TOP 15 bài Nghị luận về bài thơ Con cò 2023 SIÊU HAY

Tải xuống 14 4.4 K 1

Tailieumoi.vn xin giới thiệu đến các quý thầy cô, các em học sinh lớp 9 bài văn mẫu Phân tích đoạn đầu của bản Tuyên ngôn độc lập hay nhất, gồm 14 trang trong đó có dàn ý phân tích chi tiết, sơ đồ tư duy và 15 bài văn mẫu hay nhất giúp các em học sinh có thêm tài liệu tham khảo trong quá trình ôn tập, củng cố kiến thức và chuẩn bị cho bài thi môn Văn sắp tới. Chúc các em học sinh ôn tập thật hiệu quả và đạt được kết quả như mong đợi.

Mời các quý thầy cô và các em học sinh cùng tham khảo và tải về chi tiết tài liệu dưới đây:

NGHỊ LUẬN BÀI THƠ CON CÒ

Nghị luận bài thơ Con cò - mẫu 1

Phạm Duy từng viết trong một bài thơ của mình câu thơ đặc sắc như sau: "Ta đi trọn kiếp con người/ Cũng khi đi hết những lời mẹ ru". Ý nghĩa của những lời mẹ ru đã trở nên thận thuộc gắn bó với tuổi thơ của mỗi người. Cũng với những xúc cảm yêu thương sâu sắc của tình mẫu tử thiêng liêng ấy Chế Lan Viễn đã thể hiện một cách sâu sắc và tinh tế những cảm xúc ấy qua bài thơ Con cò. Một bài thơ để lại nhiều ấn tượng cho người đọc về những kỷ niệm thời thơ ấu, về lời ru tha thiết ngọt ngào, để lại những suy tư thật êm đềm về lòng mẹ đối với đứa con yêu dấu của mình.

Top 4 bài Nghị luận về bài thơ Con cò 2022 hay nhất (ảnh 1)

Chế Lan Viên (1920-1989), tên thật là Phan Ngọc Hoan, quê gốc ở Quảng Trị, lớn lên ở Đình Định. Sự nghiệp sáng tác của ông trải dài khoảng hơn 50 năm. Trước Cách mạng ông nổi lên với tập thơ Điêu tàn (1937), tập thơ đã đưa Chế Lan Viên trở thành một trong những nhà thơ xuất sắc nhất của phong trào thơ mới. Sau Cách mạng ông lại là một nhà văn xuất sắc của thơ ca Cách mạng Việt Nam với những tập thơ Hoa ngày thường - Chim báo bão (1967), Di cảo thơ (1989). Thơ của Chế Lan Viên luôn giàu chất trí tuệ, có màu sắc suy tưởng, triết lý. Thơ ông còn có năng lực sáng tạo hình ảnh rất độc đáo, phong phú và tinh tế.

Con cò được sáng tác năm 1962, in ở trong tập Hoa ngày thường - Chim báo bão (1967). Bài thơ được viết theo thể thơ tự do, các câu ngắn dài đan xen một cách nhuần nhuyễn, cả bài thơ là âm điệu của những lời ru mà người mẹ dành cho con mình. Con cò khai thác hình tượng con cò trong những lời hát ru qua đó ca ngợi tình mẹ và ý nghĩa của lời ru đối với mỗi con người. Bài thơ có sự vận dụng rất sáng tạo cấu tứ của ca dao, cùng thở thơ tự do, có những hình ảnh hết sức gần gũi thân thuộc vừa mang ý nghĩa biểu tượng vừa gợi âm hưởng lời ru êm đềm trong tiềm thức mỗi người.

Trong khúc ru thứ nhất, hình ảnh con cò bắt đầu đến với tuổi thơ của đứa bé thật thong thả, ung dung.

“Con còn bế trên tay

Con chưa biết con cò

Nhưng trong lời mẹ hát

Có cánh cò đang bay…”

"Con cò bay la

Con cò bay lả

Con cò Cổng Phủ

Con cò Đồng Đăng..."

Hình ảnh con cò không chỉ xuất hiện ở nhan đề mà còn xuất hiện trở đi trở lại trong suốt bài thơ, sự lặp lại ấy nhằm tập trung triển khai nhan đề của tác phẩm, với nhiều ý nghĩa khác nhau trong suốt bài thơ. Âm hưởng của ca dao đã hiện lên ngay trong những dòng thơ mà tác giả tinh tế đặt trong ngoặc kép, là những cấu tư mà Chế Lan Viên đã tinh tế lược lấy để đưa vào thơ mình, nhằm thể hiện chân thực cái lời mẹ ru con. Người mẹ đã đưa vào tâm trí đứa con còn bế trên tay, bằng lời tâm tình, lời hát ru dịu dàng, cái khung cảnh quen thuộc nơi làng quê, thật yên bình, tươi đẹp, cho con say giấc êm đềm.

Có thể thấy trong lời ru của mẹ, cánh cò luôn hiện diện, cũng như những tình cảm ấm áp trìu mến yêu thương mà người mẹ dành cho đứa con thơ. Hai câu thơ tiếp:

"Cò một mình, cò phải kiếm lấy ăn

Con có mẹ, con chơi rồi lại ngủ"

Tác giả viết bằng câu tám chữ với cấu trúc vừa song hành, vừa tương phản của cò và con. Lời ru của người mẹ vừa bộc lộ nỗi xót xa, ái ngại cho sự cô độc, lẻ loi của cánh cò nhỏ bé, người mẹ lại khẳng định sự che chở, nuôi dưỡng đùm bọc con, con khác với cò, con có sự chăm chút nuôi nấng cả mẹ, con có thể thoải mái chơi rồi ngủ. Hình ảnh cánh cò từ trong ca dao lại tiếp tục xuất hiện:

"Con cò ăn đêm

Con cò xa tổ

Cò gặp cành mềm

Cò sợ xáo măng..."

Khác với hình ảnh con cò trong ca dao ở bên trên, ở đây Chế Lan viên cũng dùng âm hưởng của ca dao, nhưng lại để miêu tả nỗi vất vả, khó nhọc của con cò. Cò phải cô độc mò mẫm, gặp biết bao nguy hiểm, phải sợ sệt. Qua đó ta cũng có thể nhận thấy đây dường như là một hình ảnh ẩn dụ, gửi gắm vào đó thân phận của người nông dân chân lấm tay bùn, chịu nhiều vất vả, đắng cay, đặc biệt là thân phận những người bà, người mẹ phải lặn lội kiếm sống từng ngày. Tuy vậy nhưng họ vẫn nỗ lực giữ gìn nhân cách, phẩm giá thanh cao, giữ lại đức cho con cháu mình.

"Ngủ yên, ngủ yên, cò ơi, chớ sợ

Cành có mềm, mẹ đã sẵn tay nâng

Trong lời ru của mẹ thấm hơi xuân

Con chưa biết con cò con vạc

Con chưa biết những cành mềm mẹ hát

Sữa mẹ nhiều, con ngủ chẳng phân vân"

Chế Lan Viên đi từ hình ảnh con cò ung dung, thanh thản bay từ cửa Phủ, bay từ Đồng Đăng đến con cò ăn đêm, con cò xa tổ. Tất cả đều là những nỗi lo lắng, trăn trở, những dự cảm sâu sắc của người mẹ về những bất trắc có thể xảy ra đối với đứa con bé bỏng của mình. Chính thế người mẹ đã thể hiện lòng bao dung che chở cho con bằng những lời ru thật ấm áp, ngọt ngào "thấm hơi xuân", bằng tình mẹ bao la khi "Sữa mẹ nhiều, con ngủ chẳng phân vân". Mẹ đã sẵn tay nâng cành mềm, che chở con khỏi sợ hãi, đơn độc, cho con những ngày tháng thật êm đềm, hạnh phúc, mà không cần phải lo đến "những cành mềm mẹ hát".

"Ngủ yên, ngủ yên, ngủ yên

Cho cò trắng đến làm quen

Cò đứng ở quanh nôi

Rồi cò vào trong tổ

Con ngủ yên thì cò cũng ngủ

Cánh của cò, hai đứa đắp chung đôi

Mai khôn lớn, con theo cò đi học

Cánh trắng cò bay theo gót đôi chân

Lớn lên, lớn lên, lớn lên...

Con làm gì?

Con làm thi sĩ

Cánh cò trắng lại bay hoài không nghỉ

Trước hiên nhà

Và trong hơi mát câu văn"

Ở khổ thơ thứ hai dường như nhà thơ đã bao quát toàn bộ cuộc đời của đứa trẻ, từ khi mới cắp sách tới trường cho tới khi khôn lớn và làm một nghề nào đó có thể là nghề thi sĩ. Đấy cũng chính là đại diện cho cuộc đời của mỗi một con người, ai cũng đều trải qua những giai đoạn như vậy. Và trong suốt chặng đường đó hình ảnh con cò vẫn luôn gắn bó với đứa trẻ, đã đi vào tiềm thức hết sức thân thuộc với mỗi người. Có thể thấy lời ru thiết tha, trìu mến của người mẹ đã đưa đứa con vào trong giấc ngủ say nồng. Trong những lời ru ấy cánh cò vẫn bay hoài không nghỉ, vẫn theo suốt trong từng hơi thở, trong từng giấc mơ của đứa trẻ. Dường như con cò từ trong ca dao đã thực sự sống dậy trong tâm hồn con người, vỗ cánh nâng đỡ cho con người trong suốt chặng đường đời. Chặng đầu tiên ấy là khi con còn ẵm ngửa, con còn ngủ trong nôi, cò đã đến cùng lời ru của mẹ, vào giấc ngủ thay mẹ vỗ về con ngủ. Khi con bắt đầu chập chững tới trường, cò lại theo con tới trường, có thể nói cánh cò chính là biểu tượng của người mẹ hằng ngày vẫn dõi theo con. Rồi mai này con khôn lớn, mẹ mong con làm thi sĩ, được sống một cuộc đời tự do tự tại, được như cò vỗ cánh bay xa, rồi con sẽ nhớ lại cánh cò, như nhớ về mẹ trong "hơi mát câu văn".

"Dù ở gần con

Dù ở xa con

Lên rừng xuống bể

Cò sẽ tìm con

Cò mãi yêu con

Con dù lớn vẫn là con của mẹ

Đi hết đời, lòng mẹ vẫn theo con"

Trong khổ thơ cuối nhà thơ vẫn tiếp tục sử dụng giọng thơ dìu dặt của lời ru, từng câu chữ lắng đọng những suy tư thật sâu sắc. Con cò được nhấn mạnh như là một hình tượng có ý nghĩa triết lý hơn cả. Hình tượng con cò chính là biểu tượng của lòng người mẹ yêu con tha thiết, sẽ luôn ở bên con suốt cả cuộc đời. Dù con có đi xa hay gần, lên rừng hay xuống biển, nhưng cánh cò trong lời ru của mẹ sẽ mãi theo con, sống trong tiềm thức của con, thay cho mẹ theo con từng bước đi. Dù mai sau khôn lớn, con đã rời xa mẹ đi khắp mọi phương trời, thì đối với mẹ con vẫn mãi bé bỏng, vẫn cần mẹ phải che chở. Chính vậy mẹ sẽ theo con cả đời, để có thể bảo vệ con suốt đời.

"Một con cò thôi

Con cò mẹ hát

Cũng là cuộc đời

Vỗ cánh qua nôi"

Và sau tất cả, Chế Lan Viên đã đúc kết lại ý nghĩa lời ru của mẹ. Đối với nhà thơ con cò không chỉ nằm trong ca dao, trong lời ru ngọt ngào của mẹ mà có còn có ý nghĩa biểu tượng sâu sắc. Cánh cò bay là cả cuộc đời, với biết bao suy tư, bao thăng trầm của cuộc đời, từ cánh cò mẹ dạy con biết bao điều, gửi gắm biết bao nhiêu tình cảm mà có lẽ cả cuộc đời con cũng chưa chắc đã biết hết được. Mẹ yêu con nhiều đến thế, yều từ những lời ru, những cánh cò cho con.

Bài thơ đã ca ngợi cái tình cảm thắm thiết thiêng liêng của tình mẹ yêu con, qua đó Chế Lan Viên cũng ca ngợi ý nghĩa của mỗi lời ru đối với tâm hồn, cuộc đời mỗi con người. Nhà thơ đã vận dụng rất nhuần nhuyễn chất liệu ca dao, khai thác được hình ảnh con cò trong ca dao để nói về tình mẫu tử, ý nghĩa của lời ru. Giọng điệu của lời thơ có nhiều sáng tạo về ngôn ngữ, về cách sử dụng hình ảnh, nhiều câu thơ có sức triết lý sâu sắc.

Sơ đồ tư duy

Nghị luận về bài thơ Con cò hay nhất (4 mẫu) (ảnh 3)

Dàn ý chi tiết

1. Mở bài

- Giới thiệu khái quát về bài thơ Con cò

2. Thân bài

- Vài nét về tác giả Chế Lan Viên:

+ Nhà thơ tiêu biểu trong phong trào Thơ mới

+ Thơ ông giàu chất trí tuệ, có màu sắc suy tưởng, triết lí.

- Vài nét về bài thơ “Con cò”:

+ Sáng tác năm 1962

+ Thể thơ tự do

+ Khai thác hình ảnh con cò trong ca dao để nói về tình thương sâu sắc của người mẹ.

- Hình tượng con cò:

+ Con cò bắt đầu đến với tuổi thơ của đứa bé thật thong thả, ung dung

+ Trong lời ru của mẹ, cánh cò luôn hiện diện, cũng như những tình cảm ấm áp trìu mến yêu thương mà người mẹ dành cho đứa con thơ.

+ Cánh cò biểu tượng cho sự vất vả, lam lũ của người mẹ, của người nông dân chân lấm tay bùn.

+ Cánh cò theo từng bước trưởng thành của người con.

+ Hình tượng con cò chính là biểu tượng của lòng người mẹ yêu con tha thiết, sẽ luôn ở bên con suốt cả cuộc đời.

3. Kết bài

- Khái quát lại tư tưởng nghị luận

- Bàn luận mở rộng nâng cao

Top 4 bài Nghị luận về bài thơ Con cò 2022 hay nhất (ảnh 2)

Bài văn mẫu khác

Nghị luận bài thơ Con cò - mẫu 2

Chế Lan Viên viết bài thơ Con cò vào năm 1962, in trong tập Hoa ngày thường - Chim báo bão (1967). Bài Con cò mang âm điệu đồng dao, nhịp thơ và giọng thơ thấm vào hồn ca dao, dân ca một cách đằm thắm, nhẹ nhàng. 51 câu thơ tự do, câu ngắn nhất 2 chữ, câu dài nhất 8 chữ, đan xen, kết chuỗi thành lời ru ngân nga, ngọt ngào, biểu hiện tình thương và ước mơ của người mẹ hiền đối với con thơ!

Đoạn 1, người mẹ hiền bế con thơ trên tay, cất lời ru bài "Con cò" bay lả bay la... "Con cò mà đi ăn đêm...". Nhìn con thơ "Con còn bế trên tay - Con chưa biết con cò” mà lòng mẹ dào dạt tình thương. Mẹ thương con cò trong ca dao lận đận; mẹ dành cho con bao chăm chút yêu thương. Con được sống yên vui hạnh phúc trong lòng mẹ:

“Cò một mình, cò phải kiếm lấy ăn,

Cơn có mẹ, con chơi rồi lại ngủ .”

Mẹ đã dành cho con thơ tất cả: cánh tay dịu hiền của mẹ, lời ru câu hát êm đềm của mẹ, dòng sữa ngọt ngào của mẹ... Những hoán dụ nghệ thuật ấy đã hình tượng tình mẫu tử bao la. Nhịp thơ cũng là nhịp võng, nhịp cánh nôi nhẹ đưa, vỗ về:

“Ngủ yên! Ngủ yên!

Cành có mềm, mẹ đã sẵn tay nâng!

Trong lời ru của mẹ thấm hơi xuân,

Con chưa biết con cò, con vạc.

Con chưa biết những cành mềm mẹ hát,

Sữa mẹ nhiều, con ngủ chẳng phân vân.”

Điệp ngữ "ngủ yên", "con chưa biết" và “ con cò" láy đi láy lại nhiều lần làm cho giọng thơ trở nên đầm ấm, ngọt ngào, thiết tha dìu dịu chan chứa hạnh phúc yêu thương.

Đoạn 2, mẹ ru con ngủ yên, ngủ ngon: "Ngủ yên! Ngủ yên! Ngủ yên!". Ngắm nhìn con thơ mà lòng mẹ dào dạt mong ước. Con sẽ lớn khôn, con đến trường đi học:

“Mai khôn lớn, con theo cò đi học,

Cánh trắng cò bay theo gót đôi chân.”

Mai sau lớn lên con sẽ làm thi sĩ. Cuộc đời con nhiều sáng tạo, mải miết chuyên cần "bay hoài không nghỉ". Hình ảnh cánh cò trắng bay... thể hiện ước mơ đẹp của mẹ hiền về cuộc đời tương lai của con. Con sẽ nối chí cha. Một câu hỏi, khẽ thốt lên trong lòng mẹ hiền:

“Lớn lên, lớn lên, lớn lên...

Con làm gì ?

Con làm thi sĩ!

Cánh cò trắng lại bay hoài không nghỉ

Trước hiên nhà

Và trong hơi mát câu văn...”

Đoạn thơ cuối, tiếng ru con, tiếng hát của mẹ hiền cất lên dìu dặt, mênh mang. Mụ nghĩ về cuộc đời của con mai sau, và tình thương yêu của mẹ. Như một lời nguyền của mẹ:

“Dù ở gần con

Dù ở xa con

Lên rừng xuống bể,

Cò sẽ tìm con

Cò mãi yêu con

Con dù lớn vẫn là con của mẹ

Đi hết đời, lòng mẹ vẫn theo con.”

Chữ "dù", chữ "vẫn" được điệp lại, ý thơ được khẳng định, tình mẫu tử bền chặt, sắt son. Có gì cao hơn núi, có gì sâu hơn biển, và có gì bao la bằng lòng mẹ thương con.

Phần cuối, lời thơ thấm đượm chất triết lí trữ tình. Nghĩ về con cò trong ca dao, nghĩ về cuộc đời con mai sau, người mẹ nghĩ về thân phận, số phận những con cò nhỏ bé, đáng thương, trong cuộc đời:

“À ơi!

Một con cò thôi,

Con cò mẹ hát

Cũng là cuộc đời

Vỗ cánh qua nôi.”

Phải chăng người mẹ hiền đang bâng khuâng về câu hát: "Có xáo thì xáo nước trong - Đừng xáo nước đục đau lòng cò con"! Thác trong còn hơn sống đục, ấy là ý vị "cuộc đời" đáng thương, đáng trọng xưa nay.

Bài thơ Con cò là một bài thơ có đề tài nhỏ nhưng mang ý nghĩa sâu sắc: ca ngợi tình mẫu tử bao la và những ước mơ về con thơ của mẹ hiền, nói lên tình thương cuộc đời. Rất nhân hậu và nhân tình.

Nghị luận bài thơ Con cò – mẫu 3

"Công cha như núi Thái Sơn

Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”

Từ lời ca dao đến trong trang viết của các thi sĩ trung đại, hiện đại, tình mẫu tử đã trở thành nguồn cảm hứng không bao giờ vơi cạn. Và đến Chế Lan Viên- một trong những tên tuổi hàng đầu của thế kỉ XX, một lần nữa, ông đã làm mới cho đề tài này bởi những vần thơ ngọt ngào qua bài “Con cò”.Xuyên suốt bài thơ là hình ảnh con cò. Thơ Chế Lan Viên vốn giàu cảm xúc và triết lí, ông viết về con cò nhưng cũng là để ngợi ca tình mẫu tử thiêng liêng!

Top 4 bài Nghị luận về bài thơ Con cò 2022 hay nhất (ảnh 3)

Mở đầu bài thơ, với hình ảnh gợi cảm, cách giới thiệu con cò một cách tự nhiên, hợp lí đã đưa ta đến với tình yêu con của người mẹ khi con còn nằm trên nôi qua lời hát ru quen thuộc. Vậy là khi con còn tấm bé, mẹ đã bên con, hát ru con ngủ với khúc ru quen thuộc tự bao đời có hình ảnh con cò:

“Con cò bay la

Con cò bay lả

Con cò cổng phủ

Con cò Đồng Đăng”

Và:

“Con cò ăn đêm

Con cò xa tổ

Cò gặp cành mềm

Cò sợ xáo măng”

Lời thơ gợi hình ảnh con còn bé, mẹ âu yếm bế con trên tay, hát bằng những lời ru quen thuộc và hình ảnh cánh cò chập chờn bay trong lời ru của mẹ. Dường như hát ru con, mẹ đã hình dung ra rằng rồi trong đường tương lai,có lúc con sẽ vấp ngã, sẽ gặp khó khăn nhưng con hãy cứ say giấc ngủ bởi mẹ luôn ở bên chở che cho con “Cành có mềm, mẹ đã sẵn tay nâng” và dòng sữa ngọt ngào của mẹ sẽ nuôi con khôn lớn “Sữa mẹ nhiều, con ngủ chẳng phân vân”. Từ hình ảnh con cò trong lời ru của mẹ, Chế Lan Viên nói đến hình ảnh con cò đi vào tiềm thức của đứa con, là biểu tượng cho người mẹ luôn yêu thương, bên con từ ấu thơ đến khi trưởng thành, luôn dõi theo con từng bước. Khi con còn bé thơ, người mẹ luôn ở bên con trong giấc ngủ để che chở cho giấc ngủ của con. “Cánh của cò, hai đứa đắp chug đôi” là một hình ảnh đẹp tượng trưng cho vòng tay ấm áp, yêu thương của mẹ ôm ấp con vào trong lòng. Khi con đến tuổi cắp sách đến trường, mẹ vẫn ở bên cạnh con, dõi theo sự phấn đấu của con “Mai khôn lớn, con theo cò đi học”. Rồi khi con trưởng thành, mẹ vẫn bên con và mong rằng: “Con làm thi sĩ”. Mẹ mong con trở thành thi sĩ là mong con lớn lớn lên trở thành người có tâm hồn cao đẹp, biết yêu cái đẹp của cuộc sống. Và khi ấy:

“Cánh cò trắng lại bay hoài không nghỉ

Trước hiên nhà

Và trong hơi mát câu văn”

Mẹ sẽ trở thành đề tài trong những trang thơ, trang văn ấy! Sự gắn bó của mẹ với con được diễn tả qua những câu thơ mượt mà ấy là hoàn toàn đúng so với thực tế. Phải chăng đó là xuất phát từ long thương mẹ,thấu hiểu mẹ mà nhà thơ đã diễn tả một cách chân thành đến như vậy. Vẫn với giọng thơ nhẹ nhàng, thiết tha mang âm hưởng như một lời ru ngọt ngào, đằm thắm, những câu thơ tiếp vẫn là hình ảnh con cò tượng trưng cho người mẹ nhưng lời thơ rút ngắn lại, chỉ còn bốn tiếng. Đối ngữ “gần- xa” gợi lên khoảng không gian mênh mông, bao la, xa cách, thành ngữ “lên rừng xuống biển” chỉ cuộc sống khó khăn, vất vả, long đong. Điệp ngữ “dù ở” đặt ở đầu hai câu thơ không chỉ tạo nhịp điệu cho lời thơ mà đó còn là lời khẳng định dù không gian xa cách, dù cuộc sống khó khăn, vất vả thì người mẹ vẫn luôn ở bên cạnh con. Các từ “sẽ tìm”, “mãi yêu” góp phần khẳng định sự gắn bó tha thiết của mẹ với con. Từ đó, tác giả rút ra một quy luật mang tính triết lý:

“Con dù lớn vẫn là con của mẹ

Đi hết đời, lòng mẹ vẫn theo con”

Đó là quy luật triết lý về tính mẫu tử: con dù khôn lớn, trưởng thành, dù đi bất cứ nơi đâu thì ẹ vẫn luôn ở bên cạnh con, vẫn dõi theo từng bước con đi trên đường đời. Phần cuối của bài thơ trở về với âm hưởng của lời ru “À ơi”. Lời thơ sử dụng phép tu từ ẩn dụ mang nghĩa tượng trưng sâu sắc, hình ảnh con cò với cánh cò vỗ cánh qua nôi hay đó là hình ảnh mẹ nghiêng nghiêng bên chiếc nôi tre, mẹ đang cúi xuống âu yếm, vỗ về con thơ. Lời ru của mẹ đem đến cho con tất cả: cánh cò, cánh vạc,cả sắc trời. Lời ru của mẹ đã nuôi lớn con cả về thể chất lẫn tinh thần. Với thể thơ tự do,lời thơ ngọt ngào, tha thiết mang âm hưởng của lời hát ru, cùng với đó là các điệp khúc, các hình ảnh mang ý nghĩa biểu trưng,… Chế Lan Viên đã dội vào lòng người tình cảm mẫu tử thật thiêng liêng. Tình mẹ- con gắn với lời hát ru bên chiếc nôi như là biểu tượng cho dân tộc Việt tự muôn đời!

Bài thơ không chỉ ngợi ca tình mẫu tử cao quý, mà đó còn là lời nhắc với mỗi chúng ta: hãy luôn trân trọng mẹ, trân trọng lời ru và kỉ niệm ấu thư vì đó là phần hồn của ta!

Nghị luận bài thơ Con cò - mẫu 4

Lời ru của bà, của mẹ êm đềm chảy trong mạch nguồn những câu hát ca dao, âm vang của lời ca ấy còn vang vọng trong bài thơ "Con cò” của Chế Lan Viên. Trong lời ru của mẹ, hình ảnh con cò cũng chính là hình tượng mẹ gợi nhiều suy ngẫm sâu sắc.Người mẹ đưa con vào giấc ngủ say nồng với lời hát ru nhẹ nhàng, dòng sữa ngọt lành cũng nâng đỡ giấc mơ con. Tình thương yêu đứa con bé bỏng được gửi gắm vào lời ru thiết tha của mẹ:

"Con còn bế trên tay

Con chưa biết con cò

Nhưng trong lời mẹ hát...”

"Sữa mẹ nhiều, con ngủ chẳng phân vân”

Quãng thời gian thơ bé nằm trong nôi, trên đội bàn tay mẹ ấu yếm, vỗ về, mới cảm nhận tình yêu bao la của mẹ. "Sữa nuôi phần xác, hát nuôi phần hồn”. Sữa mẹ nuôi lớn con nhưng lời mẹ hát, nơi chứa đựng tâm tư, tình cảm của mẹ lại nuôi lớn tâm hồn con. Đứa con ngủ say “chẳng phân vân”, bởi "chưa biết” những nỗi niềm ẩn giấu trong giai điệu quen thuộc. Cánh cò trắng bay hoài trong lời mẹ hát. Chú cò trắng gầy guộc, khẳng khiu luôn tất tả kiếm ăn nuôi con, nó là hiện thân của sự chịu thương chịu khó, đức hi sinh cao cả. Đằng sau hình dáng con cò, ta thấy cả hình tượng mẹ vất vả, lam lũ.

"Con cò bay la

Con cò bay lả...

Cò một mình, cò phải kiếm lấy ăn,

Con có mẹ, con chơi rồi lại ngủ.”

Không gian mở ra rộng lớn: “cổng phủ, Đồng Đăng”, hình ảnh thân cò miệt mài bay đi kiếm ăn trong khoảng không bát ngát tượng trưng cho cuộc đời mẹ ngược xuôi mọi chốn để chăm lo cho con, để con được sống hạnh phúc trong tuổi ấu thơ hồn nhiên "chơi rồi lại ngủ”. Nhà thơ Chế Lan Viên khéo léo sử dụng ý, chọn lời trong những câu ca dao thân thuộc, vừa khơi dậy tình cảm những tình cảm nhất trong lòng mỗi người, vừa làm tăng tính nhạc cho lời ru của mẹ. Lời mẹ hát như chất chứa nỗi buồn khi nhắc tới những tủi cực của cái cò:

“Con cò ăn đêm,

Con cò xa tổ,

Cò gặp cành mềm,

Cò sợ xáo măng...”

Lời hát lại gợi nhắc những vần nhịp ca dao xa xưa khi cánh cò dẫm đêm hôm đi tìm cái ăn vì đói vì thiếu thốn kiệt cùng cò mới dấn thân mình vào đêm tối, bao hiểm nguy rình rập. Mẹ là cánh cò, bất chấp gian khổ tong cuộc đời vì con.

“Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”

Thật vậy, mẹ sẵn sàng nâng niu, chở che cho con lúc nguy khó, bấp bênh trên đường đời. mẹ luôn ở bên dìu dắt con vượt qua những “Cành mềm” - ẩn dụ cho những chông gai, thử thách phía trước.

Mẹ hát ru con với niềm tin hi vọng tương lai con tươi đẹp sẽ mở ra. Mẹ cũng như cánh cò mãi sát cánh bên con như người bạn, theo con đi học, tới trường đón nhận những tri thức mới mẻ. Mẹ thoáng băn khoăn về tương lai con:

"Lớn lên, lớn lên, lớn lên

Con làm gì?"

Mẹ tự trả lời: "Con làm thi sĩ!” bởi mẹ mong ước thế giới tâm hồn của con có thể vẫn trong sáng đẹp đẽ như ngày nào. Làm thi sĩ để cánh cò còn bay mãi trong tâm trí của con. Những ước mong thật giản dị xuất phát từ tình yêu con vô hạn. Từ những câu hát ru quen thuộc, Chế Lan Viên cũng gói ghém dòng triết lý, suy tư về tình mẫu tử cao đẹp:

"Cò sẽ tìm con,

Cò mãi yêu con.

Con dù lớn vẫn là con của mẹ

Đi hết đời, lòng mẹ vẫn theo con.”

Con lớn khôn theo năm tháng nhưng có một điều không thay đổi là tình yêu thương vô điều kiện của mẹ. Câu hát vẫn ngân lên nhẹ nhàng và thấm thía ý nghĩa sâu xa về tình mẹ:

"À ơi!

Ngủ đi! Ngủ đi!”

Nhà thơ Chế Lan Viên sử dụng biện pháp ẩn dụ tài tình trong suốt bài thơ, hình ảnh người mẹ mang những nét đẹp của tình mẫu tử truyền thống thiêng liêng được khắc họa qua hình ảnh con cò. Những lời nhắn gửi qua câu hát ru, giai điệu quen thuộc còn đọng lại, ngân nga mãi trong tâm trí ta.

Nghị luận bài thơ Con cò - mẫu 5

Bác Hồ - vị cha già kính yêu của dân tộc. bác đã hi sinh cả cuộc đời của mình để bảo vệ và xây dựng tổ quốc khỏi tay của những kẻ xâm lăng. Bác mất đi đó chính là nỗi đau buồn của toàn dân tộc. Những người con từ khắp mọi nơi tới để cũng ở bên cạnh Bác, thăm Bác an nghỉ lẫn cuối cùng. Và trong chuyến đi thăm Lăng bác, nhà thơ Viễn Phương viết nên những vần thơ ấm đượm tình cảm thiêng liêng dành cho Bác- vị cha già kình yêu của dân tộc.

Con ở miền Nam ra thăm lăng bác

Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát

Ôi hàng tre xanh xanh Việt Nam

Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng

Mở đầu bài thơ là hình ảnh của những người con ra thăm Bác. Đại từ nhân xưng “ con” như là những thành kính, kính yêu dành cho vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc. hình ảnh những hàng tre xanh đứng thẳng tắp, hình ảnh của những làng quê Việt Nam hiện lên trong mắt của người đọc. Bác là con người giản dị đến thế, thương yêu con dân tới thế. Bác mất đi, ở cạnh bác không phải là những loài hoa đắt tiền mà là những hàng tre xanh ngắt, thể hiện ý chỉ, nghị lực của những người con Việt nam, luôn bền bỉ với những sức sống mãnh liệt.

Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng

Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ

Ngày ngay dòng người đi trong thương nhớ

Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân

Đoạn thơ xuất hiện hình ảnh của hai mặt trời. Mặt trời đầu tiên là mặt trời mang nghĩa đen, là hiện tượng của tự nhiên. Còn mặt trời trong câu thơ thứ hai là hình ảnh ẩn dụ của Bác Hồ. Bởi trong lòng của những người con của Tổ quốc thì Bác là duy nhất. Nếu như ánh mặt trời sưởi ấm vạn vật thì Bác cũng là mặt trời sưởi ấm cõi lòng của những người con Việt Nam và cũng mang tới ánh sáng cho cuộc đời của họ. Để rồi, trong lòng của nhân dân, hình ảnh của Bác chưa bao giờ bị mất đi, Bác vẫn được những người con của mình kết những tràng hoa đẹp nhất để nhớ tới bảy mươi chín tuổi xuân của mình.

Bác nằm trong giấc ngủ bình yên

Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền

Vẫn biết trời xanh là mãi mãi

Mà sao nghe nhói ở trong tim

Cho dù trong lòng của mỗi người con đều cho rằng, Bác vẫn còn ở nơi đây mãi mãi, thế nhưng chúng ta vẫn không thể quên được một điều rằng Bác đã thực sự ra đi mãi mãi. Khiến cho tác gia “ nghe nhói ở trong tim”. Những người con lúc này chỉ mong một điều là Bác đã có được những bình an thực sực của cuộc sống bởi khi còn ở trên đời này, lúc nào Bác cũng chỉ chăm lo cho cuộc sống của những người con, người cháu của đất nước. giờ đây, Bác luôn được an tình, được nghi ngơi, nhưng sao những cảm xúc ấy vẫn như nhói lên trong lòng mà không thể nào xua tan đi được.

Mai về miền Nam thương trào nước mắt

Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác

Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây

Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này

Khổ thơ cuối, tác giả như thoát ra những cảm xúc đã ở mức tột cùng. Hàng loạt những từ “ muốn làm” như nói lên suy nghĩ của tác giả. Biện pháp liệt kê như được sử dụng trong toàn đoạn thơ như nói lên những tâm tư, tình cảm của tác giả. Ngày mai phải xa Bác rồi, nhưng tác giả vẫn còn rất nhiều những lưu luyến ở nơi đây, không muốn phải trở về, chỉ muốn làm những bông hoa, làm con chim để ngày ngày dược ở bên cạnh, canh lăng cho Bác ngủ.

Tóm lại, bài thơ là những tình cảm sâu sắc của tác giả đối với bác hồ- vị cha già của dân ộc. Lời nói, lời ước của tác giả cũng chính là tiếng lòng của tất cả những người con trên toàn đất nước. Hình ảnh của người cha luôn hết lòng hi sinh vì đất nước để giúp cho đất nước được giải phóng khỏi những áp bức và chèn ép, thoát khỏi kiếp sống nô lệ. bài thơ là một bức tâm tình giàu chất trữ tình, đằm thắm và thiết tha. Với những hình ảnh ẩn dụ tinh tế, giàu tính thẩm mĩ và các biện pháp tu từ đặc sắc… đã thể hiện tình cảm chân thành, thiết tha và sâu sắc của nhà thơ cũng như của đồng bảo miền Nam đối với Bác Hồ, vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc. Tuy bây giờ bác đã đĩa những những phẩm chất cao đẹp và những cống hiến to lớn, cao cả và sự nghiệp cách mạng của Bác sẽ luôn sống mãi trong lòng những con người đất Việt.

Nghị luận bài thơ Con cò - mẫu 6

Bác Hồ là người có công rất lớn đối với đất nước và con người Việt Nam. Sự ra đi của Bác để lại niềm tiếc thương chung cho toàn nhân loại. Bao năm trời kể từ lúc Bác ra đi, đồng bào ta vẫn luôn nhớ về Bác với những tình cảm chân thành nhất. Để bày tỏ tình yêu thương với người, nhà thơ Viễn Phương đã sáng tác bài thơ Viếng lăng Bác nhân chuyến ra Hà Nội thăm lăng của Người.

Mở đầu bài thơ là quang cảnh của lăng:

“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác

Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát

Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam

Bão táp mưa sa, đứng thẳng hàng."

Không gian quanh lăng gợi cảm giác trang trọng nhưng cũng vô cùng thơ mộng. Đó là hàng tre xanh xanh ẩn hiện mập mờ trong làn sương sớm. Hàng tre đã bao năm đứng đó bao bọc, che chở, bảo vệ cho lăng Bác được bình yên. Hàng tre - biểu tượng của con người Việt Nam hàng nghìn đời nay với những đức tính, phẩm chất quý báu. Tuy mạnh mẽ, kiên cường, trung bành, bất khuất nhưng cũng vô cùng giản dị, mộc mạc, đoàn kết với nhau. Chẳng tự nhiên mà người ta trồng tre quanh lăng Bác, cũng chẳng tự nhiên mà nhà thơ mang hình ảnh cây tre vào trong thơ văn của mình. Dù cho sóng gió, bão táp, mưa sa, thời tiết có khắc nghiệt đến đâu thì cây tre vẫn hiên ngang đứng thẳng hàng, vươn lên để bảo vệ cho giấc ngủ bình yên của Người. Cả khổ thơ bao trọn là những xúc cảm đầu tiên của tác giả khi lần đầu được tới thăm lăng Bác với những cung bậc, cảm xúc khác nhau nhưng thấm đượm tình yêu thương sâu sắc.

Khổ thơ thứ hai nói lên tâm trạng của tác giả khi nhìn thấy hình hài của Bác:

“Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng

Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ

Ngày ngày mặt trời đi trong thương nhớ

Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân"

Cả khổ thơ là sự ca ngợi công ơn của Bác, đó cũng là niềm cảm kích, niềm biết ơn vô bờ của tất cả mọi người dân Việt Nam dành cho Bác. Hai câu thơ đầu là hình ảnh ẩn dụ đầy độc đáo. Mặt trời của tự nhiên trong câu thơ đầu là mặt trời của tự nhiên, là nguồn sống cho muôn loài và hàng ngày mọc rồi lặn như một quy luật, một sự tuần hoàn của cuộc sống. Mặt trời ấy quan trọng, quý giá và chỉ có một mà thôi. Ấy nhưng mặt trời tự nhiên lại bắt gặp một mặt trời nữa cũng đẹp, cũng sáng. Ấy là “mặt trời trong lăng”- ẩn dụ chỉ Bác Hồ với những hi sinh lớn lao dành cho dân tộc. Điệp từ thời gian “ngày ngày” lần nữa được sử dụng với dụng ý khẳng định tính chất thường xuyên liên tục. Đoàn người vào lăng viếng Bác nối nhau thành “dòng”. Và tất cả “dòng người” đều chung một nỗi niềm, cảm xúc là thương yêu Bác. Thông qua nghệ thuật ẩn dụ, dòng người nối tiếp nhau kết thành “tràng hoa” dâng Bác hiện lên thật đẹp. Viễn Phương mượn ẩn dụ “bảy mươi chín mùa xuân” để nói về tuổi của Bác. Bác ra đi nhưng luôn sống mãi ở độ tuổi bảy mươi chín với sức xuân tràn ngập. Viễn Phương đã cô đọng, kết tinh tình cảm để cảm ơn người cha đem đến mùa xuân cho đất nước, con người Việt Nam.

Trong khổ thơ tiếp theo, nhà thơ Viễn Phương đã miêu tả hình hài của Bác cũng như nói lên tình cảm của mình:

“Bác nằm trong giấc ngủ bình yên

Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền

Vẫn biết trời xanh là mãi mãi

Mà sao nghe nhói ở trong tim.”

Hai câu thơ đầu nói lên sự bình yên, thanh thản của Bác Hồ. Dù đã về cõi vĩnh hằng, mãi không trở về nhưng đối với tác giả và những con người nơi trần thế, Bác vẫn chỉ “ngủ” mà thôi, Bác vẫn còn sống mãi cùng chúng ta. Bác đang nằm ở đó, nhẹ nhàng và thanh thản. Cả cuộc đời Người chỉ có một niềm mong ước, đó là đất nước được hòa bình. Vậy nên khi đất nước được hòa bình, độc lập Người đã được nghỉ ngơi trong giấc ngủ yên bình. Người như vầng trăng tỏa ra ánh sáng dịu dàng. Ánh sáng nhẹ nhàng của một tấm lòng cao đẹp, cả đời hi sinh vì nước vì dân; vầng trăng của một đất nước, một dân tộc đã giành được độc lập, tự do.

Bầu trời bao năm tháng vẫn xanh một màu trường tồn vĩnh cửu. Con người ai cũng vậy đều phải theo quy luật sinh, lão, bệnh, tử nghĩa; ai cũng được sinh ra, lớn lên và già đi, rồi đến lúc mất, đi vào thiên thu, cõi vĩnh hằng, Bác cũng không ngoại lệ. Chúng ta ai cũng biết rằng Bác đã mất những hình ảnh của Bác vẫn sống mãi trong trái tim dân tộc Việt Nam, Bác vẫn luôn luôn song hành và dõi theo từng bước đi của dân tộc. Thế nhưng nhận thức là như vậy nhưng trái tim vẫn có lí lẽ riêng của nó, trái tim của nhà thơ vẫn nhói đau, nỗi đau xót đến xé lòng. Dù đã tự an ủi bản thân rằng đó là quy luật của tự nhiên nhưng trong lòng lại đau đớn đến tột cùng. Nỗi đau ấy bất chấp cả nhận thức của lí trí, của con tim.

Khép lại bài thơ là những cảm xúc được nhà thơ nhắn nhủ trước khi trở về miền Nam:

Mai về miền Nam thương trào nước mắt

Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác

Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây

Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này…

Bao nhiêu nỗi đau xót, nghẹn ngào cứ thế tuôn theo dòng lệ trào theo lời giã biệt của người con khi phải xa cha lần nữa. Lời nói giản dị diễn tả tình cảm của nhà thơ dành cho Bác cũng như của tất cả mọi người khi phải rời lăng. Từ “trào” diễn tả cảm xúc mãnh liệt, luyến tiếc, bịn rịn không muốn rời xa nơi Bác nghỉ. Điệp từ “muốn” lặp lại ba lần như khẳng định lại ước muốn của nhà thơ. Những ước nguyện đó thật đáng quý biết bao! Nhà thơ muốn làm con chim hót để mang âm thanh của thiên nhiên, đẹp đẽ, trong lành đến với nơi Bác nghỉ; muốn làm một đóa hoa tỏa hương thơm thanh cao; muốn làm một cây tre trung hiếu giữa mãi giấc ngủ bình yên cho Người. Hình ảnh cây tre quả thật là một hình ảnh đẹp và được khép lại rất khéo ở cuối bài thơ tạo nên kết cấu đầu cuối tương ứng. Ở đầu bài thơ, nhà thơ cũng mở đầu bằng hình ảnh hàng tre, đó là hình ảnh khi tác giả nhìn thấy khi vào lăng. Đó cũng là hình ảnh biểu tượng cho con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam. Nhưng kết thúc bài thơ là hình ảnh cây tre trung hiếu canh giữ cho giấc ngủ bình yên của Bác. Cả khổ thơ đã thể hiện niềm mong ước cháy bỏng của tác giả, cũng chính là mong ước của mỗi người dân Việt Nam. Đó là luôn luôn được ở cạnh Người, ở cạnh vị lãnh tụ muôn vàn kính yêu của dân tộc.

Viếng lăng Bác là bài thơ ngắn mà ý thơ, hình tượng thơ, cảm xúc thơ sâu lắng. Bài thơ như một bài ca ngân vang ca ngợi về Bác Hồ và thể hiện được một nỗi niềm, tình cảm của chính nhà thơ Viễn Phương với Bác. Nhiều năm tháng qua đi nhưng bài thơ vẫn giữ nguyên vẹn giá trị tốt đẹp ban đầu của nó và để lại ấn tượng trong lòng nhiều thế hệ bạn đọc.

Nghị luận bài thơ Con cò - mẫu 7

Bác Hồ - vị lãnh đại vĩ đại, người cha già yêu thương của dân tộc Việt Nam. Hoàn thành tâm nguyện và sự nghiệp cả đời của mình- sự nghiệp cứu nước, năm 1946 Bác Hồ đã ra đi mãi mãi. Bác ra đi trong nỗi niềm tiếc thương của hàng vạn con dân Việt Nam:

“Suốt mấy hôm rày đau tiễn đưa

Đời tuôn nước mắt, trời tuôn mưa…”

Tiếng khóc nghẹn ngào ấy vẫn cứ nỉ non, đau xót cho đến 7 năm sau, vang vọng trong những vần thơ của Viễn Phương. Sau một lần ra thăm lăng Bác, với nỗi tiếc thương khôn nguôi và lòng thành kính thiêng liêng, Viễn Phương đã sáng tác bài thơ Viếng Lăng Bác.

Mở đầu bài thơ là cảm xúc ngỡ ngàng xen lẫn bồi hồi của tác giả:

“Con ở Miền Nam ra thăm lăng Bác

Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát

Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam

Bão táp mưa sa vẫn đứng thẳng hàng”

Nhà thơ dùng đại từ xưng hô “con- Bác” thể hiện tình cảm gần gũi gắn bó mật thiết và tình cảm sâu đậm nhà thơ dành cho Bác. Bác Hồ là vị cha già cả dân tộc, triệu triệu người dân Việt Nam đều là con của Người. Người mang ánh sáng chở che, bao bọc dân tộc. Giây phút này đây, qua bao nhiêu năm tháng con đã được về lăng Bác, được trở về trong vòng tay Người ngắm nhìn hình hài yêu dấu ấy. Miền Nam gợi ra khoảng cách địa lý vừa nói về một mối tình cảm đặc biệt. Trong những năm tháng chiến đấu gian khổ, Bác Hồ luôn dõi theo và quan tâm đến đời sống người dân miền Nam. Trong Bác lúc nào cũng thường trực nồi niềm khao khát cháy bỏng đất nước thống nhất, Bắc- Nam sum họp đẻ Bác được vào thăm những người con tổ quốc của mình. Trái tim Bác và trái tim miền Nam hòa chung làm một. Miền Nam lúc nào cũng mong nhớ Bác khôn nguôi, da diết. Tình cảm ấy thiêng liêng, đậm sâu, ngọt ngào như tình mẫu tử:

“Ở tận cùng mũi đất phương Nam

Trong xanh rờn rừng đước

Giữa ba bề rì rầm sóng nước

Người quê tôi theo cách riêng mình

Dựng một ngôi đền

Thờ Bác kính yêu”

Chính tình cảm dạt dào ấy đã thôi thúc người con vượt ngàn dặm xa ra Bắc viếng lăng Bác. Nhà thơ đã dùng các nói giảm nói tránh “thăm” để ghìm nén lại cảm xúc đau thương đang trào trực trong tim. Hình ảnh đầu tiên ghi dấu lại cuộc hành trình của tác giả đó chính là hàng tre. Hàng tre xanh trải dài bát ngát trong sương mù ẩn hiện. Khi còn sinh thời Người luôn mang trong mình một tình yêu thiên nhiên cháy bỏng, sống và hòa quyện cùng thiên nhiên đến khi nằm xuống thì thiên nhiên vẫn bên người. Hình ảnh hàng tre giản dị, gần gũi, mộc mạc cũng như chính con người Bác, cuộc sống Bác - dân dã, bình dị.

Tre còn là biểu tương cho vẻ đẹp của con người Việt Nam -  kiên cường, kiên trung, bất khuất. Tre gắn bó mật thiết với đời sống nhân dân ta, tre lao động sản xuất, tre tham gia chiến trường, tre giữ làng giữ nước giữ mãi nhà tranh, giữ đồng lúa chín. Dù mưa bom bão đạn tre vẫn sát cánh cùng dân tộc bảo vệ đất nước. Những hàng tre bát ngát, xanh tươi thẳng tắp vươn mình bên lăng Bác như chính sự hiện diện của dân tộc Việt Nam đang quây quần bên Bác, vươn mình ra đưa đất nước phát triển, hội nhập quốc tế. Chứng kiến hình ảnh thơ tuyệt đẹp ấy Viễn Phương không nén được nỗi lòng thổn thức, xúc động mãnh liệt: “Ôi”. Chữ ôi vang lên với bao cảm xúc, bao hoài niệm và niềm tự hào thiêng liêng.

Và rồi theo bước chân tác giả, nhà thơ tiến vào lăng Bác. Nhìn thấy Bác thấy vị cha già dịu hiền nằm ấy trong lòng nhà thơ dấy lên bao liên tưởng:

“Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng

Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ”

Câu thơ có hai hình ảnh mặt trời. Mặt trời trong câu thơ thứ nhất là mặt trời tự nhiên. Còn hình ảnh mặt trời trong câu thơ thứ hai chính là hình ảnh ẩn dụ chỉ Bác. Bác như vầng nhật nguyệt sáng soi cho dân tộc Việt nam, Bác là trái tim ấm nóng, là trung tâm của non sông Đại Việt. Dù Bác đã đi xa nhưng vẻ đẹp trí tuệ và nhân cách của Bác vẫn ngời sáng, bao la, rực rỡ soi chiếu khắp muôn nơi. Để rồi:

“Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ

Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân”

Cả cuộc đời của Bác đều hướng trọn một lòng cho nhân dân, đất nước. Bảy mươi chín tuổi là bảy mươi chín năm Bác cống hiến cho dân tộc, là bảy mươi chín mùa xuân rực rỡ. Triệu triệu trái tim con dân Việt Nam trở về đây dâng lên Bác những bó hoa tươi thăm với nỗi niềm biết ơn, thành kính thiêng liêng vô bờ.

Niềm cảm xúc của Viễn Phương được dâng lên cao trào khi ngắm nhìn hình ảnh Bác:

“Bác nằm trong giấc ngủ bình yên

Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền

Ý thơ nói lên sự nhẹ nhàng, bình yên, tâm thế thanh thản của Bác. Bác ra đi khi đã hoàn thành được tâm nguyện nau náu cả đời- độc lập dân tộc, thống nhất nước nhà. Bác về với giấc ngủ vĩnh hằng chính là trở về với đất mẹ thân yêu. Trong câu thơ còn có hình ảnh “ vầng trăng”. Trăng là người bạn thân thiết, đồng hành gắn bó cùng Bác. Trăng cách mạng, trăng thi ca và giờ đây ánh trăng ấy vẫn bên người. Giấc ngủ ngàn thu của người vừa thanh thản, bình dị lại lãng mạn, cao đẹp, đúng như phẩm chất đáng quý của Người.

Dù là thế nhưng nhà thơ vẫn không khỏi đau thương:

“Dẫu biết trời xanh là mãi mãi

Mà sao nghe nhói ở trong tim”

Vẫn biết sinh lão bệnh tử là quy luật của tạo hóa và Bác Hồ cũng không phải là ngoại lệ. “Trời xanh” biểu trưng cho sự bất tử. Bác đã ra đi nhưng hình ảnh của Bác vẫn luôn sống mãi trong trái tim người dân Việt Nam. Bác vẫn luôn dõi theo, đồng hành cùng con dân ta trên mọi nẻo đường phát triển.  Dù nhận thức và an ủi là thế nhưng trong trái tim nhà thơ vẫn không khỏi nhói lên những nỗi đau đớn, tiếc nuối khôn nguôi.

Và điều gì đến cũng sẽ phải đến. Đã đến lúc nhà thơ phải rời miền Bắc, rời lăng Bác. Những giọt nước mắt tuôn trào đã dãi bày bao nỗi niềm trong lòng tác giả:

“Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác

Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây

Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này...”

Nhà thơ muốn được hóa thành chim, thành đóa hoa ngát hương thành cây tre bát ngát, thành những sự vật gần gũi để được hiến dâng lên Bác, làm đẹp cho nơi Bác nằm, đem những gì tinh túy nhất tinh hoa nhất của mình chở che cho giấc ngủ bình yên của Bác. Những sự vật gần gũi, giản dị nhưng là khát vọng mãnh liệt và tình cảm lớn lao, sâu đậm nhà thơ dành cho Bác. Những phút giây rời lăng Bác là những phút giây lưu luyến và nồng ấm nhất, chứa chan bao cảm xúc dào dạt nhất. Kết thúc bài thơ là dấu … cũng như chính nỗi lòng tác giả còn quá nhiều điều muốn dãi bày, cứ thế trai dài ra mênh mông, sâu tận.

Bài thơ là tiếng lòng của tác giả hay phải chăng cũng chính là tiếng lòng của nhân dân miền Nam, nhân dân Việt Nam. Tấm lòng yêu thương, niềm tôn kính thiêng liêng dành cho vị cha già dân tộc ấy mãi luôn ngời sáng, cháy bỏng và nhiệt thành trong trái tim mỗi người con Việt Nam thân yêu hôm nay và cả mãi mai sau.

Nghị luận bài thơ Con cò - mẫu 8

Văn học Việt Nam đã ghi dấu ấn của nhiều nhà văn, nhà thơ. Trong đó chúng ta không thể không nhắc đến nhà thơ Hữu Thỉnh với bài thơ Sang thu. Bài thơ tuy ngắn gọn nhưng vô cùng hàm súc, chứa đựng nhiều ý nghĩa sâu xa đáng để ta suy ngẫm.

Mở đầu bài thơ là hình ảnh thiên nhiên chuyển mình chuẩn bị bước vào mùa thu:

“Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về”

Từ “Bỗng” thể hiện thái độ chợt giật mình, không có sự chuẩn bị từ trước, cảm giác sững sờ, ngạc nhiên của tác giả khi ngửi thấy hương ổi - đặc trưng của mùa thu, báo hiệu mùa thu đã về. Phả là động từ chỉ hành động mạnh mẽ. Mùi hương của ổi chín theo làn gió đi khắp mọi nơi, chạm vào mũi của nhà thơ khiến cho tâm hồn nhanh nhạy ấy giật mình. Những làn sương chùng chình chậm chạp, lững thững trôi đi như muốn từ từ tận hưởng vẻ đẹp của tiết trời mùa thu. Bức tranh mùa thu được tác giả Hữu Thỉnh khắc họa qua hình ảnh, cách nhìn, cảm nhận và cả tận hưởng: hương ổi, gió, sương,… Đây là sự kết hợp của nhiều giác quan khác nhau mang qua bốn câu thơ ngắn ngủi nhưng cũng đủ làm cho bạn đọc hình dung ra những đặc trưng của mùa thu và bức tranh mùa thu nơi quê nhà thanh bình như được hiện ra rõ nét hơn, đẹp đẽ hơn.

Cảnh vật đã có sự chuyển mình từ hạ sang thu vô cùng đáng yêu:

Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu

Dòng sông không còn mang dòng chảy vội vã, hối hả mà giờ đây đi chậm lại để cảm nhận, tận hưởng vẻ đẹp yên bình của mùa thu. Trong mùa thu tươi đẹp này, hình ảnh đàn chim nang nét đối lập với dòng sông. Nếu dòng sông lững thững, dềnh dàng để cảm nhận thời tiết mát mẻ, dịu dàng thì đàn chim lại vội vã, hối hả đi tìm thức ăn và sửa soạn lại tổ ấm của mình để đón chờ mùa đông khắc nghiệt sắp đến. Đám mây không còn mang màu xanh biếc của mùa hè oi bức, mây như trở nên dịu dàng hơn, hiền hòa hơn và uốn mình thành một đường cong mềm mại để chuyển dần sang mùa thu. Động từ “vắt” thể hiện sư nghịch ngợm, dí dỏm của đám mây đồng thời làm cho đám mây như có hồn hơn, hình ảnh chuyển đổi như mềm mại hơn, thú vị hơn. Đám mây mới chỉ “nửa mình sang thu” vì vẫn còn lưu luyến mùa hè rộn rã. Bốn câu thơ đã khắc họa những biến chuyển tinh tế của cảnh vật từ mùa hè sang mùa thu. Mỗi cảnh vật lại có một đặc trưng riêng nhưng tất cả đã làm cho bức tranh mùa thu thêm thi vị hơn.

Khép lại bài thơ là hình ảnh đáng để ta suy ngẫm:

Vẫn còn bao nhiêu nắng,
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi

Vẫn là nắng, mưa, sấm, chớp của mùa hạ vương lại đâu đây nhưng đã bớt nồng nàn, rực rỡ và những cơn mưa xối xả cũng đã thưa dần bởi mùa thu đã đến. Có lẽ “mùa thu” của đời người là sự khép lại của những năm tháng tuổi trẻ đầy sôi nổi, tràn trề nhiệt huyết để mở ra một giai đoạn mới, một mùa mới trong tâm hồn con người với những gì nhẹ nhàng, tĩnh lặng và trầm lắng hơn. Hai hình ảnh "sấm" và "hàng cây đứng tuổi" vừa có ý nghĩa tả thực vừa có ý nghĩa tượng trưng. Tiếng sấm dữ dội và những cơn mưa giông cũng bớt đi, hàng cây không còn bị rung giật vì những tiếng sấm bất ngờ nữa. Bên cạn đó, sấm tượng trưng cho những phong ba, bão táp, biến động của cuộc đời, còn “hàng cây đứng tuổi” là ẩn dụ của lớp người đã từng trải, được tôi luyện qua nhiều gian khổ khó khăn. Phải chăng con người càng sống lâu, càng chiêm nghiệm được nhiều điều thì biến cố, thay đổi của cuộc đời cũng không còn là gì đáng ngại?

Bằng cảm nhận tinh tế và cách dùng từ tự nhiên chân thật, cùng biện pháp nhân hóa, ẩn dụ đặc sắc, Hữu Thỉnh đã vẽ nên bức tranh thiên nhiên mùa thu ở nông thôn Bắc bộ một cách rất có hồn. Bài thơ đã góp phần làm rõ nét hình ảnh làng quê lúc vào thu cũng như làm phong phú thêm cho kho tàng văn học Việt Nam.

Nghị luận bài thơ Con cò - mẫu 9

Khi những cơn gió heo may bắt đầu lả lướt trên những cành cao, khi giọt nắng vàng ươm rơi rớt qua từng kẽ lá, khi cỏ hoa rủ nhau khoe sắc một khung trời là ta biết thời tiết đã sang thu. Thu về mang bao mật ngọt cho đời, thu khiến đất trời chao đảo mông lung trong những hoài niệm đong đầy và trong cả những cảm xúc chẳng thể gọi thành tên. Mùa thu luôn là đề tài khiến các thi nhân phải động lòng yêu thương. Bài thơ Sang Thu được sáng tác năm 1977 của Hữu Thỉnh đã lột tả trọn vẹn cái chất thu trầm ngâm, sâu lắng cùng sự chuyển đổi mượt mà của đất trời và của lòng người.

Mùa thu là đề tài khiến thi nhân phải động lòng thương yêu. Bởi đó là mùa của những gì nhẹ nhàng và em dịu nhất, mùa của những rung động sâu sắc. Thu se lạnh, man mác buồn gợi ra bao suy tư. Bài thơ Sang Thu được sáng tác năm 1977 của Hữu Thỉnh đã lột tả trọn vẹn cái chất thu trầm ngâm, sâu lắng cùng sự chuyển đổi mượt mà của đất trời và của lòng người.

Sang thu” là bài thơ ngũ ngôn của, từng được nhiều người ưa thích. Bài thơ gồm có ba khổ thơ; mỗi khổ thơ bốn câu là một nét thu đẹp êm đềm của đất trời, tạo vật trong buổi đầu thu - thu mới về, thu chợt đến. “Sang thu” thể hiện một bút pháp nghệ thuật thanh, nhẹ, tài hoa, diễn tả những cảm nhận, những rung động man mác, bâng khuâng của tác giả trước vẻ đẹp và sự biến đổi kì diệu của thiên nhiên trong buổi chớm thu. Đối tượng được cảm nhận là cảnh sắc mùa thu nơi đồng quê trên miền Bắc đất nước ta.

Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về

Cụm từ “bỗng nhận ra” giống như một ngạc nhiên, thú vị khi phát hiện ra điều gì đó mới mẻ. Đây là cụm từ diễn tả trạng thái ngỡ ngàng của tác giả khi hương ổi chín vô tình xộc vào khóe mũi ông, ông bất giác nhận ra mùa thu đã chạm ngõ từ bao giờ. Dấu hiệu gợi báo mùa thu đến của Hữu Thỉnh không phải là con gió nồng nàn mùi hoa sữa, cũng không “Đây mùa thu tới, mùa thu tới / Với áo mơ phai dệt lá vàng” của Xuân Diệu. Mà là những hình ảnh vô cùng đơn sơ, mộc mạc của quê hương. Cái hương ổi chím đượm đã “phả”, bốc ra, tỏa ra mãnh mẽ vào cơn gió se. Mùa thu vốn là mùa của trái ngọt, hoa thơm và giữa muôn ngàn sắc hương, Hữu Thỉnh vẫn nhận ra trong gió hương thơm giản dị của từng quả ổi xanh, giòn rụm, phải yêu lắm xứ sở, làng quê, yêu lắm cái nơi mình đã “chôn rau cắt rốn” thì ông mới có thể nhận ra chuyển biến dù là rất nhỏ của cảnh sắc quê hương và đối đãi với nó bằng tất cả tình thương yêu, trân trọng. Hương ổi của làng quê đồng bằng Bắc bộ, mùi hương thấm đẫm bao kỉ niệm tuổi ấu thơ cùng tình yêu quê hương đã hòa quyện trong cốt cách, tâm hồn của người thi sĩ ấy. “Sương chùng chình qua ngõ… thu đã về”, hai câu thơ sau rất duyên, rất tinh tế nhưng cũng rất sâu sắc đã gợi lên sự mơ hồ của giây phút chuyển mùa. Hình ảnh “sương chùng chình qua ngõ” khiến người đọc tương tưởng ra khung cảnh sương đang ngập ngừng giăng mắc ở đầu ngõ. Và khi tác giả trông thấy từng làn sương trắng mờ ảo đi ngang qua ngõ mà có vẻ chậm chạp như đôi phần luyến tiếc, ông đã phải thốt lên: “Hình như thu đã về”. Các từ ngữ “bỗng” và “hình như” làm tăng thêm cảm giác bâng khuâng, xao xuyến rất đúng với tâm trạng của nhà thơ trước khung cảnh mùa thu. Chữ “se” vần với chữ “về" (vần chân, vần bằng, vần cách) đã góp phần tạo nên sự phong phú về vần điệu và nhạc điệu, làm cho giọng thơ thêm nhẹ nhàng, mênh mông và gợi cảm.

Không gian nghệ thuật của bức tranh “Sang thu” được mở rộng, ở chiều cao, độ rộng của bầu trời với cánh chim bay và đám mây trôi, ở chiều dài của dòng sông qua khổ thơ thứ hai tiếp theo:

Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu

Nhà thơ đã cảm nhận mùa thu bằng tất cả giác quan. Từ “xúc giác” để cảm nhận cơn gió nhẹ, thoáng hơi sương thổi lướt qua da thịt, đến “khứu giác” để nhận ra mùi ổi chín thơm lừng, nồng đượm yêu thương và rồi Hữu Thỉnh đã dùng đến thị giác của mình, đôi mắt ông trìu mến quan sát dòng sông, đàn chim sải cách và thậm chí là mây, cả một vùng trời, một khung cảnh bao la của sắc thu dịu dàng, quyến rũ như được thu gọn trong tầm mắt ông. ông mùa thu trên miền Bắc nước ta nước trong xanh, êm đềm trôi ông nước đầy nên mới “dềnh dàng”, nhẹ trôi như cố tình chậm chạp, thiếu khẩn trương, để mất nhiều thì giờ. Còn chim bay “vội vã", đó là những đàn cu ngói, những đàn sâm cầm, những đàn chim đối mùa, tránh rét, từ phương Bắc xa xôi bay về phương Nam. Trong số đàn chim bay “vội vã" ấy phải chăng có những đàn ngỗng trời mà nhà thơ Nguyễn Khuyến đã nói tới trong “Thu vịnh”:

“Một tiếng trên không ngỗng nước nào?"

Dòng sông, cánh chim, đám mây mùa thu đều được nhân hóa. Bức tranh thu trở nên hữu tình, chứa chan thi vị. Để miêu tả áng mây trắng trong trên nền trời cao thăm thẳm, Hữu Thỉnh đã không dùng những từ ngữ như: lang thang, lơ lửng, bồng bềnh, nhẹ trôi,... mà lại dùng chữ “vắt”. Mỗi nhà thơ đều mang vào trong tác phẩm của mình cũng câu từ rất riêng, khó lẫn vào đau được, và ở Hữu Thỉnh, cái chất riêng biệt đó chính là “đám mây mùa hạ vắt nửa mình sang thu”.. Dường như mùa hạ vẫn còn bâng khuâng luyến tiếc thì thu đã đến tự bao giờ, sự chuyển mình của bốn mùa, trời đất được tác giả phát hiện và miêu tả vô cùng ấn tượng, từ “vắt” khiến người đọc liên tưởng mây như kéo dài ra, vắt lên, đặt ngang trên bầu trời, buông thõng xuống. Câu thơ tả đám mây mùa thu của Hữu Thỉnh khá hay và cách chọn từ và dùng từ rất sáng tạo. Quả là một hình ảnh bất ngờ, độc đáo nhưng cũng không kém phần sâu lắng – “một nửa” của đám mây vẫn còn luyến tiếc mùa hạ, là một nửa ký ức, quá khứ đã ngủ yên, và “một nửa” còn lại đang dần chuyển sang mùa thu, sẵn sàng chào đón những biến chuyển mới mẻ của đất trời, cuộc sống.

Vẫn còn bao nhiêu nắng,
Đã vơ dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi

Ấn tượng về cái ào ạt, mạnh mẽ của những cơn mưa mùa hạ vẫn còn đó, nhưng nỗi bâng khuâng, xao xuyến trước vẻ dịu dàng, êm mát của mùa thu đã len nhẹ vào tâm hồn từ lúc nào. Nắng cuối hạ đã bớt nồng nàn, rực rỡ và những cơn mưa xối xả cũng đã thưa dần. Từ hiện tượng thiên nhiên ấy mà nhà thơ suy ngẫm về cuộc đời. ở hai câu thơ cuối: “Sấm… hàng cây đứng tuổi”. Giọng thơ trầm hẳn xuống, câu thơ không đơn thuần chỉ là giọng kể, là sự cảm nhận mà còn là sự suy nghĩ chiêm nghiệm về đời người. Mùa thu của thiên nhiên, hay “mùa thu” của con người? Nhìn chuyển biến của sự vật khi sang thu mà Hữu Thỉnh nhận ra rằng mình đã đứng tuổi. Có lẽ “mùa thu” của đời người là sự khép lại của những năm tháng tuổi trẻ đầy sôi nổi, tràn trề nhiệt huyết để mở ra một giai đoạn mới, một mùa mới trong tâm hồn con người với những gì nhẹ nhàng, tĩnh lặng và trầm lắng hơn. Hai hình ảnh "sấm" và "hàng cây đứng tuổi" vừa có ý nghĩa tả thực vừa có ý nghĩa tượng trưng cho thấy một Hữu Thỉnh rất đỗi tinh tế, nhạy bén trong cảm nhận và liên tưởng. Hai câu thơ cuối mang 2 tầng ý nghĩa, tầng ý nghĩa thứ nhất là tả thực hiện tượng thiên nhiên – lúc sang thu, tiếng sấm dữ dội và những cơn mưa giông cũng bớt đi, hàng cây không còn bị rung giật vì những tiếng sấm bất ngờ nữa; còn tầng ý nghĩa thứ 2, “sấm” tượng trưng cho những phong ba, bão táp, biến động của cuộc đời, còn “hàng cây đứng tuổi” là ẩn dụ của lớp người đã từng trải, được tôi luyện qua nhiều gian khổ khó khăn. Phải chăng con người càng sống lâu, càng chiêm nghiệm được nhiều điều thì biến cố, thay đổi của cuộc đời cũng không còn là gì đáng ngại?

Mùa thu thường không rạo rực, ấm áp như mùa xuân, không sôi động rộn ràng như mùa hạ, hay lạnh lẽ, thê lương như mùa đông. Thu đến rất nhẹ nhàng và đi rất lặng lẽ. Thu không đánh thức ta bằng những âm thanh vang động, màu sắc lộng lẫy, hương vị ngọt ngào mà gieo vào lòng ta những thoáng xao động, mơ màng, gợi trong ta những suy nghĩ sâu xa về cuộc sống. Có lẽ vì thế mà thơ thu, trong đó có Sang thu của Hữu Thỉnh rất giàu ý nghĩa. Cả bài thơ là một bức tranh thiên nhiên tuyệt mỹ. 12 câu thơ, câu nào cũng đẹp, cũng hay Hữu Thỉnh đã thể hiện cảm xúc, trạng thái rất thành công bằng những từ ngữ: “bỗng”, “phả”, “hình như”, “dềnh dàng”, “vội vã”, “vắt”,… khiến cho bài thơ của ông sống động, ngập tràn sự sống cùng bao cảm xúc ngượng ngùng, bâng khuâng khi thu tới.

Bằng cảm nhận tinh tế và cách dùng từ tự nhiên chân thật, cùng biện pháp nhân hóa, ẩn dụ đặc sắc, Hữu Thỉnh đã vẽ nên bức tranh thiên nhiên mùa thu ở nông thôn Bắc bộ một cách rất có hồn. Ông đã ghi lại dấu ấn riêng của mình vào kho tàng thơ ca phong phú của Việt Nam, dẫu năm tháng có qua đi nhưng vẻ đẹp của Sang Thu vẫn sẽ luôn làm rung động tâm hồn bao bạn đọc.

Nghị luận bài thơ Con cò - mẫu 10

Mùa xuân là mùa đẹp nhất trong năm vì khi đó thiên nhiên đất trời với bao hình ảnh sắc xuân tràn đầy, là khoảnh khắc bao người con xa quê trở về đoàn tụ cùng gia đình và để rồi mùa xuân chính là mùa đáng nhớ nhất trong lòng mỗi người. Cũng giống như Thanh Hải, ông đã có cho riêng mình một mùa xuân vô cùng đẹp đẽ, đó là một “Mùa xuân nho nhỏ” với bao hình ảnh thiên nhiên đẹp đẽ và một khao khát giản đơn sẽ được cống hiến sức mình cho đất nước.

Mỗi một mùa xuân khi xuất hiện trong năm đều như báo hiệu cho những sự khởi đầu, tất cả như được khoác trên mình một tấm áo mới thật rạng rỡ kết hợp nhiều gam màu tươi sáng. Cũng giống như mùa xuân của đất nước, đó là sự bắt đầu một năm của đất nước đẹp đẽ, là những gì tinh túy và căng tràn sức sống nhất.

“Mọc giữa dòng sông xanh

Một bông hoa tím biếc

Ơi con chim chiền chiện

Hót chi mà vang trời

Từng giọt long lanh rơi

Tôi đưa tay tôi hứng..”

Khung cảnh mùa xuân hiện ra trước mắt tác giả là một không gian có bầu trời cao rộng còn dòng sông rộng thì dài. Đó là những vẻ đẹp thiên nhiên bình dị và thân thuộc với con người. Nghệ thuật đảo ngữ qua từ “mọc” mà Thanh Hải lựa chọn như đang mô tả một sức sống mãnh liệt đang từng bước trỗi dậy và vươn lên từ những cảnh vật xung quanh, bông hoa chính là một sự tưởng tượng vừa có sức sống vừa có sức gợi.

Bức tranh thiên nhiên với vạn vật tĩnh lặng ấy dường như được đánh thức trở lại bởi tiếng hót của con chim chiền chiện. Một con chim bé xíu nhưng lại khuấy động cả một không gian, nhưng thật ra chỉ có mỗi tác giả mới có thể cảm nhận và nghe thấy được mà thôi. Một con người nhỏ bé trước đất trời rộng lớn đang lắng nghe những điều tuyệt vời nhỏ nhắn đến từ bên ngoài cuộc sống.

Mọi khoảnh khắc dù là nhỏ bé nhưng bừng sức sống và thổi vào hồn thơ những cảm xúc lặng lẽ của Thanh Hải. Hình ảnh “giọt long lanh” ở đây chính là những giọt mưa, giọt sương hay giọt âm thanh vang dội. Nhưng có lẽ đó là giọt của âm thanh tiếng chim ngân vang.

Nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác mà tác giả sử dụng như minh chứng cho một điều rằng tác giả đang sử dụng tất cả các giác quan của mình để cảm nhận và tiếp xúc với thiên nhiên. Chỉ duy mỗi nhà thơ mới có thể cảm nhận được hết mùa xuân của thiên nhiên và mùa xuân của đất nước. “Tôi đưa tay tôi hứng” chính là hứng những gì tinh túy nhất của thiên nhiên đất trời ban tặng.

Thanh Hải như đang bị cuốn mình vào trong những gì đẹp đẽ nhất, ông hòa mình vào khung cảnh thiên nhiên vốn giản đơn nhưng lại có một sức hút lạ kì.

“Mùa xuân người cầm súng

Lộc giắt đầy trên lưng

Mùa xuân người ra đồng

Lộc trải dài nương mạ

Tất cả như hối hả

Tất cả như xôn xao”.

Vẻ đẹp của mùa xuân được thể hiện vỏn vẹn trong một từ “lộc”. Lộc ở đây tức là những sắc xuân đang đâm chồi và nở rộ, và đó cũng là những gì mà mùa xuân mang đến cho con người. Mùa xuân hiện lên qua hình ảnh người cầm súng đang miệt mài bảo vệ biên cương và sự bình yên cho đất nước, mùa xuân hiện lên qua hình ảnh người ra đồng vì những con người ấy đã mang đến vẻ đẹp rực rỡ trên ruộng lúa, nương mạ.

Để hồi hình ảnh đất nước hiện lên với một chặng đường lịch sử dài dằng dặc nhưng niềm tin về tương lai tươi sáng của tác giả dành cho đất nước thì chưa bao giờ dập tắt:

“Đất nước bốn nghìn năm

Vất vả và gian lao

Đất nước như vì sao

Cứ đi lên phía trước”.

Đất nước ta đã trải qua bao cuộc kháng chiến với bao quân giặc xâm lược, đất nước ta đã trải qua một chặng đường lịch sử dài với nhiều sự kiện lớn lao và đặc biệt. Nhưng đất nước ta vẫn như những vì sao đẹp đẽ luôn tỏa sáng một cách phi thường, vì ở đó đã có những con người hy sinh trên chiến trường vì Tổ quốc, đã có những con người không bao giờ từ bỏ để đem lại bình yên cho dân tộc. Một đất nước đẹp đẽ được hiện lên và thể hiện được một điều rằng đó là ý chí kiên cường và sức mạnh to lớn của đất nước Việt Nam tươi đẹp.

Mùa xuân nho nhỏ mang đến nhiều thông điệp đẹp đẽ

Khi còn nằm trên giường bệnh, Thanh Hải đã có những ước nguyện với cuộc đời được khơi nguồn từ những cảm xúc về mùa xuân thiên nhiên đất trời. Ước nguyện của tác giả là những ước nguyện rất chân thành, là khao khát được hòa nhập vào cuộc đời chung của đất nước:

“Ta làm con chim hót,

Ta làm một cành hoa.

Ta nhập vào hoà ca,

Một nốt trầm xao xuyến”.

Thanh Hải đã có những ước nguyện với cuộc đời, mong muốn được cống hiến và làm nhiều việc có ích cho đời. Điệp từ “ta làm” được lặp lại chứng tỏ một điều rằng Thanh Hải luôn mang một sự khao khát được cống hiến với đất nước.

Con chim hót luôn đem lại tiếng ca cho cuộc đời, góp mặt vào những điều đẹp đẽ và dành tặng “chút nhiều” hạnh phúc cho con người. Một cành hoa tô điểm sắc màu của những ngày xuân ấm áp. Một nốt trầm tạo nên một giai điệu trầm lắng trong một bản hòa ca ngọt ngào, tuy lặng lẽ nhưng lại mang một sức mạnh tinh thần to lớn để động viên con người trong bối cảnh lúc bấy giờ. Cả ba hình ảnh ẩn dụ ấy như là những gì đẹp nhất, đặc biệt nhất trong không khí vui tươi của con người và đất nước Việt.

Điều đặc biệt trong đoạn thơ này, tác giả đã đổi cách xưng hô từ “tôi” thành “ta”, là cái tôi cá nhân hòa mình trong cộng đồng. Cách xưng hô này không chỉ nói đến mỗi tác giả mà còn hướng đến cái chung, đó là tất cả con người đang sinh sống trên mảnh đất Việt Nam. Ông luôn có một ước mơ, một hy vọng được hóa thân thành chim, thành hoa, thành những nốt nhạc để góp vui cho đời.

Sự hòa nhập với con người, với cuộc đời chính là ước mơ, là khát vọng của Thanh Hải. Vì bởi lẽ, ông luôn muốn cống hiến sức lực của mình dù là nhỏ bé cho một cuộc đời chung. Bầu không khí vui tươi của một sự khởi đầu mới, Thanh Hải đơn thuần chỉ muốn làm một nốt nhạc thầm lặng, là lặng lẽ nhưng mãnh liệt, là ước muốn hoàn thành trọn vẹn một bản hòa ca mùa xuân cho đất nước.

Ước nguyện của Thanh Hải cũng chính là mong muốn, sự khao khát của con người trong bối cảnh xã hội hiện nay và cả những “thời đã cũ”. Sống là khao khát và cống hiến cho đời mới là ý nghĩa tuyệt vời nhất và nâng cao giá trị bản thân của con người.

Quả thật, dân tộc Việt Nam luôn là những con người mạnh mẽ và tràn đầy nghị lực. Họ không sợ trời, không sợ đất, họ luôn trong một trạng thái sẵn sàng ra trận khi Tổ Quốc cần thì sẽ có mặt. Những khao khát cống hiến cho đời chính là “mục tiêu” chung nhất của con người, dù là trẻ, dù là già, dù ở bất kì độ tuổi nào:

“Một mùa xuân nho nhỏ

Lặng lẽ dâng cho đời

Dù là tuổi hai mươi

Dù là khi tóc bạc”.

Mùa xuân luôn khiến người ta nghĩ về những điều mới mẻ, một sự tái sinh và đổi mới toàn diện. Mỗi con người đều có một “mùa xuân” riêng của mình, là thanh xuân, là tuổi trẻ. Từ láy “nho nhỏ”, “lặng lẽ” mà tác giả đề cập đến ở đây thể hiện những điều nhỏ bé bình thường nhưng vẫn đóng góp một cách âm thầm cho cuộc đời, cho lẽ sống.

Dù con người có đang ở độ tuổi đẹp nhất của thanh xuân nhưng hơn bao giờ hết họ không thấy tiếc khi dành trọn cả tuổi xuân của mình cho đất nước, mà ngược lại, sự hiến dâng cho cuộc đời mới là lối sống đẹp đẽ mà mỗi con người Việt Nam đã và đang sở hữu. Dù ở bất kì độ tuổi nào, hãy sống một cách trọn vẹn và hết mình, góp công sức của bản thân để phục vụ cho đất nước, đó mới chính là ý nghĩa.

Những cảm xúc của Thanh Hải luôn xuất phát từ những gì thật nhất, hướng mọi người sống phải hòa nhập, chứ đừng hòa tan. Mỗi người chúng ta dù là thời bình hay thời chiến, hãy cố gắng mỗi ngày, đóng góp và giúp ích cho đời, cho đất nước để vui cho chính mình và cho cuộc đời, nếu chúng ta thờ ơ vô cảm với cuộc sống.

Điệp ngữ “dù là” lặp lại đến hai lần tha thiết sâu lắng như một sự khẳng định tuổi 20 là lúc con người ta đang có những hoài bão cho riêng mình, có sức trẻ và có sức khỏe nhưng khi tóc bạc sẽ trở nên già yếu gần kề với cái chết hơn.

Sống chính là phấn đấu, là làm đẹp cho đất nước vậy nên hãy sống đẹp nhất có thể thì cuộc đời sẽ trở nên tươi đẹp hơn biết bao. Dù là khi Thanh Hải còn đang nằm trên giường bệnh nhưng trái tim và lòng nhiệt thành đối với đất nước chưa bao giờ thôi ngưng trong tâm hồn và suy nghĩ của ông. Để rồi khi kết lại, tác giả đã sử dụng điệu hát dân ca Huế để ngợi ca quê hương của mình. Và còn là một lời ước nguyện giản dị của tác giả dành cho đất nước, một niềm tự hào vô cùng sâu sắc:

“Mùa xuân ta xin hát

Khúc Nam ai Nam bình

Nước non ngàn dặm mình

Nhịp phách tiền đất Huế”.

“Mùa xuân nho nhỏ” được tác giả sử dụng thể thơ năm chữ với giọng thơ khi thì da diết khi thì mạnh mẽ và mãnh liệt. Ngoài ra, tác giả còn sử dụng phép điệp như là một sự nhấn mạnh, khẳng định rằng ông luôn có một khát vọng cháy bỏng là được đóng góp công sức bé nhỏ của mình cho đất nước. Biện pháp tu từ như ẩn dụ, so sánh...được vận dụng một cách tinh tế và sáng tạo.

Bài thơ chính là một sự đóng góp tuyệt vời của Thanh Hải dành cho sự khởi đầu của đất nước. Mùa xuân thật đẹp, nhưng sẽ đẹp hơn khi người ta có một tình yêu dành cho đất nước. Thông điệp mà Thanh Hải muốn gửi đến với mọi người trong bất cứ thời đại nào là hãy luôn sống và chiến đấu hết mình trong công cuộc đấu tranh, xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc.

Ý nghĩa tượng trưng qua hình ảnh con cò từ bài thơ Con cò – mẫu 1

Tình mẫu tử là một đề tài quen thuộc của văn chương nhưng lại chẳng bao giờ là cũ. Có nhiều bài thơ hay nói về tình mẫu tử và một trong số đó là bài thơ Con cò của nhà thơ Chế Lan Viên. Vì sao tác giả lại lấy nhan đề là con cò chứ không lấy một nhan đề cụ thể hơn như tình mẹ chẳng hạn? Tìm hiểu về bài thơ này có lẽ sẽ cho chúng ta được câu trả lời.

Top 3 bài Ý nghĩa tượng trưng qua hình ảnh con cò trong bài thơ Con cò 2022 hay nhất (ảnh 3)

Bài thơ Con cò được tác giả sáng tác vào năm 1962 và được in trong tập thơ “Hoa ngày thường, chim báo bão”. Mặc dù mang âm hưởng dân ca với lời ru ngọt ngào của người mẹ nhưng nội dung bài thơ vẫn thể hiện rõ nét tính triết học. Con cò là hình ảnh gần gũi nhưng khi đọc bài thơ, người đọc vẫn phải suy ngẫm. Đây cũng là điều mà tác giả muốn gửi gắm ngay từ nhan đề của bài thơ. Các tác giả văn học thường lấy hình tượng xuyên suốt tác phẩm của mình làm nhan đề. Đối với tác phẩm này cũng vậy, hình ảnh con cò xuyên suốt bài thơ. Mặc dù hình ảnh con cò gắn liền với những câu ca dao, câu hát ru nhưng trong bài thơ này hình ảnh con cò lại mang tính biểu tượng và có những phát triển mới mẻ hơn. Tác giả cũng đã mượn hình ảnh con cò trong câu ca dao để mào đầu cho ý tưởng bài thơ của mình. Điều này khiến cho người đọc cảm thấy bài thơ có gì đó thân quen, dễ dàng tiếp nhận. Vần thơ cũng mang đến những nét thật bình yên giống như trong câu ca dao:

Con cò bay lả bay la

Bay từ cửa phủ bay ra cánh đồng

Sau đó, hình ảnh “Cò một mình, Cò phải đi kiếm ăn” lại khiến người đọc nhớ đến câu ca dao quen thuộc:

Con cò mà đi ăn đêm

Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao

Hình ảnh con còn lặn lội kiếm ăn thật giống với hình ảnh người mẹ tần tảo suốt đêm ngày nuôi con khôn lớn. Người mẹ dù có phải trải qua trăm ngàn gian khổ nhưng vẫn luôn nỗ lực vì con, trở thành tấm gương về sự trung thực, ngay thẳng để con noi theo. Hình ảnh con cò còn khiến người đọc liên tưởng đến câu ca dao:

Con cò lặn lội bờ sông

Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non

Chẳng những tần tảo nuôi con, con cò còn gắn liền với hình ảnh người vợ thủy chung một lòng chăm sóc cho chồng. Hình ảnh con cò đi vào trong tâm hồn những đứa trẻ một cách vô thức bởi dường như người mẹ nào cũng hát ru bằng những câu hát về con cò. Mỗi một chặng đường đời, hình ảnh con cò lại mang đến những ý nghĩa khác nhau. Lúc con còn nhỏ, chưa hiểu gì về ý nghĩa của con cò thì con cò đã trở thành người bạn đồng hành cùng con rồi:

Con ngủ yên thì cò cũng ngủ

Cánh của cò, hai đứa đắp chung đôi

Mai khôn lớn con theo cò đi học

Cánh trắng cò bay theo gót đôi chân

Nếu con cò là người bạn đồng hành cùng với con thì người mẹ cũng vậy. Mẹ luôn ở bên con, dìu dắt con từng bước đi đầu tiên, chở che con trên mỗi bước đường đời. Cuối bài thơ, tác giả nhấn mạnh một lần nữa hình ảnh con cò cũng là nhấn mạnh tấm lòng người mẹ. Dù những lời ru về con cò đã có từ rất lâu nhưng người mẹ nào cũng dùng để hát ru con mình. Bởi vì người mẹ nào cũng vậy, luôn muốn dành những điều tốt đẹp nhất cho con. Tác giả đã đưa ra chiêm nghiệm qua những câu thơ cuối bài:

Con dù lớn vẫn là con của mẹ

Đi hết đời, lòng mẹ vẫn theo con

Đúng như vậy, con lớn lên thì mẹ cũng già đi. Vì vậy trong mắt người mẹ con lúc nào cũng bé bỏng. Cho dù con có trưởng thành, con cũng vẫn là con của mẹ. Mẹ cũng vẫn mãi lo lắng cho con. Dù cho con ở đâu đi chăng nữa, mẹ cũng vẫn luôn đồng hành cùng con. Nếu như con đi xe, con cò sẽ thay mẹ đến bên con, chở che cho con, nuôi dưỡng con.

Như vậy nhan đề con cò đã thể hiện đúng tư tưởng và cảm xúc của tác phẩm. Đó là tình yêu bất diệt của mẹ dành cho con. Không những vậy, hình ảnh con cò còn thể hiện được suy tưởng của tác giả và tạo cho tác giả một phong cách riêng. Hình ảnh con cò vừa mang ý nghĩa thực vừa mang ý nghĩa biểu tượng. Nội dung bài thơ mang đến cho người đọc một bài học lớn về tình mẫu tử, dạy người con phải biết ơn công lao của mẹ.

Mặc dù con cò chưa phải là bài thơ xuất sắc nhất của nhà thơ Chế Lan Viên nhưng bài thơ này lại thể hiện rõ nét phong cách nghệ thuật của tác giả. Bài thơ đã góp thêm một tiếng nói, một cách nhìn, một cách nghĩ về tình mẫu tử. Hình ảnh con cò sẽ còn khắc mãi trong tim mỗi người Việt Nam chúng ta.

Cảm nhận bài thơ Con cò - mẫu 1

Nhà thơ Chế Lan Viên được biết đến là một trong những tên tuổi hàng đầu của nền thơ ca Việt Nam thế kỉ XX. Bài thơ “Con cò” được ông sáng tác năm 1962, in trong tập thơ “Hoa ngày thường - Chim báo bão”. Bài thơ đã làm nổi bật hình tượng trung tâm con cò, qua đó ngợi ca tình mẹ bao la, thiêng liêng, cùng với đó là ý nghĩa sâu sắc của lời ru đối với cuộc sống của mỗi con người.

Mở đầu bài thơ, hình ảnh con cò đã được gợi ra qua những lời hát ru thân thuộc của mẹ:

“Con còn bế trên tay

Sữa mẹ nhiều con ngủ chẳng phân vân”

Hình ảnh con cò hiện lên qua lời ru của mẹ, đưa con vào những giấc ngủ say mềm. Con còn bé, chưa có đủ nhận thức để biết được “con cò", “con vạc” là gì, nhưng con đã được mẹ đưa những hình ảnh ấy vào trong giấc ngủ, qua từng câu hát à ơi. Hình ảnh con cò quen thuộc qua những câu ca dao “con cò bay lả bay la” đã được mẹ nhẹ nhàng đưa vào tiềm thức của con, qua lời ru ngọt ngào. Những lời ru vừa ngọt ngào, vừa tha thiết, và mẹ đã vỗ về cho con bên vành nôi từ thủa tấm bé. Những lời ru ngọt ngào ấy, những hình ảnh con cò, con vạc thân quen ấy, dần dần cùng con đi vào những giấc ngủ say, trở thành một phần kí ức tuổi thơ của con. Tuy nhận thức của con chưa thể biết được rõ, “sữa mẹ nhiều con ngủ chẳng phân vân”, nhưng chắc chắn hình ảnh quen thuộc ấy đã in dấu trong giấc ngủ của con, cả một miền kí ức tuổi thơ của con.

Hình ảnh con cò lại được biến đổi, như đã trở thành người bạn đồng hành cùng con trên các chặng hành trình qua khổ thơ thứ 2:

“Ngủ yên! Ngủ yên! Ngủ yên!

Và trong hơi mát câu văn…”

Trong từng bước hành trình của con, hình ảnh con cò vẫn luôn đồng hành, gắn bó và chứng kiến sự trưởng thành của con. “Cò đứng ở quanh nôi/ Rồi cò vào trong tổ”. Con cò đã trở thành người bạn với con, đồng hành cùng con. Cánh có như chở theo những ước mơ của con, “bay hoài không nghỉ”. Cò sẽ cùng con bước đi trên hành trình đầy ước mơ và hy vọng, sẽ là người cùng con tiến bước trên chặng đường tương lai chinh phục ước mơ của con.

Và, từ hình ảnh con cò luôn dõi theo con, ta cảm nhận được tình mẹ dành cho con bao la và rộng lớn biết nhường nào:

“Dù ở gần con

Đi hết đời, lòng mẹ vẫn theo con”.

Dù là sự xa cách về không gian địa lý, thì “cò” vẫn luôn đồng hành và dõi theo con. Cho đến những câu thơ này, hình ảnh con cò đã tượng trưng cho lòng mẹ. Lòng mẹ luôn hướng về con, dù là con ở đâu, làm gì, mẹ cũng vẫn luôn dõi theo từng bước phát triển của con. Con dù còn nhỏ, hay đã trưởng thành, thì lòng mẹ vẫn vẹn nguyên như những ngày đầu, “tìm con”, “yêu con". Lòng mẹ bao la là vậy, thiêng liêng là vậy, cuối cùng chính là sự hy sinh không biết mệt mỏi trên hành trình dõi theo con. Câu thơ “Con dù lớn vẫn là con của mẹ/ Đi hết đời lòng mẹ vẫn theo con” đã thể hiện vô cùng sâu sắc và cảm động tình mẹ dành cho con. Tấm lòng mẹ bao la, sâu sắc biết nhường nào.

Và lại một lời ru cất lên, kết thúc bài thơ nhưng lại mở ra cả một miền tình cảm sâu sắc của mẹ dành cho con:

"À ơi

Quanh nôi”

Hình cảnh con cò từ đầu bài thơ, lại xuất hiện ở đoạn kết bài. Lời ru vẫn xuyên suốt, vẫn vang vọng, gắn liền với cả cuộc đời của một con người. Lời ru của mẹ vẫn nhịp nhàng, vẫn đều đặn như thế, đem hình ảnh quen thuộc của cánh cò gửi gắm vào lời bài hát, để rồi tô thắm thêm cho tâm hồn con những nét đẹp, ý nghĩa của cuộc đời. Lời ru là yếu tố tinh thần không thể thiếu, như nuôi dưỡng và bồi đắp cho tâm hồn mỗi con người, là nền tảng phát triển của con người.

Nhà thơ Chế Lan Viên đã sử dụng thể thơ tự do để viết nên những dòng cảm nhận chân thành mà tha thiết về tình mẹ, về lời hát ru. Đồng thời, tác giả cũng vận dụng sáng tạo và linh hoạt hình ảnh “con cò”, qua đó nêu bật được tình mẹ bao la, thiêng liêng biết nhường nào. Đồng thời, ý nghĩa của lời hát ru cũng vô cùng quan trọng đối với sự hình thành và phát triển tâm hồn của mỗi con người.

Cảm nhận bài thơ Con cò - mẫu 2

Chế Lan Viên là một nhà thơ tài năng của nền văn học Việt Nam. Ông có một phong cách nghệ thuật rõ nét, độc đáo đó là những suy tưởng, triết lý đậm chất trí tuệ và tính hiện đại. Đặc biệt, nhà thơ còn có nhiều sáng tạo trong nghệ thuật xây dựng hình ảnh thơ: hình ảnh thơ đa dạng, phong phú, kết hợp giữa thực và ảo. “Con cò” là một bài thơ như thế.

Con cò - hình tượng thơ xuyên suốt bài thơ và cũng là tên tác phẩm được khai thác từ trong ca dao truyền thống. Hình ảnh này xuất hiện rất phổ biến trong ca dao và dùng với nhiều ý nghĩa. Đó là hình ảnh người nông dân chân lấm tay bùn, vất vả cực nhọc; là người phụ nữ cần cù, lam lũ nhưng tất cả đều giàu đức hi sinh. Trong bài thơ này, nhà thơ vận dụng hình tượng ấy để làm biểu trưng cho tấm lòng người mẹ và những lời hát ru.

Bài thơ có bố cục ba phần với những nội dung được gắn với nhau bằng một lôgic khá mạch lạc: Hình ảnh con cò qua những lời ru bắt đầu đến với tuổi thơ ấu; hình ảnh con cò đi vào tiềm thức của tuổi thơ, trở nên gần gũi và sẽ theo cùng con người trên mọi chặng của cuộc đời; từ hình ảnh con cò, suy ngẫm và triết lý về ý nghĩa của lời ru và lòng mẹ đối với cuộc đời mỗi người.

Xuyên suốt bài thơ, hình tượng con cò được bổ sung biến đổi trong mối quan hệ với cuộc đời con người, từ thơ bé đến trưởng thành và suốt cả đời người.

Mở đầu bài thơ, hình ảnh con cò được gợi ra liên tiếp từ những câu ca dao dùng làm lời hát ru. Ở đây tác giả chỉ lấy vài chữ trong mỗi câu ca dao nhằm gợi nhớ những câu ca dao ấy. Những câu ca dao được gợi lại đã thể hiện ít nhiều sự phong phú trong ý nghĩa biểu tượng của hình ảnh con cò trong ca dao. Câu "con cò Cổng Phủ con cò Đồng Đăng" gợi tả không gian và khung cảnh quen thuộc của cuộc sống ngày xưa từ làng quê đến phố xá.

Hình ảnh con cò gợi vẻ nhịp nhàng, thong thả, bình yên của cuộc sống vốn ít biến động thời xưa. Câu ca dao “con cò mà đi ăn đêm” hình ảnh con cò lại tượng trưng cho những con người cụ thể là người mẹ, người phụ nữ nhọc nhằn vất vả, lặn lội kiếm sống...

Qua lời ru của mẹ, hình ảnh con cò đến với tâm hồn ấu thơ một cách vô thức. Đây chính là sự khởi đầu con đường đi vào thế giới tâm hồn của con người qua lời ru, của ca dao, dân ca.

Con trẻ chưa hiểu nội dung, ý nghĩa của bài ca dao nhưng chúng được vỗ về trong âm điệu ngọt ngào, dịu dàng của lời ru. Chúng được đón nhận bằng trực giác tình yêu và sự che chở của người mẹ. Và khép lại đoạn thơ là hình ảnh thanh bình của cuộc sống.

Sau những năm tháng nằm nôi, cánh cò trở thành người bạn đồng hành của tuổi thơ:

“Cò trắng đến làm quen

Cò đứng ở quanh nơi

Rồi cò vào trong tổ

Con ngủ yên thì cò cũng ngủ

Cánh của cò, hai đứa đáp chung đôi”

Đến tuổi tới trường:

“Con theo cò đi học

Cánh trắng cò bay theo gót đôi chân”.

Và khi con trưởng thành:

"Cánh cò trắng lại bay hoài không nghỉ

Trước hiên nhà

Và trong hơi mát câu văn…”.

Con cò từ trong lời ru đã đi vào tiềm thức của tuổi thơ trở nên gần gũi, thân thiết và theo con người đi suốt cuộc đời. Từ trong ca dao, cánh cò đã được tiếp tục sự sống của nó trong tâm thức con người. Hình ảnh ấy được xây dựng bằng sự liên tưởng như được bay ra từ trong ca dao để sống trong lòng con người, theo cùng và nâng đỡ con người trong từng chặng đường. Hình ảnh con cò gợi ý nghĩa biểu tượng về lòng mẹ, về sự dìu dắt, nâng đỡ dịu dàng và bền bỉ của người mẹ.

Đến phần thứ ba của bài thơ, hình ảnh cánh cò đã được đồng nhất với hình ảnh người mẹ. Tấm lòng của mẹ như cánh cò lúc nào cũng ở gần bên con trong suốt cuộc đời:

“Dù ở gần con

Dù ở xa con

Lên rừng xuống bể

Cò sẽ tìm con

Cò mãi yêu con"

Từ đây, nhà thơ khẳng định một quy luật của tình cảm có ý nghĩa bền vững, rộng lớn và sâu sắc: tình mẫu tử.

"Con dù lớn vẫn là con của mẹ

Đi suốt đời lòng mẹ vẫn theo con"

Câu thơ đi từ cảm xúc đến liên tưởng để khái quát thành những triết lý. Dù đi đâu, bên mẹ hay đến phương trời khác, dù còn nhỏ hay đã lớn khôn thì con vẫn được mẹ hết lòng thương yêu, che chở.

“Một con cò thôi

Con cò mẹ hát

Cũng là cuộc đời

Vỗ cánh qua nôi”

Lời ru cũng là khúc hát yêu thương. Sự hoá thân của người mẹ vào cánh cò mang nhiều ý nghĩa sâu xa, kết tụ những hi sinh, gian khổ, nhọc nhằn để những lời yêu thương càng trở nên sâu sắc, đằm thắm. Câu thơ cuối là một hình ảnh rất đẹp. Cánh cò vỗ qua nôi như dáng mẹ đang nghiêng xuống chở che, đang nói với con những lời tha thiết của lòng mẹ.

Bài thơ sử dụng thể thơ tự do nhưng cũng có câu mang dáng dấp của thể thơ 8 chữ. Thể thơ tự do giúp tác giả có khả năng thể hiện cảm xúc một cách linh hoạt, dễ dàng biến đổi. Các đoạn thơ được bắt đầu bằng câu thơ ngắn, có cấu trúc giống nhau, nhiều chỗ lặp lại hoàn toàn gợi âm điệu lời ru. Đặc biệt, giọng thơ gợi được âm hưởng của lời ru nhưng không phải là một lời ru thực sự. Đó còn là giọng suy ngẫm triết lý. Nó làm cho bài thơ không cuốn người ta vào hẳn điệu ru êm ái đều đặn mà hướng vào sự suy ngẫm, phát hiện.

Không chỉ vậy, trong bài thơ này, Chế Lan Viên vẫn chứng tỏ được sức sáng tạo trong việc tạo ra những hình ảnh nghệ thuật giàu sức gợi. Đó là việc vận dụng sáng tạo hình ảnh con cò trong ca dao. Hình ảnh con cò là nơi xuất phát, là điểm tựa cho những liên tưởng tưởng tượng hình ảnh của tác giả. Chế Lan Viên đã chứng minh rằng hình ảnh biểu tượng dù gần gũi, quen thuộc đến đâu vẫn có khả năng hàm chứa những ý nghĩa mới, có giá trị biểu cảm.

“Con cò” của Chế Lan Viên là một bài thơ độc đáo. Viết về một đề tài không mới: tình mẫu tử; chọn những thi liệu đã thành truyền thống: hình ảnh con cò và âm điệu lời ru. Song, bằng sức sáng tạo và tài năng nghệ thuật, Chế Lan Viên đã để lại cho văn học một tứ thơ lạ và đầy suy tưởng sâu sắc. Đọc “Con cò”, ta như thấy trong mình ăm ắp những yêu thương mà cả cuộc đời của mẹ đã dành trọn cho mình.

Phân tích bài thơ Con cò – mẫu 1

Đã là người Việt nam, ai lớn lên mà chẳng mang theo, dù ít, dù nhiều hơi ấm của những lời ru, những lời yêu thương êm đềm khi xưa mẹ hát. Đã mang trong mình dòng máu Việt, ai mà chẳng có một góc tuổi thơ trong sáng, hồn nhiên, chập chờn theo đôi cánh cò trắng ở nơi sâu thẳm hoài niệm, tâm hồn.

Chế Lan Viên cũng vậy, ông cũng là người Việt Nam, dòng máu chảy trong huyết quản ông cũng mang tên Lạc Hồng, có lẽ vì thế, trong thơ ông, dù là suy ngẫm, dù là triết lí, ta vẫn gặp lời ru ầu ơ của mẹ, ta vẫn thấy kỉ niệm tuổi thơ nồng cháy, ta vẫn nghe trong gió thong thả nhịp vỗ cánh cò. Và “Con cò” là bài thơ tiêu biểu cho một hồn thơ như thế.

“Con cò bế trên tay

Con chưa biết cánh cò

Nhưng trong lời mẹ hát

Có cánh cò đang bay”

Rất tự nhiên, mẹ thấy con vẫn còn bé bỏng lắm, vẫn còn phải bế trên tay mẹ. Con đã biết cánh cò trắng là gì đâu, con đã biết cuộc đời xung quanh là gì đâu, con chỉ đón nhận cuộc đời một cách vô thức. Vô thhức thôi nhưng dường như đứa trẻ đã cảm nhận được cánh cò trắng đang bay đến bên mình, đã nghe thấy âm điệu ngọt ngào trong trẻo của lời ru.

Con cò bay la

Con cò bay lả

Con cò cổng phủ

Con cò Đồng Đăng

Thi sĩ không trích hết lời ca dao, chỉ gợi thôi mà cả một bầu không khí đã rất xa xăm bỗng trở về nguyên vẹn. Nơi thanh bình và yên ả. Nơi ấy có cánh cò, có những hình ảnh rất đẹp đã đi vào tiềm thức không biết bao thế hệ con người. Ở nơi ấy, ta vẫn nghe được tiếng cuộc đời vất vả, nhọc nhằn của người nông dân và đặc biệt là những người phụ nữ, những người chị, người mẹ Việt Nam, tiếng những đứa con yêu thương tha thiết, sẵn sang hi sinh cho con tất cả những cánh cò kia, dù sa cơ, dù chết cũng xin được “xáo nước trong” để khỏi mang tiếng xấu cho đàn con nhỏ.

Lời ru của mẹ có đứa con bé bỏng, có cánh cò yếu đuối, nó không còn là lời hát ru nữa, nó là lời tâm tình của trái tim người mẹ nhân từ, bao dung. Khi thì mẹ thương con, khi thì mẹ thương cánh cò cả cuộc đời yếu đuối. Dù rằng lời ru có mang theo bao điều như thế, em bé vẫn say ngủ ngon lành. Tình mẹ hòa vào lời ru vẫn vỗ về tâm hồn non nớt, vẫn cho con niềm yêu thương và che chở tuyệt vời. Bầu không khí của hoài niệm quá khứ dần dần khép lại, đưa con người trở về với thực tại, với mẹ, với em:

Ngủ yên! Ngủ yên! Cò ơi, chớ sợ!

Cánh cò mềm mẹ đã sẵn tay nâng

Lời mẹ trước kia còn trầm, buồn vang lên trong cái âm điệu dài, xa vắng vậy mà giờ đây sao trìu mến, sao tha thiết đến lạ lung, vỗ về, nâng giấc tình yêu, thi nhân bước đến khoảng trời vời vợi chân lí, nơi ấy có một sự thực mà cả đời người kiếm tìm mới chợt hiểu, nó ở bên ta, nó ở giữa cuộc đời:

Con dù lớn vẫn là con của mẹ

Đi suốt đời lòng mẹ vẫn theo con.

“Dù”, “vẫn”, sự khẳng định chắc chắn hơn bao giờ hết. Nó hiển nhiên như chính cuộc đời. Con dù lớn khôn, dù trưởng thành đến đâu, trước long mẹ bao la con vẫn luôn bé bỏng. Mặt trời con luôn sưởi ấm trái tim mẹ, còn mẹ, mẹ mãi yêu con, yêu con bằng tình yêu theo bé bước đi mãi mãi.

Tình mẹ là thế, bao la, lời ru của mẹ là thế, êm đềm, tha thiết, suốt đời con được hưởng, suốt đời con tìm thấy, nhưng chắc gì con đã thấu hiểu, cả cuộc đời mẹ đã gửi vào trong đó tất cả tình cảm, tất cả sự chở che, tất cả tình yêu thương êm đềm tha thiết:

Ta đi trọn kiếp con người

Cũng không đi hết mấy lời mẹ ru (Nguyễn Duy)

Nhà thơ Nguyễn Duy đã viết những vần thơ như thế vì bằng trải nghiệm ông đã hiểu cái bao la bất tận của tình mẹ yêu con. Còn Chế Lan Viên, thi sĩ tìm thấy trong cánh cò yêu thương bay ra từ câu hát, một triết lí thiêng liêng đủ soi rọi mọi tâm hồn tận ngóc ngách sâu thẳm nhất.

Có lẽ phút hiểu ra cái điều cả đời mình tìm kiếm, nhà thơ phải nén lại niềm xúc động đến rưng rưng trực tuôn trào ra khoé mắt để viết lên cái điều ấp ủ bấy lâu, rằng tình mẹ là vĩnh hằng, bất diệt, luôn tìm thấy bên cuộc đời chúng ta, rằng lòng mẹ là bao la, vô bờ bến, luôn ôm ấp tâm hồn mỗi con người.

Với mẹ, con là hơi ấm nồng nàn, là sự sinh tồn, sự sống, con đem lại cho mẹ hơi sống, niềm hạnh phúc yêu thương lớn nhất cuộc đời. Ta chỉ có thể nói như vậy về cái quy luật bất biến ấy, vì tự nó đã nói lên tất cả những điều thấm thía nhất trong cuộc đời. Biểu tượng của long mẹ thì thiêng liêng, biểu tượng của cuộc đời thì ấm áp:

À ơi

Một con cò thôi

Con cò mẹ há

Còng là cuộc đời

Vỗ cánh qua nôi

Tình mẹ cứ theo con đi suốt năm tháng, trở thành hành trang cho đứa con bé bỏng bước vào đời. Con sẽ bước đi trong niềm tin mạnh mẽ vì: "Cánh cò trắng bay theo gót đôi chân". Cánh cò tuổi thơ sẽ chắp cánh giấc mơ đẹp đẽ, đưa em đến những phương trời xa. Như cánh cò trong thơ Trần Đăng Khoa khiêng nắng về đánh thức ngày mới: “ Cánh cò trắng khiêng nắng qua sông…”

Cánh cò của Chế Lan Viên biết đánh thức cả bầu trời lấp lánh hi vọng những vì sao mơ ước, cho em thơ tương lai đẹp đẽ, sáng rực lên muôn vạn sắc màu. Và trong muôn vàn sắc màu rực rỡ ấy, rất nhẹ nhàng đọng lại một thứ màu dìu dịu yêu thương, màu của tình mẫu tử, để rồi cho con. Đâu rồi cái cánh cò trắc trờ, hiểm nguy trong câu hát thủa xưa, chỉ còn cánh cò em,, ngủ ngon trong vòng tay mẹ.

Em và cò hóa thân vào nhau trong vòng tay ấm áp yêu thương. Cứ như vậy, em bé ngủ yên trong tình mẹ dạt dào, trong sự che chở, chăm sóc, nâng niu ẩn chứa yêu thương vô bờ bến. Đứa bé đón nhận tình yêu, đón nhận lời ru vô thức để rồi mang hơi ấm của lời ru vô thức ấy đi theo suốt cuộc đời.

Lời ru – giọt mật đầu tiên mẹ rót cho em bé trong cuộc đời nó sóng sánh tình mẹ, sóng sánh không khí của đất trời thấm vào lời ru. Em ngủ say, ngủ say trong tình mẹ, ngủ say trong tình yêu thương của đất trời bao la ban cho những thiên thần cho những tâm hồn bé nhỏ. Và khi ấy, dù:

“ Con chưa biết con cò, con vạc

Con chưa biết những cành mền mẹ hát

Sữa mẹ nhiều con ngủ chẳng phân vân”

Mẹ vẫn gọi con mẹ vẫn nhắc tên con, sự lặp lại những lời yêu thương ấy là lời nhắn nhủ, lời giãi tỏ tâm tình, tràn đầy tình yêu con. Cánh cò, cánh vạc bay, ngân xa mãi tình yêu vô tận ấy. Em bé có hiểu tình mẹ ko nhỉ? Nhưng thôi, cứ ngủ đi em ạ, vì còn gì em ả, thanh bình bằng giấc ngủ của em trong lời ru ầu ơ tha thiết.

Cánh cò đến, trong lời ru tuổi thơ, dịu dàng, êm ái là vậy mà theo ta đi mãi, đi suốt những chặng đường dài, gắn bó bền bỉ, thân thương cho con người tựa vững chắc nhất: “ Ngủ yên! Ngủ yên! Ngủ yên!”. Lời ru của mẹ vỗ về cho em ngon giấc, nó ngọt lịm, thanh bình như tình mẹ bao thuở vẫn vậy, vẫn nhẹ nhàng nâng đỡ đời con. Và cánh cò, từ một miền xa xăm nào đó, lại đến cùng lời mẹ hát ru, chở theo cả niềm yêu thương ấm áp về cùng giấc ngủ trẻ thơ:

Cho cò trắng đến làm quen

Cò đứng ở quanh nôi, rồi cò vào trong tổ

Con ngủ yên thì cò cũng ngủ

Lý muôn đời của tình mẹ, của lời hát ru con. Chẳng cần phải rút ra một châm nghiệm to tát, chẳng cần phải trau chuốt lời văn, ý thơ đâu, nhẹ nhàng thôi, giản đơn thôi, thi sĩ làm xao xác tận sâu thẳm tâm hồn người đọc:

“Dù ở gần con

Dù ở xa con

Lên rừng xuống bể

Cò sẽ tìm con

Cò mãi yêu con”

Ta tự hỏi lòng chẳng lẽ còn thứ tình cảm tha thiết, mãnh liệt hơn thứ tình cảm kia nữa? Một tình cảm vượt lên trên tất cả khó khăn, ngăn cách, nối liền những nẻo xa xăm, một tình cảm có sức lay động, ám ảnh tâm can dù mới chỉ làn đầu nhìn thấy. ôi! Tình mẫu tử… có lẽ còn thiêng liêng hơn mọi điều thiêng liêng nhất. Dù ở đâu, dù ở trong bất cứ hoàn cảnh nào, lòng mẹ cũng như cánh cò kia, vẫn bên con, vẫn lặn lội đi tìm, lặn lội sưởi ấm trái tim con, cho con sức mạnh, cho con niềm tin vào cuộc sống.

Kì thực em bé vẫn còn bé bỏng lắm, vẫn còn đang ngủ ngon lành trong cánh nôi tuổi thơ nhưng ước mơ of mẹ về một tương lai đẹp mai sau cứ theo tình yêu cháy lên mãi. mẹ độc thoại với chính lònh mình, tự soi long mình trong tình cảm yêu con tha thiết:

“Lớn lên, lớn lên, lớn lên…

Con làm gì?

Con làm thi sĩ

Cánh cò trắng lại bay hoài không nghỉ

Trước hiên nhà

Và trong hơi mát câu văn…”

Chưa bao giờ ước mơ cháy bỏng, tha thiết đến như thế, mẹ ước mơ và gửi trọn ước mơ ấy vào đôi chân con mai này sẽ bước trên đường đời, sẽ vươn tới những khát khao mẹ ấp ủ bằng cả niềm tin. mẹ hỏi lòng và tự trả lời cho câu hỏi: mẹ muốn con làm thi sĩ, mang cái đẹp đến cho cuộc đời qua những vần thơ về mẹ, về con, về cuộc sống xung quanh đang từng ngày nuôi con lớn khôn. Mẹ muốn cuộc đời con mãi mãi đẹp mãi mãi trong sáng như bài thơ đẹp đẽ nhất.

Phân tích bài thơ Con cò – mẫu 2

Con cò là hình ảnh quen thuộc với làng quê Việt Nam tự bao đời. Hình ảnh cò đã đi vào ca dao, dân ca Việt Nam Với những ý nghĩa sâu sắc. Nó là hình ảnh biểu trưng cho hình tượng người, phụ nữ Việt Nam chịu thương chịu khó. Cảm nhận từ tình mẹ thiêng liêng, cảm nhận vẻ đẹp sâu sắc của hình ảnh cò, tác giả Chế Lan Viên đã mượn chất liệu là những bài ca dao, dân ca Việt Nam để viết nên bài thơ Con cò ca ngợi tình mẫu tử thiêng liêng và nỗi nhọc nhằn nuôi con khôn lớn của người phụ nữ, người mẹ.

Bài thơ Con cò được sáng tác năm 1962, in trong tập thơ Hoa, ngày thường – Chim báo bão (1967) của Chế Lan Viên. Viết Con cò, nhà thơ thông qua một cánh cò tượng trưng dập dìu trong lời ru, câu hát thể hiện được tấm lòng yêu thương và những mong ước của người mẹ với đứa con còn bé thơ.

Hình ảnh con cò qua bài thơ mang nhiều ý nghĩa tượng trưng, luôn luôn biến hóa trong tiếng hát và lời ru. Hình ảnh con cò, tượng trưng cho tấm lòng trong trắng, cho những nỗi khổ của ngày qua, cho niềm vui và mơ ước hôm nay, cho tình yêu thương rộng lớn của người mẹ với cái bé bỏng côi cút của con thơ.. Dường như, với tính chất tượng trưng, con cò trong trường hợp nào cũng đúng cả, cũng để lại cho người đọc nhiều ấn tượng.

Trong trang thơ, cánh cò không tự có, không tự hiện hữu bất di bất dịch như muôn vàn câu chữ của thi ca, nó phải bay ra từ một miền xa xôi lắm. Chế Lan Viên đã đánh thức cánh cò yên ngủ, gọi cò về với những lời ru ấp ủ trong tâm hồn thi nhân để rồi, qua lời ru của mẹ trên trang thơ, con cò bắt đầu đến với tuổi thơ diệu kì của đứa trẻ. Dịu dàng, êm ái, người mẹ bắt đầu thủ thỉ, tâm tình với niềm yêu thương tha thiết:

Con còn bế trên tay

Con chưa biết con cò

Nhưng trong lời mẹ hát

Có cánh cò đang bay

Rất tự nhiên, mẹ thấy con vẫn còn bé bỏng lắm, vẫn còn phải bế trên tay mẹ. Con đã biết cánh cò trắng là gì đâu, con đã biết cuộc đời xung quanh là gì đâu, con chỉ đón nhận cuộc đời một cách vô thức. Vô thức thôi nhưng dường như đứa trẻ đã cảm nhận được cánh cò trắng đang bay đến bên mình, đã nghe thấy âm điệu ngọt ngào trong trẻo của lời ru.

Em chưa hiểu tình mẹ, nhưng mơ hồ, em đã thấy bên em một sự che chở, vỗ về thiêng liêng, một tình yêu thương êm đềm, trìu mến. Và cánh cò bắt đầu chao lượn dập dìu trong lời hát ru con:

“Con cò bay la

Con cò bay lả

Con cò cổng phủ

Con cò Đồng Đăng…

"Cò một mình, cò phải kiếm lấy ăn

Con có mẹ, con chơi rồi lại ngủ.

"Con cò ăn đêm

Con cò xa tổ,

Cò gặp cành mềm

Cò sợ xáo măng…"

Ngủ yên! Ngủ yên! Cò ơi, chớ sợ!

Cành có mềm, mẹ đã sẵn tay nâng!

Trong lời ru của mẹ thấm hơi xuân,

Con chưa biết con cò, con vạc.

Con chưa biết những cành mềm mẹ hát,

Sữa mẹ nhiều, con ngủ chẳng phân vân.

 

Thi sĩ không trích hết lời ca dao, chỉ gợi thôi mà cả một không gian đã rất xa xăm bỗng trở về nguyên vẹn. Nơi ấy thanh bình và yên ả. Nơi ấy có cánh cò, có những hình ảnh rất đẹp đã đi vào tiềm thức không biết bao thế hệ con người. Ở nơi ấy, ta vẫn nghe được tiếng cuộc đời vất vả, nhọc nhằn của người nông dân và đặc biệt là những người phụ nữ, những người chị, người mẹ Việt Nam, tiếng những đứa con yêu thương tha thiết.

Ta thấy những cánh cò kia sẵn sàng hi sinh vì con, dù sa cơ, dù chết cũng xin được “xáo nước trong” để khỏi mang tiếng xấu cho Con. Dẫu rằng đó là lời hát ru, lời ca dao cách tân trong thơ hiện đại, cánh cò vẫn mang theo cả nỗi buồn, niềm vui hòa lẫn, khiến người đọc phải nghĩ suy. Người mẹ ru con trong vất vả, nhọc nhằn càng gieo thêm đắng cay, cái vị đắng cay mà Xuân Quỳnh từng không giấu nổi xúc động khi nghe câu hát ấy trong “gió Lào” và “cát trắng” miền Trung:

Trong gió nóng những trưa hè ngột ngạt

Mẹ ru tôi hạt cát sạn hàm răng.

Mặc dù người mẹ biết con mình còn quá bé bỏng trước cuộc đời. Nhưng mẹ muốn hát cho con nghe để con hình thành tình yêu thương đối với những gì thuộc về quê hương, đất nước; hiểu được tình thương bao la mà mẹ dành cho con. Bên cạnh đó, mẹ muốn con hãy yên tâm trước cuộc đời, vì đã có mẹ chở che trong câu: "cành có mềm, mẹ đã sẵn tay nâng".

Câu thơ khiến ta cảm động trước tình mẹ bao la, sâu sắc, vỗ về, chở che ta từ khi còn tấm bé. Để rồi, khi ta từng bước trưởng thành, vẫn có mẹ bên cạnh sẻ chia:

Ngủ yên! Ngủ yên! Ngủ yên!

Cho cò trắng đến làm quen,

Cò đứng ở quanh nôi

Rồi cò vào trong tổ.

Con ngủ yên thì cò cũng ngủ,

Cánh của cò, hai đứa đắp chung đôi.

Mai khôn lớn con theo cò đi học

Cánh trắng cò bay theo gót đôi chân.

Lớn lên, lớn lên, lớn lên…

Con làm gì? Con làm thi sĩ!

Cánh cò trắng lại bay hoài không nghỉ

Trước hiên nhà

Và trong hơi mát câu văn…

Khổ thơ thứ hai có thể chia làm ba giai đoạn, tựu chung lại vẫn là ý nghĩa của hình ảnh cò gắn bó mật thiết và trở thành người bạn đồng hành với cuộc đời con trẻ từ lúc ấu thơ cho đến khi trưởng thành. Đoạn đầu là mối tương quan mật thiết giữa cò với con trẻ trong suốt thời thơ ấu. Cò "đứng ở quanh nôi", rồi cò "vào trong tổ"; con có ngủ thì cò mới ngủ.

Hình ảnh cò tới đây không còn là hình ảnh con cò giản dị nữa, mà đã ẩn dụ cho hình tượng người mẹ chăm sóc, vỗ về, ấp iu cho con từng miếng ăn, giấc ngủ. Khi con lớn hơn một chút thì tình yêu mẹ dành cho con như thế nào? Đoạn thứ hai:Mai khôn lớn con theo cò đi học,Cánh trắng cò bay theo gót đôi chân.

Đó là sự đồng hành của người mẹ với con mình trong thời niên thiếu. Buổi ban đầu chập chững bước vào cuộc đời, đứa trẻ cần lắm đôi tay dìu dắt của mẹ. Thế nhưng, người mẹ sẽ không dìu dắt con mãi mãi, mà theo năm tháng, mẹ tập cho con tự bước đi trên đôi chân chính mình. Ban đầu, thì cò dắt con đi học. Nhưng dần dà, cánh trắng cò chỉ bay theo gót chân con.

Khi con đến giai đoạn niên thiếu, tình thương của mẹ dành cho con đã có cách thể hiện khác. Mẹ không còn nâng niu con nữa, mà chỉ đồng hành bên con, dõi theo mỗi bước chân con. Mẹ muốn con tự đi trong cuộc đời bằng đôi chân của chính mình. Vì chỉ có thế, bước chân con mới vững vàng, không sợ vấp ngã. Ta cảm nhận được tình mẹ vừa sâu sắc, lại vừa bao la.

Đoạn thứ ba nói lên hình ảnh cò – hình ảnh mẹ đã đi vào tiềm thức, hóa nên tâm hồn phong phú cho con người khi trưởng thành. Cho dù lúc trưởng thành con có làm bất cứ nghề nghiệp gì, thì hình ảnh mẹ luôn là nguồn cảm xúc dạt dào, là chất xúc tác giúp con thành công hơn trên bước đường công danh sự nghiệp. Hình ảnh thân thương của mẹ trở nên ý nghĩa lớn lao với cuộc đời mỗi người. Khổ thơ thứ ba thật giản dị mà lại gây nhiều xúc động với người đọc bởi lời mẹ chân tình, tha thiết.

Dù ở gần con,

Dù ở xa con,

Lên rừng, xuống bể

Cò sẽ tìm con,

Cò mãi yêu con.

Con dù lớn, vẫn là con của mẹ,

Đi hết đời, lòng mẹ vẫn theo con.

Phải chăng đây cũng chính là lời tự sự của tất cả những người mẹ có con cái đã trưởng thành, có khung trời và lối đi riêng? Cho dù bất cứ nơi đâu, bất cứ hoàn cảnh nào, mẹ vẫn dang rộng vòng tay yêu thương, vẫn là bến bờ là điểm tựa cho con bởi: "con dù lớn vẫn là con của mẹ". Thế nên: "đi hết đời lòng mẹ vẫn theo con". Có biết bao nhiêu tình cảm trên đời, nhưng có tình nào bao la, sâu sắc và vô tận như tình mẹ dành cho ta.

Tình mẹ là thế, bao la, lời ru của mẹ là thế, êm đềm, tha thiết, suốt đời con được hưởng, suốt đời con tìm thấy, nhưng chắc gì con đã thấu hiểu. Cả cuộc đời mẹ đã gửi vào trong đó tất cả tình cảm, tất cả sự chở che, tất cả tình yêu thương êm đềm tha thiết:Ta đi trọn kiếp con người Cũng không đi hết mấy lợi mẹ ru. (Ngồi buồn nhó mẹ ta xưa – Nguyễn Duy)Bài thơ được mở đầu bằng những câu hát ru và kết lại cũng bằng lội ru à ơi:

À ơi!Một con cò thôi,

Con cò mẹ hát

Cũng là cuộc đời

Vỗ cánh qua nôi.

Ngủ đi! Ngủ đi!

Cho cánh cò, cánh vạc,

Cho cả sắc trời

Đến hát quanh nôi.

Lời ru đến lúc này sao thắm đượm quá đỗi tình mẫu tử thiêng liêng của mẹ. Lại một lân nữa các cụm từ: "ngủ đi", "cánh cò, cánh vạc", "nôi" được nói về kì niệm tuổi thơ, nhắc nhớ về giấc ngủ đầu nôi cũng là dấu ấn thiêng liêng trong tâm thức của mỗi người.

Chế Lan Viên đã sáng tác bài thơ này với một sự chiêm nghiệm sâu sắc về tình mẫu tử thiêng liêng. Ông đã thể hiện niềm yêu kính đối với hình tượng người mẹ bằng giọng thơ nhẹ nhàng, trau chuốt. Tình mẹ, chắc có lẽ trong tâm thức mỗi con người đều cảm nhận được.

Thế nhưng, với bài thơ Con cò của Chế Lan Viên, ta như được trải nghiệm và hiểu thêm một cách sâu sắc về ý nghĩa của tình mẹ trong cuộc đời của mỗi con người. Để rồi, mỗi lần đọc lại bài thơ Cơn cò vần gợi lên những rung động và suy nghĩ sâu sắc về công ơn sinh thành của người mẹ. Từ đó mỗi người chúng ta càng thấy rõ trách nhiệm của mình trước lòng mẹ bao la, dạt dào thân thương và trìu mến, trước cuộc sống hôm nay của đất nước.

Con cò cùng với những bài thơ khác trong Hoa ngày thường – Chim báo bão, Ánh sáng và phù sa giúp chúng ta thấm thía hơn những "Trang đời, trang viết, nặng nghĩa đời sau" của nhà thơ Chế Lan Viên

Đôi nét về tác giả, tác phẩm

1. Tác giả

- Chế Lan Viên (1920- 1989) tên thật là Phan Ngọc Hoan

- Quê quán: huyện Cam Lộ- tình Quảng Trị nhưng ông lớn lên ở Bình Định

- Sự nghiệp sáng tác:

   + Trước Cách mạng tháng 8 Chế Lan Viên nổi tiếng với phong trào thơ mới với tập thơ “Điêu tàn” (1937)

   + Với hơn 50 năm sáng tác, ông có nhiều tìm tòi ở những tập thơ hay gây được tiếng vang trong công chúng, Chế Lan Viên là một trong những tên tuổi hàng đầu của nền thơ hiện đại thế kỉ XX

   + Năm 1996 ông được nhà nước truy tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật

- Phong cách sáng tác: Ông được đánh giá là một nhà thơ có phong cách và đặc sắc. Thơ ông lấp lánh vẻ đẹp trí tuệ, triết lí và khả năng sáng tạo hình ảnh.

2. Tác phẩm

1. Hoàn cảnh sáng tác

- Bài thơ “Con cò” sáng tác năm 1962, in trong tập “Hoa ngày thường- Chim báo bão” của Chế Lan Viên

2. Bố cục

- Khổ 1: Hình ảnh con cò theo lời ru đến với tuổi thơ con, đó là biểu tượng cho cuộc đời lam lũ của mẹ

- Khổ 2: Hình ảnh con cò trong tiềm thức của con và theo con suốt cuộc đời dài rộng

- Khổ 3: Ý nghĩa lời ru qua hình ảnh con cò, con cò là biểu tượng cho tấm lòng người mẹ

3. Nội dung chính

- Khai thác hình tượng con cò trong những câu hát, lời ru, bài thơ “Con cò” của Chế Lan Viên ngợi ca tình mẹ và ý nghĩa của lời ru trong cuộc đời mỗi người

4. Phương thức biểu đạt: Biểu cảm

5. Thể thơ: Tự do

6. Giá trị nội dung

- Thông qua việc khai thác hình tượng con cò trong những câu hát ru, bài thơ  “Con cò” của Chế Lan Viên ngợi ca tình yêu thương của mẹ và ý nghĩa của lời ru trong cuộc đời của mỗi con người.

7. Giá trị nghệ thuật

- Bài thơ đậm đà chất liệu dân ca, có thể thơ tự do nên cảm xúc được thể hiện linh hoạt

- Hình ảnh con cò gợi nhớ đến những hình ảnh rất quen thuộc của ca dao thuở nào, với giai điệu lời ru ngọt ngào, đằm thắm.

- Bên cạnh đó, bài thơ có những hình ảnh mang ý nghĩa đúc kết sâu sắc và có tính triết lí, tạo nên chiều sâu cảm xúc thơ: Con dù lớn vẫn là con của mẹ/Đi hết đời,lòng mẹ vẫn theo con; Con cò mẹ hát/Cũng là cuộc đời/Vỗ cánh qua nôi.

 

Tài liệu có 14 trang. Để xem toàn bộ tài liệu, vui lòng tải xuống
Đánh giá

0

0 đánh giá

Tải xuống