TOP 10 bài Phân tích Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh 2023 SIÊU HAY

Tải xuống 14 3.1 K 4

Tailieumoi.vn xin giới thiệu đến các quý thầy cô, các em học sinh lớp 9 bài văn mẫu Phân tích Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh hay nhất, gồm có dàn ý phân tích chi tiết và 10 bài văn phân tích mẫu hay nhất giúp các em học sinh có thêm tài liệu tham khảo trong quá trình ôn tập, củng cố kiến thức và chuẩn bị cho bài thi vào lớp 10 môn Văn sắp tới. Chúc các em học sinh ôn tập thật hiệu quả và đạt được kết quả như mong đợi.

Mời các quý thầy cô và các em học sinh cùng tham khảo và tải về chi tiết tài liệu dưới đây:

PHÂN TÍCH CHUYỆN CŨ TRONG PHỦ CHÚA TRỊNH

Bài giảng: Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh trích Vũ Trung tùy bút

Phân tích Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh – mẫu 1

Cùng với "Hoàng Lê nhất thống chí" của nhóm tác giả Ngô gia văn phái và "Thượng kinh kí sự" của Lê Hữu Trác, "Vũ Trung tùy bút" của Phạm Đình Hổ là thiên kí tiêu biểu xuất sắc trong mảng văn xuôi giàu giá trị hiện thực của nền văn học trung đại Việt Nam, ở thế kỉ XVIII. Dưới con mắt tinh anh của người viết sử, Phạm Đình Hổ đã ghi chép thật chi tiết, khách quan, chân thực về đời sống xã hội thời kì bấy giờ trên rất nhiều phương diện: nghi lễ, phong tục, tập quán...

Trong đó, tiêu biểu có đoạn trích "Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh", tác giả đã ghi chép lại những điều mắt thấy tai nghe về đời sống xa hoa của vua chúa và sự nhũng nhiễu của bọn quan lại thời Lê – Trịnh. Qua đó, phản ánh một xã hội thối nát, gián tiếp thể hiện thái độ lên án vua chúa quan lại Lê – Trịnh và bộc lộ niềm thương cảm với cuộc sống của nhân dân thời kì bấy giờ. "Vũ trung tùy bút" là một tác phẩm đặc sắc, được Phạm Đình Hổ viết vào khoảng đầu đời Nguyễn (đầu thế kỉ XIX). Tác phẩm gồm 88 mẩu chuyện nhỏ, viết theo thể tùy bút, hiểu theo nghĩa là ghi chép tùy hứng, tản mạn, không cần hệ thống, kết cấu gì. Truyện ghi chép những sự việc xảy ra trong xã hội lúc đó, viết về một số nhân vật, di tích lịch sử, khảo cứu địa dư, chủ yếu là vùng Hải Dương quê ông.

Tất cả những nội dung ấy đều được trình bày một cách giản dị, sinh động, hấp dẫn. Tác phẩm chẳng những có giá trị văn chương đặc sắc mà còn cung cấp những tài quí về sử học, địa lí và xã hội học. Trước hết, "Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh" phản ánh cuộc sống xa hoa, hưởng lạc của vua chúa và quan lại Lê - Trịnh ở thế kỉ XVIII. Thói ăn chơi xa xỉ của chúa Trịnh và các quan lại hầu cận trong phủ chúa được miêu tả rất sinh động, cụ thể hoàn toàn tương phản đối lập với cuộc sống đói khổ, túng quẫn của nhân dân: Chúa cho xây dựng nhiều đền đài, điện các liên miên ở khắp mọi nơi để phục vụ cho thú chơi đèn đuốc, ngao du vô độ, rất hao tiền, tốn của. Để thỏa sở thích, chúa bày ra các cuộc dạo chơi tốn kém ở các li cung ngoài kinh thành: "mỗi tháng ba bốn lần". Chúa tổ chức các trò chơi, đám rước, hội chợ, âm nhạc lố bịch, kệch cỡm để làm trò giải trí: các quan nội thần thì mặc áo đàn bà bày bán hàng quanh phủ Tây Hồ; thuyền đi đến đâu thì các quan đại thần hỗ tụng đến đó, chốc chốc lại ghé vào bờ mua bán các thứ như ở cửa hàng trong chợ. Đình điểm của sự kệnh cỡm, lố lắng là chúng đã biến ngôi chùa Trấn Quốc cổ kính, linh thiêng trang nghiêm (tứ trấn Thăng Long Hà Nội) trở thành nơi hòa nhạc, ca vũ mua vui: "Cũng có lúc cho bọn nhạc công ngồi trên gác chuông chùa Trấn Quốc, hay dưới bóng cây bến đá nào đó, hòa vài khúc nhạc". Như vậy, ngay ở phần đầu của văn bản, tác giả đã cho thấy được cuộc sống ăn chơi xa hoa, hưởng lạc của vua chúa quan lại Lê Trịnh với những việc làm tốn kém, vô bổ đến mức kệch cỡm, lố lăng. Gián tiếp phản ánh và tố cáo hiện thực bằng một giọng văn châm biếm, đả kích. Đồng thời cho thấy được bản chất của vua chúa quan lại Lê Trịnh: yếu hèn, nhu nhước, tham lam, ích kỉ. Tiếp đến, nhà văn chỉ ra nỗi thống khổ của nhân dân trước sự tham lam nhũng nhiễu của vua chúa quan lại Lê - Trịnh. Tác giả đã dẫn ra những chi tiết sự việc vô cùng chân thực, kèm theo những bình phẩm, đánh giá để làm nổi bật lên sự yếu hèn, nhu nhược, tham lam, ích kỉ của vua chúa quan lại, khi chúng dựa vào quyền thế để tìm và cướp lấy những vật quí báu trong thiên hạ. Còn đối với quan lại trong phủ chúa, bọn chúng thường "mượn gió bẻ măng", dựa vào quyền thế của chúa mà cướp đoạt, nhũng nhiễu, vơ vét của dân bằng những thủ đoạn tráo trở, vừa ăn cắp lại vừa la làng. Chúng dò xem nhà nào có chậu hoa cây cảnh, chim tốt khiếu hay thì biên ngay vào hai chữ "phụng thủ".Đêm đến thì trèo tường vào nhà dân lấy phăng đi, rồi vu vạ buộc cho tội giấu vật cung phụng để dọa lấy tiền. Thậm chí, có hòn đá hay cây cối gì to quá, bọn chúng còn phá nhà hủy tường của người dân để mà khiêng ra cho bằng được. Nhà giàu thì bị họ vu vạ cho là giấu vật cung phụng, thường phải bỏ tiền bỏ của ra mà kêu van chí chết, có khi phải tự tay đập bỏ núi non bộ, hoặc phá bỏ cây cảnh để khỏi bị tai bay vạ gió. 

Top 6 bài Phân tích Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh hay nhất (ảnh 1)

Đoạn văn cuối, tác giả kể lại sự việc xảy ra chính trong gia đình của mình: Mẹ của tác giả vì sợ hãi, muốn tránh sự phiền hà của quan lại mà đành phải tự chặt đi cây lê và hai cây lựu quý trong vườn nhà mình. Chi tiết này có tác dụng làm tăng tính xác thực, sinh động, thuyết phục. Đồng thời gián tiếp thể hiện thái độ phê phán, bất bình trước cuộc sống xa hoa, hưởng lạc và bản chất yếu hèn, nhu nhược và tham lam, độc ác của vua chúa quan lại Lê Trịnh nửa cuối thế kỉ XVIII. Tóm lại, "Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh" là một tác phẩm độc đáo, có giá trị đặc biệt quan trọng. Các sự việc được tác giả đưa ra cụ thể, chân thực (có thời gian, địa điểm rõ ràng), miêu tả tỉ mỉ, chi tiết và có kèm theo những lời bình, cảm xúc, thái độ phê phán. Tất cả đều có giá trị phản ánh khách quan bản chất hiện thực xã hội đương thời. Vì thế, chuyện không chỉ có giá trị văn học mà còn là tư liệu lịch sử quí giá.

Đồng thời, qua tác phẩm, người đọc cũng thấy được công lao đóng góp của Phạm Đình Hổ đối với thể loại tùy bút, bước đầu chỉ ra những đặc điểm của thể loại này: ghi chép sự việc cụ thể, chân thực, sinh động.

Dàn ý chi tiết

1. Mở bài

- Giới thiệu những nét cơ bản nhất về tác giả Phạm Đình Hổ và tác phẩm Vũ trung tùy bút: Một tác giả mang cốt cách thanh cao của kẻ sĩ Bắc Hà lo cho dân, cho nước. Vũ trung tùy bút là tác phẩm đặc sắc tiêu biểu của ông với bút pháp nghệ thuật tinh tế

- Vài nét về đoạn trích “Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh”: phản ánh đời sống sa hoa của vua chúa và sự nhũng nhiễu của bọn quan lại thời Lê- Trịnh, đưa đến một góc nhìn chân thực về sự đen tối của xã hội Việt Nam thời bấy giờ.

2. Thân bài

a) Thói ăn chơi hưởng lạc sa hoa, vô độ của chúa Trịnh Sâm

- Sự xa hoa trong cuộc sống của chúa Trịnh Sâm đã được ghi chép lại chân thực, tỉ mỉ:

+ Chúa cho xây dựng nhiều cung điện, đền đài chỉ để thỏa mong muốn “thích chơi đèn đuốc”

+ Việc xây dựng đền đài vì mục đích cá nhân này đã làm cho nhân dân hao tiền tốn của

+ Chúa thường xuyên tổ chức các cuộc dạo chơi Tây Hồ ba bốn lần một tháng, mỗi cuộc dạo chơi lại huy động rất nhiều người hầu hạ cùng những trò giải trí lố lăng, tốn kém

+ Việc tìm thu vật “phụng thủ” chính là cướp đoạt những vật quý giá trong thiên hạ. Việc tập trung miêu tả việc đưa một cây đa cổ thụ về ừ bên kia sông, cần tới cơ binh hàng trăm người ⇒ sự kì công, cũng cho thấy sự sa hoa tốn kém

⇒ Thói ghi chép tỉ mỉ, chân thực, khách quan, không đưa thêm bất cứ một lời bình luận nào nhưng cũng đủ để cho thấy sự xa xỉ ăn chơi, không màng đến quốc gia đại sự của một người nắm binh quyền ⇒ Sự dự báo trước sụp đổ, suy vong là điều không tránh khỏi đối với một triều đại chỉ ăn chơi hưởng lạc

b) Sự nhũng nhiễu của bọn quan lại dưới quyền

- Sự sa hoa hưởng lạc của người đứng đầu đưa đến thói nhũng nhiễu của quan lại dưới trướng:

+ Bọn hoạn quan được sủng ái vì giúp vua trong những trò chơi sa hoa nên ỷ thế hoành hành, tác oai tác quái

+ Chúng tìm thu vật “phụng thủ” mà thực ra chính là vừa ăn cướp, vừa la làng ⇒ người dân bị cướp đến hai lần, hoặc phải tự hủy bỏ những sản vật quý giá của mình, mà chúng thì lại vừa vơ vét làm của riêng lại vừa được tiếng mẫn cán

+ Phạm Đình Hổ kể câu chuyện từ chính gia đình mình khi bà mẹ ông phải sai chặt đi một cây kê và hai cây lựu quý chỉ vì muốn tránh tai họa ⇒ Càng tăng sức thuyết phục cho sự chân thực của những ghi chép

⇒ Qua cách ghi chép, tác giả đã kín đáo bộc lộ thái độ bất bình, phê phán của tác giả.

3. Kết bài

- Khái quát lại những nét nghệ thuật tiêu biểu làm nên thành công nội dung của đoạn trích: Cách ghi chép hết sức tỉ mỉ, chân thực, ngòi bút Phạm Đình Hổ là một ngòi bút trầm tĩnh mà sâu sắc,...

- Tác phẩm không chỉ mang giá trị văn chương mà còn mang giá trị lịch sử đáng ghi nhận

Top 6 bài Phân tích Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh hay nhất (ảnh 1)

Các bài mẫu khác:

Phân tích Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh – mẫu 2

"Vũ Trung tùy bút" là tác phẩm gồm tám mươi tám mẩu chuyện nhỏ, được ghi chép tùy hứng, tản mạn bàn về lễ nghi phong tục, ... hay về những việc xảy ra ở xã hội những năm đầu thời Nguyễn của tác giả Phạm Đình Hổ. Trong đó, "Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh" là đoạn trích được trích ra từ tập sách chữ Hán này. Đoạn trích tuy ngắn gọn nhưng đã ghi chép thật chân thực, cụ thể, sinh động những thú vui xa hoa, hưởng thụ của vua chúa, cùng với đó là sự nhũng nhiễu của bọn quan lại dưới thời Lê - Trịnh. Đồng thời, thông qua đó, ông muốn lên án, tố cáo một xã hội thối nát từ tận cùng, khiến cho dân chúng không thể yên ổn.

Mở đầu đoạn trích, bằng ngòi bút chân thực, không câu nệ của Phạm Đình Hổ, người đọc chúng ta được chứng kiến một cuộc sống ăn chơi với những thú vui chơi xa xỉ của chúa Trịnh Sâm cùng với bọn quan hầu cận. Vốn là một vị chúa, Trịnh Sâm phải quan tâm đến triều đình, giải quyết các quyết sách cùng nhà vua. Nhưng không, Trịnh Sâm không hề quan tâm đến việc triều chính, hắn chỉ lo hưởng thụ cuộc sống xa hoa, lãng phí. Chúa Trịnh cho xây dựng đền đài, cung điện bên bờ Tây Hồ để phục vụ mỗi lần vua ra chơi. Cái việc "xây dựng đình đài", cung điện liên miên ấy chỉ để thỏa mãn cái thú chơi đèn đuốc, "đi chơi ngắm cảnh đẹp" của chúa. Không chỉ ở Tây Hồ, chúa còn cho xây dựng ở nhiều nơi chúa thường lui tới như núi Tử Trầm, núi Dũng Thúy. Đi tới đâu cũng kéo theo việc xây dựng đình đàm gây hao tốn công sức và tiền của của người dân nghèo.

Ở đây, Phạm Đình Hổ đặc biệt miêu tả lại một cuộc dạo chơi của chúa ở phủ Tây Hồ. Khi chúa đến phủ Tây Hồ để thăm thú, chúa Trịnh Sâm thường "ngự ở li cung", binh lính thì "dàn hầu vòng quanh bốn mặt hồ", các quan lại, nội thần thì "đều bịt khăn, mặc áo đàn bà, bày bách hóa quanh hồ bán". Lúc thuyền chúa ngự tới đâu, lại có những kẻ đại thần ghé vào hàng quán ấy mua đồ "như ở cửa hàng trong chợ. Ở "gác chuông chùa Trấn Quốc hay dưới bóng cây bến đá nào đó", bọn nhạc công phải ngồi tấu nhạc mua vui. Phải nói, cuộc vui chơi ấy thật giả dối và lố lăng hết sức. Vậy mà mỗi tháng, nó diễn ra tới tận "ba bốn lần". Thật tốn kém tiền của đến vô cùng. Ngòi bút khách quan, chân thực của Phạm Đình Hổ đã cho chúng ta thấy một bức tranh về cuộc sống ăn chơi, hưởng lạc đầy giả dối, nực cười, lố lăng của vua chúa và quan lại thời Lê - Trịnh. Những thú chơi tiêu khiển ấy không chỉ khiến người khác cảm thấy lố lăng mà còn làm hao tốn tiền của, công sức của những người dân lao động trong xã hội lúc bấy giờ nữa. Thông qua những ghi chép cụ thể này, Phạm Đình Hổ âm thầm tố cáo xã hội, vua chúa cùng tầng lớp quan lại chỉ biết hưởng thụ cuộc sống xa hoa mà không quan tâm gì đến dân chúng cũng như các vấn đề của xã hội thời bấy giờ.

Không chỉ có thú hưởng lạc giả dối, lố lăng, khác người, chúa Trịnh Sâm và bọn quan lại còn có thú chơi cây cảnh cũng thật dị thường. Khắp cung vua, "bao nhiêu loài trân cầm dị thú, cổ mộc quái thạch, chậu cây hoa cảnh chốn nhân gian" đều có, nhưng đều là những đồ vật bị vua "thu lấy", đoạt lấy một cách hết sức trắng trợn. Bằng những từ ngữ sống động, Phạm Đình Hổ cũng khắc họa lại công cuộc đem một cây đa to nhiều cành lá về tô điểm cho cung vua. Nào là phải có "một cơ binh mới khiêng nổi", nào là "bốn người đi kém, đều cầm gươm, đánh thanh la, đốc thúc quân lính khiêng cho đều tay". Chỉ một thú chơi thôi mà phải huy động tới một cơ binh hàng trăm người để mang về cho phủ chúa. Thú chơi ấy thật mất nhiều công sức, thời gian và tiền bạc. Chưa kể, trong phủ, bốn bề đều "điểm xuyết bày vẽ hình non bộ, trông như bến bể đầu non", rồi những loài chim, loài vượn, đều được phủ chúa hết sức thu về, bày vẽ trong đó, khiến cho phủ lúc nào cũng ồn ào như "trận mưa sa gió táp, vỡ tổ tan đàn". Đây cũng là một sự bộc lộ cảm xúc rất kín đáo, tế nhị của Phạm Đình Hổ về thú chơi trong phủ chúa. Ông cảm thấy dù trong phủ chúa có thật nhiều chim muông, thú lạ, cây cảnh đẹp, nhưng lại vang lên những tiếng kêu thật như tiếng "tan đàn", "mưa sa bão táp", đều là những điều không may. Bởi tiếng kêu của chim, tiếng hú của vượn, phải chăng là tiếng than của muôn loài đang bị nhốt trong lồng cũi, là tiếng của thiên nhiên, vạn vật đang giận dữ kêu than? Đó như là lời dự đoán về sự sụp đổ của một triều đại đã thối nát từ tận xương tủy, chỉ biết ăn chơi, biết hưởng lạc, sa đọa trên mồ hôi, công sức, máu thịt của nhân dân!

Phạm Đình Hổ không chỉ để ý ghi chép về thói ăn chơi vô độ, nhố nhăng của vua tôi Trịnh Sâm mà còn để ý ghi chép cả thói nhũng nhiễu của những kẻ làm quan dưới trướng Trịnh Sâm nữa. Đó là những kẻ nổi lên, được trọng dụng bởi thói nịnh nọt, là tay sai đắc lực trong công cuộc hưởng lạc của vua. Chính thói ăn chơi, hưởng lạc ấy của chúa Trịnh đã tạo ra đám tham quan với thói nịnh bợ, nhũng nhiều. Điển hình, để lấy được những vật quý báu của dân chúng trong dân gian "chậu hoa cây cảnh, chim tốt khướu hay", chúng bày trò, "nhờ gió bẻ măng", biên hai chữ "phụng thủ" để mà cướp đi một cách trắng trợn.

Không chỉ thế, chúng còn lẻn vào nhà người ta, "cắt phăng" những cây cảnh, chậu hoa ấy rồi giá họa, bắt dân chúng bỏ của ra mà kêu để không bị buộc tội. Với những cây cối to lớn, bọn quan lại còn sai người phá hủy tường để khiêng ra, gây tổn thất với tiền của của người dân. Thế nhưng, chúng ỷ thế giúp vua bày những trò sa hoa, được vua chúa hậu thuẫn nên càng tác quái, hoành hành hơn nữa. Chúng mượn cớ đi tìm vật báu dâng lên vua, nhưng thực chất đang vơ vét tiền của của dân chúng để làm của riêng, vậy nên mới bày trò để những nhà giàu phải "bỏ của ra kêu oan" hay phải tự tay đập bỏ núi non bộ, phá hủy cây cảnh. Để chính minh cho tính chân thực của câu chuyện, tác giả còn kể lại câu chuyện của chính gia đình mình. Vốn nhà Phạm Đình Hổ ở Hà Khẩu, Thọ Xương có cây lê "cao vài mươi trượng, lúc nở hoa, trắng xóa thơm lưng", rồi có trồng hai cây lựu trắng và đỏ rất đẹp, nhưng vì sợ thói nhũng nhiều của bọn quan lại dưới trướng chúa Trịnh mà "bà cung nhân" nhà ông phải sai người chặt đi để tránh bị bọn chúng quấy nhiễu. Bằng những câu chữ chân thực, cụ thể mà sống động, Phạm Đình Hổ qua đó, kín đáo bộc lộ thái độ phê phán, phê bình thói ăn chơi hưởng lạc của vua chúa, dẫn đến sự nhũng loạn của đám quan lại dưới quyền. Ông cũng bày tỏ sự cảm thông sâu sắc với những số phận con người bị áp bức dưới triều đại phong kiến này.

Với lối ghi chép rất chân thực của mình, "Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh" của Phạm Đình Hổ đã phơi bày cuộc sống xa hoa với những thú chơi rất giả dối, lố lăng cùng thói nhũng nhiễu dân chúng của vua chúa và quan lại dưới thời vua Lê chúa Trịnh. Không chỉ vậy, ông còn ngầm gửi vào đó sự phê phán về xã hội đương thời thối nát và đứng về phía những người dân bị áp bức. Đoạn trích vừa giàu tính hiện thực, sinh động với những sự việc người thật việc thật, vừa giàu giá trị nghệ thuật.

Phân tích Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh – mẫu 3

Trong các áng văn xuôi thời kì trung đại ở nước ta, bên cạnh Truyền kì mạn lục - một "Thiên cổ kì bút" - người đời thường nhắc tới Vũ trung tùy bút (Theo ngọn bút viết trong khi mưa) của Phạm Đình Hổ. Tác phẩm ra đời vào đầu thế kỉ XIX. Khác với Truyền kì mạn lục, tập sách "viết trong mưa" ấy thuộc thể loại tùy bút. Dùng văn tuỳ bút, danh nho Phạm Đình Hổ đã tùy theo hứng thú và suy nghĩ của riêng mình, ghi chép lại những sự việc, những câu chuyện cụ thể chân thực, những điều tai nghe, mắt thấy trong cuộc sống.

Khi đọc Truyền kì mạn lục, chúng ta bắt gặp đây đó những yếu tố lãng mạn, huyền ảo, còn trong Vũ trung tùy bút thì đậm đặc chất hiện thực. Một trong những bức tranh hiện thực ấy là những chuyện trong phủ chúa Trịnh Sâm. Viết lại những câu chuyện cũ ấy, tác giả dự báo "đó là triệu bất tường", là những dấu hiệu không lành, những điềm gở. Trước hết là những câu chuyện về thói ăn chơi xa xỉ, vô độ của chúa Trịnh Sâm và các quan lại hầu cận trong phủ chúa. Tác giả Phạm Đình Hổ kể ba sự việc tiêu biểu. Việc thứ nhất: Chúa cho xây dựng nhiều cung điện, đình đài ở các nơi để thoả mãn ý thích "đi chơi ngắm cảnh đẹp", ý thích đó cứ triền miên, nối tiếp tưởng đến không cùng. Vì vậy, nhà văn viết "Việc xây dựng đình đài cứ liên miên". Nghĩa là việc huy động sức dân, thu tiền bạc, chiếm đất đai, bắt nhân công liên tục diễn ra hàng tháng, hàng năm, nơi này, nơi khác. Việc thứ hai: Những cuộc rong chơi của chúa Thịnh Vương (Trịnh Sâm). Chúa thường thích đi chơi, thường ngự - tới ăn ngủ, ngắm cảnh đẹp, hưởng của ngon, vật lạ, thoả mãn thú vui cả thể xác lẫn tinh thần - ở các li cung (cung điện, lâu đài xa kinh thành) trên Hồ Tây, núi Tử Trầm, núi Dũng Thuý.

Top 8 bài Phân tích Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh hay nhất (ảnh 2)

Trong những chuyến du lịch ấy của chúa đặc biệt nhất là cuộc dạo chơi trên Hồ Tây. Vòng quanh bốn mặt hồ, binh lính phải "dàn hầu", vừa để bảo vệ vừa sẵn sàng làm theo lời chúa sai bảo. Cũng vòng quanh bốn mặt hồ, các quan trong triều phải "đầu bịt khăn, mặc áo đàn bà" cải trang là những thị dân buôn bán, bày hàng hoá như một khu chợ sầm uất, đông vui, vui cho thiên hạ thì ít mà vui cho chúa thì nhiều. Thuyền ngự đến đâu thì chúa và các hỗ tụng đại thần tuỳ ý ghé vào bờ mua bán. Chúa và cận thần tới, thì nhạc công phải tấu lên những khúc nhạc dặt dìu gần xa vẳng từ dưới bóng cây, bến đá nào đó. Đúng là bức tranh cuộc sống phồn hoa mà giả dối. Tác giả chỉ ghi chép khách quan, không một lời nhận xét, mà sự việc nó cứ tự phơi bày những nét rởm hợm, nực cười, đáng chê trách.

Việc thứ ba - đáng chê trách hơn - là câu chuyện chúa "sức thu lấy" - ra lệnh bằng văn bản - cướp đoạt một cách trắng trợn tất cả "những loài trân cầm dị thú, cổ mộc quái thạch, chậu hoa cây cảnh" trong nhân dân. Chọn một cảnh điển hình của những cuộc cướp đoạt ấy - cảnh lính tráng chở một cây đa cổ thụ về phủ chúa - tác giả miêu tả bằng những từ ngữ sống động, một giọng văn thật nặng nề. Cây đa to, cành lá rườm rà, được rước qua sông"... như một cây cổ thụ mọc trên đầu non hốc đá, rễ dài đến vài trượng, phải một cơ binh mới khiêng nổi, lại bốn người đi kèm, đều cầm gươm đánh thanh la đốc thúc quân lính khiêng đi cho đều tay".

Đó là một đám rước công phu, tốn kém. Cây đa ấy vốn ở đầu non hốc đá tự do - phóng khoáng giữa rừng núi nay bị rước về vườn nhà chúa bề ngoài có vẻ oai phong, song nhìn kĩ thấy tội nghiệp quá. Bởi vì từ nay, đa đâu còn là biểu tượng trường tồn, bất diệt, biểu tượng cho sức sống của con người, của quê hương, đất nước. Đa đã bị ép buộc để "điểm xuyết, bày vẽ" thành thứ đồ chơi riêng của nhà chúa. Cây đa cũng giống như thân phận của muôn loài trân cầm dị thú, cổ mộc, quái thạch, chậu hoa cây cảnh trong dân gian đã bị cầm tù, bị tha hoá. Bao nhiêu cái đẹp của tự nhiên, những thú vui tao nhã, chính đáng của nhân dân đã bị nhà chúa chiếm đoạt. Số phận của cây trời, đá núi, hoa lá,... vô tri thì như thế, hỏi số phận con người ra sao? Người viết tuỳ bút, danh nho Phạm Đình Hổ đã đưa ra những sự việc cụ thể chân thực và khách quan, không bình luận mà các hình ảnh, chi tiết cứ hiện lên đầy ấn tượng. Ấn tượng nhất là cảnh đêm nơi vườn nhà chúa: "Mỗi khi đêm thanh cảnh vắng, tiếng chim kêu vượn hót ran khắp bốn bề, hoặc nửa đêm ồn ào như trận mưa sa gió táp, vỡ tổ tan đàn, kẻ thức giả biết đó là triệu bất tường"... Tiếng chim kêu, vượn hót khắp bốn bề giữa đêm khuya thanh vắng, hay là tiếng muôn loài than thở? Trận mưa sa gió táp ồn ào hay sự giận dữ của trời đất? Những âm thanh ấy gợi cảm giác ghê rợn như một điều gì đó đang tan tác đổ vỡ, suy sụp đau đớn, chứ không phải là một cảnh đẹp bình yên, phồn thực, no ấm. Nghe những âm thanh ấy "kẻ thức giả" - nhà nho Phạm Đình Hổ biết "đó là triệu bất tường". Đến dòng văn cuối của những câu chuyện nhà chúa, cảm nghĩ của tác giả bộc lộ trực tiếp, nhưng lời văn vẫn nhẹ nhàng, tế nhị, gián tiếp bằng một danh từ chung là "kẻ thức giả". Kẻ thức giả là những người có học vấn, có hiểu biết sâu rộng. Viết câu văn ấy, Phạm Đình Hổ là một người có tầm phán đoán, dự cảm chính xác. Ông đã thấy rõ những cuộc ăn chơi xa hoa, vô độ của chúa Trịnh Sâm là "triệu bất tường", những dấu hiệu không lành, những điềm gở. Nó báo trước sự suy vong tất yếu của một triều đại chỉ chăm lo việc ăn chơi hưởng lạc trên mồ hôi, nước mắt và cả xương máu của dân lành. Quả thực, điều đó đã xảy ra không lâu sau khi Trịnh Sâm mất.Sách xưa có câu "Thượng bất chính, hạ tắc loạn" - cấp trên không chân chính, nghiêm túc thì cấp dưới tất sẽ làm loạn. Chúa ở ngôi cao mải mê ăn chơi, sa đoạ, tất yếu các quan cấp dưới ỷ thế làm càn. Do đó, từ những câu chuyện của chúa, Phạm Đình Hổ chuyển ý, kể đến chuyện các quan "bọn hoạn quan cung giám lại thường nhờ gió bẻ măng, ra ngoài doạ dẫm...". Ở đoạn văn thứ hai này, tác giả tập trung kể một sự việc.

Đó là việc bọn hoạn quan bày trò cướp đoạt, vu cáo, phá hoại tài sản của nhân dân một cách trắng trợn, tàn ác. Chúng thực hiện công việc rất "bài bản". Động tác một: "Dò xem" nhà nào có vật quý, thì biên vào hai chữ "phụng thủ" nghĩa là lấy để dâng chúa. Động tác thứ hai: "Trèo qua tường thành lẻn ra"... "lấy phăng đi"... Động tác thứ ba: Nếu nhà nào phản ứng, thì "buộc cho tội giấu vật báu" của vua chúa.... Ở đoạn văn tuỳ bút này nhà văn sử dụng liên tục các động từ miêu tả thái độ và hành động bọn hoạn quan trong ba câu văn đặc tả với những từ ngữ nhấn mạnh: "Dò xem", "trèo", "lẻn", "lấy phăng", "buộc tội", "doạ dẫm", ... Đúng là những thái độ, hành động của một lũ đầu trâu mặt ngựa, vừa ăn cướp, vừa la làng, "Sạch sành sanh vét cho đầy túi tham" (Truyện Kiều). Hậu quả của những vụ cướp bóc trắng trợn ấy là: Người dân bị buộc tội phải nộp tiền, phải "phá nhà huỷ tường... bỏ của ra kêu van chí chết" và tự mình phải "đập bỏ núi non bộ hoặc phá bỏ cây cảnh để tránh khỏi tai vạ".

Người dân phải chịu biết bao nhiêu cảnh đau đớn, bao nhiêu bất công, phi lí. Chính tại gia đình Phạm Đình Hổ - một gia đình quý tộc cận kề phủ chúa - cũng bị cái họa ăn cướp kia gieo xuống. Trước nhà tiền đường trồng một cây lê hoa trắng xoá thơm lừng, trước nhà trung đường trồng hai cây lựu ra quả trông rất đẹp ... "Bà cung nhân ta đều sai chặt đi cũng là vì cớ ấy". So với giọng văn kể chuyện các gia đình khác quanh kinh thành bị quấy nhiễu, giọng kể ở đoạn văn cuối này có vẻ như nhẹ nhàng hơn, song nó tô đậm thêm tính hiện thực, tăng thêm ý nghĩa phê phán, tố cáo. Bởi vì, nạn cướp bóc, sách nhiễu ở thời Trịnh Sâm đã trở thành cơn sốc trong xã hội, không chỉ gây đau khổ cho dân thường mà còn đe do cả những gia đình quyền quý, quan lại, không chỉ cướp bóc của cải vật chất mà còn hủy diệt cả những thú vui tao nhã mang tính văn hóa truyền thống của biết bao gia đình Việt Nam chúng ta. Những từ ngữ cuối đoạn văn dừng lại, nhưng lời kể của tác giả vẫn còn vương vấn ngân nga trong lòng chúng ta những cảm giác xót xa, nuối tiếc, thương cho cây đẹp, hoa thơm, cảm thông với những con người phải sống trong một xã hội phong kiến hỗn loạn mục nát đến như vậy.

Đoạn tuỳ bút Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh ấy không chỉ có giá trị hiện thực, phơi bày bộ mặt xấu xa của chúa, của bọn quan lại, lính tráng mà còn hấp dẫn bạn đọc bởi một ngòi bút tài hoa. Phạm Đình Hổ đã ghi chép người thực, việc thực rất cụ thể, chính xác, theo trí nhớ, cảm xúc, suy nghĩ của riêng mình. Từ ngữ câu văn tự nhiên, trôi chảy, không bị gò bó bởi cốt truyện, nhân vật...như trong truyện ngắn. Khi kể chuyện, lúc chuyển sang miêu tả, ngẫu hứng thì điểm vào một dự cảm, dự báo, nhịp văn lúc khoan thai, khi dồn dập nhấn mạnh,... ngỡ như buông thả tự do nhưng tác phẩm vẫn tập trung vào một chủ đề, toát lên cảm xúc trữ tình rõ nét của tác giả. Nói tóm lại, bằng thể văn tuỳ bút ghi chép tuỳ hứng những sự việc một cách cụ thể, chân thực, sinh động, Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh giúp chúng ta hiểu về đời sống xa hoa vô độ của bọn vua chúa, quan lại phong kiến thời vua Lê, chúa Trịnh suy tàn nửa cuối thế kỉ XVIII. Đó là một xã hội đầy rẫy những dấu hiệu không lành, những điềm gở đáng chê trách và đáng xoá bỏ. Lịch sử đã xoá bỏ cái xã hội ấy.

Phân tích Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh – mẫu 4

Phạm Đình Hổ (1768 - 1839), tên thường gọi là Chiêu Hổ, sinh trưởng trong một gia đình dòng dõi khoa bảng ở làng Đan Loan, huyện Đường An, tỉnh Hải Dương. Cha đậu cử nhân và ra làm quan dưới triều Lê. Từ thuở nhỏ, Chiêu Hổ đã ôm mộng văn chương. Sau này, ông vào học trường Quốc Tử Giám và thi đậu sinh đồ, nhưng vì thời thế không yên nên đành lánh về quê dạy học.

Năm 1821, vua Minh Mạng nhà Nguyễn tuần du ra Bắc. Phạm Đình Hổ dâng một số trước tác lên nhà vua và được bổ nhiệm một chức quan ở Viện hàn lâm. Được một thời gian, ông xin nghỉ việc. Đến năm 1826, Minh Mạng lại triệu Phạm Đình Hổ vào kinh đô Huế nhậm chức Tế tửu Quốc Tử Giám, rồi Thị giảng học sĩ. Phạm Đình Hổ bắt đầu sáng tác từ thời Tây Sơn, nhưng chủ yếu là vào những năm đầu của triều Nguyễn. Ông để lại nhiều tác phẩm, trong đó giá trị nhất là hai thiên kí sự Vũ trung tuỳ bút và Tang thương ngẫu lục. Vũ trung tuỳ bút gồm 88 mẩu chuyện nhỏ, viết theo thể tuỳ bút, cung cấp cho người đọc những kiến thức về văn hoá truyền thống, về phong tục tập quán và đặc điểm địa lí cùng những danh lam thắng cảnh của quê hương, đất nước.Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh ghi chép lại những cảnh sinh hoạt diễn ra hằng ngày ở phủ chúa thời Trịnh Sâm. Qua đó, tác giả ngầm lên án thói ăn chơi xa xỉ, vô đạo đức của Trịnh Sâm và bọn quan lại hầu cận dưới quyền. Lúc mới lên ngôi chúa, Trịnh Sâm là con người cứng rắn, thông minh, quyết đoán, sáng suốt, trí tuệ hơn người. Nhưng sau khi đã dẹp yên được các phe phái chống đối, lập lại kỉ cương cho triều đình thì dần dần sinh bụng kiêu căng, xa xỉ, phi tần thị nữ kén vào rất nhiều, mặc ý vui chơi thỏa thích.

Chúa Trịnh say mê Đặng Thị Huệ, đắm chìm trong cuộc sống xa hoa, ăn chơi hưởng lạc, phế con trưởng, lập con thứ, gây nên rất nhiều điều bạo ngược, dẫn đến cảnh nồi da xáo thịt. Các vương tử tranh giành quyền lực, chém giết lẫn nhau. Trịnh Sâm mất năm 1782, ở ngôi chùa được 16 năm. Thỏi ăn chơi ngông nghênh, xa xỉ của Trịnh Sâm và lũ quan lại hầu cận được tác giả miêu tả qua những chi tiết tiêu biểu như Trịnh Sâm cho xây dựng nhiều cung điện, đền đài ở các nơi để thoả mãn ý thích đi chơi, ngắm cảnh đẹp của mình. Việc xây dựng đình đài cứ làm liên tục trong nhiều năm, hao tốn không biết bao nhiêu là tiền của. Không mấy quan tâm đến lợi ích to lớn của quốc gia, dân tộc; ngược lại, chúa Trịnh dành rất nhiều thời gian để hưởng lạc. Mỗi tháng ba bốn lần, Vương ra cung Thụy Liên trên bờ Tây Hồ, binh lính dàn hầu vòng quanh bốn mặt hồ, các nội thần thì đều bịt khăn, mặc áo đàn bà, bày bách hóa chung quanh bờ hồ để bán. Thuyền ngự đi đến đâu thì các quan hỗ tụng đại thần tuỳ ý ghé vào bờ mua bán các thứ như ở cửa hàng trong chợ. Cũng có lúc cho bọn nhạc công ngồi trên gác chuông chùa Trấn Quốc, hay dưới bóng cây bến đá nào đó, hòa vài khúc nhạc.

Trong đoạn văn dưới đây, tác giả đã phơi bày bản chất tham lam của chúa Trịnh và bè lũ tay sai. Cậy quyền cậy thế, chúng trắng trợn ép buộc dân lành phải cung nộp cho phủ chúa những thứ quý giá mà chúa thích: Buổi ấy, bao nhiêu những loài trân cầm dị thú, cổ mộc quái thạch, chậu hoa cây cảnh ở chốn dân gian, Chúa đều sức thu lấy, không thiếu một thứ gì. Có khi lấy cả cây đa to, cành lá rườm rà, từ bên bắc chở qua sông đem về. Nó giống như một cây cổ thụ mọc trên đầu non hốc đá, rễ dài đến vài trượng, phải một cơ binh mới khiêng nổi... Tác giả vạch rõ lòng tham vô đáy của chúa Trịnh bằng nghệ thuật kể chuyện và miêu tả. Các dẫn chứng đưa ra đều khách quan, không xen lời bình. Một vài sự kiện được miêu tả tỉ mỉ, gây ấn tượng sâu đậm đối với người đọc. Thái độ bất bình của tác giả thể hiện khá kín đáo trong những câu văn đầy ẩn ý: Mỗi khi đêm thanh cảnh vắng, tiếng chim kêu vượn hót ran khắp bốn bể, hoặc nửa đêm ồn ào như trận mưa sa gió táp, vỡ tổ tan đàn, kẻ thức giả biết đó là triệu bất tường.

Cảnh được miêu tả là cảnh thực của những khu vườn lộng lẫy, đầy trân cầm dị thú, cổ mộc quái thạch, được bày vẽ, tô điểm cho giống thiên nhiên nơi bến bể đầu non, nhưng âm thanh lại gợi cảm giác ghê rợn trước một cái gì đó tan tác, đau thương, chứ không phải trước cảnh đẹp yên bình, thơ mộng. Đó là triệu bất tường, tức là điềm gở, báo trước sự suy vong tất yếu của một triều đại chỉ lo ăn chơi hưởng lạc trên mồ hôi, nước mắt và cả xương máu của dân lành. Quả thực điều đó đã xảy ra sau khi Trịnh Sâm mất không lâu. Thời Trịnh Sâm, bọn hoạn quan hầu cận trong phủ chúa được sủng ái bởi chúng rất đắc lực trong việc giúp chúa bày ra các trò ăn chơi hưởng lạc. Vì vậy nên chúng thường ỷ thế chúa mà hoành hành, tác oai tác quái, mượn gió bẻ măng, nhũng nhiễu, vơ vét của dân lành bằng nhiều thủ đoạn hèn hạ, độc ác. Thủ đoạn mà chúng thường sử dụng là hành động vừa ăn cướp, vừa la làng. Người dân bị hại tới hai lần, bằng không thì cũng phải tự tay huỷ bỏ tài sản của mình để tránh tai vạ. Đó là điều hết sức vô lí, bất công. Bọn hoạn quan vừa vơ vét để ních đầy túi tham, vừa được tiếng mẫn cán trong việc cung phụng chúa:

Bọn hoạn quân cung giám lại thường nhờ gió bẻ măng, ra ngoài dọa dẫm. Họ dò xem nhà nào có chậu hoa cây cảnh, chim tốt khướu hay, thì biên ngay hai chữ “phụng thủ” vào. Đêm đến, các cậu trèo qua tường thành lẻn ra, sai tay chân đem lính đến lấy phăng đi, rồi buộc cho tội đem giấu vật cung phụng để dọa lấy tiền. Hòn đá hoặc cây cối gì to lớn quá, thậm chí phải phá nhà huỷ tường để khiêng ra. Các nhà giàu bị họ vu cho là giấu vật cung phụng, thường phải bỏ của ra kêu van chí chết, có khi phải đập bỏ núi non bộ, hoặc phá bỏ cây cảnh để tránh khỏi tai vạ. Kết thúc đoạn văn miêu tả thủ đoạn nham hiểm, độc ác của bọn hoạn quan này, tác giả kể lại một sự việc đã từng xảy ra ngay tại gia đình mình: Dù tiếc đứt ruột nhưng chủ nhà phải sai đầy tớ chặt đi một cây lê và hai cây lựu quý trong vườn để tránh tai hoạ: Nhà ta ở phường Hà Khẩu, huyện Thọ Xương, trước nhà tiền đường có trồng một cây lê, cao vài mươi trượng, lúc nở hoa, trắng xoá thơm lừng; trước nhà trung đường cũng trồng hai cây lựu trắng, lựu đỏ, lúc ra quả trông rất đẹp, bà cung nhân ta sai chặt đi cũng vì cớ ấy. Kiểu dẫn dắt câu chuyện như thế đã làm gia tăng đáng kể sức thuyết phục cho những chi tiết chân thực mà tác giả đã ghi chép ở trên, đồng thời cũng làm cho cách viết thêm phong phú và sinh động. Cảm xúc của tác giả cũng được gửi gắm kín đáo ở trong đó. Qua đoạn văn này, tác giả tố cáo bọn quan lại trong phủ chúa Trịnh vừa tham vừa ác, làm trái với đạo trời và lòng người. Tất yếu, nhân dân sẽ vùng lên lật đổ chúng. Câu chuyện được tác giả ghi chép rất tự nhiên. Những chi tiết, hiện tượng chân thực được miêu tả tỉ mỉ mà không nhàm chán, xen kẽ những lời bình ngắn gọn, sắc sảo càng làm tăng thêm sức hấp dẫn của tác phẩm.

Bằng thể loại tuỳ bút ghi chép lại những sự kiện mắt thấy tai nghe, tác giả Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh đã phản ánh cuộc sống xa hoa vô độ của vua chúa, quan lại phong kiến thời vua Lê chúa Trịnh suy tàn. Đồng thời qua tác phẩm này, người đọc phần nào nắm được đặc trưng của thể văn tuỳ bút đời xưa và giá trị nội dung cũng như nghệ thuật của những dòng ghi chép đầy tính hiện thực của Phạm Đình Hổ.

Phân tích Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh – mẫu 5

Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh được trích từ Vũ Trung tùy bút của Phạm Đình Hổ. Tác phẩm đã ghi lại một cách chân thực bức tranh trong phủ chúa Trịnh Sâm với thói ăn chơi xa xỉ, vô độ; sự hống hách ngang ngược của bọn quan lại, đồng thời cho thấy cuộc sống khốn khổ của nhân dân.

Trước hết tác giả phác họa bức tranh ăn chơi xa xỉ trong phủ chúa Trịnh và các quan lại hầu cận. Để chứng minh thói ăn chơi vô độ của chúa Trịnh Sâm, Phạm Đình Hổ đã liệt kê trên nhiều phương diện. Trước hết, chúa cho xây dựng nhiều đền đài, cung điện để thỏa mãn thú “đi chơi ngắm cảnh đẹp”, việc xây dựng triền miên hết năm này qua năm khác, không chỉ hao tiền tốn của mà còn bòn rút hết sức lực của người dân, khiến cuộc sống của họ cùng cực, đói khổ. Không chỉ vậy, chúa Trịnh còn thường rong chơi, trong một tháng dạo chơi trên hồ đến ba bốn lần. Những cuộc dạo chơi đó còn phải huy động rất nhiều người hầu, kẻ hạ “binh lính dân hầu vòng quanh bốn mặt hồ” sẵn sàng thực hiện mệnh lệnh của chúa. Chúa Trịnh còn bày ra nhiều trò giải trí lố lăng, tốn kém tiền bạc như cho các nội thần ăn mặc giả đàn bà bày hàng bán quanh hồ, thuyền ngự dạo trên hồ, thỉnh thoảng lại ghé vào mua bán. Thực là một cảnh lố lăng, kệch cỡm chưa từng có trong lịch sử nước nhà. Đến sự việc thứ ba thì càng đáng trách hơn nữa, không chỉ bày ra những trò chơi kệch cỡm, phủ chúa còn ngang nhiên cướp đoạt trắng trợn những “loài trân cầm dị thú, cổ mộc, quái thạch và chậu hoa cây cảnh” trong dân gian mang về phủ chúa. Để làm rõ hơn điều đó, tác giả lấy dẫn chứng hết sức chân thực về việc di chuyển một cây cổ thụ: “cổ thụ mọc trên đầu non hốc đá, rễ dài đến vài trượng, phải một cơ bình mới khiêng nổi” ấy vậy mà phủ chúa nhất quyết phải đem cho được cây cổ thụ ấy về. Những việc làm, hành động đó càng cho thấy rõ hơn sự ngang ngược, lộng hành của chúa Trịnh Sâm. Cuối đoạn văn, tác giả đã khẳng định: “Mỗi khi đêm thanh cảnh vắng, tiếng chim kêu, vượn hót ran khắp bốn bề, hoặc nửa đêm ồn ào như trận mưa sa gió táp, vỡ tổ tan đàn, kẻ thức giả biết đó là triệu bất thường”. Đây là những suy nghĩ, cảm nhận được nhà văn trực tiếp bộc lộ. Suốt cả đoạn văn phía trước ông chỉ kể lại, trần thuật lại bằng giọng đều đều bình bình, không nhấn nhá, không cảm xúc, nhưng đến đây ông cũng phải cất lên tiếng thở dài não nùng. Những kẻ thức giả, có hiểu biết sẽ nhận ra rằng đây là những dấu hiệu bất thường, báo hiệu sự suy yếu tất dẫn đến bại vong của một triều đại. Triều đại chỉ lo ăn chơi, hưởng lạc, chà đạp lên đời sống người dân ắt sẽ sụp đổ.

Người xưa vẫn thường nói rằng: “Thượng bất chính , hạ tắc loạn” tức để nói nếu bề trên làm việc không nghiêm túc, làm những điều sai trái thì tất yếu kẻ bề dưới cũng vì thế mà làm theo. Trong phủ chúa Trịnh, mọi việc đã diễn ra đúng như vậy. Chúa Trịnh tham lam, chỉ lo hưởng lạc nên tất yếu sinh ra những kẻ hầu cận, quan cấp dưới ỷ thế mà ức hiếp dân lành, chúng dùng nhiều thủ đoạn để nhũng nhiễu, vơ vét của nhân dân. Bọn hoạn quan bày trò cướp đoạt, vu cáo, phá hoại tài sản của người dân trắng trợn. Chúng “dò xem” nhà nào có vật quý thì biên ngay vào hai chữ “phụng thủ”. Ở đoạn văn này tác giả sử dụng hàng loạt động từ, kết hợp với miêu tả cho thấy sự ngang ngược, bất nhân của chúng: “trèo qua tường thành lẻn ra” “lấy phăng đi” “buộc tội”,… đó là hành động của kẻ cướp, chúng vừa ăn cắp, vừa la làng. Những người bị vu vạ phải chạy vạy tiền của hoặc tự tay phá đi “núi non bộ” “cây cảnh” để không rước tai vạ vào thân. Người dân phải chịu biết bao bất công, phi lí. Để làm cho đoạn văn tăng tính xác thực, Phạm Đình Hổ kể một chuyện xảy ra với chính gia đình mình. Gia đình nhà ông có cây lê cao lớn, đẹp đẽ, lúc hoa nở trắng xóa, thơm lừng; ngoài ra còn có trồng hai cây lựu trắng và lựa đỏ lúc ra quả rất đẹp nhưng bà cung nhân cũng phải sai chặt đi. Đoạn văn cuối tác phẩm đã góp phần tố cáo, tăng ý nghĩa phê phán với bọn quan lại lúc bấy giờ.

Tác phẩm không chỉ hấp dẫn ở nội dung đặc sắc mà còn gây hứng thú cho bạn đọc ở ngòi bút tài hoa. Phạm Đình Hổ đã ghi chép một cách chân thực những gì mình đã chứng kiến. Ngôn ngữ, giọng điệu tự nhiên, trôi chảy, không bị gò bó bởi cốt truyện. Kết hợp hài hòa giữa kể và tả vạch trần bộ mặt xấu xa, độc ác, bất nhân của chúa Trịnh và bè lũ tay sai.

Với thể tùy bút linh hoạt, phóng khoáng Phạm Đình Hổ đã ghi lại một cách chân thực, sinh động khung cảnh sinh hoạt sa đọa, lối sống xa hoa, vô độ trong phủ chúa và sự lộng hành, nhũng nhiễu của bọn quan lại dưới quyền. Đằng sau bức tranh đó còn cho thấy đời sống khổ cực, bị đè nén, áp bức của nhân dân.

Phân tích Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh – mẫu 6

Phạm Đình Hổ (1768 - 1839), quê ở tỉnh Hải Dương. Ông sinh ra trong một gia đình làm quan cuối thời Lê - Trịnh. Phạm Đình Hổ là người rất tài giỏi. Điều này được minh chứng rất rõ khi ông còn rất nhỏ, khi còn đi học. Ông sáng tác rất nhiều văn thơ chữ Hán có giá trị về nhiều mặt. Nổi bật nhất phải kể đến tác phẩm "Vũ trung tùy bút", đây là tác phẩm gắn liền với tên tuổi của Phạm Đình Hổ. Trong đó, Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh là một trang tùy bút nổi bật trong tác phẩm.

Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh được viết dựa vào câu chuyện khoảng năm Giáp Ngọ - Ất Mùi. Đó là những ngày tháng nhung lụa của chúa Trịnh Sâm. Trịnh Sâm sống trong xa hoa, quyền quý với những thú vui sa đọa. Điều này được thể hiện rõ qua những chi tiết như Chúa thích đi chơi ngắm cảnh đẹp, tháng ba bốn lần. Việc đón tiếp Chúa cũng phải linh đình long trọng không thua kém bất kì lễ hội nào. Thuyền Chúa dừng lại đâu thì các quan lại ghé vào bờ mua bán tấp nập. Chùa Trấn Quốc đã trở thành nơi hòa tấu nhạc, mua vui của lũ nhạc công ở cung đình. Đình, điện được xây dựng, trùng tu để thỏa mãn cuộc sống ăn chơi trác táng của vua chúa cũng như bọn quan lại Lê - Trịnh. Tất cả kinh tế, tiền của của nhân dân đều phục vụ cho mục đích đó của chúng.

Sống trong xa hoa, hưởng lạc nên từ chúa đến lũ quan lại đều trở thành những "lũ cướp" trắng trợn nhân dân. Phạm Đình Hổ đã khắc họa rất cụ thể, chi tiết về thú vui chơi đến táo bạo, khác lạ bóc lột nhân dân của chúa Trịnh Sâm "thu lấy trân cầm dị thú, cổ mộc, quái thạch và chậu hoa cây cảnh ở chốn nhân gian không thiếu một thứ gì". Có những cây to, khó chở phải điều động nhân lực và vận chuyển vô cùng vất vả về đến phủ Chúa. Trong phủ chúa, vườn tược đều được điểm xuyết những loại cây quý được đưa từ khắp nơi về. Cuộc sống xa hoa, trác táng không bao giờ bền vững, kéo dài. Đó chính là lí do của sự sụp đổ ngai vàng của Chúa. Năm 1782, chúa Trịnh Sâm qua đời, cảnh loạn binh xảy ra, Nguyễn Huệ khởi nghĩa khiến sự nghiệp của họ Trịnh tan biến trong chớp mắt.

Cảnh loạn lạc xảy ra khắp mọi nơi. Lũ hoạn quan với những thủ đoạn thâm độc đã ngang ngược phá hủy đồ đạc, công trình của triều đình. Lũ nhà giàu thì mưu mô, xảo quyệt. Nhiều gia đình phải li tán, gặp khó khăn về mọi mặt.

Trước tình hình đó, tác giả cũng đề cập phần ít đến việc gia đình mình. Mẹ Phạm Đình Hổ là bà cung nhân phải sai người chặt cây lê "cao vài mươi trượng, lúc nở hoa trắng xóa thơm lừng", hai cây lựu trắng, lựu đỏ lúc ra quả trông rất đẹp.

Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh là một câu chuyện có thật do chính tác giả quan sát và ghi chép lại. Đây là một câu chuyện có giá trị to lớn về mọi mặt, đặc biệt là giá trị lịch sử với những chi tiết, sự kiện lịch sử nổi bật. Chính ngòi bút sắc lạnh nhưng có phần sâu cay, chua xót đã góp phần tạo nên nội dung ý nghĩa của câu chuyện. Trải qua nhiều năm tháng nhưng giá trị của câu chuyện vẫn còn mãi đối với người đọc và là một trong những câu chuyện nổi bật thuộc thể loại tùy bút.

Vào phủ chúa Trịnh là tác phẩm nổi tiếng của Lê Hữu Trác, bên cạnh bài làm văn Phát biểu cảm nghĩ của em khi đọc Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh, học sinh và giáo viên tham khảo thêm các bài làm văn mẫu khác như Phân tích đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh, Cảm nghĩ về giá trị hiện thực sâu sắc của đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh, Giá trị hiện thực của Vào phủ chúa Trịnh, Tìm hiểu đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh, hay cả phần Soạn bài Vào phủ Chúa Trịnh.

Phân tích Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh – mẫu 7

Nhắc đến tác giả văn học Phạm Đình Hổ là nhắc đến tập “Vũ Trung Tùy Bút” nổi tiếng của ông. Tác phẩm được viết bằng chữ Hán ghi lại những sự việc, những câu chuyện xảy ra vào cuối đời Lê. Tập tùy bút đã phản ánh được hiện thực xã hội một cách chân thực nhất. Đoạn trích “Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh” là một trong những đoạn trích tiêu biểu của tập tùy bút này.

Sinh thời, vua Trịnh Sâm ăn chơi sa đoạ, cậy quyền thế, tiền bạc mà ham xây đền đài cung điện chỉ để thưởng ngoạn, ngắm cảnh. Bao cảnh ăn chơi sa đoạ trác táng của vua quan khiến người đọc không khỏi căm phẫn. Tháng ba bốn lần tổ chức đi chơi, ngắm cảnh đây đó.

Binh lính nô tì mặc áo đàn bà giải trí cho vua quan, đón tiếp vua thì lòng trọng hơn cả những lễ hội xưa, phí phạm bao tiền bạc, của cải. Nhạc cung đình chờ sẵn khắp nơi, hòng khi cần thì tấu lên vài bạn mua vui, nội thần thì nhau bày bách hóa chung quanh hồ mà bán, kẻ mua người bán được tổ chức như một phiên chợ. Cảnh thật nhàn nhã, sung sướng.

Nhưng trớ trêu thay, vua Lê chúa Trịnh đang ăn chơi trên xương máu, mồ hôi, tiền bạc của nhân dân, của những người nghèo khổ. Chúng dùng cường quyền, mượn gió bẻ măng mà doạ nạt nhân dân. Chúng chực chờ những của quý, cây cảnh, chim chóc hiếm trong nhà nhân dân, mượn cớ dâng lên vua chúa mà chiếm đoạt. Chúng tàn bạo đến mức “ăn cắp la làng” nhằm đày đoạ người vô tội mà ăn tiền, mà cướp bóc.

Đời sống nhân dân khổ cực lầm than chúng chẳng hề xót xa lay động, quan quân thì nhau hoành hành, tàn phá của cải, trấn lột nhân dân. Còn gì đốn mạt, đê hèn hơn. Những hưởng lạc trác táng của bọn vừa chúa lúc bấy giờ khiến không khỏi nghi ngại về một tương lai tan tành, tăm tối: “Mỗi khi đêm thanh cảnh vắng, tiếng chim kêu vượn hót ran khắp bốn bề, hoặc nửa đêm ồn ào như trận mưa sa gió táp, vỡ đổ tan tành, kẻ thức giả biết đó là triệu bất tường.”

Trang tùy bút đã vạch mặt được bản chất tham nhũng, đê hèn chỉ biết hưởng thụ của một bầy vua tôi nhu nhược. Chúng sung sướng trên sự khổ đau của nhân dân. Vua tôi càng giàu có, càng chuyên quyền bao nhiêu thì nhân dân càng khổ cực, càng đau đớn và căm phẫn bấy nhiêu. Sự “triệu bất tường” trong dòng suy nghĩ của tác giả như điềm dự báo cho sự suy vong của triều đại này trong tương lai. Là điều cảnh báo và lời cảnh tỉnh cho vua quan chúa Trịnh lúc bấy giờ.

Thực tế lịch sử đã chứng minh cho sự tàn nhẫn đó khi vào năm 1782 chúa Trịnh qua đời, thành Thăng Long bị đánh phá tan tành bởi loạn kiêu binh, không một quân tướng nào chống đỡ nổi, sự nghiệp, cơ độ tàn tành trong chớp mắt. Có chăng, sự ân hận cũng đã muộn màng.

Chúng như những con ma giết người, ngang nhiên cho quân lính vượt tường nhà dân mà cướp đi của cải rồi hăm doạ. Chúng buộc nhân dân đến đường cùng khi phải phá bỏ của cải chính mình làm ra để tránh tai vạ. Mẹ Phạm Đình Hổ cũng buộc phải thuê người chặt cây lê, cây lựu quý trước nhà để tránh sự nhũng nhiễu của lũ quan tham kia.

Bằng ngòi bút chân thực, khách quan, tác giả đã tái hiện lại cảnh tượng xa hoa thời vua Lê chúa Trịnh. Đồng thời gián tiếp tố cáo tội ác “vô nhân đạo” của vua quan lúc bấy giờ và cất lên tiếng nói thương cảm đối với cuộc sống cơ cực khốn khổ của nhân dân. Đoạn trích tuy ngắn nhưng mỗi lời, mỗi chữ viết ra đều thâm trầm, sâu sắc, cho thấy được tài năng và tấm lòng thiết tha bởi dân với nước của một hiền tài dân tộc.

Phân tích Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh – mẫu 8

Nhắc tới Phạm Đình Hổ (1768 – 1839), người đời nhớ tới tác phẩm Vũ trung tùy bút của ông. Một bút pháp nghệ thuật tinh tế, tài hoa, một phong thái thư nhàn cao nhã, ông tiêu biểu cho cốt cách kẻ sĩ Bắc Hà cuối thời Lê – Trịnh và thời kì đầu nhà Nguyễn. Chuyên cũ trong phủ chúa Trịnh là một trang tùy bút đặc sắc, rút trong Vũ trung tùy bút của Phạm Đình Hổ.

Tùy hứng mà viết, tùy bút mà viết, cảm hứng dào dạt, dâng trào, cảnh ăn chơi xa hoa của chúa Trịnh Sâm, cảnh bán hàng của bọn nội thần nội thị, cảnh tấu nhạc của bọn nhạc công cung đình tại chùa Trấn Quốc nơi Hồ Tây giữa thế ki XVIII, sự nhũng nhiễu của bọn hoạn quan khắp chốn dân gian… đã được tác giả Vũ Trung tùy bút chấm phá qua một vài nét, thế mà ta chỉ đọc qua một lần là có thể nhớ mãi.

Chuyện cũ… đã xảy ra vào khoảng năm Giáp Ngọ – Ất Mùi (1774 – 1775), đó là lúc Đàng Ngoài “vô sự”, là những năm tháng hoàng kim của Thịnh Vương (Trịnh Sâm); khi mà người ngọc Đặng Thị Huệ được chúa sủng ái trở thành nguyên phi. Trịnh Sâm sống trong xa hoa: Thích đi chơi ngắm cảnh đẹp, thường ngự ở các li cung trên Tây Hồ, núi Tử Trầm, núi Dũng Thúy.

Chúa ra chơi cung Thụy Liên trên bờ Tây Hồ mỗi tháng ba bốn lần. Cảnh đón tiếp với các thứ nghi lễ thật tưng bừng độc đáo. Có “binh lính dàn hầu vòng quanh bốn mặt hồ” Có tổ chức hội chợ, do quan nội thần cải trang “đều bịt khăn, mặc đồ đàn bà, bày bách hóa chung quanh bờ hồ để bán”

Thuyền ngự đi tới đâu thì các quan hô tụng đại thần tùy ý ghé vào bờ mua bán các thứ… Gác chuông chùa Trấn Quốc trở thành nơi hòa nhạc của bọn nhạc công cung đình. Đình đài, cung điện được xây dựng “liên tục” nhằm thỏa mãn cuộc sống ăn chơi của vua chúa và bọn quan lại thời Lê – Trịnh. Bao nhiêu tiền của, vàng bạc, châu báu, nước mắt mồ hôi của nhân dân bị bòn vét đến kiệt cùng. Phạm Đình Hổ đã được mắt thấy tai nghe những Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh nên cách kể, cách tả của ông rất sống động.

Để được sống trong xa hoa, hưởng lạc đế vương, từ chúa đến quan đều trở thành bọn cướp ngày ra sức hoành hành, trấn lột khắp chốn cùng quê. Chúa thì “sức thu lấy” trân cầm dị thú, cổ mộc, quái thạch và chậu hoa cây cảnh ở chốn dân gian “không thiếu một thứ gì”. Có những cây cảnh “cành lá rườm rà… như cây cổ thụ mọc trên đầu non hốc đá, rễ dài đến vài trượng” phải dùng đến một cơ binh mới khiêng nổi, từ bên bắc chở qua sông đem về.

Trong phủ chúa “điểm xuyết” bao núi non bộ trông lạ mắt như “bốn bể đầu non”. Vườn ngự uyển, trong những đêm thanh cảnh vắng, tiếng chim kêu vượn hót ran khắp bốn bề, hoặc nửa đêm “ồn ào như trận mưa sa gió táp, vỡ tổ tan đàn”. Nếu như trong Thượng kinh kí sự, Lê Hữu Trác ngạc nhiên viết:

Hoa cung thoảng ngạt ngào đưa tới,
Vườn ngự nghe vẹt nói đòi phen.
Quê mùa cung cấm chưa quen,
Khác gì ngư phủ đào nguyên thuở nào.

Thì ở đây, Phạm Đình Hổ ái ngại nghĩ: “Kẻ thức giả biết đó là triệu bất tường”. Cuộc sống cực kì xa hoa ấy là nguyên nhân cho sự sụp đổ ngai vàng ngày một ngày hai sẽ nổ ra. Đó là năm 1782, Trịnh Sâm qua đời; loạn kiêu binh nổ ra, kinh thành Thăng Long bị đốt phá tan hoang; năm 1786, Nguyễn Huệ kéo quân ra Bắc Hà lần thứ nhất, cơ nghiệp họ Trịnh tan tành trong nháy mắt! “Cái triệu bất tường” mà Phạm Đình Hổ nghĩ tới thật linh nghiệm. Quy luật cuộc đời vô cùng sòng phẳng, cay nghiệt:

Thịnh mãn lắm, oán thù càng lắm,
Trăm loài ma mồ nấm chung quanh.
Nghìn vàng khôn đổi được mình
Lầu ca viện hát, tan tành còn đâu?

(Văn chiêu hồn – Nguyễn Du)

Bọn hoạn quan trong phủ chúa vừa trắng trợn vừa xảo quyệt, như dân gian đã khinh bỉ chửi vào mặt: “Cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan”. Chúng dùng thủ đoạn “nhờ gió bẻ măng, ra ngoài dọa dẫm”. Chỉ bằng hai chữ “phụng thủ” biên ngay vào chậu hoa cây cảnh, chim tốt khiếu hay của bất cứ nhà nào là chúng cướp được.

Chúng còn lập mưu đêm đến cho tay chân sai lính lẻn vào “lấy phăng đi, rồi buộc cho tội đem giấu vật cung phụng để dọa lấy tiền”. Chúng ngang ngược “phá nhà hủy tường” của dân để khiêng hòn đá hoặc cây cối gì mà chúng cướp được! Đối với nhà giàu thì chúng lập mưu vu cho là “giấu vật cung phụng” để hành hạ, để làm tiền, nhiều người phải “bỏ của ra kêu van chí chết”, có gia đình “phải đập bỏ núi non bộ, hoặc phá bỏ cây cảnh để tránh khỏi tai vạ”

Gia đình tác giả thuộc hàng quan lại, quý tộc thời Lê – Trịnh. Trước sự nhũng nhiễu hoành hành, mẹ Phạm Đình Hổ là bà cung nhân phải sai người nhà chặt cây lê “cao vài mươi trượng, lúc nở hoa trắng xóa thơm lừng”, hai cây lựu trắng, lựu đỏ “lúc ra quả trông rất đẹp”. Chi tiết này, tình tiết này rất sống, rất thực. Tác giả đã kể lại một chuyện có thật của gia đình mình ở phường Hà Khẩu để vừa tạo nên niềm tin cho người đọc mai hậu, vừa phê phán bộ mặt tham lam, ghê tởm của bọn quan lại thời Lê – Trịnh, vạch trần sự thối tha trong phủ chúa.

Trang tùy bút Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh của Phạm Đình Hổ có giá trị lịch sử sâu sắc, nó đã làm hiện lên cảnh vật và con người, cuộc sống xa hoa ăn chơi của vua chúa, hành động ăn cướp, làm tiền trắng trợn của bọn quan lại trong phủ chúa. Ngòi bút của Phạm Đình Hổ rất trầm tĩnh và sâu sắc. Mọi cảm xúc, ý nghĩ của ông về nhân tình thế sự được gửi gắm qua những chi tiết, tình tiết, mẩu chuyện rất sống động, rất chọn lọc, đậm đà, nhã thú.

Cảm nhận về đất nước thời vua Lê - Chúa Trịnh – mẫu 1

Hải Thượng Lãn Ông - Lê Hữu Trác không chỉ là một danh y nổi tiếng, mà còn là một tác giả có nhiều tác phẩm văn học có giá trị thời trung đại. Lê Hữu Trác để lại cho đời một sự nghiệp y học đồ sộ, nổi bật hơn cả là bộ Hải Thượng y tông tâm lĩnh được coi là bách khoa toàn thư về y học thế kỉ XVIII. Các tác phẩm của ông không chỉ có giá trị về y học mà còn mang nhiều giá trị văn học sâu sắc vì đã ghi lại cảm xúc chân thật cùng như bộc lộ tâm huyết, đức độ của người thầy thuốc. Thượng kinh kí sự là tập kí sự nổi tiếng trong cuộc đời Lê Hữu Trác. Tác phẩm kể về cuộc sống xa hoa trong phủ chúa Trịnh và quyền uy thế lực nhà chúa cũng như những điều mắt thấy tai nghe nhân dịp được chúa Trịnh Sâm triệu vào chữa bệnh. Đoạn trích vào Trịnh phủ không chỉ miêu tả cuộc sống xa hoa ở phủ chúa, mà còn thể hiện rõ nét tâm hồn và nhân cách của vị lương y tài hoa đức độ này. Lê Hữu Trác có phần choáng ngợp sợ hãi "chỉ dám liếc mắt nhìn rồi lại cúi đầu đi". Cảnh đẹp nơi Trịnh phủ, từ vườn hoa đến hồ, từ lầu son đến gác tía là những công trình văn hoá nghệ thuật do tài trí công sức của nhân dân làm nên, vì thế Lê Hữu Trác đã xúc động ngắm nhìn. Cảnh đẹp nơi Trịnh phủ được miêu tả còn mang ý nghĩa hiện thực phản ánh cuộc sống xa hoa của bọn vua chúa thời Lê - Trịnh, cảnh giàu sang "khác hẳn người thường".

Top 4 bài Cảm nhận về đất nước thời vua Lê - Chúa Trịnh hay nhất (ảnh 2)

Phương tiện đi lại của vua chúa là hai cái kiệu; đồ nghi trượng đều sơn son thiếp vàng. Thứ để ngồi và nằm là một cái sập thiếp vàng, trên sập mắc một cái võng điều đỏ. Xung quanh cái sập bày bàn ghế vô cùng quý giá, sang trọng làm cho ông thầy thuốc phải tấm tắc và cảm thấy "những đồ đạc nhân gian chưa từng thấy". Thế tử - con bệnh - là con Trời, mới lên 5, 6 tuổi mặc áo lụa đỏ, ngồi trên cái sập thiếp vàng. Bên cạnh sập đặt một cái ghế rồng sơn son thiếp vàng, trên ghế bày nệm gấm. Lê Hữu Trác phải đi qua năm, sáu lần trướng gấm mới đến được nơi thế tử ngồi để "lạy bốn lạy" trước và sau khi khám bệnh. Nơi nội cung, đèn sáp chiếu sáng, sau chiếc màn là cung nhân đứng xúm xít, "mặt phấn, màu áo đỏ". Cả một không gian "lấp lánh, hương hoa ngào ngạt". Thật đúng "Cả trời Nam sang nhất là đây!" .Vua chúa và bọn quan lại trong phủ chúa ăn uống như thế nào? Tại điếm "Hậu mã" lần đầu tiên và cũng là lần duy nhất trong cuộc đời, vị đại danh y được ăn một bữa cơm ngon nhớ mãi. Tuy chỉ được quan Chánh đường "san mâm cơm cho ăn" nhưng "mâm vàng, chén bạc, đồ ăn toàn là của ngon vật lạ". Ông thầy thuốc mà danh tiếng "như sấm động" đã suy nghĩ và nói: "Tôi bây giờ mới biết cái phong vị của nhà đại gia". Chốn đế đô cung cấm là nơi "lính nghìn cửa vác đòng nghiêm ngặt". Lê Hữu Trác chỉ mới được đặt chân tới một vài cung điện, mới tiếp xúc một vài cảnh, một số ít người, nhưng ông đã nêu bật được cuộc sống xa hoa, hưởng lạc của vua chúa thời Lê - Trịnh. Cuộc sống đế vương được xây dựng trên mồ hôi xương máu của nhân dân, mọi thứ của ngon vật lạ do người lao động cả nước làm ra bị tước đoạt cho một số ít người hưởng thụ. "Cơm ngự thiện bữa nghìn quan" xưa nay đều thế! Tác giả "Thượng kinh kí sự" có một lối viết rất hiện thực và ấn tượng, mọi chi tiết được ông nói đến rất sống động.

Lê Hữu Trác vốn dòng dõi thế tộc thời Lê, sinh trưởng ở chốn phồn hoa, trong cấm thành chỗ nào cũng đã từng biết, nhưng Trịnh phủ thì "ông mới nghe nói thôi", lần đầu đi vào ông choáng ngợp như bước vào cảnh thần tiên Vào Trịnh phủ là đoạn trích kể lại sự việc tác giả được chúa Trịnh Sâm triệu vào chữa bệnh cho Đông Cung Thế tử Trịnh Cán. Qua đoạn trích, tác giả đã thể hiện chân thực bức tranh sinh động về cuộc sống kiêu sa, vương giả và hiện thực cuộc sông nơi phủ chúa. Vào Trịnh phủ là một phần của tập Thượng kinh kí sự, là tác phẩm thuộc thế kỉ. Vì vậy đoạn trích là lời kể mộc mạc và chân thực, có ghi rõ thời gian Mồng 1 tháng 2, sáng tinh mơ và có sự việc: Có thánh chỉ triệu vào cung. Song điều làm cho chúng ta chú ý đó là cảnh vàng son nơi phủ chúa hiện lẽn vô cùng rực rờ qua cái nhìn của tác giả. Ban đầu Lê Hữu Trác được hò chìm trong khung cảnh vườn phủ chúa: Tôi ngẩng đầu lên, đâu đâu cũng là cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm, gió đung đưa thoang thoảng mùi hương. Cảnh vật ấy khiến cho ta có cảm giác, nơi đây là một khu vườn địa đàng nào đó trên tiên giới trong các truyện cổ tích dân gian, chứ không phải cảnh ở hiện thực mà tác giả nhìn thấy. Tiếp đến tác giả ghi lại những sự việc minh nhìn thấy: Những dãy hành lang quanh co nối nhau liên tiếp, người qua lại như mắc cửi. Đồng thời tác giả cũng bộc lộ những nét suy nghĩ chân thành khi có việc liên quan được đặt chân vào một nơi mà chính tác giả cũng nghĩ mình đang ở trong mơ: Tôi nghĩ bụng: mình vốn con quan... Bước chân đến đây mới hay cái cảnh giàu sang của vua chúa thực khác hẳn người thường. Điều này chứng tó thái độ ngỡ ngàng đến bất ngờ của tác giả. Khung cảnh giàu sang đó là ngoài sức tưởng tượng của ông. Đứng trước cảnh đẹp đệ nhất trời Nam ấy, tâm hồn người thầy thuốc tràn ngập một cảm xúc chân thành cứa một tâm hồn nhạy cảm:

“Lính nghìn cửa vác đòng nghiêm ngặt

Cả trời Nam sang nhất là đây...

... Khác gì ngư phủ đào nguyên thủa nào.”

Bản thân vốn là một con người không màng danh lợi, nhưng đứng trước khung cảnh hoành tráng này, Lê Hữu Trác không tỏ ra miệt thị, phản diện trong cách nhìn nơi mà ông không hề muốn đến này. Trái lại ông vẫn ngợi ca, vẫn ngập tràn xúc cảm trước vẻ đẹp tuyệt vời nơi đây, có được điều này là do Lê Hữu Trác là nhà thơ có tâm hồn giàu cảm xúc trước thiên nhiên, tạo vật, thế sự. Có một điều chúng ta nhận thấy rằng ông nhìn và cảm nhận bằng con mắt khách quan, đứng trước cảnh đẹp thì ông ngợi ca, nhưng không hoàn toán ngợi ca tất cả, dường như đằng sau những dòng thơ này vẫn ẩn chứa một nỗi niềm u hoài của tác giả:

Ông tự coi mình là kẻ quê mùa lạc vào chốn cung đình, có khác gì Đào nguyên lạc vào chốn thần tiên. Cảnh thì đẹp đấy, nhưng lòng người nào có vui gì. Đoạn trích là những trang kí sự giàu cảm xúc về cảnh giàu sang nơi phủ chúa và bệnh tình của thế tử. Nhưng bên cạnh những dòng hiện thực ấy, người đọc vẫn thấy toát lên trên tất cả là một tâm hồn, một nhân cách cao đẹp của danh y Hải Thượng Lãn Ông. Vốn bản thân không màng công danh, ông đã chọn nơi rừng núi yên tĩnh để sống cuộc sống ẩn dật, lấy chim muông làm bầu bạn, hoa cỏ làm niềm vui. Bởi thế mà Lê Hữu Trác dường như xa lạ trước cuộc sống cung đình. Tuy xa lạ nhưng ông không hề ngơ ngác mà vẫn giữ được cái uy nghi, trầm tĩnh của một ẩn sĩ. Trước hàng ngũ quan lại không hề tỏ ra khúm núm, hay kiêu ngạo khi danh tiếng của mình được nhiều người biết đến. Ngôn ngữ ông dùng thật khiêm nhường: Tôi là kẻ nơi quê mùa, làm sao biết được các vị ở nơi triều đình đông đúc như thế này. Ông còn dũng cảm chỉ ra sự ngu dốt của các quan thái y trong triều, đó là việc ông không nghe theo lời ngụ ý của quan chánh đường mà vẫn hành động theo lương tâm nghề nghiệp của mình, trình đơn thuốc lên thánh thượng. Ông cũng là người thấy được căn bệnh thừa mứa, ngu dốt của bọn ở phù chúa một cách chính xác: Vì Thế tử ở trong chốn màn che trướng phủ... nên phủ tạng yếu đi.

 Chốn lầu son gác ngọc ấy đã làm cho con người trở nên hao mòn, mất hết nhuệ khí, lại chứa toàn bọn ngu dốt như quan chánh đường và các quan thái y chỉ lo dùng thuốc công phạt theo ý mình. Tỏ ta đây là hiểu biết nhưng chỉ làm cho thế tử ngày càng yếu đi. Thế tử chính là nạn nhân của sự ngu dốt, của sự thừa thãi quá mức nơi phủ chúa. Đó cũng chính là những biểu hiện rõ nét nhất của một triều đại suy đồi đã đến lúc mạt vận, diệt vong, là sản phẩm của một chôn chỉ biết xu nịnh, ăn chơi phè phỡn không lo cho cuộc sống của nhân dân lao động.

Cảm nhận về đất nước thời vua Lê - Chúa Trịnh – mẫu 2

Thời xưa những người tài giỏi thì thường chúa ghét vòng danh lợi họ chỉ giúp vua một thời gian rồi về ở ẩn với nhân dân giúp đỡ nhân dân trong cuộc sống hàng ngày. Nguyễn Bỉnh Khiêm có câu:

"Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ

Người khôn người đến chốn lao xao"

Có thể nói rằng sự lánh đục tìm trong ấy là cách xuất xử của biết bao nhiêu bậc nho sĩ, người tài. Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác cũng vậy, chúng ta được biết đến ông là một người lười làm quan, biếng danh lợi. Về ở ẩn ông không những là một người thầy thuốc giỏi mà còn là một nhà văn. Tác phẩm tiêu biểu của ông được nhiều người biết đến là tác phẩm vào phủ chúa Trịnh. Trong tác phẩm này Lê Hữu Trác đã phê phán những thói ăn chơi sa đọa của bậc vua chúa. Nơi đây không khác gì cho những bậc thánh ở. Đoạn trích được rút trong tập thượng kinh kí sự, là một quyển cuối cùng trong bộ Hải thượng y tông tâm lĩnh, đánh dấu sự phát triển của văn học ( Văn xuôi tiếng Việt, thể ký). Tác phẩm ghi nhận những điều mắt thấy tai nghe khi tác giả được mời vào kinh chữa bệnh cho Thế tử Cán cho tới khi ông về lại Hương Sơn. Vào phủ chúa trịnh ghi lại thời điểm: Sau khi ông vào kinh, đang tá túc tại nhà Quận Huy Hoàng Đình Bảo thì ông được mời vào phủ chúa Trịnh để xem bệnh cho Thế tử Cán. Đây là lần đầu tiên ông bước chân vào chốn thâm nghiêm này. Nhà văn đi vào chữa bệnh cho thái tử Trịnh Cán và thu vào mắt mình cái quang cảnh và cung cách trong phủ chúa Trịnh.

Trước hết là quang cảnh trong phủ chúa Trịnh, thu vào mắt tác giả là những quang cảnh của cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm. quả thật đây là một nơi sang trọng bậc nhất thiên hạ. Vào phủ chúa phải trải qua biết bao nhiêu là cửa sự trang nghiêm nơi đây thật sự khiến cho người ta rụt rè chân bước " Hậu mã quân thúc trực" để cho chúa sai việc. Bên trong cửa phủ thì có những "đại đường", "quyền bổng", "gác tía" với kiệu son, võng nghi lộng lẫy. tất cả mọi thứ đều được mạ vàng. Từ những chiếc cột cho đến những mâm bát chén cũng đều như được dát vàng. Ở đây ta thấy được những cuộc sống xa hoa trong phủ chúa. Không hiểu tại sao sống trong cảnh giàu sang vinh hoa ấy mà Trịnh Cán lại có thể bị bệnh cơ chứ. Cái sự sang trọng ấy được nhà văn miêu tả và nhận xét là "những đồ đạc nhân gian chưa từng thấy". Đến nội cung của Thế tử thì phải qua biết mấy lần trướng gấm. Trong căn phòng của thế tử cũng có nhiều thứ rất sang trọng mà người đời mấy ai được xem qua. Nào là trướng là gấm rồi lại đến những sập cũng sơn son thiếp vàng, ghế rồng hương hoa bay ngào ngạt. Có thể nói đây chính là thiên đường trên mặt đất không đâu sánh bằng cái vẻ nguy nga lộng lẫy ấy. Thật sự là khiến cho người ta đau lòng vì khi nhân dân thì đang khổ sở với cuộc sống thì chúa cái người mà đứng ra cai quản lại có thể ăn chơi xa đọa trước những vất vả của nhân dân như vậy. Thử hỏi rằng triều đại ấy cái trị được bao nhiêu lâu, ngồi mát ăn bát vàng không lo cho dân chúng thì liệu có bền được không?

Đoạn trích là những trang kí sự giàu cảm xúc về cảnh giàu sang nơi phủ chúa và bệnh tình của thế tử. Nhưng bên cạnh những dòng hiện thực ấy, người đọc vẫn thấy toát lên trên tất cả là một tâm hồn, một nhân cách cao đẹp của danh y Hải Thượng Lãn Ông. Vốn bản thân không màng công danh, ông đã chọn nơi rừng núi yên tĩnh để sống cuộc sống ẩn dật, lấy chim muông làm bầu bạn, hoa cỏ làm niềm vui. Bởi thế mà Lê Hữu Trác dường như xa lạ trước cuộc sống cung đình. Tuy xa lạ nhưng ông không hề ngơ ngác mà vẫn giữ được cái uy nghi, trầm tĩnh của một ẩn sĩ. Trước hàng ngũ quan lại không hề tỏ ra khúm núm, hay kiêu ngạo khi danh tiếng của mình được nhiều người biết đến. Ngôn ngữ ông dùng thật khiêm nhường: Tôi là kẻ nơi quê mùa, làm sao biết được các vị ở nơi triều đình đông đúc như thế này. Ông còn dũng cảm chỉ ra sự ngu dốt của các quan thái y trong triều, đó là việc ông không nghe theo lời ngụ ý của quan chánh đường mà vẫn hành động theo lương tâm nghề nghiệp của mình, trình đơn thuốc lên thánh thượng. Ông cũng là người thấy được căn bệnh thừa mứa, ngu dốt của bọn ở phù chúa một cách chính xác: Vì Thế tử ở trong chốn màn che trướng phủ... nên phủ tạng yếu đi. Chốn lầu son gác ngọc ấy đã làm cho con người trở nên hao mòn, mất hết nhuệ khí, lại chứa toàn bọn ngu dốt như quan chánh đường và các quan thái y chỉ lo dùng thuốc công phạt theo ý mình. Tỏ ta đây là hiểu biết nhưng chỉ làm cho thế tử ngày càng yếu đi

Không chỉ quang cảnh mà đến cung cách trong cung cũng được nhà văn chú ý miêu tả. nào là "đầy tớ chạy trước hết đường", rồi lại đến "người giữ cửa truyền báo rộn ràng, người có việc quan qua lại như mắc cửi". Quả thật đây đúng là một chốn lao xao mà Nguyễn Bỉnh Khiêm nói. Lời nói của mọi người khi nhắc đến thế chúa và thế tử đều rất cung kính, lễ độ. Riêng chúa Trịnh lúc nào cũng có những cung tần mĩ nữ xung quanh để hầu hạ. Chúa giống như những bậc thánh khiến cho nhà văn cũng không được gặp mặt chúa mà chỉ làm theo chỉ dẫn để vào cung thăm bệnh cho thế tử Trịnh Cán mà thôi. Khi xem bệnh xong thì không được trao đổi với chúa mà phải viết giấy khai đưa lên. Còn riêng phần thế tử thì khi bị bệnh lại có rất nhiều tầm bảy, tám ngự y thúc tục vây quanh. Không những thế nếu muốn khám bệnh cho thế tử thì những ngự y kể cả đã già lắm rồi cũng phải quỳ lạy dưới một đứa trẻ con. Không chỉ vậy mà người gọi chúa Trịnh là thánh thượng, các chữ "thánh" ấy phải chăng chúa Trịnh đang quá lạm dụng quyền hành của mình.

Trước những quang cảnh và cung cách trong phủ chúa ấy khiến cho tác giả thể hiện quan điểm của mình. Tác giả dửng dưng trước những quyến rũ của giàu sang phú quý bởi vì nó được xây đắp bởi xương máu của nhân dân làm ra. Và tác giả dùng những câu văn thể hiện sự không đồng tình của cảnh sống xa hoa nơi đây. Qua cách nói mỉa mai châm biếm của tác giả, ta thấy : Sự lộng quyền của nhà chúa với quyền uy tối thượng và nếp sống hưởng thụ cực kỳ xa hoa của chúa Trịnh cùng gia đình; sự thật bù nhìn của vua Lê khi ấy. Thế tử Trịnh Cán bị bệnh là do nơi đây quá đầy đủ khiến cho con người không thể khỏe mạnh bình thường được. Khi các ngự y không đồng tình với đơn thuốc mà tác giả kê thì ông đã nhất quyết bảo vệ đơn thuốc ấy. Chính vì thế mà các ngự y khác phải khâm phục trước kiến thức và tài năng của nhà văn.

Đôi nét về tác giả, tác phẩm

1. Tác giả

- Phạm Đình Hổ (1768 - 1839) - tên chữ là Tùng - Niên hoặc Bỉnh Trực, hiệu là Đông Dã Tiểu, tục gọi là Chiêu Hổ

- Quê quán: Ông là người làng Đan Loan, huyện Đường An, tỉnh Hải Dương (nay là xã Nhân Quyền, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương)

- Sự nghiệp sáng tác:

    + Ông sống vào thời buổi đất nước loạn lạc nên muốn ẩn cư. Đến thời Minh Mạng nhà Nguyễn, nhà vua mời ông ra làm quan, dù ông đã mấy lần từ chức nhưng vẫn bị mời ra.

    + Một số tác phẩm nổi tiếng: Ông để lại nhiều văn thơ viết bằng chữ Hán có giá trị lịch sử như “Vũ trung tùy bút” và “Tang thương ngũ lục”

2. Tác phẩm

1. Hoàn cảnh sáng tác

    Đoạn trích nằm trong tác phẩm Vũ trung tùy bút, viết khoảng đầu đời Nguyễn (đầu thế kỉ XIX), là tác phẩm văn xuôi ghi lại một cách sinh động, hấp dẫn hiện thực đen tối của lịch sử nước ta, vừa là tài liệu quý giá về sử học, địa lí, xã hội học

2. Bố cục (2 đoạn)

- Đoạn 1 (Từ đầu đến “triệu bất tường”): Cuộc sống sa hoa, hưởng lạc của chúa Trịnh Sâm

- Đoạn 2 (Đoạn còn lại) : Sự nhũng nhiễu của bọn quan lại dưới quyền

3. Giá trị nội dung

    “Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh” phản ánh đời sống sa hoa của vua chúa và sự nhũng nhiễu của bọn quan lại thời Lê- Trịnh, đưa đến một góc nhìn chân thực, phơi bày thực trạng đen tối của xã hội Việt Nam dưới thời vua Lê – chúa Trịnh

4. Giá trị nghệ thuật

    Phạm Đình Hổ thành công ở thể loại tùy bút, sự ghi chép rất chân thực, sinh động mà lại giàu chất trữ tình. Cùng với đó là các chi tiết miêu tả chọn lọc kĩ càng, đắt giá, giàu sức thuyết phục, tả cảnh đẹp vô cùng tỉ mỉ nhưng lại nhuốm màu u ám, mang tính dự báo. Giọng điệu gần như khách quan nhưng cũng rất khéo léo thể hiện thái độ đó là sự lên án bọn vua quan qua thủ pháp liệt kê.

 

Tài liệu có 14 trang. Để xem toàn bộ tài liệu, vui lòng tải xuống
Đánh giá

0

0 đánh giá

Tải xuống