bác lúc nào cũng thường trực nồi niềm khao khát cháy bỏng đất nước thống nhất, Bắc- Nam sum họp đẻ Bác được vào thăm những người con tổ quốc của mình. Trái tim Bác và trái tim miền Nam hòa chung làm một. Miền Nam lúc nào cũng mong nhớ Bác khôn nguôi, da diết. Tình cảm ấy thiêng liêng, đậm sâu, ngọt ngào như tình mẫu tử:

“Ở tận cùng mũi đất phương Nam

Trong xanh rờn rừng đước

Giữa ba bề rì rầm sóng nước

Người quê tôi theo cách riêng mình

Dựng một ngôi đền

Thờ Bác kính yêu”

       Chính tình cảm dạt dào ấy đã thôi thúc người con vượt ngàn dặm xa ra Bắc viếng lăng Bác. Nhà thơ đã dùng các nói giảm nói tránh “thăm” để ghìm nén lại cảm xúc đau thương đang trào trực trong tim. Hình ảnh đầu tiên ghi dấu lại cuộc hành trình của tác giả đó chính là hàng tre. Hàng tre xanh trải dài bát ngát trong sương mù ẩn hiện. Khi còn sinh thời Người luôn mang trong mình một tình yêu thiên nhiên cháy bỏng, sống và hòa quyện cùng thiên nhiên đến khi nằm xuống thì thiên nhiên vẫn bên người. Hình ảnh hàng tre giản dị, gần gũi, mộc mạc cũng như chính con người Bác, cuộc sống Bác-dân dã, bình dị. Tre còn là biểu tương cho vẻ đẹp của con người Việt Nam- kiên cường, kiên trung, bất khuất. Tre gắn bó mật thiết với đời sống nhân dân ta, tre lao động sản xuất, tre tham gia chiến trường, tre giữ làng giữ nước giữ mãi nhà tranh, giữ đồng lúa chín. Dù mưa bom bão đạn tre vẫn sát cánh cùng dân tộc bảo vệ đất nước. Những hàng tre bát ngát, xanh tươi thẳng tắp vươn mình bên lăng Bác như chính sự hiện diện của dân tộc Việt Nam đang quây quần bên Bác, vươn mình ra đưa đất nước phát triển, hội nhập quốc tế. Chứng kiến hình ảnh thơ tuyệt đẹp ấy Viễn Phương không nén được nỗi lòng thổn thức, xúc động mãnh liệt: “Ôi”. Chữ ôi vang lên với bao cảm xúc, bao hoài niệm và niềm tự hào thiêng liêng.

       Và rồi theo bước chân tác giả, nhà thơ tiến vào lăng Bác. Nhìn thấy Bác thấy vị cha già dịu hiền nằm ấy trong lòng nhà thơ dấy lên bao liên tưởng:

“Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng

Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ”

       Câu thơ có hai hình ảnh mặt trời. Mặt trời trong câu thơ thứ nhất là mặt trời tự nhiên. Còn hình ảnh mặt trời trong câu thơ thứ hai chính là hình ảnh ẩn dụ chỉ Bác. Bác như vầng nhật nguyệt sáng soi cho dân tộc Việt nam, Bác là trái tim ấm nóng, là trung tâm của non sông Đại Việt. Dù Bác đã đi xa nhưng vẻ đẹp trí tuệ và nhân cách của Bác vẫn ngời sáng, bao la, rực rỡ soi chiếu khắp muôn nơi. Để rồi:

“Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ

Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân”

       Cả cuộc đời của Bác đều hướng trọn một lòng cho nhân dân, đất nước. Bảy mươi chín tuổi là bảy mươi chín năm Bác cống hiến cho dân tộc, là bảy mươi chín mùa xuân rực rỡ. Triệu triệu trái tim con dân Việt Nam trở về đây dâng lên Bác những bó hoa tươi thăm với nỗi niềm biết ơn, thành kính thiêng liêng vô bờ.

       Niềm cảm xúc của Viễn Phương được dâng lên cao trào khi ngắm nhìn hình ảnh Bác:

“Bác nằm trong giấc ngủ bình yên

Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền

       Ý thơ nói lên sự nhẹ nhàng, bình yên, tâm thế thanh thản của Bác. Bác ra đi khi đã hoàn thành được tâm nguyện nau náu cả đời- độc lập dân tộc, thống nhất nước nhà. Bác về với giấc ngủ vĩnh hằng chính là trở về với đất mẹ thân yêu. Trong câu thơ còn có hình ảnh “ vầng trăng”. Trăng là người bạn thân thiết, đồng hành gắn bó cùng Bác. Trăng cách mạng, trăng thi ca và giờ đây ánh trăng ấy vẫn bên người. Giấc ngủ ngàn thu của người vừa thanh thản, bình dị lại lãng mạn, cao đẹp, đúng như phẩm chất đáng quý của Người.

       Dù là thế nhưng nhà thơ vẫn không khỏi đau thương:

“Dẫu biết trời xanh là mãi mãi

Mà sao nghe nhói ở trong tim”

       Vẫn biết sinh lão bệnh tử là quy luật của tạo hóa và Bác Hồ cũng không phải là ngoại lệ. “Trời xanh” biểu trưng cho sự bất tử. Bác đã ra đi nhưng hình ảnh của Bác vẫn luôn sống mãi trong trái tim người dân Việt Nam. Bác vẫn luôn dõi theo, đồng hành cùng con dân ta trên mọi nẻo đường phát triển.  Dù nhận thức và an ủi là thế nhưng trong trái tim nhà thơ vẫn không khỏi nhói lên những nỗi đau đớn, tiếc nuối khôn nguôi.

       Và điều gì đến cũng sẽ phải đến. Đã đến lúc nhà thơ phải rời miền Bắc, rời lăng Bác. Những giọt nước mắt tuôn trào đã dãi bày bao nỗi niềm trong lòng tác giả:

“Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác

Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây

Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này...”

       Nhà thơ muốn được hóa thành chim, thành đóa hoa ngát hương thành cây tre bát ngát, thành những sự vật gần gũi để được hiến dâng lên Bác, làm đẹp cho nơi Bác nằm, đem những gì tinh túy nhất tinh hoa nhất của mình chở che cho giấc ngủ bình yên của Bác. Những sự vật gần gũi, giản dị nhưng là khát vọng mãnh liệt và tình cảm lớn lao, sâu đậm nhà thơ dành cho Bác. Những phút giây rời lăng Bác là những phút giây lưu luyến và nồng ấm nhất, chứa chan bao cảm xúc dào dạt nhất. Kết thúc bài thơ là dấu … cũng như chính nỗi lòng tác giả còn quá nhiều điều muốn dãi bày, cứ thế trai dài ra mênh mông, sâu tận.

       Bài thơ là tiếng lòng của tác giả hay phải chăng cũng chính là tiếng lòng của nhân dân miền Nam, nhân dân Việt Nam. Tấm lòng yêu thương, niềm tôn kính thiêng liêng dành cho vị cha già dân tộc ấy mãi luôn ngời sáng, cháy bỏng và nhiệt thành trong trái tim mỗi người con Việt Nam thân yêu hôm nay và cả mãi mai sau.

Nghị luận về bài thơ Sang thu mẫu 2

  Bác Hồ- vị cha già kính yêu của dân tộc. bác đã hi sinh cả cuộc đời của mình để bảo vệ và xây dựng tổ quốc khỏi tay của những kẻ xâm lăng. Bác mất đi đó chính là nỗi đau buồn của toàn dân tộc. Những người con từ khắp mọi nơi tới để cũng ở bên cạnh Bác, thăm Bác an nghỉ lẫn cuối cùng. Và trong chuyến đi thăm Lăng bác, nhà thơ Viễn Phương viết nên những vần thơ ấm đượm tình cảm thiêng liêng dành cho Bác- vị cha già kình yêu của dân tộc.

Con ở miền Nam ra thăm lăng bác

Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát

Ôi hàng tre xanh xanh Việt Nam

Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng

       Mở đầu bài thơ là hình ảnh của những người con ra thăm Bác. Đại từ nhân xưng “ con” như là những thành kính, kính yêu dành cho vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc. hình ảnh những hàng tre xanh đứng thẳng tắp, hình ảnh của những làng quê Việt Nam hiện lên trong mắt của người đọc. Bác là con người giản dị đến thế, thương yêu con dân tới thế. Bác mất đi, ở cạnh bác không phải là những loài hoa đắt tiền mà là những hàng tre xanh ngắt, thể hiện ý chỉ, nghị lực của những người con Việt nam, luôn bền bỉ với những sức sống mãnh liệt.

Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng

Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ

Ngày ngay dòng người đi trong thương nhớ

Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân

       Đoạn thơ xuất hiện hình ảnh của hai mặt trời. Mặt trời đầu tiên là mặt trời mang nghĩa đen, là hiện tượng của tự nhiên. Còn mặt trời trong câu thơ thứ hai là hình ảnh ẩn dụ của Bác Hồ. Bởi trong lòng của những người con của Tổ quốc thì Bác là duy nhất. Nếu như ánh mặt trời sưởi ấm vạn vật thì Bác cũng là mặt trời sưởi ấm cõi lòng của những người con Việt Nam và cũng mang tới ánh sáng cho cuộc đời của họ. Để rồi, trong lòng của nhân dân, hình ảnh của Bác chưa bao giờ bị mất đi, Bác vẫn được những người con của mình kết những tràng hoa đẹp nhất để nhớ tới bảy mươi chín tuổi xuân của mình.

Bác nằm trong giấc ngủ bình yên

Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền

Vẫn biết trời xanh là mãi mãi

Mà sao nghe nhói ở trong tim

       Cho dù trong lòng của mỗi người con đều cho rằng, Bác vẫn còn ở nơi đây mãi mãi, thế nhưng chúng ta vẫn không thể quên được một điều rằng Bác đã thực sự ra đi mãi mãi. Khiến cho tác gia “ nghe nhói ở trong tim”. Những người con lúc này chỉ mong một điều là Bác đã có được những bình an thực sực của cuộc sống bởi khi còn ở trên đời này, lúc nào Bác cũng chỉ chăm lo cho cuộc sống của những người con, người cháu của đất nước. giờ đây, Bác luôn được an tình, được nghi ngơi, nhưng sao những cảm xúc ấy vẫn như nhói lên trong lòng mà không thể nào xua tan đi được.

Mai về miền Nam thương trào nước mắt

Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác

Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây

Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này

       Khổ thơ cuối, tác giả như thoát ra những cảm xúc đã ở mức tột cùng. Hàng loạt những từ “ muốn làm” như nói lên suy nghĩ của tác giả. Biện pháp liệt kê như được sử dụng trong toàn đoạn thơ như nói lên những tâm tư, tình cảm của tác giả. Ngày mai phải xa Bác rồi, nhưng tác giả vẫn còn rất nhiều những lưu luyến ở nơi đây, không muốn phải trở về, chỉ muốn làm những bông hoa, làm con chim để ngày ngày dược ở bên cạnh, canh lăng cho Bác ngủ.

       Tóm lai, bài thơ là những tình cảm sâu sắc của tác giả đối với bác hồ- vị cha già của dân ộc. Lời nói, lời ước của tác giả cũng chính là tiếng lòng của tất cả những người con trên toàn đất nước. Hình ảnh của người cha luôn hết lòng hi sinh vì đất nước để giúp cho đất nước được giải phóng khỏi những áp bức và chèn ép, thoát khỏi kiếp sống nô lệ. bài thơ là một bức tâm tình giàu chất trữ tình, đằm thắm và thiết tha. Với những hình ảnh ẩn dụ tinh tế, giàu tính thẩm mĩ và các biện pháp tu từ đặc sắc… đã thể hiện tình cảm chân thành, thiết tha và sâu sắc của nhà thơ cũng như của đồng bảo miền Nam đối với Bác Hồ, vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc. Tuy bây giờ bác đã đĩa những những phẩm chất cao đẹp và những cống hiến to lớn, cao cả và sự nghiệp cách mạng của Bác sẽ luôn sống mãi trong lòng những con người đất Việt.

Hình ảnh thiên nhiên lúc giao mùa và cảm xúc con người - mẫu 1

Ngày bé, tôi luôn háo hức mỗi khi năm mới đến. Nhưng bất chợt một hôm, tôi nhận ra mái tóc cha đã thoáng điểm một vài sợi trắng. Từ đó, tôi hiểu rằng bước đi của thời gian không phải chỉ tính bằng năm. Tôi bắt đầu chú ý hơn đến tháng, đến mùa. Khoảnh khắc chuyển mùa bỗng trở thành một mốc thời gian lắng đọng trong tôi. Tôi yêu và thích những khi trời đất giao mùa, nhất là khi trời chuyển từ mùa hạ sang mùa thu mát mẻ.

Những hạt mưa xuân lất phất bay, những chồi biếc trên cành cây đã điểm hay những cơn mưa ào ào, xối xả gọi mùa hè... Tất cả những đổi thay nhiệm màu của trời đất ấy đều khiến lòng tôi xao động. Và hơn tất cả, thời khắc giao mùa giữa hạ và thu bao giờ cũng làm tôi phấp phỏng đến lạ lùng. Có lẽ bởi tôi yêu mùa thu nhất trong năm, tôi đợi thu về như đợi một người bạn đi xa quay trở lại... Thu sang, thật là dịu nhẹ khi bỗng một ngày ai đó nhận ra, bầu trời dường như trong hơn, cao và xanh hơn. Cái nắng rát bỏng, đổ lửa của mùa hè đã dịu đi nhiều lắm. Bên kia, vài đốm lửa thoắt ẩn hiện giữa nền lá xanh sẫm của những bác phượng già. Có phải phượng đã chắt chiu bao nhiêu gió, bao nhiêu nắng, bao nhiêu mưa của hạ để chưng lọc nên những bông phượng rực đỏ cuối mùa ấy mà tạm biệt hạ và để đón thu sang? Dọc theo hai dãy phố, sắc bằng lăng cũng đã nhạt màu. Nó không còn ngăn ngắt tím đến nao lòng nữa. Con sông trước nhà không còn cuộn lên ngầu đỏ. Dòng sông trở nên dịu dàng, e ấp như cô bé tuổi mười lăm. Tất cả giăng giăng xung quanh ngôi nhà quen thuộc một không khí êm êm, dịu mát, mềm mại, khiến ta mỗi khi thức dậy đều mang một cảm giác bâng khuâng.

Top 4 bài Viết đoạn văn ngắn về hình ảnh thiên nhiên lúc giao mùa và cảm xúc con người qua bài thơ Sang thu 2022 hay nhất (ảnh 3)

Mới mấy hôm trước đây thôi ai cũng ngại ra đường vì nắng gắt, vì những cơn mưa bất chợt ập xuống không báo trước bao giờ, vì sấm chớp thình lình, nhưng hôm nay ta lại thèm được thong dong đạp xe dưới những hàng cây tán rộng. Ta bắt gặp những cô bé, cậu bé ngồi sau lưng mẹ xúng xính, hân hoan. Thì ra bé con đang được mẹ dẫn đi chuẩn bị đồ dùng cho năm học mới. Ôi! Cái ngày đầu tiên tôi đi học thoáng vậy mà đã đến cả chục năm. Thời gian trôi qua nhanh thật! Miên man trong dòng ký ức, tôi nghe trong hơi gió thoang thoảng hương hoa sữa chưa kịp nồng, mới chỉ đủ gợi ra những vương vấn dịu êm.

Thu đến, dường như ai cũng gượng nhẹ hơn. Nhịp sống chùng chình hơn, không còn quá ồn ào, hối hả. Những công sở, những ngôi trường sau lúc tan ca lặng ngắt, trầm tư. Những bến đò, những bờ sông, buổi chiều cũng bắt đầu hoang vắng. Trời chiều hơi se lạnh. Phải chăng vì thế mà mọi người chỉ mong sớm quây quần ấm cúng bên bữa cơm chiều. Một thoáng bâng khuâng, tôi nhớ tới lời cha: thời gian chảy trôi, mọi sự cũng đổi thay, cuộc sống sẽ có thêm ngã rẽ, hãy tự tìm lấy hạnh phúc cho mình. Tôi vẫn băn khoăn “Thế nào là hạnh phúc?”. Chợt tôi nhìn sang bên kia con phố, một cụ bà dừng đẩy xe lăn, lấy ra chiếc ghế con, ngồi xuống ngay bên cạnh. Ông đang nghiêng đầu về phía bà. Bà giở quyển sách khá dày, giấy màu nâu xỉn, chậm rãi đọc và ông lim dim mắt lắng nghe. Tôi bỗng hiểu thế nào là hạnh phúc. Hạnh phúc ấy là khi ta được mãi bình yên bên những người yêu quý. Hạnh phúc giản đơn và bình dị thế thôi.

Trời đất chuyển mùa, lòng ta cũng nao nao bao nhiêu cảm xúc. Ta nhớ nhung, nuối tiếc, ta hí hửng, vui tươi... Ta thấy mình mỗi ngày thêm mỗi lớn, thấy mình phải sống sao cho có ý nghĩa hơn với bước đi của nhịp thời gian.

Hình ảnh thiên nhiên lúc giao mùa và cảm xúc con người - mẫu 2

Một ngày mới đã đến có nghĩa là bạn đã đi qua thời khắc của một ngày đã qua. Thời gian chẳng bao giờ ngừng trôi vì thế mà vòng quay của vũ trụ cứ thế tiếp diễn và lặp lại vào mỗi năm. Cái cảm giác chờ đợi một mùa sắp đến và giã từ một mùa đi qua rất đặc biệt, nó giống như khi ta tiễn chân một người bạn cũ và chờ đợi một người bạn mới hay xếp tập sách năm cũ chuẩn bị cho năm học mới với cặp sách mới. Thời khắc giao mùa cũng vậy, nó khiến cho lòng người vừa hồi hộp vừa mong đợi lại vừa luyến tiếc. Đối với riêng tôi, sự chuyển đổi từ mùa xuân sang mùa hạ là nhiều xúc động và suy tư nhất.

Mỗi người có một khoảnh khắc trong năm sẽ cảm giác như trôi qua thật nhanh, với tôi đó là khoảng thời gian sau tết. Trời đang độ mùa xuân mát mẻ bởi những cơn gió nhẹ và cái nắng không quá chói chang. Những nụ hoa xuân cứ đợi ra giêng là tàn mất, thấm thoát lại qua tiết thanh minh rồi một mùa xuân tàn đã đến. Nhất là đối với lũ học trò chúng tôi, khoảng thời gian này như rượt đuổi. Ngày tết gương mặt nào cũng hớn hở được những ngày thật sự nghỉ ngơi và vui chơi trong suốt một năm, chẳng được mấy chốc lại tập vở đến trường, rồi thi giữa kì hai, không bao lâu lại thi kì hai. Lúc này cũng là lúc những nhành phượng ra hoa đỏ thắm. Ngồi trong phòng học, qua khung cửa sổ những nụ hoa đầu tiên đã chúm chím như nụ cười của cô gái mới lớn. Rồi ngày qua ngày bận bịu cùng bài thi cuối năm chúng tôi quên mất đã không còn cái nắng dịu nhẹ của mùa xuân với khí trời trong xanh mỗi sớm mai. Sáng nay thức dậy thấy cơn mưa đầu tiên của mùa hè đến sớm có cô bé đã hốt hoảng vì sắp nghỉ hè. Không chỉ có mưa là đến bất chợt, nắng cũng gay gắt hơn. Mặt trời thức dậy sớm và đi ngủ cũng trễ hơn. Dòng sông xanh trong của mùa xuân buổi sáng còn thấy cả những chú cá rô con vậy mà chỉ cần mưa một trận là nước đã mênh mông tràn lên cả bờ. Hoa mai vàng đã rụng hết nhường chỗ cho hoa súng tím mọc dưới hồ. Hoa bằng lăng cũng trở mình thao thức khi sắp chia tay học trò.

Lũ học trò tinh nghịch hái những chùm hoa phượng kết thành bướm đỏ ép vào tập, chuyền cho nhau quyển lưu bút để ghi lại khoảnh khắc đáng nhớ này. Không ai bảo ai nhưng trong lòng ai cũng chớm một nỗi buồn vì sắp phải xa nhau và mong chờ một mùa hè thật sự vui vẻ. Lúc này đây, cái cảm giác chia tay cô bạn nhỏ ngày xưa ùa về làm tôi rưng rưng nước mắt. Tôi còn nhớ rất rõ một ngày cuối xuân năm năm trước, khi tôi còn thơ ngây bên những con búp bê xinh đẹp và chơi trò trốn tìm cùng các bạn sau nhà, tôi đã phải xa ngôi nhà thân thuộc của mình, xa mái trường bạn bè và xa cô bạn cạnh nhà. Đó là những ngày buồn nhất trong kí ức của tôi cho đến giờ. Ngày ấy, công việc làm ăn của ba tôi thất bại nên phải bán ngôi nhà ấm êm đang sống và chuyển về quê ngoại của tôi bây giờ. Ngôi nhà mà mùa xuân luôn đến sớm trên những nụ mai vàng và mùa hè văng vẳng tiếng ve kêu. Những lúc chuyển mùa cũng đẹp làm sao, chúng tôi đã chuẩn bị sẵn những vật dụng để xây một ngôi nhà chòi xinh xắn từ lúc cuối mùa xuân, chỉ đợi mùa hè đến là chúng tôi thỏa thích cùng những trò chơi. Nhưng cuối xuân năm ấy, tôi phải chia tay mọi người mà đi trong nước mắt, tôi còn nhớ nhỏ bạn thân của tôi chìa tay tặng tôi chùm hoa phượng vừa nở trước nhà và bảo đợi tôi về thăm. Ấy vậy mà năm năm dài tôi chưa lần nào về quê cũ, thế nên mỗi dịp giao mùa xuân sang hạ tôi lại thấy bồi hồi, nhớ nhung. Tôi chưa có dịp quay trở về để thực hiện lời hứa của mình, biết cô bạn ngày xưa có chờ tôi dưới mái chòi cạnh gốc phượng già đang nở rộ. Mỗi lần chuyển sang mùa, tôi lại nghĩ đến cuộc sống hiện tại với nhiều thay đổi. Cuộc sống lúc nào cũng chuyển biến và có sự giao nhau giữa cũ và mới, giữa hiện đại và truyền thống, giữa đông và tây… Con người luôn đứng trước sự lựa chọn mà nghiêng về bên nào cũng có những mặt thuận lợi và mặt trái của nó. Giữa vòng xoáy của thời gian, chúng ta cần có một tâm thế vững vàng mới có thể không lạc mất bản thân.

Khoảnh khắc giao mùa luôn là khoảnh khắc đẹp của thiên nhiên ban tặng. Để cảm nhận được thời khắc này cần một đôi mắt tinh tế và trái tim nhạy cảm, cũng như để cảm nhận những chuyển biến của cuộc sống dù rất nhỏ bạn cũng cần phải sống thật chậm, sống đúng nghĩa với từng ngày.

Bài thơ Sang thu là bức thông điệp lúc giao mùa – mẫu 1

Hữu Thỉnh là thế hệ nhà thơ trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mỹ, thơ ông thường chứa đựng cảm xúc tha thiết, chân thành và rất giàu chất suy tư, triết lý. Sang thu cũng là một tác phẩm như vậy. Bài thơ được khơi nguồn cảm xúc từ khoảnh khắc giao mùa nhưng đằng sau đó còn là cảm xúc của tác giả về đời người lúc sang thu.

Top 4 bài Bài thơ Sang thu là bức thông điệp lúc giao mùa, em hãy trình bày mạch cảm xúc của bài thơ 2022 hay nhất (ảnh 2)

Tính suy tư, triết lí trong thơ Hữu Thỉnh được thể hiện ngay từ nhan đề bài thơ. Sang thu không chỉ là khoảnh khắc giao mùa của đất trời khi hè đã qua và mùa thu đang cựa mình đi tới. Mà sang thu còn ẩn dụ về cuộc đời con người. Đây là thời điểm con người đã sang thu, đã trải qua biết bao sóng gió, bởi vậy cũng trở nên vững vàng hơn trước mọi cơn giông bão của cuộc đời.

Bỗng nhận ra hương ổi

Phả vào trong gió se

Sương chùng chình qua ngõ

Hình như thu đã về

Tín hiệu đầu tiên mà tác giả cảm nhận được chính là hương ổi, một mùi hương thật dung dị, đậm chất thôn quê. Hương ổi thật chủ động, tự nhiên “phả vào trong gió se”. Với động từ “phả” tác giả đã miêu tả được hương thơm đậm đà như sánh lại, quyện lại và ùa vào gió se đầu thu. Sau sự cảm nhận về thính giác, tác giả tiếp tục cảm nhận mùa thu bằng thị giác với những đám sương chùng chình đi qua ngõ. Nghệ thuật nhân hóa cùng từ láy “chùng chình” đã làm cho làn sương trở nên sinh động, có hồn. Câu thơ như gợi ra trước mắt người đọc hình ảnh những hạt sương li ti, bé nhỏ, giăng mắc với nhau tạo thành màn sương mỏng nhẹ. Dáng đi của nó cũng thật chậm rãi, thong thả trước cửa ngưỡng mùa thu, như còn đang lưu luyến, bịn rịn với mùa hè. Trong giờ phút giao mùa ấy, lòng nhà thơ như đắm chìm vào không gian bàng bạc chất thu. Đó là cảm giác bất ngờ khi gặp tín hiệu thu về “bỗng” - là sự ngạc nhiên, ngỡ ngàng, một niềm vui, một thoáng xúc động trước những khoảnh khắc thu thật thu, con người thoát khỏi bộn bề cuộc sống để hòa mình vào thiên nhiên. Và tiếp đến là những mong manh cảm xúc, một chút bối rối tự hỏi mình “hình như”. Tình thái từ thể hiện rõ sự bâng khuâng, xao xuyến trong lòng thi nhân khi nhận ra những tín hiệu mùa thu. Hữu Thỉnh quả là người có giác quan vô cùng nhạy cảm thì ông mới có những cảm nhận tinh tế đến vậy về phút giao mùa.

Sang đến khổ thơ thứ hai, bức tranh mùa thu đã có những chuyển biến rõ ràng, đậm nét hơn. Từ không gian ngõ vườn nhỏ bé, Hữu Thỉnh vươn ngòi bút của mình đến không gian rộng lớn hơn, không gian bầu trời, sông nước. Dòng sông hiền hòa, thong thả chảy không còn cuồn cuộn, đỏ ngầu như những ngày nước lũ mùa hè. Đối lập với hình ảnh dòng sông là hình ảnh những cánh chim vội vã. Dường như những cơn gió se lạnh đã đâu đó len lỏi trong không gian bởi vậy những loài chim phải vội vã bay về phương nam tránh rét. Cách ông dùng từ cũng hết sức tinh tế: “bắt đầu”, chỉ mới là bắt đầu chứ chưa hẳn là vội vã bởi thu cũng chỉ mới chớm sang thôi. Mọi sự vật hiện tượng chuyển động thật thong thả, khẽ khàng bởi vậy chỉ có những tâm hồn tinh tế mới nhận thấy được.

Hai câu thơ sau là một điểm nhấn, tạo nên sự độc đáo cho bức tranh mùa thu: “Có đám mây mùa hạ/ Vắt nửa mình sang thu”. Đây là trường liên tưởng hết sức mới mẻ, độc đáo, gợi ra khung cảnh một làn mây mỏng nhẹ, đang uyển chuyển cựa mình chuyển bước sang thu. Đồng thời cũng có thấy tâm trạng lưu luyến, bịn rịn của đám mây: nửa lưu luyến mùa hạ, nửa háo hức nghiêng mình hẳn sang thu. Ở đoạn này tác giả tỏ ra hết sức tài tình khi mượn cái hữu hình của đám mây để gợi ra cái vô hình của không gian, ranh giới giao mùa. Thể hiện trường liên tưởng thú vị này không chỉ là cảm nhận bằng thị giác mà còn được cảm nhận chính bằng tâm hồn tinh tế nhạy cảm và lòng yêu thiên nhiên tha thiết của nhà thơ. Bức tranh mùa thu dường như được hoàn chỉnh, rõ nét hơn qua hai câu thơ tiếp theo: “Vẫn còn bao nhiêu nắng/ Đã vơi dần cơn mưa”. Mùa thu hiện ra rõ nét hơn qua sự thay đổi của các hiện tượng thiên nhiên: mưa, sấm – vốn là những dấu hiệu đặc trưng của mùa hạ, nay cũng “vơi dần”, “bớt bất ngờ”, mùa thu ngày một đậm nét hơn. Sau những cảm nhận ấy, lắng lại là những suy tư chiêm nghiệm của tác giả về con người về cuộc đời:

Sấm cũng bớt bất ngờ

Trên hàng cây đứng tuổi

Câu thơ trước hết mang ý nghĩa tả thực: sang thu những cơn mưa lớn kèm sấm đã vơi dần, bớt dần, đồng thời trải qua một mùa hè đầy giông bão những hàng cây đã không còn giật mình bởi những tiếng sấm mùa hạ nữa. Nhưng bên cạnh đó, câu thơ còn mang ý nghĩa biểu tượng: “sấm” là những vang động, những biến cố mà con người đã trải qua trong cuộc đời; “hàng cây đứng tuổi” là những con người trưởng thành đã từng trải qua bao thăng trầm, biến cố. Từ ý nghĩa đó nhà thơ gửi gắm suy tư, chiêm nghiệm của mình: khi con người đã trải qua những giông bão của cuộc đời sẽ bình tĩnh hơn trước những bất thường, những tác động của ngoại cảnh. Câu thơ chất chứa biết bao suy tư, chiêm nghiệm của tác giả về cuộc đời, về con người.

Hữu Thỉnh sử dụng thể thơ năm chữ tài hoa, giàu nhịp điệu. Bài thơ có nhịp điệu chậm, nhẹ nhàng, sâu lắng như chính bước đi chậm rãi của thời gian trong khoảnh khắc giao mùa từ hạ sang thu. Lớp ngôn từ giản dị, giàu giá trị tạo hình: phả, vắt, chùng chình, dềnh dàng, vội vã, … diễn tả tinh tế những dấu hiệu mùa thu. Ngoài ra ông còn có những trường liên tưởng bất ngờ, độc đáo làm tứ thơ sinh động, hấp dẫn hơn. Hình ảnh thơ có chọn lọc, đặc sắc mang nét đặc trưng của thời tiết lúc giao mùa: hạ - thu.

Tác phẩm đã đem đến cho thi ca Việt Nam một bức tranh phong cảnh sang thu thật đặc biệt, ý nghĩa. Đồng thời qua bài thơ ta còn thấy được những cảm nhận tinh tế của tác giả trong việc tái hiện khoảnh khắc chuyển mùa từ hạ sang thu với sự giao thoa của nhiều lớp nghĩa: đất trời khi sang thu, đời sống sang thu và đời người sang thu.

Bài thơ Sang thu là bức thông điệp lúc giao mùa – mẫu 2

Mùa thu là nguồn cảm hứng thơ bất tận cho các thi sĩ. Nhà thơ nào cũng muốn vẽ được một bức tranh thu cho riêng mình. Và Hữu Thỉnh đã có được một cái tứ rất riêng đó là thời khắc lúc giao mùa. Bài thơ "Sang Thu" là những cảm nhận, những rung động man mác, bâng khuâng của tác giả trước sự biến đổi kì lạ trong thời khắc giao mùa của đất trời trong ngưỡng thu.

Sinh ra và lớn lên ở Vĩnh Phúc, Hữu Thỉnh không còn lạ lẫm gì với mùa thu đất Bắc. Thế nhưng, khi cảm nhận tín hiệu thu mến yêu, ông cũng không khỏi ngỡ ngàng. Đối với ông, thu đến với những cảm giác mơn man khó tả:

“Bỗng nhận ra hương ổi

Phả vào trong gió se

Sương chùng chình qua ngõ

Hình như thu đã về”

Như một quy luật tuần hoàn của tạo hóa, dường như thu đã lại sang. Có vẻ bức tranh thu đã được điểm những nét đầu tiên: hương ổi phả nhè nhẹ, thoang thoảng đưa vào trong gió se - gió đã nhẹ lại chứ không còn là “nồm nam cơn gió thốc” nữa rồi. Theo trong gió chính là làn hương mộc mạc của làng quê nhỏ. Lớp sương chùng chình khắp nơi dường như cũng chẳng muốn rời. Sương cũng mang đầy tâm trạng, bước đi chầm chậm theo nhịp điệu của mùa thu. Cái tín hiệu mùa thu đó là hương, là gió hay là sương? Chẳng lẽ là tất cả. Cái cảm giác bất ngờ thể hiện trong từ “bỗng” đầu tiên lan tỏa vào không gian rất đỗi thân quen, xao xuyến vô cùng. Chính thế mà thi sĩ còn đang ngỡ ngàng vẫn còn tự hỏi mình: Trong khi đất trời bắt đầu có những chuyển biến nhẹ nhàng, hình như thu đã về?... Nhận thấy đó mà chưa tin hẳn, vì lòng yêu say mùa thu quá.

Cái cảm giác “hình như” đó gần như bị xóa tan bởi những tín hiệu chuyển mùa dần hiện ra rõ hơn:

“Sông được lúc dềnh dàng

Chim bắt đầu vội vã

Có đám mây mùa hạ

Vắt nửa mình sang thu”

Bức tranh thu dường như đã đậm màu hơn bởi cảnh vật ngày càng nhiều thay đổi: những con sông đã không còn gấp gáp, mà lững lờ trôi, chầm chậm, “dềnh dàng” khi dành nước cho mùa thu. Phải chăng chúng đã thả hồn mình vào các khoảnh khắc giao mùa này? Trái ngược với sự “lặng lẽ” đó là biểu hiện có vẻ gấp gáp của những cánh chim trời. Chúng đang vội vã làm gì? Làm tổ, tích trữ thức ăn cho mùa đông giá lạnh hay đang rục rịch chuẩn bị cho chuyến hành trình xa xứ tránh rét về một chân trời xa xôi nào đó? Hai câu thơ đã vẽ nên những nét đối lập: đâu phải mùa thu lúc nào cũng “lặng lẽ” bởi vạn vật xung quanh ta đều chuyển biến kì lạ theo cách riêng của chúng. Thiên nhiên đầy bí mật, cũng giống như cuộc sống chúng ta - một xã hội với nhiều tầng: có người giàu, có người nghèo, người đang hạnh phúc tận hưởng cuộc sống này, người đang tất tả mưu sinh. Đúng là đầy biến động! Nhưng hiện lên trong tất cả điểm sáng, có lẽ long lanh nhất chính là đám mây vấn vương chút nắng hạ:

“Có đám mây mùa hạ

Vắt nửa mình sang thu”

Đám mây đó chắc còn lưu luyến chút gì của mùa hạ đang qua? Cũng có thể nó là kỉ niệm của “hạ” dành cho “thu”. Nó dường như là chiếc cầu nối hữu tình dành cho đôi bờ kì lạ. Cái khoảnh khắc thiêng liêng này đang đậu trên đám mây như là chứng tích của giao mùa. “Vắt” - đang đặt ngang trời hay chẳng biết đang ở chốn nào. Đám mây cứ nhè nhẹ trôi để rồi thời gian cũng chảy qua. Bức tranh thu đang chứa đựng cái nét hữu hình để gợi nên cái cảnh vốn vô hình!

Thu đã gần sang, đất trời cũng đang đứng lại, nó không còn bất chợt đến, rồi lại bất chợt đi như mùa hạ nữa rồi:

“Vẫn còn bao nhiêu nắng

Đã vơi dần cơn mưa

Sấm cũng bớt bất ngờ

Trên hàng cây đứng tuổi”

Có thể nói rằng: Cái dáng hạ vẫn còn đó mà cái hồn hạ đã bay đi đâu rồi. Vẫn là cái nắng, mưa, sấm, chớp vương lại những cái dữ dội, khắc nghiệt của nắng, tính “đỏng đảnh” của mưa hay sự vội vàng của sấm thì đã nhạt dần theo từng phút giao mùa. Bức tranh sang thu càng lộ rõ thì những ý nghĩ về nhân tình thế thái cũng theo đó hiện lên.

Qua phép ẩn dụ ở hai dòng thơ cuối, người đọc cảm nhận sau tiếng “sấm” là những giông bão của cõi đời, cõi người. Hữu Thỉnh đã điểm nét chính vào bức tranh - đó là hình bóng con người. Hạ qua, thu đến, con người ta dường như đã già hơn một chút. Chính thế mà những kinh nghiệm đường đời đã dày thêm một ít trong hành trang của họ, giúp họ vững vàng hơn trước những phong ba của cuộc sống đầy biến động. Hình ảnh thơ đẹp, ngôn từ sắc sảo, giàu hàm nghĩa đã tạo nên những rung động, dấu ấn khó quên cho người đọc. Hữu Thỉnh đã trải lòng qua tuyệt tác lúc giao mùa: Sang thu!

Hữu Thỉnh đã cảm nhận được sâu sắc cuộc sống con người. Và thi nhân đã gửi vào thu lời nhắn nhủ con người sống phải biết chấp nhận và vững vàng vượt qua thử thách. Như thế, bài thơ vừa là một bức tranh thiên nhiên đẹp vừa là một phác họa đầy ám ảnh về con người - một phần diệu kì của thiên nhiên kì diệu.

Phân tích bài thơ Sang thu – mẫu 1

Mùa thu quê hương là đề tài gợi cảm xúc đối với thi nhân song mỗi người cảm xúc về mùa thu theo cảm nhận riêng của mình. Với nhà thơ Hữu Thỉnh, khoảnh khắc giao mùa từ hạ sang thu đã rung động hồn thơ để thi sĩ vẽ nên một bức tranh thơ: “Sang thu” thật hay. Bài thơ được viết theo thể thơ năm chữ: nhịp nhàng, khoan thai, êm ái, trầm lắng và thoáng chút suy tư… thể hiện một bức tranh thu trong sáng, đáng yêu ở vùng nông thôn đồng bằng Bắc Bộ.

Bài thơ mở đầu bằng một phát hiện bất ngờ. Đó là những cảm nhận ban đầu của nhà thơ về cảnh sang thu của đất trời:

Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về

Thiên nhiên được cảm nhận từ những gì vô hình. “Hương ổi” phả trong gió thu se se lạnh (se lạnh và hơi khô), “Hương ổi” là làn hương đặc biệt của mùa thu miền Bắc được cảm nhận từ mùi ổi chín rộ. Từ “phả”: động từ có nghĩa là toả vào, trộn lẫn. Người ta có thể dùng các từ: toả, bay, lan, tan… thay cho từ “Phả” nhưng cả bấy nhiêu từ đều không có cái nghĩa đột ngột bất ngờ. Từ “phả” cho thấy mùi hương ổi ở độ đậm nhất, thơn nồng quyến rũ, hoà vào trong gió heo may của mình thì lan toả khắp không gian tạo ra một mùi thơm ngọt mát của những trái ổi chín vàng – hương thơm nồng nàn hấp dẫn của những vườn cây sum suê trái ngọt ở nông thôn Việt Nam.

Sương chùng chình biểu thị trạng thái tĩnh lặng của không gian, tuy có chuyển động nhưng rất nhẹ nhàng. Những hạt sương nhỏ li ti giăng mắc như một làn sương mỏng nhẹ nhàng trôi, đang “cố ý” chậm lại thong thả, nhẹ nhàng, chuyển động chầm chậm sang thu. Hạt sương sớm mai cũng như có tâm hồn, có cảm nhận riêng cũng nhẹ nhàng, thong thả qua ngưỡng cửa của mùa thu. Tác giả lấy động tả tĩnh, gợi nhiều hơn tả, khắc họa rõ nét trạng thái của cảnh vật ngay lúc giao mùa.

Sự góp mặt của làn sương buổi sớm cùng với hương ổi đã làm con người giật mình thảng thốt: “Hình như thu đã về”. Đó là cái giật mình thảng thốt trước dấu hiệu đầu tiên của mùa thu, chưa chắc chắn lắm nhưng hết sức rõ ràng. Tâm hồn nhạy cảm của nhà thơ đã mách bảo ông điều đó. Trong khi, thời gian đã chạm tới thời khắc thì ông chưa có sự chuẩn bị nào để đón nhận. Bởi thế, ông giật mình, ông vội vã đi xác minh. Từ “hình như” trong câu thơ biểu thị rõ ràng cảm xúc ấy. Nó như vừa là một sự ngạc nhiên vừa như là tiếng reo vui khẽ động đậy trong tâm hồn nhà thơ.

Cách kết hợp một loạt các từ: “bỗng, phá, hình như” thể hiện tâm trạng ngỡ ngàng, cảm xúc bâng khuâng trước thoáng đi bất chợt của mùa thu. Nhà thơ giật mình, hơi bối rối, hình như còn có chút gì chưa thật rõ ràng trong cảm nhận. Vì đó là những cảm nhận nhẹ nhàng, thoáng qua, hay là vì quá đột ngột mà tác giả chưa nhận ra? Tâm hồn thi sĩ biến chuyển nhịp nhàng với phút giao mùa của cảnh vật. Từng cảnh sang thu của cảnh vật đã thấp thoáng hồn người cũng chùng chình bịn rịn lưu luyến, bâng khuâng…

Để minh chứng cho những cảm nhận của mình, nhà thơ mở rộng tầm nhìn ra với không gian rộng lớn của đất trời. Hình ảnh thiên nhiên sang thu được nhà thơ phát hiện bằng những hình ảnh quen thuộc làm nên một bức tranh mùa thu đẹp đẽ và trong sáng:

Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu

Dòng sông quê hương thướt tha mềm mại, hiền hoà trôi một cách nhàn hạ, thanh thản sau những ngày hè nước lũ, gợi lên vẻ đẹp êm dịu của bức tranh thiên nhiên mùa thu. Những cánh chim chiều bắt đầu vội vã bay về phương nam tránh rét trong những buổi hoàng hôn.

Đối lập với hình ảnh trên, hình ảnh “đám mây mùa hạ” được nhà thơ cảm nhận đầy thú vị qua sự liên tưởng độc đáo: “vắt nửa mình sang thu”. Gợi hình ảnh một làn mây mỏng, nhẹ, kéo dài của mùa hạ còn sót lại như lưu luyến, đó là vẻ đẹp của bầu trời sang thu. Cảm giác giao mùa được diễn tả cụ thể và tinh tế bằng một hình ảnh đám mây của mùa hạ cũng như đang bước vào ngưỡng cửa của mùa thu vậy. Dường như giữa mùa hạ và mùa thu có một ranh giới cụ thể, hữu hình, hiển hiện.

Phép liên tưởng đầy thú vị không chỉ cảm nhận bằng thị giác mà là sự cảm nhận bằng chính tâm hồn tinh tế, nhạy cảm, yêu thiên nhiên tha thiết của Hữu Thỉnh. (Liên hệ trong bài thơ “Chiều sông Thương”, ông cũng có một câu thơ tương tự về cách viết: “Đám mây trên Việt Yên, Rủ bóng về Bố Hạ).

Bằng sự cảm nhận qua nhiều giác quan, sự liên tưởng thú vị, bằng tâm hồn nhạy cảm, tinh tế của tác giả, tất cả không gian cảnh vật như đang chuyển mình từ từ điềm tĩnh bước sang thu. Người đọc cảm nhận cả về không gian và thời gian chuyển mùa thật là đẹp, thật là khêu gợi hồn thơ.

Hân hoan đó nhận mùa thu về, với tất cả những biểu hiện của nó, nhà thơ bỗng nhiên nghĩ về cuộc đời, nghĩ về kiếp nhân sinh, đời người. Cuộc đời vốn gắn kết với đất trời. nay đất trời có những bước chuyển biến mạnh mẽ không khỏi khiến nhà thơ bùi ngùi:

Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi.

Nắng là hình ảnh cụ thể của mùa hạ. Nắng cuối hạ vẫn còn nồng, còn sáng nhưng đã nhạt dần, yếu dần bởi gió se đã đến chứ không chói chang, dữ dội, gay gắt. Mưa là hình ảnh của đất trời biến động. Nắng đã vơi dần. Mưa cũng đã ít đi. Cơn mưa mùa hạ thường bất ngờ chợt đến rồi lại chợt đi.

Tác giả dùng từ “vơi” có giá trị gợi tả như sự đong đếm những sự vật có khối lượng cụ thể để diễn tả cái số lượng vô định – diễn tả cái thưa dần, ít dần, hết dần những cơn mưa rào ào ạt, bất ngờ của mùa hạ. Tất cả đều chầm chậm, từ từ, không vội vã, không hối hả.

Hình ảnh “Sấm cũng bớt bất ngờ. Trên hàng cây đứng tuổi” biểu thị sự chiêm nghiệm của nhà thơ trước dòng đời nghiệt ngã. Trước hết, hình ảnh mang ý nghĩa tả thực: hình tượng sấm thường xuất hiện bất ngờ đi liền với những cơn mưa rào chỉ có ở mùa hạ (sấm cuối mùa, sấm cuối hạ cũng bớt đi, ít đi lúc sang thu). Hàng cây cổ thụ, cảnh vật thiên nhiên vào thu không còn giật mình, bất ngờ bởi tiếng sấm mùa hạ.

“Sấm” và “hàng cây đứng tuổi” là một phép ẩn dụ (gợi nhiều liên tưởng, suy ngẫm ở người đọc). “Sấm” chính là những biến cố bất thường của ngoại cảnh, của cuộc đời. “Hàng cây đứng tuổi” gợi tả những con người từng trải đã từng vượt qua những khó khăn, những thăng trầm của cuộc đời. Khi con người trải nghiệm nhiều sẽ trở nên hiểu mình, hiểu người, hiểu đời hơn. Con người sẽ bình tĩnh đón nhận mọi biến cố trong cuộc đời. Nhưng con người không ngậm ngùi nuối tiếc mà chỉ thấy mình vững vàng hơn. Thời gian trôi nhanh qua cửa, cuộc đời mỗi con người là một chứng nhân nhìn mùa thu đi qua. Bởi thế tiếc nuối vẫn mãi là cảm xúc của con người trước thời gian.

Đất trời sang thu khiến lòng người cũng bâng khuâng, cảm xúc, gợi bao suy nghĩ về đời người lúc sang thu. Mùa thu đến không chỉ làm cho cảnh vật thay đổi mà suy nghĩ của con người cũng thay đổi. Thời khắc giao mùa thường đem đến cho người ta nhiều điều mới mẻ, thú vị. Và thấp thoáng trong 2 câu thơ cuối bài thể hiện suy ngẫm về đời người “Sấm cũng bớt bất ngờ. Trên hàng cây đứng tuổi”. Lòng người đã lắng lọc rất sâu để nhận ra những xao động mơ hồ huyền ảo của thiên nhiên và những sao động bâng khuâng sâu lắng của con người.

Trong một bài phỏng vấn gần đây, Hữu Thỉnh đã giải thích “Sấm là những khó khăn thử thách mà dân tộc Việt Nam đã trải qua hai cuộc chiến tranh ác liệt chống Pháp và Mỹ. Còn hàng cây là hình ảnh của đất nước, dân tộc ta vững vàng vượt qua thử thách. Trải qua bao nhiêu thử thách, bom đạn ác liệt, chúng ta không còn sợ bất cứ thế lực nào, vững vàng vượt lên phía trước trong công cuộc xây dựng đất nước”.

“Sang thu” của Hữu Thỉnh đã không chỉ mang đến cho người đọc những cảm nhận mới về mùa thu quê hương mà còn làm sâu sắc hơn tình cảm quê hương trong trái tim mọi người. Miêu tả mùa thu bằng những bước chuyển mình của vạn vật, Hữu Thỉnh đã góp thêm một cách nhìn riêng, một lối miêu tả riêng cho mùa thu thi ca thêm phong phú.

Phân tích bài thơ Sang thu – mẫu 2

Hữu Thỉnh thuộc lớp nhà thơ trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mĩ của dân tộc ta. Ông viết nhiều, viết hay về những con người ở nông thôn, về mùa thu. Nhiều vần thơ thu của ông mang cảm xúc bâng khuâng, vấn vương trước đất trời trong trẻo, đang biến chuyển nhẹ nhàng. Thơ ông mang đậm hồn quê Việt Nam dân dã, mộc mạc tinh tế và giàu rung cảm. Sang thu là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách thơ ấy.

Bài thơ đưa ta đến với cảnh đất trời Việt Nam khi sang thu, từ gần đến xa, với những nét rất gần gũi, thân thương:

Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về.

Mọi hình ảnh, hiện tượng đó của đất trời khi chuyển từ hạ sang thu mọi người đều biết, đều quen. Vậy mà đến bài thơ này của Hữu Thỉnh ta mới cảm nhận được đầy đủ vẻ đẹp êm ả, thanh bình của nó. Hương ổi, gió se, sương mỏng, mây nhởn nhơ bay, chim vội vã về phương nam, nắng vẫn rực vàng, mưa vơi dần, tiếng sấm bớt hẳn… những tín hiệu báo mùa thu về ấy sao mà thân thương, gần gũi, nao nao gợi nhớ một miền quê thời thơ ấu trong kí ức của mỗi chúng ta.

Nhà thơ không viết “Thu sang” mà chọn tựa đề là “Sang thu” nghĩa là mùa thu chỉ mới bắt đầu. Từ “thu” làm bổ ngữ cho động từ “sang” gợi chủ thể cảm nhận sự chuyển mùa ấy là con người. Cách đặt tựa đề báo hiệu những cảm nhận tinh tế và riêng biệt về mùa thu.

Hương thơm của những trái ổi chín trong vườn “vào trong gió se” tức là hương thơm bốc mạnh và tỏa ra thành luồng, chứ không thoang thoảng. Nhà thơ vừa ngửi thấy mùi hương ổi, lại vừa cảm nhận được cái se lạnh của gió đầu thu. Hương thì đậm đà mà gió thì nhè nhẹ nên không gian rất đỗi nồng nàn.

Sương thu thì “chùng chình”qua ngõ, nghĩa là nó cố ý nhởn nhơ, chậm chạp lại, quấn quýt bên ngõ xóm, đường làng hay quấn quýt, giao hòa cùng người ngắm cảnh? Hương ổi, gió se, sương thu là những kí hiệu làm nhà thơ giật mình nhận ra: “Hình như thu đã…”. Cảm xúc của tác giả vừa nhẹ nhàng, vừa bâng khuâng.

Bằng sự tinh nhạy của tất cả các giác quan, nhà thơ cảm nhận những nét đặc trưng của mùa thu đều hiện diện. Mùa thu có “hương ổi”, có “gió se” và làn sương mơ “chùng chình” trước ngõ. Mùa thu đã về trên quê hương. Vậy mà nhà thơ vẫn còn dè dặt. Thu đến nhẹ nhàng quá. Nhẹ nhàng đến nỗi chưa hẳn tin đó là sự thật. Bởi thế, có thể thấy, đằng sau không gian làng quê sang thu ấy ta cảm nhận được tâm hồn nhạy cảm của một tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống đến đắm say, cuồng nhiệt của nhà thơ.

Sau giây phút bối rối, ngỡ ngàng nhà thơ bước ra với đất trời để “kiểm chứng” nỗi hoài nghi của mình. hực là, mùa thu đã “sang” rồi. Mùa thu đã về khắp đất trời. Đây không phải là mùa thu đầu tiên trong đời nên sự hân hoan đã nhường chỗ cho sự đằm lắng, dịu nhẹ, khoan thai mà đón nhận:

Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu

“Sông được lúc dềnh dàng” chậm chạp, rề rà, không vội vàng gì. Người đọc như được thấy mặt nước phẳng lặng của sông thu soi chiếu cánh chim vội vã bay từ khung trời chói chang của mùa hạ sang khung trời ấm áp của mùa thu. Có lẽ, vì luyến lưu bờ xinh bãi đẹp mà con dòng nước cũng không muốn trôi đi chăng?

Những đám mây trên bầu trời cũng “vắt nửa mình sang thu” như chưa muốn rời xa mùa hạ nồng ấm. Đám mây lưu luyến lúc giao mùa được cảm nhận bằng tâm hồn tinh tế và trong trẻo. Và mùa hạ dần qua cũng vơi dần những cơn mưa rào, trả lại cho trời thu sắc xanh muôn thuở. Qua cách cảm nhận ấy, ta thấy Hữu Thỉnh có một hồn thơ nhạy cảm, yêu thiên nhiên tha thiết, một trí tưởng tượng bay bổng.

Nếu ở hai khổ thơ đầu của bài thơ, dấu hiệu mùa thu đã khá rõ ràng trong không gian và thời gian, sang khổ cuối vẫn theo dòng cảm xúc ấy, tác giả bộc lộ suy ngẫm của mình về con người, về cuộc đời:

Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi”.

Nắng ấm và mưa giông là những dấu hiệu đặc trưng của mùa hạ. Nay những dấu hiệu ấy tuy có vơi nhưng hãy còn rạo rực lắm. Hai từ “bao nhiêu” thể hiện sự tiếc nuối mênh mang của nhà thơ đối với màu hạ. Đối với nhà thơ, bốn mùa đều đẹp tươi. Mùa thu mang tới bao điều mới mẻ nhưng mùa hạ cũng lắm kỉ niệm ấm áp. Chia biệt cái cũ, đón nhận cái mới, ở giữa ranh giới ấy khiến cho tâm hồn nhạy cảm của nhà thơ không khỏi ngậm ngùi.

Hai câu kết vừa có ý nghĩa tả thực, lại vừa có ý nghĩa hàm ẩn. Ý nghĩa tả thực là tả hiện tượng sấm và hàng cây lúc sang thu. Còn ý nghĩa hàm ẩn mà nhà thơ gửi gắm ở đây có lẽ là những vang động bất thường của ngoại cảnh, của cuộc đời (sấm) đã bớt đi sự bất ngờ đối với những người từng trải (cây đứng tuổi). Đây là sự suy ngẫm của tác giả về nhân sinh, về quy luật của cuộc sống nhân nói về cảnh thiên nhiên đất trời sang thu.

Rõ ràng, khi viết bài thơ này, Hữu Thỉnh đã bước vào tuổi trung niên, đã đi qua một thời trai trẻ trong chiến tranh nên những chiêm nghiệm của nhà thơ có sức khơi gợi cho mọi người về lẽ sống làm người: Ta hãy bình tĩnh mà đón nhận và giải quyết mọi vấn đề gặp phải trong cuộc sống.

“Sang thu” đâu chỉ là sự chuyển giao của đất trời mà còn là sự chuyển giao cuộc đời mỗi con người. Hữu Thỉnh rất đỗi tinh tế, nhạy bén trong cảm nhận và liên tưởng. Chính vì vậy những vần thơ của ông có sức lay động lòng người mãnh liệt hơn.

Biểu hiện về màu thu, thơ xưa lấy động để tả tĩnh, gợi nhiều hơn tả. Nguyễn Khuyến trong bài thơ Mùa thu câu cá đã diễn tả tài tình cảnh sắc mùa thu, vừa tinh khôi, sạch sẽ, vừa gợi buồn, gợi nhớ:

“Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,
Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo.
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt,
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.
Tựa gối, buông cần lâu chẳng được,
Cá đâu đớp động dưới chân bèo”.

“Ao thu trong veo”, “lá vàng”, “tầng mây”, “ngõ trúc” vốn là thi liệu mặc định của mùa thu. Nguyễn Khuyến với cái tài tả cảnh bậc thầy đã khéo léo sắp đặt nên bức tranh thu tuyệt đỉnh, trước và sau ông khó ai bì kịp.

Nhà thơ Lưu Trọng Lư trong bài Tiếng thu cũng đã có những cảm nhận tinh tế, đầy xúc cảm trước sự dịch chuyển của mùa thu:

“Em không nghe rừng thu
Lá thu kêu xào xạc
Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô?”

Không biểu hiện rõ ràng như Hữu Thỉnh trong bài Sang thu, Lưu Trọng Lư gợi nhiều hơn tả. Tiếng lá vàng khô vỡ vụn dưới những bước chân nai ngơ ngác biểu thị rõ ràng của mùa thu đến. Nó vừa đến, chưa rõ ràng nên khiến cho con nai – chủ thể cảm nhận – ngơ ngác. Tiếng thu đích thực của Lưu Trọng Lư là như vậy đó. Ta không nghe tiếng thu ấy bằng tai mà nghe bằng trí tưởng tượng, nghe vang lên trong tâm hồn, mỗi khi thấy lá ngoài đường rụng nhiều và những đám mây bàng bạc trên không…

Bằng hình ảnh thơ tự nhiên, không trau chuốt mà giàu sức gợi cảm, thể thơ năm chữ linh hoạt, giọng thơ ngọt ngào, đằm thắm, nghệ thuật đan xen miêu tả và cảm xúc tự nhiên, hài hòa, bài thơ Sang thu của Hữu Thỉnh đánh thức tình cảm của mỗi người về tình yêu quê hương đất nước và suy ngẫm về cuộc đời.

Đôi nét về tác giả, tác phẩm

1. Tác giả

- Hữu Thỉnh (sinh năm 1942), tên đầy đủ là Nguyễn Hữu Thỉnh.
- Quê ở Tam Dương, Vĩnh Phúc.

- Năm 1963, ông nhập ngũ rồi trở thành cán bộ văn hóa tuyên huấn trong quân đội và bắt đầu sáng tác thơ.

- Ông đã tham gia Ban chấp hành hội nhà văn Việt Nam các khóa III, IV, V.

- Năm 2000, Hữu Thỉnh trở thành Tổng thư ký Hội nhà văn Việt Nam.

- Năm 2005, ông là Chủ tịch Hội nhà văn Việt Nam.

- Năm 2010, Hữu Thỉnh là Chủ tịch Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các hội Văn học nghệ thuật Việt Nam kiêm Chủ tịch Hội nhà văn Việt Nam.

- Một số tác phẩm: Từ chiến hào đến thành phố, Đường tới thành phố, Mưa xuân trên tháp pháo...

2. Tác phẩm

1. Hoàn cảnh sáng tác

Bài thơ sáng tác năm mùa thu năm 1977, in trong tập Từ chiến hào đến thành phố (NXB Văn học, 1991).

2. Thể thơ

Bài thơ “Sang thu” thuộc thể thơ năm chữ

3. Bố cục

- Khổ 1: Cảm nhận về thiên nhiên lúc giao mùa, tín hiệu báo thu về

- Khổ 2: Cảm nhận về quang cảnh trời đất lúc vào thu

- Khổ 3: Những biến chuyển âm thầm của tạo vật và suy ngẫm về cuộc đời người lúc chớm thu

4. Nội dung chính

“Sang thu” là những cảm nhận hết sức tinh tế của nhà thơ trước khoảnh khắc giao mùa và những suy ngẫm của tác giả về cuộc đời ẩn chứa qua bức tranh thiên nhiên ấy. 

5. Phương thức biểu đạt chính: Biểu cảm

6. Thể thơ: Ngũ ngôn (5 chữ)

7. Giá trị nội dung

- Cảm nhận tinh tế trước mùa thu vào thời điểm giao mùa

- Suy ngẫm sâu lắng về con người và cuộc đời.

à Bài thơ thể hiện những cảm nhận tinh tế của nhà thơ trước vẻ đẹp của thiên nhiên trong khoảng khắc giao mùa.

8. Giá trị nghệ thuật

- Khắc họa được hình ảnh thơ đẹp, gợi cảm, đặc sắc về thời điểm giao mùa hạ-thu ở nông thôn vùng đồng bằng Bắc Bộ.

-  Sáng tạo trong việc sử dụng từ ngữ, phép nhân hoá, phép ẩn dụ.

Tài liệu có 16 trang. Để xem toàn bộ tài liệu, vui lòng tải xuống
Đánh giá

0

0 đánh giá

Tải xuống